Chỉ có hai thời điểm mà ta không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Đó là lúc ta sinh ra đời và lúc ta nhắm mắt xuôi tay.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Hạnh phúc là khi những gì bạn suy nghĩ, nói ra và thực hiện đều hòa hợp với nhau. (Happiness is when what you think, what you say, and what you do are in harmony.)Mahatma Gandhi
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 12. Giải thích phẩm Đề-bà-đạt-đa »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3
»» 12. Giải thích phẩm Đề-bà-đạt-đa

(Lượt xem: 13)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 - 12. Giải thích phẩm Đề-bà-đạt-đa

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Phẩm Đề-bà-đạt-đa, thứ mười hai

Giải thích tên phẩm

Khi Đề-bà-đạt-đa sanh ra, hàng trời, người đều thấy trong lòng nóng bức, nhân đó mà đặt tên như vậy.[1] Đây là giải thích tên gọi theo nhân duyên.

Tạo tác nhân trái nghịch nhưng theo lý thì thuận, tức là giải thích theo Viên giáo, không phải ý nghĩa theo các giáo pháp khác.

Bản địa từ xưa vốn trong trẻo mát mẻ, hình tích thị hiện chư thiên nóng bức, là để cho đồng với bịnh của chúng sanh.

Mục lục kinh điển của ngài Bảo Xướng[2] nói kinh Pháp hoa có 4 bản dịch, hiện còn 2 bản, đã mất 2 bản. Một bản do ngài Đàm-ma-la-sa (Dharmarakṣa), Hán dịch là Pháp Hộ (法護), dịch tại Trường An vào đời Tây Tấn (265-316), gọi là kinh Chánh Pháp hoa.[3] Ngài Pháp Hộ [chuyển dịch kinh này có] nhiều chỗ diễn giảng rộng, lại chọn lựa cắt bỏ một số nơi.

Ngài Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva), Hán dịch là Đồng Thọ (童壽), người nước Quy Tư, niên hiệu Hoằng Thủy thứ năm (403), vào ngày 23 tháng 4, tại Tiêu Dao Viên ở Trường An dịch xong Đại phẩm Bát-nhã.[4] Đến mùa hè niên hiệu Hoằng Thủy thứ tám (406), tại chùa Thảo Đường dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, bảo ngài Tăng Duệ giảng giải. Ngài Tăng Duệ [khi giảng giải] phân chia toàn kinh ra 9 khoa mục.[5] Vào thời ấy kinh này có 28 phẩm, vì cung nhân trong cung Trường An thỉnh riêng phẩm [Đề-bà-đạt-đa] này lưu giữ trong nội cung, nên khi lưu truyền đến Giang Đông chỉ còn 27 phẩm, [không có phẩm này].[6]

Đời nhà Lương (502-557) có Mãn Pháp sư giảng kinh này 100 lượt, rồi tự thiêu ở quận Trường Sa. [Pháp sư giảng kinh] vẫn đặt phẩm này ở trước phẩm Khuyến khích thọ trì, nhưng đây chỉ là tự sắp xếp theo ý riêng, chưa được lưu hành rộng rãi. Đến đời Trần (557-589), có thiền sư Nam Nhạc[7] xếp phẩm này ngay sau phẩm Hiện tháp báu. Về sau, đối chiếu với kinh Chánh Pháp hoa thì hoàn toàn tương hợp. Ngày nay thiên hạ thống nhất,[8] tìm lại được bản dịch cũ ở Trường An [thấy sắp xếp đúng như vậy], nên mới biết 2 bậc thầy nói trên đều hiểu sâu ý kinh.

Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) cũng phiên âm là Đề-bà-đạt-đâu (提婆達兜), Hán dịch là Thiên Nhiệt. Đề-bà-đạt-đa phá hoại tăng đoàn, dẫn 500 vị tỳ-kheo đi nơi khác. Ngài Xá-lợi-phất làm cho Đề-bà-đạt-đa ngủ say, Rồi ngài Mục-kiền-liên [đặt 500 vị tỳ-kheo này lên bàn tay] mang trở về tinh xá.[9] Lúc Đề-bà-đạt-đa thức giấc liền phát lời thề phải báo mối thù này. Về sau, Đề-bà-đạt-đa lăn tảng đá lớn đến 30 khuỷu tay, chiều ngang 15 khuỷu tay [từ trên núi xuống] để hại Phật. Thần núi đưa tay chặn lại, có viên đá nhỏ văng ra trúng vào chân Phật làm chảy máu. Đề-bà-đạt-đa còn xúi giục vua A-xà-thế thả con voi say ra để giẫm chết Phật [nhưng voi chạy đến quỳ trước Phật]. Đề-bà-đạt-đa cũng dùng tay đánh chết tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc. Đề-bà-đạt-đa lại bôi thuốc độc vào 10 đầu móng tay, dự định khi đảnh lễ sát dưới chân Phật sẽ [dùng móng tay] gây thương tích cho Phật [để Phật nhiễm độc mà chết, nhưng chân Phật không hề thương tổn].

[Những việc Đề-bà-đạt-đa làm] là 5 tội nghịch, nếu kể là 3 tội nghịch thì những việc xúi giục vua [thả voi say,] bôi thuốc độc vào đầu móng tay cùng việc [lăn đá] để hại Phật có thể gộp chung thành một tội.[10] Do những việc này mà gọi là việc làm trái nghịch.

Vào lúc Đề-bà-đạt-đa sanh ra, chư thiên và loài người đều thấy trong lòng nóng bức, theo đó mà đặt tên nên gọi là Thiên Nhiệt. Đây là hình tích thị hiện. Nếu giải thích theo bản nguyên thì chúng sanh nhiều phiền não nên Bồ Tát thị hiện nóng bức, đồng bệnh như chúng sanh để cứu độ.

Phẩm này có dụng ý dẫn việc truyền bá kinh Pháp hoa từ thuở xưa đã lợi ích, không phải việc sai lầm, chứng minh cho việc ngày nay tuyên giảng giáo hóa là chứng nghiệm được, không hề hư dối. Nêu việc thuở trước để khuyến khích việc ngày nay, khiến cho kinh này được lưu truyền thông suốt rộng khắp.

Kinh văn chia làm 2 phần.

Phần thứ nhất từ đầu phẩm cho đến hết câu “nếu sanh ra trước Phật thì hóa sanh từ hoa sen”, nêu việc ngày xưa Đề-bà-đạt-đa truyền bá lưu thông kinh này, [nhờ đó] đức Phật Thích-ca thành đạo.

Phần thứ hai từ câu “Lúc bấy giờ, có vị Bồ Tát từ phương dưới theo hầu đức Thế Tôn Đa Bảo” trở đi, nêu việc hiện tại ngài Văn-thù-sư-lợi truyền bá lưu thông kinh này, [nhờ đó] Long nữ thành Phật.

Việc thọ nhận tu hành theo giáo pháp này còn được như vậy, thì lợi ích và công đức của việc giảng giải truyền bá lưu thông kinh này có lẽ nào lại không lớn lao? Cho nên Đề-bà-đạt-đa được thụ ký [sẽ thành Phật]. Trường hợp ngài Văn-thù-sư-lợi, cứ dựa theo ý nghĩa đó có thể biết được. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ Tát cùng chư thiên, loài người và bốn chúng: “Trong quá khứ, ta trải qua vô số kiếp tìm cầu kinh Pháp hoa này, không hề biếng trễ mỏi mệt.[11] Trong nhiều kiếp ta thường sanh làm bậc quốc vương, phát nguyện cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, tâm không thối chuyển. Vì muốn tu tập trọn đủ sáu pháp ba-la-mật nên ta chuyên cần tu hạnh bố thí với tâm không tham tiếc keo lận, từ voi ngựa, bảy món báu, đất nước, thành quách, vợ con, nô tỳ, người hầu hạ, cho đến đầu, mắt, tủy, não, thân thể, xương thịt, tay chân, thậm chí không tiếc cả mạng sống.

“Vào thời ấy, người dân sống lâu đến vô số kiếp. Ta vì cầu pháp nên từ bỏ ngôi vua, giao việc trị nước cho thái tử, đánh trống truyền rao khắp bốn phương để cầu chánh pháp: ‘Nếu ai có thể vì ta thuyết giảng pháp Đại thừa, ta sẽ suốt đời lo việc cung cấp, phục dịch cho người ấy.’

“Lúc bấy giờ có một vị tiên đến nói rằng: ‘Ta có pháp Đại thừa là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu vua không trái lời, ta sẽ thuyết giảng cho nghe.’ Vua nghe vị tiên ấy nói thì vui mừng phấn khích, lập tức đi theo, cung cấp đủ mọi nhu cầu, phục dịch mọi việc như hái trái cây, lấy nước, nhặt củi, dọn ăn, cho đến dùng chính thân mình để làm giường ghế, thân tâm không hề mỏi mệt. Phụng sự như vậy trải qua ngàn năm. Vua vì cầu pháp nên tinh tấn chuyên cần hầu hạ, cung cấp cho vị tiên không để thiếu thốn.”

Phần thứ nhất có 3 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất, nêu tướng trạng thầy trò truyền nhận kinh [Pháp hoa] này thuở trước. Tổng đoạn thứ hai, nêu mối liên kết giữa thuở xưa và ngày nay. Tổng đoạn thứ ba là khuyến khích sự tin nhận.

Tổng đoạn thứ nhất có kinh văn trường hàng và kệ tụng.

