Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hành động thiếu tri thức là nguy hiểm, tri thức mà không hành động là vô ích. (Action without knowledge is dangerous, knowledge without action is useless. )Walter Evert Myer
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 14. Giải thích phẩm Hạnh an vui »»
Xem Mục lục
KINH VĂN
Phẩm Hạnh an vui, thứ mười bốn
Giải thích tên phẩm
Việc giải thích phẩm này dựa theo 3 ý nghĩa. Thứ nhất là theo sự việc, thứ hai là dựa vào ý nghĩa kinh văn, thứ ba là theo ý nghĩa pháp môn.
[Giải thích theo] sự việc thì do thân không gặp nguy hiểm nên gọi là “an”; tâm không lo buồn sầu khổ nên gọi là “vui”; thân được an, tâm được vui nên “hạnh” tu tập có thể tăng tiến.
[Giải thích] dựa theo ý nghĩa] kinh văn là nói đắp y Như Lai nên pháp thân “an”; vào nhà Như Lai nên tâm giải thoát “vui”; ngồi tòa Như Lai nên “hạnh” đạo Bát-nhã tăng tiến. Đây là dựa vào ý nghĩa kinh văn của phẩm [Pháp sư] ở trước để giải thích.
[Lại nữa, dựa theo ý nghĩa kinh văn trong phẩm này nói] “trụ nơi giai vị nhẫn nhục” cho nên thân được “an”, “không hấp tấp thô bạo” cho nên tâm được “vui”, “quán xét thấy đúng tướng như thật” của các pháp cho nên “hạnh” tu tập tăng tiến.
Lại nữa, giải thích theo ý nghĩa pháp môn thì “an” là không động chuyển, “vui” là không cảm thụ, “hạnh” là không có gì để làm.
Giải thích về không động chuyển, đó là những gì thuộc về 6 cảnh giới trong sanh tử,[1] 2 cảnh giới Niết-bàn của bậc thánh[2] đều không thể làm cho động chuyển. Vì không vướng mắc chạy theo sự bám chấp vào 2 bên có, không[3] nên thân không động chuyển. Kinh văn phần trước [trong phẩm Thí dụ hóa thành] nói: “Thân thể cùng tay chân, đều an nhiên không động; trong tâm thường an tĩnh, chưa từng có tán loạn.”[4] Tức là trụ yên không động chuyển như đỉnh núi Tu-di. Đây là pháp môn thường trụ bất động.
Giải thích về niềm vui [chân thật], tức là sự vận dụng rộng lớn của pháp tam-muội không cảm thụ. Không cảm thụ 5 loại cảm thụ[5] của phàm phu, cho đến 5 loại cảm thụ của Viên giáo, khởi sanh kiến chấp cũng đều không cảm thụ.
Có cảm thụ tất nhiên sẽ có khổ, nếu không cảm thụ tất nhiên không có khổ. Không khổ không vui mới gọi là niềm vui lớn lao chân thật.
Giải thích về “không có chỗ làm”, đó là nếu có chỗ cảm thụ tất nhiên có chỗ làm, nếu không có chỗ cảm thụ tức không có chỗ làm. Không làm theo hạnh phàm phu, không làm theo hạnh hiền thánh, cho nên nói là không có chỗ làm; nhưng làm theo trung đạo cho nên nói là “hạnh”. Đây là giải thích theo ý nghĩa pháp môn.
Bây giờ lại giải thích rộng hơn dựa theo sự việc. Nói về an vui tức là cảnh giới Đại Niết-bàn. Đây là dựa theo quả đạt được mà gọi tên. “Hạnh” tức là con đường đi đến Niết-bàn. Đây là dựa theo nhân tạo tác mà gọi tên. Ngoài [nhân Niết-bàn và quả Niết-bàn] ra thì tất cả những nhân và quả khác đều là khổ. Như hàng ngoại đạo chấp thường mà thực hành khổ hạnh chỉ đạt đến quả khổ. Hoặc nếu nói nhân vui mà quả khổ thì như hàng ngoại đạo chấp đoạn, buông thả dục tình phóng túng thụ hưởng dục lạc, sau chịu quả báo khổ. Nếu nói về nhân khổ mà quả vui thì như hàng Nhị thừa phân tích chia chẻ các pháp, vận dụng không khéo léo lẽ vô thường nên phải khổ nhọc rất nhiều cho đến khi thể nhập Niết-bàn [Tiểu thừa].