Kinh văn trường hàng lại có 4 đoạn. Đoạn thứ nhất nêu chung về thời điểm cầu pháp. Đoạn thứ hai, từ câu “trải qua vô số kiếp” trở đi nêu rõ về việc cầu pháp. Đoạn thứ ba là từ câu “Lúc bấy giờ có một vị tiên” trở đi, nêu việc tìm cầu được pháp sư. Đoạn thứ tư từ câu “Vua nghe vị tiên ấy nói…” trở đi nêu việc thọ nhận giáo pháp, cung kính y theo đó tu hành.

Đoạn thứ nhất y theo kinh văn có thể hiểu được, [không cần giải thích].

Đoạn thứ hai từ câu “ta trải qua vô số kiếp” trở đi, chia làm 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc phát nguyện [cầu pháp].

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “vì muốn tu tập trọn đủ” trở đi, nêu rõ việc tu hành, lại có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất nói việc vì muốn trọn đủ pháp bố thí ba-la-mật nên chuyên cần thực hành bố thí, y theo kinh văn có thể hiểu được [không cần giảng giải].

Phân đoạn thứ hai từ câu “Vào thời ấy, người dân sống lâu đến vô số kiếp” trở đi, nêu việc vì muốn trọn đủ pháp Bát-nhã [ba-la-mật] nên cố tìm cầu diệu pháp.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Ta nhớ đời quá khứ,
Vì cầu pháp Đại thừa,
Nên tuy làm quốc vương,
Không tham năm món dục.

Truyền rao khắp bốn phương,
Ai biết pháp Đại thừa,
Nếu vì ta thuyết giảng,
Sẽ theo làm tôi tớ.

Có vị tiên A-tư,
Tìm đến bảo vua rằng:
“Ta có pháp nhiệm mầu,
Thế gian này hiếm có.
Nếu có thể tu tập,
Ta sẽ vì vua thuyết.”

Phần kệ tụng có 7 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng, [chia làm 5 đoạn].

Đoạn thứ nhất gồm 2 câu đầu, tụng lại ý nghĩa đoạn thứ nhất trong kinh văn trường hàng, nêu thời điểm cầu pháp.

Đoạn thứ hai gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa đoạn thứ hai ở trước, nêu rõ việc cầu pháp.

Đoạn thứ ba từ câu “Có vị tiên A-tư” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa đoạn thứ ba ở trước, nói việc gặp được bậc thầy thuyết pháp.

KINH VĂN

Vua nghe vị tiên nói,
Trong lòng rất mừng vui,
Lập tức đi theo hầu,
Cung cấp đủ mọi thứ,
Nhặt củi, hái trái cây,
Thường cung kính phụng sự.

Lòng mong cầu diệu pháp,
Thân tâm không mỏi mệt.
Rộng vì khắp chúng sanh,
Chuyên cần cầu Đại thừa.

Không vì tự thân mình,
Không tham năm món dục.
Nên làm đại quốc vương,
Chuyên cần được pháp này,
Dần đạt đến quả Phật,
Nay vì các ông thuyết.

Đoạn thứ tư từ câu “Vua nghe vị tiên nói” trở đi, gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng về việc thọ nhận giáo pháp, vâng làm theo.

Đoạn thứ năm từ câu “Không vì tự thân mình” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tóm kết lại để chứng minh và khuyến khích tin nhận.

KINH VĂN

Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Đức vua thời ấy nay chính là ta, vị tiên thời ấy nay chính là Đề-bà-đạt-đa. Nhờ bậc thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa nên ta mới tu tập được trọn đủ sáu pháp ba-la-mật, [bốn tâm vô lượng] từ bi hỷ xả, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thân thể sáng đẹp màu vàng tía,[12] đủ mười trí lực, bốn pháp vô sở úy, bốn pháp nhiếp phục,[13] mười tám pháp không chung cùng,[14] đủ thần thông đạo lực, thành bậc Chánh đẳng giác, rộng độ chúng sanh. Tất cả đều nhờ thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa mà đạt được.”

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: Đức vua thời ấy nay chính là ta…” trở đi, nêu mối liên kết giữa thuở xưa và ngày nay. Kinh văn chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất nêu rõ mối liên kết giữa xưa và nay, y theo kinh văn có thể hiểu được.

Đoạn thứ hai từ câu “Nhờ bậc thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa…” trở đi, nêu rõ công đức, quả báo của thầy và đệ tử đều được trọn đủ. Đoạn này lại có 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc đệ tử tạo nhân [tu hành] được quả báo trọn đủ.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật nói với bốn chúng…” trở đi, nêu quả nhiệm mầu của pháp sư là sẽ thành tựu [quả Phật].

Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc đệ tử lại có 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất nêu việc tu nhân trọn đủ.

Phân đoạn thứ hai từ câu “đủ 32 tướng tốt…” trở đi, nêu rõ việc được quả viên mãn.

Phân đoạn thứ ba, từ câu “Tất cả đều nhờ thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa…” là kết luận chứng minh lợi ích thành tựu là nhờ việc lưu truyền thông suốt kinh này.

Phân đoạn thứ nhất, kinh văn nói “trọn đủ 6 pháp ba-la-mật”. [Ba-la-mật, Hán dịch là] độ (度), có rất nhiều ý nghĩa. Như luận Đại trí độ nói: “Xả bỏ cả y báo, chánh báo gọi là bố thí [ba-la-mật]; ngăn ngừa, chặn đứng 7 nghiệp xấu ác[15] gọi là trì giới [ba-la-mật]; [bị người khác] đánh đập chửi mắng không đáp trả gọi là nhẫn nhục [ba-la-mật]; làm việc gì đã khởi sự thì theo đuổi đến cùng gọi là tinh tấn [ba-la-mật]; tu tập 4 tầng thiền,[16] 8 loại định[17] gọi là thiền [ba-la-mật]; dứt hết phân biệt gọi là bát-nhã [ba-la-mật].”

Lại nữa, nếu gom 10 nghiệp thiện thành 6 điều thì [tương ứng] từ không giết hại đến không nói dối là bố thí [ba-la-mật]; không nói hai lưỡi là trì giới [ba-la-mật]; không nói lời ác độc là nhẫn nhục [ba-la-mật]; không nói lời thêu dệt là tinh tấn [ba-la-mật]; không tham, không sân là thiền [ba-la-mật]; không tà kiến là bát-nhã [ba-la-mật].

Kinh Bồ Tát Thiện Giới, quyển 10[18] nói rằng: “Sáu ba-la-mật có 3 loại.

“Thứ nhất là nghĩa đối trị, tức là [dùng bố thí ba-la-mật để đối trị với] tham lam keo kiệt, [trì giới ba-la-mật đối trị] hung ác, [nhẫn nhục ba-la-mật đối trị] sân hận, [tinh tấn ba-la-mật đối trị] lười nhác, [thiền định ba-la-mật đối trị] tán loạn, [bát-nhã ba-la-mật đối trị] ngu si v.v.

“Thứ hai là nghĩa tương sanh, tức là vì từ bỏ gia đình nên trì giới; gặp việc sỉ nhục nên nhẫn chịu; do nhẫn được nên tinh tấn; nhờ tinh tấn nên điều hòa được 5 căn; nhờ căn điều phục nên rõ biết pháp giới.

“Thứ ba là nghĩa quả báo, tức là [do tu tập 6 ba-la-mật mà được quả báo] giàu có, đầy đủ hình sắc, sức lực, thọ mạng lâu dài, đời sống an ổn, có tài biện luận...”

Lại nữa, các kinh khác nói rằng quả báo của bố thí là giàu có, quả báo của giữ giới là sanh vào cõi tốt lành, quả báo của nhẫn nhục là [thân hình] đoan chánh, quả báo của tinh tấn là thần thông, quả báo của thiền định là sanh cõi trời, quả báo của trí tuệ là phá trừ phiền não.

Như trên đều là dựa theo Tạng giáo để nêu hình tướng của 6 ba-la-mật.

Nếu [thực hành bố thí mà] người bố thí, người nhận bố thí và tài vật bố thí, cả 3 việc ấy đều là không nên gọi là bố thí [ba-la-mật]; không thấy có việc trì giới, phạm giới nên gọi là trì giới [ba-la-mật]; người nhẫn nhục với đối tượng nhẫn nhục đều không thể nắm bắt nên gọi là nhẫn nhục [ba-la-mật]; thân tâm không dao động gọi là tinh tấn [ba-la-mật]; tâm không tán loạn, không đắm chấp thiền vị gọi là thiền; không phải trí, chẳng phải ngu gọi là bát-nhã. Giải thích như vậy tức là nêu hình tướng của 6 ba-la-mật trong Thông giáo.

Nếu nói về bố thí thì có 10 lợi ích: điều phục tâm tham lam keo kiệt, phiền não; duy trì được tâm buông xả không bám chấp; có đủ vốn liếng sản nghiệp như chúng sanh; thường được sanh vào nhà giàu có; đời đời sanh ra đều sẵn có tâm bố thí; được bốn chúng yêu mến ưa thích; ở giữa đại chúng không khiếp sợ; thanh danh tốt đẹp vang khắp mọi nơi; hình thể tay chân mềm mại; cho đến trước khi ngồi đạo tràng [thành Chánh giác], thường được gặp gỡ gần gũi những bậc thiện tri thức.

Trì giới có 10 lợi ích: đầy đủ tất cả trí; theo chỗ học của Phật; trí sáng suốt không hủy; thệ nguyện kiên cố không thối thất; an trụ nơi hạnh nguyện; xả bỏ sanh tử; vui chuộng Niết-bàn; được tâm không trói buộc; đạt được pháp tam-muội thù thắng; không thiếu thốn tài sản quý là đức tin.