Nay [phẩm này] nói “hạnh an vui” là theo nghĩa nhân quả đều an vui, tức là như trong Đại phẩm Bát-nhã nói “vận dụng khéo léo lẽ như thật”.[6] Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Hạnh lúc nào cũng khổ là hàng phàm phu; hạnh có khổ có vui là hàng Thanh văn, Duyên giác; hạnh lúc nào cũng vui là hàng Bồ Tát.”[7] Tất cả [hành giả trong] 7 hạng phương tiện đều là tạo nhân thô thiển, được quả thô thiển, đều không phải là hạnh an vui; chỉ có nhân vi diệu, quả vi diệu mới gọi là hạnh an vui.
Lại giải thích rộng hơn dựa theo ý nghĩa kinh văn thì hạnh an vui là con đường đi đến Niết-bàn. Niết-bàn lại có 3 nghĩa, tức là 3 phẩm đức[8] của kho tàng bí mật.
Hạnh lại có 3 nghĩa, đó là thực hành pháp chỉ, thực hành pháp quán và thực hành từ bi.
Thực hành pháp chỉ là thực hành 3 nghiệp nhu hòa, đối với sự việc dù trái nghịch hay thuận theo đều tịch lặng, nghĩa là thực hành theo thể của [phẩm đức] pháp thân. Đây là ý nghĩa kinh văn phần trước [trong phẩm Pháp sư] nói “đắp y Như Lai”.
Thực hành pháp quán là thực hành trí tuệ soi thấy một thật tướng, chiếu ánh sáng không phân biệt, tức là thực hành theo thể của [phẩm đức] Bát-nhã. Đây là ý nghĩa kinh văn phần trước [trong phẩm Pháp sư] nói “ngồi tòa Như Lai”.
Thực hành từ bi là thực hành bốn thệ nguyện lớn lao, rộng độ khắp thảy chúng sanh, tức là thực hành theo thể của [phẩm đức] giải thoát. Đây là ý nghĩa kinh văn phần trước [trong phẩm Pháp sư] nói “vào nhà Như Lai”.
Cả 3 pháp thực hành ấy là con đường đến Niết-bàn, cả 3 phẩm đức ấy là cảnh giới của “hạnh”; cảnh giới ấy gọi là “an vui”, con đường [đến Niết-bàn] ấy gọi là “hạnh”.
Luận Đại trí độ nói: “Bồ Tát từ khi mới phát tâm thường quán Niết-bàn, khi tạo nhân tu hành đạo thì vận dụng 3 pháp thực hành này dẫn dắt 3 nghiệp, lấy đó làm hạnh.” Ba nghiệp thanh tịnh ắt làm thanh tịnh 6 căn; 6 căn thanh tịnh thì phát khởi sự nhận hiểu tương tợ mà thể nhập được cảnh giới chân thật. Khi thành tựu quả vị thì [6 căn thanh tịnh ấy] gọi là mắt Phật, tai Phật...
Nhân tu tập là thực hành pháp chỉ, quả thành tựu gọi là phẩm đức dứt trừ phiền não (đoạn đức). Nhân tu tập là thực hành pháp quán, quả thành tựu gọi là phẩm đức trí tuệ soi chiếu (trí đức). Nhân tu tập là thực hành từ bi, quả thành tựu gọi là phẩm đức ban ân giáo hóa khắp thảy chúng sanh (ân đức).[9]
Lại nữa, nhân tu tập là 3 nghiệp, quả thành tựu là 3 mật;[10] khi tu tập nhân là từ bi dẫn dắt 3 nghiệp làm lợi ích chúng sanh, khi thành tựu quả là 3 luân[11] giáo hóa [chúng sanh] không thể nghĩ bàn.[12]
Quán xét như vậy thì không còn phân biệt, trong hết thảy các pháp đều tự có tánh an vui, hết thảy chúng sanh tức là đại Niết-bàn, không thể lại còn có sự diệt độ. [Kinh Duy-ma-cật nói: “Bồ Tát] thực hành điều không phải đạo là thông đạt Phật đạo.”[13] Đây chính là dứt hết mọi đối đãi mà nêu “hạnh an vui”. [Ý nghĩa] thực hành này tương hợp với ý nghĩa trong kinh Đại Bát Niết-bàn.[14] Kinh Đại bát Niết-bàn nói rằng:[15] “Lại có một hạnh, là hạnh Như Lai.”[16] Như Lai là nói người, an vui là nói pháp; Như Lai là người an vui, an vui là pháp của Như Lai. Nói khái quát thì ý nghĩa trong 2 kinh không khác biệt, nói chi tiết cũng không khác biệt. Kinh này nói việc [đắp y Như Lai] là pháp nhẫn tịch diệt, [nói ngồi tòa Như Lai] là trụ nơi pháp không, lại nói vào nhà Như Lai; kinh Đại Bát Niết-bàn nói “cây báu bằng vàng bạc”, cây báu tức là rừng cây báu vô lậu; vô lậu so với pháp không, pháp nhẫn tịch diệt là tương hợp. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói “có sông lớn Kim sa[17] không uốn khúc, chảy thẳng vào biển phía tây”, tức là ý nghĩa một trí tuệ chân thật, so với nghĩa “các pháp đều không” là tương hợp. [Lại nói] người phụ nữ đạt đạo thì không còn gian dối quanh co, tức là ý nghĩa tâm đại từ vô duyên, so với ý nghĩa “nhà Như Lai” là tương hợp. Kinh Đại Bát Niết-bàn gọi là nghĩa vô dư, kinh Pháp hoa này gọi là nghĩa vô thượng đạo. Lại nữa, ý nghĩa của 5 hạnh [trong kinh Đại Bát Niết-bàn][18] so với các nghĩa đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, vào nhà Như Lai [trong kinh này] là tương đồng.[19]
Hỏi: Kinh Đại Bát Niết-bàn nêu việc [người hộ trì chánh pháp] thân cận đức vua, mang cung tên đi khuất phục kẻ ác;[20] kinh này thì nói phải xa lìa những người có quyền thế, sống khiêm hạ với tâm hiền thiện từ ái; [hai bên] cứng rắn với nhu hòa thật khác nhau quá xa, sao lại nói là không khác biệt?
Đáp: [Trong 2 pháp khuất phục và nhiếp thụ,][21] kinh Đại Bát Niết-bàn nói thiên về sự khuất phục, [nhưng cũng nói Bồ Tát] trụ ở giai vị Nhất tử[22] [thương chúng sanh như con một của mình], như vậy đâu phải là không có sự nhiếp thụ? Kinh [Pháp hoa] này nói thiên về sự nhiếp thụ, [nhưng trong phẩm Đà-la-ni cũng nói “ai quấy nhiễu người thuyết pháp] đầu người ấy sẽ bị vỡ làm 7 mảnh”,[23] như vậy đâu phải là không có sự khuất phục? Chẳng qua mỗi kinh đều chỉ nêu ra một manh mối thích hợp đúng thời mà thôi. Nếu xét về lý thì [cả 2 kinh] đều có đủ 4 [pháp tất đàn]. Vì sao có thể nói như vậy? Vì nêu việc thích hợp đúng thời tức là ý thế giới tất đàn, nói nghĩa nhiếp thụ tức là ý vị nhân tất đàn, nói nghĩa khuất phục tức là ý đối trị tất đàn, [đưa đến sự] chứng ngộ Phật đạo tức là ý đệ nhất nghĩa tất đàn.