Nhẫn nhục có 10 lợi ích: các nạn lửa cháy, đao binh, nước lụt, thuốc độc đều không thể gây hại; được hàng phi nhân theo giúp đỡ bảo vệ; được thân tướng trang nghiêm; không sanh vào các cảnh giới xấu ác; được sanh lên cõi trời Phạm thiên; ngày đêm tâm thường an ổn; thân lúc nào cũng được an vui.

Tinh tấn có 10 lợi ích: không thể bị người khác khuất phục; được chư Phật giúp đỡ; được hàng phi nhân theo bảo vệ; nghe chánh pháp không quên mất; những pháp chưa nghe có thể được nghe; tài biện luận phát triển; đạt được tánh Tam-muội; ít bệnh tật phiền não; ăn món gì cũng có thể tiêu hóa tốt; được sự tăng trưởng tốt đẹp như hoa ưu-bát-la.

Thiền định có 10 lợi ích: an trụ nơi nghi thức; thực hành trong cảnh giới của tâm từ; không nóng nảy bức rức vì hối hận lỗi lầm; thường giữ gìn bảo vệ các căn [không buông thả]; có được [thức ăn là] niềm vui [thiền định] không cần ăn uống; xa lìa được ái dục; tu tập thiền định nhưng không rơi vào chỗ trống không; giải thoát khỏi sự trói buộc của ma; an trụ trong cảnh giới Phật; thành thục sự giải thoát.

Trí bát-nhã có 10 lợi ích: giúp buông xả không bám chấp nơi hình tướng bố thí; không phụ thuộc vào giới; không trụ nơi sức nhẫn nhục; không lìa sự tinh tấn nơi thân tâm; thiền không có chỗ trụ; ma không thể nhiễu hại; không dao động vì lời nói luận bàn của kẻ khác; thấu suốt đến tận cội nguồn sanh tử; phát khởi tâm từ lớn rộng; không ham thích các quả vị Nhị thừa.

Có 4 lý do nên thực hành bố thí. Thứ nhất là người tu tập bố thí phá trừ được tâm tham lam keo kiệt; thứ hai là [dùng công đức đó] trang nghiêm quả vị Bồ-đề; thứ ba là cả mình và người khác đều được lợi ích: từ lúc khởi tâm, lúc bố thí, cho đến lúc bố thí xong, trong lòng đều hoan hỷ, nên gọi là lợi mình, giúp cho người đói khát không còn đói khát, nên gọi là lợi cho người khác; thứ tư là đời sau được quả báo tốt lành lớn lao, địa vị tôn quý, dồi dào tài sản của cải.

Có 4 lý do nên thực hành trì giới. Thứ nhất, [người trì giới] là tự mình tu tập thiện lành, diệt trừ những điều xấu ác trái giới luật; thứ hai là [dùng công đức ấy] trang nghiêm quả vị Bồ-đề, nhiếp hóa chúng sanh; thứ ba, khi ngủ lúc thức đều yên ổn, trong tâm không có sự hối hận; thứ tư là đối với chúng sanh không có tâm hãm hại, đời sau thọ nhận quả báo nơi 2 cõi trời người, được hưởng niềm vui Niết-bàn.

Có 4 lý do nên thực hành nhẫn nhục. Thứ nhất, người tu nhẫn nhục trừ được tâm không nhẫn chịu; thứ hai, [dùng công đức ấy] trang nghiêm quả vị Bồ-đề, nhiếp hóa chúng sanh; thứ ba, dù ở nơi đâu cũng không sợ sệt; thứ tư, đời sau sanh ra không có tâm sân hận, quyến thuộc không chia rẽ, không phải chịu khổ não, được hưởng những niềm vui trong cõi người, cõi trời và cảnh giới Niết-bàn.

Có 4 lý do nên tu tập tinh tấn. Thứ nhất, [người tu tập] tinh tấn phá trừ được sự giải đãi lười nhác, [dùng công đức ấy] trang nghiêm quả vị Bồ-đề, nhiếp hóa chúng sanh; thứ hai, pháp lành được tăng trưởng là tự lợi; thứ ba, không gây não hại người khác là lợi tha; thứ tư, về sau được sức lực lớn lao đạt đến quả vị Bồ-đề.

Có 4 lý do nên tu tập thiền định. Thứ nhất, [người tu tập] thiền định phá trừ được tâm tán loạn, [dùng công đức ấy] trang nghiêm quả vị Bồ-đề, nhiếp hóa chúng sanh; thứ hai, đạt được thân tâm tịch tĩnh là tự lợi; thứ ba, không gây não hại chúng sanh là lợi tha; về sau đạt được thân thanh tịnh, an ổn đạt đến Niết-bàn.

Có 4 lý do nên tu tập trí bát-nhã. Thứ nhất, [người tu tập] trí tuệ bát-nhã phá trừ vô minh, [dùng công đức ấy] trang nghiêm quả vị Bồ-đề, nhiếp hóa chúng sanh; thứ hai, trí tuệ tự mình đạt được niềm vui là tự lợi; thứ ba, có thể giáo hóa chúng sanh là lợi tha; thứ tư, có thể diệt trừ phiền não, trí chướng... là được kết quả lớn lao.

Những giải thích như trên là dựa theo Biệt giáo để nêu hình tướng của 6 ba-la-mật.

Kinh Đại tập, phần Nguyệt Tạng, phẩm thứ nhất[19] nói rằng: “Nếu chúng sanh chỉ duy nhất dựa vào sự tụng đọc để cầu quả vị Bồ-đề thì đó là người đắm chấp trong thế tục, phiền não của tự thân mình còn không thể điều phục, làm sao có thể điều phục phiền não của người khác? Người như vậy đắm chấp danh lợi, phú quý, ganh ghét, đố kỵ, tâm tánh cao ngạo, tự cho mình đúng, khinh mạn hủy báng người khác, đối với căn lành nơi cõi Dục còn không đạt được, huống chi là căn lành ở cõi Sắc hay cõi Vô sắc, huống chi là quả vị Bồ-đề của hàng Nhị thừa, huống chi là quả Vô thượng Bồ-đề?”

Cũng như sức nóng của ngôi sao không thể làm khô biển cả, luồng hơi từ miệng thổi ra không thể làm lay động ngọn núi, cọng tơ ngó sen không thể dùng cân sức nặng của núi lớn, những gì là thế tục không thể làm cho trọn đủ quả vị Bồ-đề. Những gì là đệ nhất nghĩa? Đó là nói tạo tác tất cả những việc phước lành. Nếu người tu sửa thân, tu sửa tâm, tu trí tuệ mà vận dụng đệ nhất nghĩa để kiên trì tu tập thì sẽ mau chóng trọn đủ 6 pháp ba-la-mật. Trong khi đi đứng nằm ngồi thường buông xả mọi phan duyên, vọng tưởng, đó là bố thí ba-la-mật; buông xả phan duyên chẳng phạm là trì giới ba-la-mật; ở nơi cảnh giới chẳng sanh ung bướu nhọt độc là nhẫn nhục ba-la-mật; không xả bỏ chỗ xa lìa là tinh tấn ba-la-mật; ở trong sự việc không lúc nào buông lung tâm ý là thiền ba-la-mật; đối với các pháp thể tánh không sanh là bát-nhã ba-la-mật.

Lại nữa, đối với 5 ấm trong tâm thường buông xả là bố thí ba-la-mật, không tính kể nhớ nghĩ là trì giới ba-la-mật, không khởi ý tưởng tự ngã là nhẫn nhục ba-la-mật, luôn khởi ý tưởng xem 5 ấm như kẻ oán địch là tinh tấn ba-la-mật, không bị nóng nảy thiêu đốt bởi 5 ấm là thiền ba-la-mật, buông bỏ rốt ráo 5 ấm là bát-nhã ba-la-mật.

Đối với 18 giới thường buông xả là bố thí ba-la-mật, không để cho các giới nhiễu loạn nhiễm trược là trì giới ba-la-mật, buông xả mọi nhân duyên với các giới là nhẫn nhục ba-la-mật, đối với mỗi giới trong 18 giới đều buông xả là tinh tấn ba-la-mật, đối với các giới không khởi phát là thiền ba-la-mật, đối với cảnh giới khởi ý tưởng xem như huyễn hóa là bát-nhã ba-la-mật.

Những điều như trên gọi là pháp tinh yếu hết sức thâm sâu của đệ nhất nghĩa đế, phương tiện khéo léo, có thể làm cho trọn đủ 6 ba-la-mật. Dùng pháp này để tự thực hành và làm cho người khác. Các vị Bồ Tát trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều tu tập pháp này mà thành tựu quả vị Bồ-đề, cho nên không phải pháp thế tục. Pháp này có công năng dứt trừ phiền não của chúng sanh, dẫn dắt chúng sanh từ con đường khổ đau đi đến đạo Bồ-đề.

Kinh Hoa Nghiêm đến giai vị thất địa mới nêu việc [hành giả] trong mỗi một niệm đều trọn đủ 10 ba-la-mật. Tu tập tất cả pháp Phật, đem căn lành cầu Phật đạo, ban cho tất cả chúng sanh, đó là bố thí ba-la-mật. Có khả năng diệt trừ tất cả nóng nảy phiền não là trì giới ba-la-mật. Không gây tổn hại đối với tất cả chúng sanh là nhẫn nhục ba-la-mật. Thường cầu việc lành không chán mệt là tinh tấn ba-la-mật. Tu tập đạo pháp tâm không tán loạn, thường hướng đến cầu Nhất thiết trí là thiền định ba-la-mật. Tu tập pháp môn nhẫn chịu các pháp không sanh là bát-nhã ba-la-mật. Thường sanh khởi vô lượng môn trí tuệ là phương tiện ba-la-mật. Cầu chuyển hóa trí tuệ thù thắng là nguyện ba-la-mật. Oán ma tà đạo không thể ngăn trở là lực ba-la-mật. Đối với tất cả tướng của pháp đều nói đúng thật là trí ba-la-mật. Như vậy là trọn đủ 10 ba-la-mật.

Trong mỗi một niệm đều trọn đủ bốn nhiếp pháp, các đạo phẩm, ba phẩm tính giải thoát, cùng hết thảy các pháp trợ giúp đạo Bồ-đề; trong mỗi một niệm đều trọn đủ các giai vị tu tập; đạt được giai vị như vậy là thù thắng.

Những giải thích như trên là dựa theo Viên giáo để nêu hình tướng của 6 ba-la-mật.

Phân đoạn thứ hai từ câu “đủ 32 tướng tốt” trở đi là nêu quả tu hành viên mãn. 32 tướng là bao gồm các tướng như sau.

Lòng bàn chân bằng phẳng như đáy hộp;[20] mu bàn chân cong nhô lên như mu rùa.[21] Hai tướng này đều do tu một hạnh lành là kiên cố bố thí.

Dưới lòng bàn chân có xoáy hình bánh xe ngàn nan hoa.[22] Tướng này chỉ do tu một hạnh lành là an ủi người đang khiếp sợ, kinh hãi.

Gót chân tròn, đầy đặn;[23] ngón tay dài;[24] thân thể ngay ngắn cân đối, dang tay ra có chiều ngang bằng thân mình.[25] Ba tướng này cùng do tu một hạnh lành là giữ giới không giết hại.

Bảy chỗ trên thân đầy đặn, tức là dưới 2 chân, nơi 2 tay, 2 vai và ở cổ.[26] Tướng này do tu một hạnh lành là thường làm thí chủ [cúng dường].

Ngón tay và ngón chân có màng mỏng nối lại,[27] tay chân đều mềm mại.[28] Hai tướng này đều do tu một hạnh lành, tức là bốn nhiếp pháp.

Gót chân thẳng; mắt cá chân không nhô ra; lông trên người xoay xoắn về bên phải.[29] Ba tướng này đều do tu một hạnh lành là thường dùng các pháp lành để làm lợi ích cho chúng sanh.

Chân thon dài như nai chúa.[30] Tướng này do tu một hạnh lành là đem kinh sách dạy cho người khác không hề tiếc giữ.

Da mỏng mịn không dính bụi dơ.[31] Tướng này do tu một hạnh lành là thường y theo câu hỏi [về chánh pháp] của người khác mà giải đáp [thỏa đáng].

Thân tướng có màu sáng đẹp như vàng ròng.[32] Tướng này do tu một hạnh lành là thường nhẫn nhục, vui thích cung cấp y phục cho người khác.

Nam căn ẩn tàng,[33] do tu một hạnh lành là giữ gìn sự hòa hợp, không tranh tụng.

Thân thanh tịnh, cao ngang cân đối;[34] tay buông dài quá đầu gối.[35] Hai tướng này cùng do tu một hạnh lành là dùng tâm từ bình đẳng giáo hóa, dẫn dắt chúng sanh.

Hai vai đầy đặn,[36] thân phát hào quang,[37] ngực như ngực sư tử.[38] Ba tướng này do cùng một hạnh tu là thường làm cho pháp bố thí được tăng trưởng.

Tướng chữ vạn là do tu một hạnh lành không làm não hại chúng sanh.

Mắt xanh như màu hoa sen xanh;[39] lông mi ngay ngắn như mắt trâu chúa.[40] Hai tướng này do tu cùng một hạnh lành không sân hận, luôn dùng ánh mắt thương yêu từ ái để nhìn chúng sanh.

Trên đỉnh đầu có nhục kế;[41] tóc màu xanh. Hai tướng này do tu một hạnh lành, gặp người khác thường tạo công đức.

Mỗi lỗ chân lông có một sợi lông;[42] có lông trắng ở khoảng giữa hai chân mày.[43] Hai tướng này cùng do tu một hạnh lành là không nói dối.

Hàm răng có 40 chiếc răng trắng đẹp;[44] răng có kích thước đều đặn, nằm sít sao không có kẽ hở.[45] Hai tướng này do tu cùng một hạnh lành là không nói hai lưỡi

Tướng lưỡi dài rộng;[46] tiếng nói thanh tao vang xa như tiếng Phạm thiên.[47] Hai tướng này đều do tu một hạnh lành là chẳng nói lời thô thiển độc ác.

Hai má đầy đặn như sư tử,[48] tướng này do tu một hạnh lành là không nói lời thêu dệt vô nghĩa.

Bốn răng nanh trắng như tuyết đều nhau,[49] do tu một hạnh lành là lìa xa tà mạng.[50]

Công đức của tất cả chúng sanh bằng với công đức một sợi lông của Phật. Công đức của những sợi lông của Phật bằng với công đức của một vẻ đẹp [trong 80 vẻ đẹp của Phật]. Công đức của 80 vẻ đẹp bằng với công đức một tướng tốt của Phật. Công đức của các tướng [hợp lại] bằng với công đức của 2 tướng bạch hào giữa 2 chân mày và nhục kế trên đỉnh đầu của Phật. Công đức của trăm ngàn vạn ức tướng bạch hào, nhục kế mới thành tựu được tướng tiếng nói như Phạm thiên. Nhân lành tạo thành 32 tướng tốt tuy mỗi loại đều khác biệt nhau, nhưng nếu luận bàn đến nguyên nhân thật sự thì là do tinh tấn trì giới. Nếu tinh tấn mà không trì giới thì cho đến thân người, thân chư thiên cõi trời còn không thể đạt được, huống chi là những tướng tốt? Đây là nói về nguyên do của các tướng theo Tạng giáo.

Vận dụng các lẽ không, vô sanh [làm nhân] là nói về nguyên do các tướng theo Thông giáo.

Lấy Đạo chủng trí làm nhân là nói về nguyên do các tướng theo Biệt giáo.

Lấy Thật tướng làm nhân là nói về nguyên do các tướng theo Viên giáo.

Về 80 vẻ đẹp,[51] bao gồm:

- 20 ngón tay chân [là 20 vẻ đẹp];

- bên trong và bên ngoài của 2 bàn tay, 2 bàn chân đều đầy đặn, là 8 vẻ đẹp;

- 2 mắt cá chân, 2 đầu gối và 2 bắp đùi là 6 vẻ đẹp;

- trên mỗi cánh tay có 3 nơi là 2 vai, 2 khuỷu tay, 2 cổ tay đều đầy đặn, là 6 vẻ đẹp;

- 2 xương chậu với chỗ tiếp giáp xương sống là 3 vẻ đẹp;

- 2 bên xương cùng là 2 vẻ đẹp;

- nam căn ẩn kín là 1 vẻ đẹp;

- 2 bắp tay và 2 bên eo lưng là 4 vẻ đẹp;

- 2 bên sườn, 2 bên nách và 2 vú là 6 vẻ đẹp;

- bụng, ngực, lưng, cổ là 4 vẻ đẹp;

- 2 hàm răng trên dưới là 2 vẻ đẹp;

- 2 môi trên dưới, vòm miệng trên dưới là 4 vẻ đẹp;

- 2 bên má, 2 chỗ tóc mai, 2 mắt là 6 vẻ đẹp;

- 2 bờ mi, 2 lỗ mũi là 4 vẻ đẹp;

- 2 thái dương trên trán, 2 thùy tai là 4 vẻ đẹp.[52]

Nếu muốn phân biệt 4 cách luận nghĩa [theo Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo] về 80 vẻ đẹp thì dựa theo phần nói về 32 tướng có thể biết được.

KINH VĂN

Đức Phật nói với bốn chúng: “Đề-bà-đạt-đa về sau trải qua vô số kiếp rồi sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới ấy tên là Thiên Đạo, đức Phật Thiên Vương trụ thế 20 trung kiếp,[53] rộng vì chúng sanh thuyết giảng diệu pháp, chúng sanh chứng quả A-la-hán nhiều như số cát sông Hằng, vô số chúng sanh phát tâm cầu quả vị Duyên giác, chúng sanh phát tâm cầu đạo Vô thượng nhiều như cát sông Hằng, đều đạt được pháp nhẫn vô sanh, cho đến được giai vị không còn thối chuyển. Sau khi đức Phật Thiên Vương nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế 20 trung kiếp, xá lợi toàn thân Phật được đại chúng xây tháp bảy báu thờ kính, cao 60 do-tuần, hai chiều ngang dọc 40 do-tuần, chư thiên cùng người dân dùng đủ các loại hoa, hương bột, hương đốt, hương thoa cùng các thứ y phục, chuỗi ngọc, cờ phướn, lọng báu, âm nhạc, tụng ca dâng lên cúng dường tháp bảy báu tốt đẹp này; rồi có vô số chúng sanh chứng quả A-la-hán, vô số chúng sanh giác ngộ thành Phật Bích-chi, và số chúng sanh phát tâm Bồ-đề cho đến đạt giai vị không còn thối chuyển nhiều đến mức không thể nghĩ bàn.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật nói với bốn chúng” trở đi, nêu rõ việc vị thầy [truyền bá kinh Pháp hoa] sẽ thành tựu diệu quả. Tiểu đoạn này lại có 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất nêu việc chánh quả thành tựu. Kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi[54] nói Đề-bà-đạt-đa khi thành Phật hiệu là Đề-hòa-la-da, Hán dịch là Thiên Vương; cõi nước tên là Đề-hòa-việt, Hán dịch là Thiên Địa.

Phân đoạn thứ hai từ câu “đức Phật Thiên Vương trụ thế 20 trung kiếp” trở đi, nêu sự hóa độ [của Phật Thiên Vương].