Lại nữa, giải thích theo ý nghĩa pháp môn thì “an” là không động chuyển, “vui” là không cảm thụ, “hạnh” là không có gì để làm.
Giải thích [tên phẩm] rộng hơn theo ý nghĩa pháp môn thì lẽ ra phải nói về pháp môn không động chuyển [là nghĩa “an”], pháp môn không cảm thụ [là nghĩa “vui”] và pháp môn không có chỗ làm [là nghĩa “hạnh”], nhưng nay lược bớt những phần này không ghi ra.
Phẩm này là ý thứ tư thuộc phần tích môn lưu thông. Nếu là đối với 20.000 Bồ Tát [trong nhóm của Bồ Tát Dược Vương] hoặc 80 muôn ức na-do-tha Đại Bồ Tát đã vâng lời Phật dạy để lưu thông truyền rộng kinh này, thì các vị đều đã nhận thức sâu xa các pháp quyền thật, hiểu rộng về các giáo pháp tiệm đốn, lại thấu đạt cơ duyên, có sức thần tự tại, dù trong đời uế trược phiền não rối loạn cũng không thể ngăn cản các vị lưu thông truyền rộng kinh này, không cần phải đợi Phật chỉ bày phương pháp [mới thực hành được]. Nhưng đối với những người mới phát tâm nương theo Phật pháp, muốn tu tập viên mãn hạnh nguyện lợi tha[24] nên vào đời uế trược để lưu thông truyền rộng kinh này, bị uế trược quấy nhiễu não loạn, tự mình thực hành không được vững vàng, cũng chưa có công đức giáo hóa người khác, đức Phật vì những người này nên phải chỉ bày phương pháp hạnh an vui, cho nên mới có phẩm này.
Hạnh an vui [trong phẩm này] có thứ lớp không? Xét như sự thực hành viên mãn theo kinh Pháp hoa này thì một công hạnh đã là vô số công hạnh, không thể nghĩ bàn, làm sao có sự phân định thứ lớp trước sau? Nay chỉ tạm nêu một đầu mối, trong phẩm Pháp sư chỉ bày sơ lược việc truyền rộng kinh này, lấy việc lợi ích chúng sanh làm gốc, cho nên trước tiên nói “vào nhà Như Lai” [khởi tâm từ bi]. Trong phẩm [Hạnh an vui] này thì nói việc truyền rộng kinh điển trong đời xấu ác, giúp làm an ổn những phiền não bức bách, cho nên trước tiên nói “đắp y Như Lai” [nhu hòa nhẫn nhục]. [Hai cách sắp xếp] trước sau như vậy là hỗ trợ cho nhau để làm rõ vấn đề.
Nếu dựa theo thứ lớp thực hành thì [kinh văn nói] “các pháp từ xưa nay, tướng thường tự tịch diệt”, nếu trái nghịch với tánh thường tịch diệt ấy liền khởi lên các pháp tương ưng, nên trước phải dùng trí tuệ Bát-nhã dứt trừ những pháp ấy, tức là trước tiên phải “ngồi tòa Như Lai” [các pháp đều không]. Từ chỗ các pháp không sanh mà trí Bát-nhã khởi sanh đồng thể từ bi,[25] thương xót chúng sanh nên thực hành đạo pháp, tức là tiếp theo “vào nhà Như Lai” [khởi tâm từ bi]. Đã vận dụng tâm từ bi để giáo hóa người đời, tất nhiên phải trải qua những điều thuận nghịch, nhất định cần phải an ổn nhẫn chịu, cho nên tiếp đến là “đắp y Như Lai” [nhu hòa nhẫn nhục].