Phân đoạn thứ ba từ câu “Sau khi đức Phật Thiên Vương nhập Niết-bàn” trở đi, nêu những sự lợi ích sau khi Phật diệt độ.

KINH VĂN

Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Trong tương lai nếu có thiện nam, thiện nữ nào được nghe phẩm Đề-bà-đạt-đa trong kinh Pháp hoa này, trong lòng thanh tịnh cung kính tin theo, không sinh nghi hoặc, người ấy sẽ không còn đọa vào các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, được tái sanh về trước chư Phật mười phương, và dù sanh ra ở nơi nào cũng thường được nghe kinh này. Người ấy nếu sanh trong cõi trời người sẽ được thụ hưởng niềm vui thù thắng nhiệm mầu; nếu sanh ra trước Phật thì hóa sanh từ hoa sen.”

Tổng đoạn thứ ba từ câu “Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo…” trở đi là nội dung khuyến khích sự tu tập, y theo kinh văn có thể hiểu được.

“Hóa sanh từ hoa sen”, kinh Bồ Tát xử thai nói rằng: “Hóa sanh từ hoa sen không phải là cách hóa sanh thuộc về 4 cách sanh: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh. Đây không phải hóa sanh mà tạm gọi là hóa sanh, thật ra không giống như cách hóa sanh thuộc về 4 cách sanh.”

Sách Thỉnh Quan Âm[55] nói rằng: “Hóa sanh từ hoa sen, đó là cha mẹ.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Ở lâu trong đài hoa là thai sanh, nhưng thật ra chẳng phải thai.” Cũng giống như vậy, sanh từ hoa sen cũng gọi là thấp sanh, noãn sanh nhưng không phải là thấp sanh, noãn sanh. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, có vị Bồ Tát từ phương dưới theo hầu đức Thế Tôn Đa Bảo, hiệu là Trí Tích, thưa với Phật Đa Bảo: “Bạch Thế Tôn! Chúng ta nên quay về.”

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền bảo Bồ Tát Trí Tích: “Này thiện nam tử! Hãy chờ trong giây lát. Ở đây có Bồ Tát hiệu là Văn-thù-sư-lợi, các ông có thể gặp nhau luận bàn diệu pháp rồi sau đó hãy quay về.”

Khi ấy, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi ngồi trên tòa sen ngàn cánh lớn như bánh xe, với những vị Bồ Tát đi cùng cũng ngồi trên tòa sen báu, từ Long cung Sa-kiệt-la trong lòng biển lớn tự nhiên vọt lên, trụ giữa không trung rồi bay đến núi Linh Thứu, từ trên tòa sen bước xuống đến chỗ Phật, cúi đầu chạm mặt kính lễ dưới chân hai đức Thế Tôn. Sau khi kính lễ liền đến chỗ Bồ Tát Trí Tích, cùng thăm hỏi nhau rồi ngồi sang một bên.

Phần thứ hai từ câu “Lúc bấy giờ có vị Bồ Tát từ phương dưới…” trở đi, nêu việc hiện tại Bồ Tát Văn Thù truyền bá lưu thông kinh Pháp hoa mang lại lợi ích. Phần này có 2 tổng đoạn.

Tổng đoạn thứ nhất nêu việc Bồ Tát Văn Thù truyền bá lưu thông kinh Pháp hoa. Tổng đoạn thứ hai từ câu “Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: “Tôi đến [giáo hóa] trong lòng biển…” trở đi, nêu sự lợi ích.

Tổng đoạn thứ nhất có 5 đoạn.

Đoạn thứ nhất nêu việc Bồ Tát Trí Tích thỉnh [Phật Đa Bảo] quay về. Kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi nói rằng: “Vị Bồ Tát ở phương dưới theo hầu Phật Đa Bảo tên là Bát-nhã Câu-la, Hán dịch là Trí Tích.

Đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền bảo Bồ Tát Trí Tích…” trở đi, nêu việc đức Thích Tôn ngăn giữ [Bồ Tát Trí Tích] lại để chờ xem sự chứng minh lợi ích của việc lưu thông kinh [Pháp hoa này]. Bồ Tát Trí Tích cho rằng Phật Đa Bảo vì chứng minh [sự chân thật của] kinh Pháp hoa mà xuất hiện, nay việc khuyến khích chúng sanh lưu thông kinh này đã xong, nên thỉnh Phật quay về. Đức Phật Thích-ca ngăn giữ lại vì tuy hình tích sự việc nhìn thấy đã xong nhưng phần bản nguyên còn chưa hiển bày rõ rệt, cho nên ủy thác việc này cho Bồ Tát Văn Thù để lưu giữ Phật Đa Bảo. Mật ý của Phật không phải là điều Bồ Tát có thể biết được.

Đoạn thứ ba từ câu “Khi ấy, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi ngồi trên tòa sen…” trở đi, nêu việc Bồ Tát Văn-thù bỗng dưng xuất hiện.

KINH VĂN

Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Ngài đến Long cung giáo hóa được bao nhiêu chúng sanh?”

Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Con số ấy không thể suy lường, không thể tính kể, không thể nói ra bằng lời, không thể dùng tâm suy lường, xin chờ trong giây lát sẽ tự thấy biết.”

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói chưa dứt lời thì đã thấy vô số Bồ Tát ngồi trên tòa sen báu từ trong lòng biển vọt lên, cùng đến núi Linh Thứu, trụ giữa không trung. Các vị Bồ Tát này đều là do ngài Văn-thù-sư-lợi giáo hóa, đều đã trọn đủ công hạnh Bồ Tát, đều cùng nhau luận thuyết về sáu pháp ba-la-mật. Những vị vốn trước đây là Thanh văn, ở giữa không trung nói về công hạnh Thanh văn, nay đều tu hành theo nghĩa không của Đại thừa.

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Bồ Tát Trí Tích: “Tôi đến [Long cung] trong lòng biển giáo hóa, sự việc là như vậy.”

Đoạn thứ tư từ câu “Bồ Tát Trí Tích hỏi…” trở đi, nêu việc Bồ Tát Trí Tích hỏi về số lượng chúng sanh được giáo hóa.

Đoạn thứ năm từ câu “Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi nói…” trở đi, Bồ Tát Văn-thù đáp rằng con số ấy “không thể nói ra bằng lời”. Đoạn thứ năm này lại chia thành 7 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu lời đáp rằng [việc thuyết pháp] làm lợi ích cho rất nhiều chúng sanh.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Ngài Văn-thù-sư-lợi nói chưa dứt lời…”, những chúng sanh đã được lợi ích tập hợp về để chứng minh.

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Các vị Bồ Tát này…” trở đi, nêu rõ tất cả [những Bồ Tát này] đều là do ngài Văn-thù hóa độ.

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Những vị vốn trước đây là Thanh văn…” trở đi. Những vị vốn là Thanh văn, nghĩa là trước đây học theo giáo pháp quyền thừa, trụ nơi đạo Nhị thừa. Kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi nói rằng: “Hoa sen từ dưới hồ [của Long vương] bay lên, nếu là trước đây phát tâm Bồ Tát thì hoa ở giữa không trung, thuyết giảng những việc Đại thừa. Nếu là trước đây phát tâm Thanh văn thì hoa ở giữa không trung chỉ thuyết giảng việc chấm dứt sanh tử.”1

Tiểu đoạn thứ năm từ câu “nay đều tu hành theo nghĩa không…” trở đi, nêu việc [những vị nói trên] nay được nghe giáo pháp chân thật, nên tất cả đều trụ nơi giáo pháp Đại Thừa.

Tiểu đoạn thứ sáu từ câu “Ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Bồ Tát Trí Tích…” trở đi, ngài Văn-thù kết luận về lợi ích [của sự giáo hóa].

KINH VĂN

Bấy giờ, Bồ Tát Trí Tích liền nói kệ khen ngợi rằng:

Bậc trí đức mạnh mẽ,
Độ chúng sanh vô số,
Nay trong đại hội này,
Cũng như tôi, đều thấy.

Tuyên giảng nghĩa thật tướng,
Mở bày pháp Nhất thừa,
Rộng dẫn dắt chúng sanh,
Khiến mau thành quả Phật.

Tiểu đoạn thứ bảy từ câu “Bấy giờ, Bồ Tát Trí Tích…” trở đi, nêu việc Bồ Tát Trí Tích đọc kệ để ngợi khen xưng tán.

KINH VĂN

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: “Tôi đến [giáo hóa] trong lòng biển, chỉ thường tuyên thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”

Bồ Tát Trí Tích liền hỏi Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Kinh này rất thâm sâu mầu nhiệm, là quý báu trong các kinh, thế gian hiếm có, vậy có chúng sanh nào nhờ chuyên cần tinh tấn tu hành kinh này mà nhanh chóng được thành Phật chăng?”

Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Có người con gái Long vương Sa-kiệt-la là Long nữ, mới vừa tám tuổi, là người có trí tuệ, căn tánh nhanh nhạy, khéo rõ biết căn cơ và hành nghiệp của chúng sanh, được pháp tổng trì,[56] có khả năng thọ nhận giữ gìn tất cả những pháp tạng sâu xa bí mật mà chư Phật đã thuyết giảng, thâm nhập sâu vào thiền định, thấu đạt rõ ràng các pháp, chỉ trong khoảnh khắc một sát-na đã phát tâm Bồ-đề, đạt được giai vị không còn thối chuyển, biện tài không ngăn ngại, tâm từ mẫn nhớ nghĩ chúng sanh như cha mẹ thương con đỏ, trọn đủ mọi công đức, ý niệm và lời nói đều vi diệu lớn lao, từ bi, nhân đức, nhún nhường, tâm chí hòa nhã, có thể đạt đến quả Phật.”

Bồ Tát Trí Tích nói: “Tôi thấy đức Như Lai Thích-ca trải qua vô số kiếp tu hành khổ hạnh khó khăn, tích lũy công đức cầu đạo Bồ-đề chưa từng dừng nghỉ, nay quán xét trong khắp cõi thế giới đại thiên, không một nơi chốn nào dù nhỏ như hạt cải mà không phải nơi Bồ Tát đã từng xả bỏ thân mạng vì chúng sanh, như vậy rồi sau mới thành tựu quả Phật. Thật không tin được người con gái này chỉ trong khoảnh khắc liền thành bậc Chánh giác.”

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: ‘Tôi đến [giáo hóa] trong lòng biển…” trở đi, nêu lợi ích [sự giáo hóa bằng kinh Pháp hoa của Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi]. Tổng đoạn này có 9 đoạn.

Đoạn thứ nhất là ngài Văn-thù-sư-lợi tự trình bày. Đoạn thứ hai là Bồ Tát Trí Tích nêu câu hỏi. Đoạn thứ ba, [ngài Văn-thù-sư-lợi] đưa ra lời giải đáp. Đoạn thứ tư, Bồ Tát Trí Tích chấp theo ý nghĩa Biệt giáo nêu ra chỗ nghi. Đoạn thứ năm, Long nữ làm rõ ý nghĩa Viên giáo để giải thích chỗ nghi. Đoạn thứ sáu, ngài Xá-lợi-phất phân tích [việc thành đạo theo] Tạng giáo quyền thừa để vặn hỏi. Đoạn thứ bảy, Long nữ dùng pháp chân thật duy nhất để phá trừ lòng nghi. Đoạn thứ tám, đại chúng khi ấy nghe biết, nhìn thấy đều được lợi ích. Đoạn thứ chín, Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá-lợi-phất im lặng tin nhận, kính phục.

KINH VĂN

Những lời bàn luận còn chưa dứt, bỗng dưng đã thấy Long nữ hiện ra ngay trước, cúi đầu chạm mặt kính lễ Phật rồi đứng sang một bên, đọc kệ xưng tán rằng:

Thấu suốt tướng tội, phước,
Soi chiếu khắp mười phương.
Pháp thân tịnh, nhiệm mầu,
Đủ ba mươi hai tướng,
Dùng tám mươi vẻ đẹp,
Để trang nghiêm pháp thân.

Trời, người đều kính ngưỡng,
Thần, rồng cùng cung kính,
Và muôn loài chúng sanh,
Đều tôn kính phụng thờ.

Lại nghe: “Thành quả Phật,
Chỉ Phật mới chứng biết.”
Con mở bày Đại thừa,
Độ thoát chúng sanh khổ.

Giải thích về đoạn thứ năm, Long nữ làm rõ ý nghĩa Viên giáo để giải thích chỗ nghi, [chia làm 2 tiểu đoạn].

Tiểu đoạn thứ nhất là lời người chép kinh thuật lại sự việc, nêu việc Long nữ hiện thân lễ Phật cung kính.

Tiểu đoạn thứ hai gồm 3 khổ rưỡi kệ tụng, chia làm 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm nửa khổ kệ đầu tiên, nêu việc thọ trì kinh này đạt được sự nhận hiểu.

Phân đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ nêu việc thành tựu 2 thân [Phật là báo thân và ứng hóa thân].

Phân đoạn thứ ba gồm 1 khổ kệ, viện dẫn đức Phật để chứng minh cho sự thành tựu quả vị của mình.

Nói về “tội, phước”, đó là dựa theo sự tạo tác truyền nối trong 7 hạng phương tiện. Nay 2 câu kệ này nêu sự thấu suốt sâu xa đến chỗ không tội không phước, thể nhập vào thật tướng duy nhất nên gọi là “thấu suốt”.

“Mười phương” tức là nói 10 pháp giới,[57] đều dùng một trí tuệ chân thật mà soi chiếu, cho nên nói là “soi chiếu khắp”.

“Đủ ba mươi hai tướng” là nói thấu đạt sâu xa lý của pháp thân cho nên đầy đủ các tướng tốt, các vẻ đẹp. Như kinh Đại phẩm Bát-nhã nói rằng: “Muốn đạt được hết thảy các pháp thì nên học Bát-nhã. [Đạt được trí tuệ Bát-nhã thì] giống như có được hạt châu như ý [nên muốn gì cũng được như ý].” Hàng Nhị thừa chỉ đạt được pháp không, vì không nên không có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nói với Long nữ: “Cô nói rằng không bao lâu sẽ thành đạo Vô thượng, việc đó thật khó tin. Vì sao vậy? Thân nữ uế nhiễm, không phải pháp khí,[58] làm sao có thể đạt được Vô thượng Bồ-đề? Phật đạo sâu rộng xa thẳm, phải trải qua vô số kiếp chuyên cần khó nhọc tu tích công hạnh, trọn đủ các pháp ba-la-mật, sau đó mới được thành tựu. Lại nữa, thân nữ còn có năm điều chướng ngại là không làm được Phạm thiên vương, Đế thích, Ma vương, Chuyển luân Thánh vương và thân Phật. Như vậy làm sao thân nữ có thể nhanh chóng thành Phật?”

Lúc bấy giờ, Long nữ có một viên ngọc quý giá trị bằng cả thế giới đại thiên, mang ra dâng lên đức Phật. Đức Phật liền thọ nhận. Long nữ nói với Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá-lợi-phất: “Tôi dâng ngọc quý, đức Thế Tôn thọ nhận, việc ấy có nhanh chăng?”

Hai vị cùng đáp: “Rất nhanh.”

Long nữ liền nói: “Nếu dùng thần lực của các vị để xem việc tôi thành Phật thì cũng nhanh như vậy.”

Lúc bấy giờ tất cả hội chúng đều nhìn thấy Long nữ bỗng trong khoảnh khắc biến thành thân nam, trọn đủ hạnh Bồ Tát, tức thời đi sang thế giới Vô Cấu ở phương nam, ngồi trên tòa sen báu, thành bậc Chánh Đẳng Giác, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, rộng vì hết thảy chúng sanh trong mười phương thuyết giảng diệu pháp.

Đoạn thứ sáu, Xá-lợi-phất lại gạn hỏi [về việc thành Phật của Long nữ]. Trước tiên nói tổng quát về việc [thành Phật của Long nữ là rất] khó tin, sau đó giải thích rõ bằng cách nêu ra 5 sự chướng ngại [của thân nữ].

Đoạn thứ bảy Long nữ hiện việc thành Phật, chứng minh rõ ràng. Đoạn này lại có 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nói việc dâng hạt châu quý [lên đức Phật], biểu trưng cho sự nhận hiểu [giáo pháp] đã được tròn đầy trọn vẹn. Hạt châu tròn là biểu trưng cho sự tu hành của Long nữ đã tạo được nhân tròn đầy. Dâng lên đức Phật tức là dùng nhân ấy để đạt được quả. Phật thọ nhận nhanh chóng tức là đạt quả nhanh chóng, tức là chỉ trong một niệm đã [hiện thân] ngồi nơi đạo tràng [dưới cội Bồ-đề], chứng đắc thành tựu quả Phật, không hề hư dối.

Tiểu đoạn thứ hai nêu việc nhân tu hành tròn đầy, quả thành tựu trọn vẹn. Kinh Bồ Tát giáng thần mẫu thai[59] nói rằng: “Dù là Ma vương, Phạm thiên, Đế thích, nữ nhân đều không có việc xả thân hay thọ thân, tất cả đều ở ngay nơi thân hiện tại mà thành tựu quả Phật.”

[Sau đó đức Phật nói] kệ rằng:

Tánh pháp như biển lớn,
Chẳng có việc đúng sai.
Phàm phu, bậc hiền thánh,
Bình đẳng không cao thấp.
Cấu nhiễm trong tâm diệt,
Lật tay, chứng Niết-bàn.[60]

KINH VĂN

Khi ấy ở thế giới Ta-bà, hết thảy Bồ Tát, Thanh văn, tám bộ chúng, người và loài phi nhân đều từ xa nhìn thấy Long nữ thành Phật, rộng vì khắp chúng hội chư thiên và loài người nơi ấy thuyết pháp, liền hết sức hoan hỷ cùng kính lễ từ xa. Vô số chúng sanh nghe pháp được nhận hiểu tỏ ngộ, đạt địa vị không còn thối chuyển; vô số chúng sanh được thụ ký đạt đạo. Thế giới Vô Cấu chấn động sáu lượt. Tại thế giới Ta-bà có 3.000 chúng sanh trụ ở địa vị không còn thối chuyển, 3.000 chúng sanh phát tâm Bồ-đề rồi được thụ ký.

Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá-lợi-phất cùng hết thảy chúng hội đều lặng yên tin nhận.

Đoạn thứ tám từ câu “Khi ấy ở thế giới Ta-bà…” trở đi, nêu việc đại chúng đương thời được nhìn thấy, nghe biết. Đoạn này lại có 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc thấy nghe.

Tiểu đoạn thứ hai nêu việc chư thiên và nhân loại đều hoan hỷ, cả thế giới phương nam kia và thế giới Ta-bà ở đây đều được lợi ích.

Thế giới [Vô Cấu] về phương nam cơ duyên đã thuần thục, nên ở nơi ấy hiện tám tướng thành đạo,[61] còn ở thế giới Ta-bà nơi đây, cơ duyên hóa độ còn mỏng manh nên chỉ dùng hình tướng Long nữ để giáo hóa. Đây là sức phương tiện quyền xảo, đạt đến chỗ một thân tướng là hết thảy các thân tướng, tức là pháp tam-muội Phổ hiện sắc thân.

_______________________


CHÚ THÍCH

[1] Đề-bà-đạt-đa (提婆達多), phiên âm từ Phạn ngữ Devadatta, dịch nghĩa là Thiên Thọ (天壽), Thiên Nhiệt (天熱) hay Thiên Dữ (天與). Giải thích của Văn Cú ở đây dựa theo cách dịch là “thiên nhiệt” (chư thiên nóng bức).

[2] Văn Cú nói “寶唱經目 - Bảo Xướng kinh mục”, tức là bộ Kinh luật dị tướng (經律異相) gồm 50 quyển, do ngài Bảo Xướng và đồng sự biên soạn, cũng gọi là Bảo Xướng lục (寶唱錄), được đưa vào Đại Chánh tạng ở Tập 53, số 2121.

[3] Chánh Pháp hoa kinh (正法華經), 10 quyển, đưa vào Đại Chánh tạng thuộc Tập 9, kinh số 263, do ngài Trúc Pháp Hộ (竺法護) người nước Nguyệt Chi (月氏國) dịch vào đời Tây Tấn.

[4] Tức Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh (摩訶般若波羅蜜經), 27 quyển, hiện còn trong Đại Chánh tạng, Tập 8, kinh số 223. Gọi là Đại phẩm để phân biệt với Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Kinh (小品般若波羅蜜經), 10 quyển, cũng do Cưu-ma-la-thập dịch, hiện còn trong Đại Chánh tạng, Tập 8, kinh số 227.

[5] Văn Cú dùng “九轍 - cửu triệt”, tức 9 khoa mục, bao gồm: 1. Hôn thánh tương khấu triệt: phẩm Tựa; 2. Thiệp giáo quy chân triệt: phẩm Phương tiện, đức Phật nói pháp cho hàng thượng căn; 3. Hưng loại tiềm chương triệt: phẩm Thí dụ, đức Phật nói pháp cho hàng trung căn; 4. Thuật cùng thông tích triệt: phẩm Tín giải, nói về những điều mà bốn vị đại đệ tử ngộ giải; 5. Chương nhân tiến ngộ triệt: phẩm Hóa thành và phẩm Thụ kí, đức Phật nói pháp cho hàng hạ căn; 6. Tán dương hành lý triệt: phẩm Pháp sư; 7. Bản tích vô sanh triệt: phẩm Hiện Bảo Tháp; 8. Cử nhân trưng quả triệt: phẩm Tùng địa dũng xuất và phẩm Như Lai Thọ lượng; 9. Xưng dương vĩnh tế triệt: từ phẩm Tùy hỷ công đức trở xuống là phần lưu thông của toàn kinh. Tuy nhiên, sách Pháp hoa huyền luận, quyển 1, nói cách phân chia kinh Pháp hoa thành “cửu triệt” là do ngài Đạo Dung (道融) khởi xướng. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 34, số 1720, trang 363, tờ c, dòng 11-13.) Tuy sống cùng thời kỳ, nhưng ngài Tăng Duệ là đệ tử của ngài Cưu-ma-la-thập, còn ngài Đạo Dung là người được vua Diêu Hưng mời đến hợp tác với ngài Cưu-ma-la-thập trong việc dịch kinh.

[6] Theo trình bày ở đây, có thể hiểu là kinh văn lúc này vừa được chuyển dịch và chỉ có duy nhất một bản chép tay, chưa được in ấn số lượng nhiều.

[7] Đây là nói đến ngài Nam Nhạc Tuệ Tư (南嶽慧思), thầy của Đại sư Trí Khải. Ngài sanh năm 515, viên tịch vào năm 577, người Vũ Tân (nay là huyện Thượng Thái, Hà Nam), xuất gia từ thuở nhỏ, thường chuyên tâm tụng kinh Pháp hoa.

[8] Văn Cú dùng “四瀆混和 - tứ độc hỗn hòa”, tứ độc chỉ 4 con sông là Trường giang, Hoàng hà, Hoài hà và Tế thủy. Văn Cú Ký giải thích rằng đây là muốn nói đến cảnh “天下大同 - thiên hạ đại đồng”, tức là không còn phân chia như trước đó. Sự thống nhất này là kể từ đời nhà Đường.

[9] Chỗ này Văn Cú có sự lẫn lộn, vì trong quyển 1 khi kể về chuyện ngài Mục-kiền-liên đã có nói rõ việc này, theo đó thì chính ngài Mục-kiền-liên dùng thần thông khiến cho Đề-bà-đạt-đa ngủ say như chết, ngài Xá-lợi-phất nhân đó mới thuyết pháp với 500 tỳ-kheo, chỉ rõ sự sai lầm để thuyết phục họ quay về. Sau đó, ngài Mục-kiền-liên dùng thần thông đặt đại chúng lên bàn tay rồi bay về lại tinh xá.

[10] Ở đây Văn Cú kể 5 tội nghịch là 5 việc Đề-bà-đạt-đa đã làm, bao gồm: phá tăng, giết tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc và 3 lần mưu hại Phật. Tuy nhiên, xét theo định nghĩa về 5 tội nghịch thì gồm: phá hòa hợp tăng, giết A-la-hán, giết cha, giết mẹ, làm thân Phật chảy máu, nên mới nói rằng 3 việc hãm hại Phật được gộp chung thành một tội, và như vậy Đề-bà-đạt-đa xem như phạm vào 3 tội nghịch.

[11] Bản Đại Chánh chép chỗ này là “懈惓 - giải quyền”, có lẽ nhầm. Chúng tôi tham khảo bản Càn Long chép là “懈倦 - giải quyện” hợp lý hơn, vì chữ quyền (惓 – bộ tâm) mang nghĩa là thành khẩn, chân thành, trong khi chữ quyện (倦 – bộ nhân) mang nghĩa là mệt mỏi, chán mệt. Đây mới là ý nghĩa thích hợp trong ngữ cảnh này. Cũng có thể theo cách dùng xưa kia thì 2 chữ thông nghĩa lẫn nhau.

[12] Văn Cú dùng “紫磨金色 - tử ma kim sắc” (màu vàng tử ma). Vàng tử ma là loại vàng ròng có màu vàng pha sắc tía, được cho là loại vàng tốt nhất, quý nhất. Trong một số kinh luận cũng gọi loại vàng này là vàng diêm-phù-đàn (閻浮檀).

[13] Bốn pháp nhiếp phục, tức Tứ nhiếp pháp (H. 四攝法, S. catvāri-saṃgrahavastūni), bao gồm: 1. Bố thí (H. 布施, S. dāna), dùng pháp bố thí để nhiếp phục, dẫn dắt; 2. Ái ngữ (H. 愛語, S. priyavāditā), dùng lời nhu hòa, êm ái để nhiếp phục, dẫn dắt; 3. Lợi hành (H. 利行, S. arthacaryā), dùng việc làm có lợi cho người khác để nhiếp phục, dẫn dắt; 4. Đồng sự (H. 同事, S. samānārthatā), cùng chung công việc để nhiếp phục, dẫn dắt.

[14] Kinh văn dùng “thập bát bất cộng”, tức thập bát bất cộng pháp (H. 十八不共法, S: aṣṭādaśāveṇikabuddhadharmāḥ), chỉ 18 phẩm tính siêu việt chỉ có ở chư Phật, không có ở hàng Thanh văn, Duyên giác, cho nên gọi là “bất cộng” (không chung cùng). Các pháp này gồm có: 1. Thân vô thất (身無失): thân chân chánh, không có lỗi lầm; 2. Khẩu vô thất (口無失): lời nói chân chánh, không có lỗi lầm; 3. Niệm vô thất (念無失): Tâm niệm không có lỗi lầm; 4. Vô dị tưởng (無異想): Không có ý tưởng phân biệt, đối đãi bình đẳng với tất cả; 5. Vô bất định tâm (無不定心): Tâm thường trong định, không tán loạn; 6. Vô bất tri kỷ xả tâm (無不知己捨心): Luôn rõ biết những tâm niệm buông xả, luôn an trụ trong tâm xả, không khổ không vui; 7. Dục vô giảm (欲無減): Tâm nguyện, ý muốn độ sinh không suy giảm; 8. Tinh tấn vô giảm (精進無減): Tinh tấn không thối chuyển, thường dùng phương tiện độ sinh; 9. Niệm vô giảm (念無減): Tâm niệm không suy giảm, không thối thất; 10. Tuệ vô giảm (慧無減): Trí tuệ viên mãn, viên mãn không khuyết thiếu, không suy giảm; 11. Giải thoát vô giảm (解脱無減): Giải thoát không suy giảm, đầy đủ các giải thoát hữu vi và vô vi, dứt mọi phiền não, tập khí; 12. Giải thoát tri kiến vô giảm (解脱知見無減): Thấy biết các tướng giải thoát không ngăn ngại nên tri kiến giải thoát không suy giảm; 13. Nhất thiết thân nghiệp tùy trí tuệ hành (一切身業隨智慧行): Mọi hành động của thân đều được trí tuệ soi chiếu, phù hợp; 14. Nhất thiết khẩu nghiệp tùy trí tuệ hành (一切口業隨智慧行): Hết thảy mọi lời nói đều xuất phát từ trí tuệ; 15. Nhất thiết ý nghiệp tùy trí tuệ hành (一切意業隨智慧行): Tất cả ý nghĩ khởi lên đều có sự soi chiếu của trí tuệ; 16. Trí tuệ tri kiến quá khứ thế vô ngại vô chướng (智慧知見過去世無閡無障): Trí tuệ thấy biết các đời quá khứ không có chướng ngại; 17. Trí tuệ tri kiến vị lai thế vô ngại vô chướng (智慧知見未來世無閡無障): Trí tuệ thấy biết tương lai không có chướng ngại. 18. Trí tuệ tri kiến hiện tại thế vô ngại vô chướng (智慧知見現在世無閡無障): Trí tuệ thấy biết trong hiện tại không có chướng ngại..

[15] Văn Cú dùng “七支 - thất chi”, chỉ 4 nghiệp xấu ác của miệng (nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi và nói lời độc ác) và 3 nghiệp xấu ác của thân (giết hại, trộm cướp và tà dâm).

[16] Bốn tầng thiền, bao gồm sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền.

[17] Tám loại định, bao gồm 1. Sơ thiền thiên định; 2. Nhị thiền thiên định; 3. Tam thiền thiên định; 4. Tứ thiền thiên định; 5. Không xứ thiên định; 6. Thức xứ thiên định; 7. Vô sở hữu xứ thiên định; 8. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên định. Người nhập định thì tâm thức đi vào cảnh giới của các tầng trời tương ứng nên gọi là thiên định (天定).

[18] Bồ Tát thiện giới kinh (菩薩善戒經), 9 quyển, do Cầu-na-bạt-ma Hán dịch vào đời Lưu Tống. Có lẽ Văn Cú trích dẫn từ bản khác nên mới có quyển 10.

[19] Văn Cú nói “Nguyệt Tạng đệ nhất”, tức là kinh Phương đẳng Đại tập (大方等大集經), phần Nguyệt Tạng (月藏分), phẩm Thần chú Nguyệt Tràng, thứ nhất (月幢神呪品第一), bắt đầu từ quyển 46. (ĐCT, T13, 397, tr.298a)

[20] Gọi là “túc hạ an bình lập tướng” (足下安平立相).

[21] Gọi là “túc phu cao mãn tướng” (足趺高滿相).

[22] Gọi là “túc hạ nhị luân tướng” (足下二輪相).

[23] Gọi là “túc cân quảng bình tướng (足跟廣平相).

[24] Gọi là “trường chỉ tướng” (長指相).

[25] Gọi là “thân quảng trường đẳng tướng” (身廣長等相).

[26] Gọi là “thất xứ long mãn tướng” (七處隆滿相).

[27] Gọi là “thủ túc chỉ man võng tướng” (手足指縵網相).

[28] Gọi là “thủ túc nhu nhuyễn tướng” (手足柔軟相).

[29] Gọi là “mao thượng hướng tướng” (毛上向相).

[30] Gọi là “y-nê-diên bác tướng” (伊泥延膊相).

[31] Gọi là “tế bạc bì tướng” (細薄皮相).

[32] Gọi là “kim sắc tướng” (金色相).

[33] Gọi là “âm tàng tướng” (陰藏相).

[34] Gọi là “đại trực thân tướng” (大直身相).

[35] Gọi là “chánh lập thủ ma tất tướng” (正立手摩膝相).

[36] Gọi là “kiên viên hảo tướng” (肩圓好相).

[37] Gọi là “trượng quang tướng” (丈光相), Văn Cú gọi là hạng quang (項光). Chúng tôi hiểu rằng Văn Cú dùng chữ “hạng - 項” với nghĩa lớn lao, mà tướng này cũng gọi là “大光相 - đại quang tướng” nên là tương đồng.

[38] Gọi là “thượng thân như sư tử tướng” (上身如獅子相).

[39] Gọi là “chân thanh nhãn tướng” (眞青眼相).

[40] Gọi là “ngưu nhãn tiệp tướng” (牛眼睫相).

[41] Gọi là “đỉnh kế tướng” (頂髻相).

[42] Gọi là “nhất nhất khổng nhất mao sinh tướng” (一一孔一毛生相).

[43] Gọi là “bạch mao tướng” (白毛相), bạch hào tướng (H. 白毫相, S. uṇṇa-lakkhaṇa)

[44] Gọi là “tứ thập xỉ tướng” (四十齒相).

[45] Gọi là “xỉ tề tướng” (齒齊相).

[46] Gọi là “đại thiệt tướng” (大舌相).

[47] Gọi là “phạm thanh tướng” (梵聲相).

[48] Gọi là “sư tử giáp tướng” (獅子頰相).

[49] Gọi là “nha bạch tướng” (牙白相).

[50] Trong mỗi đoạn mô tả Văn Cú đều có xác nhận là một tướng (nhất tướng), hai tướng (lưỡng tướng) hoặc ba tướng (tam tướng). Cứ theo đó mà tính thì Văn Cú đã kể ra đến 34 tướng. Văn Cú Ký ở chỗ này so sánh với sách Pháp giới thứ đệ sơ môn (法界次第初門) cũng do ngài Trí Khải soạn và nói là “剩有二 相 – thặng hữu nhị tướng” (thừa ra 2 tướng). Nếu so sánh với 32 tướng được liệt kê trong luận Đại trí độ (大智度論), quyển 4, thì trong số này có 4 tướng không tìm thấy là 1. tướng gót chân thẳng (足跟直 - túc căn trực), 2. tướng mắt cá chân không nhô ra (踝不現 - khoả bất hiện), 3. tướng chữ vạn (萬字相 - vạn tự tướng) và 4. tướng tóc xanh (青髮 - thanh phát). Như vậy, nếu trừ 4 tướng này thì Văn Cú đã kể ra 30 tướng, còn thiếu 2 tướng nữa là “lưỡng dịch hạ long mãn tướng” (兩腋下隆滿相) và “vị trung đắc thượng vị tướng” (味中得上味相). (ĐCT, T25, 1509, tr.90a, d.27- tr.91a, d.18)

[51] Văn Cú gọi là “八十種好 - bát thập chủng hảo”, kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa (大般若波羅蜜多經), quyển 381, liệt kê và giải thích đầy đủ về các vẻ đẹp này, gọi là “八十隨好 - bát thập tùy hảo”, thường được hiểu là 80 vẻ đẹp, 80 tướng phụ hay 80 tiểu tướng, đều có ý nghĩa rằng các vẻ đẹp này là phụ theo với 32 tướng tốt của đức Phật. Xem Đại Chánh tạng, Tập 6, kinh số 220, trang 968, tờ a, dòng 9 đến trang 969, tờ a, dòng 7.

[52] Văn Cú không dẫn nguồn ở đây nhưng chúng tôi so sánh thấy rất có thể nội dung 80 vẻ đẹp này đã được trích từ kinh Bồ Tát thiện giới (菩薩善戒經), quyển 9, tuy là có một vài khác biệt nhỏ. (ĐCT, T30, 1582, tr.1009c, d.8-22)

[53] Trung kiếp: là khoảng thời gian bằng 20 tiểu kiếp. Mỗi tiểu kiếp là khoảng thời gian tuổi thọ con người trải qua đủ một chu kỳ tăng và giảm, theo luận Câu-xá (quyển 10) là 16.800.000 năm. Do đó, một trung kiếp là thời gian 336.000.000 năm. Thời gian 80 trung kiếp hợp thành một đại kiếp.

[54] Kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi (薩曇分陀利經), Hán dịch là Pháp hoa, mất tên người dịch, đã được trích dẫn ở một phần trước. (ĐCT, T9, 265)

[55] Tức là sách Thỉnh Quán Âm kinh sớ (請觀音經疏), 1 quyển, do ngài Trí Khải thuyết giảng, đệ tử là Quán Đảnh ghi lại, hiện còn trong Đại Chánh tạng, Tập 39, kinh số 1800.

[56] Kinh văn dùng chữ “陀羅尼 - đà-la-ni”, phiên âm từ Phạn ngữ dhāraṇī, Hán dịch là “tổng trì” (總持), có nghĩa là thâu nhiếp, nắm giữ được tất cả, không bỏ sót.

[57] Theo ý nghĩa của từ ngữ thì “mười phương” chỉ phương hướng, tức là khắp cùng không gian. Ở đây giải thích là “10 pháp giới” tức là chỉ cho khắp thảy các loài chúng sanh, bao hàm cả 6 cõi phàm, 4 cõi thánh.

[58] Pháp khí: vật chứa đựng chánh pháp, dùng với ý nghĩa biểu trưng để chỉ người có thể học hỏi và truyền bá chánh pháp, như các vị tăng giáo hóa nhiều người thường được tôn xưng là bậc pháp khí.

[59] Văn Cú nói là “胎經 - Thai kinh”, theo nội dung trích dẫn ở đây thì được dẫn từ kinh Bồ Tát tùng Đâu-suất thiên giáng thần mẫu thai thuyết Quảng phổ (菩薩從兜術天降神母胎說廣普經), Văn Cú đã gọi tắt thành Thai kinh. Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 384, trang 1035, tờ c.

[60] Nguyên văn bài kệ trong kinh văn là: “法性如大海, 不記有是非。凡夫賢聖人, 平等無高下。唯在心垢滅, 取證如反掌。 - Pháp tánh như đại hải, bất ký hữu thị phi. Phàm phu, hiền thánh nhân, bình đẳng vô cao hạ. Duy tại tâm cấu diệt, thủ chứng như phản chưởng.” Văn Cú dẫn câu thứ 2 là chữ “說 - thuyết” thay vì chữ “記 - ký”.

[61] Tám tướng thành đạo, chỉ 8 sự tướng quan trọng nhất khi một vị Phật ra đời, đó là các tướng: 1. Giáng thần; 2. Nhập thai; 3. Đản sanh; 4. Xuất gia; 5. Hàng ma; 6. Thành đạo; 7. Thuyết pháp; 8. Nhập Niết-bàn.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 20 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.169 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...