Tuy nói có thứ lớp tuần tự như vậy, nhưng chẳng qua chỉ là về mặt giáo thuyết, không phải lúc thực hành. Một khi thực hành [“ngồi tòa Như Lai”] thể nhập các pháp đều không, tức là đã đầy đủ tất cả các pháp, huống chi là từ bi với nhẫn nhục [mà lại chưa có] hay sao?
Về 4 hạnh an vui [trong phẩm này], các nhà cựu giải nói rằng, hạnh thứ nhất lấy việc quán xét các pháp giả, thật đều không làm thể; hạnh thứ hai lấy việc thuyết pháp làm thể; hạnh thứ ba lấy việc xa lìa lỗi lầm làm thể; hạnh thứ tư lấy tâm từ bi làm thể.
Cơ sư giải thích rằng, hạnh thứ nhất là không; hạnh thứ hai là lìa kiêu mạn; hạnh thứ ba là trừ tâm ganh ghét đố kỵ; hạnh thứ tư là tâm đại từ bi.
Long sư nói, hạnh thứ nhất là thân xa lìa những việc xấu ác, tâm dần dần đến gần lẽ không; hạnh thứ hai là trừ những lỗi lầm trong lời nói; hạnh thứ ba là trừ tâm ý ganh ghét đố kỵ; hạnh thứ tư là khởi tâm từ bi.
Đại sư Nam Nhạc Tuệ Tư[26] nói rằng, hạnh thứ nhất là trí tuệ chân chánh không bám chấp; hạnh thứ hai là miệng không nói lỗi người khác; hạnh thứ ba là cung kính người trên, dẫn dắt kẻ dưới; hạnh thứ tư là tâm đại từ bi.
Đại sư Thiên Thai[27] nói rằng, đó là ba hạnh thực hành chỉ, quán và từ bi dẫn dắt 3 nghiệp, cùng với hạnh thứ tư là thệ nguyện.
Về nghiệp của thân, nhờ thực hành pháp chỉ nên xa lìa nghiệp thô xấu của thân, thực hành pháp quán nên không có thân sau, không có nghiệp của thân, không thể xa lìa. Vì không có chỗ được nên không đọa vào cảnh giới phàm phu.
Vì có tâm từ bi nên chuyên cần tu tập nghiệp của thân, rộng làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh, do đó không rơi vào các giai vị nhị thừa.
Thực hành pháp chỉ nên “đắp y Như Lai” nhẫn nhục nhu hòa, thực hành pháp quán nên “ngồi tòa Như Lai”, có tâm từ bi nên “vào nhà Như Lai”.
Thực hành pháp chỉ, xa lìa lỗi lầm tức thành tựu phẩm đức dứt trừ phiền não (đoạn đức); thực hành pháp quán, không còn bám chấp tức thành tựu phẩm đức trí tuệ soi chiếu (trí đức); tâm từ bi lợi tha tức thành tựu phẩm đức ban ân giáo hóa khắp thảy chúng sanh (ân đức). Nhờ “ân đức” giúp thành tựu “trí đức”, nhờ trí đức có thể thông đạt “đoạn đức”.
Trên đây là nói về hạnh an vui của thân nghiệp. Ngoài ra, đối với lời nói (khẩu nghiệp), tâm ý (ý nghiệp) và thệ nguyện cũng đều như vậy.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Pháp Vương tử Văn-thù-sư-lợi thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Những vị Bồ Tát này thật vô cùng hiếm có, kính thuận ý Phật nên phát lời thệ nguyện lớn lao, trong đời xấu ác về sau sẽ bảo vệ giữ gìn, tụng đọc thuyết giảng kinh Pháp hoa này. Bạch Thế Tôn! Các vị Đại Bồ Tát trong đời xấu ác về sau làm thế nào để có thể thuyết giảng kinh này?”
Kinh văn phẩm này có 2 phần, thưa hỏi và giải đáp. Phần thứ nhất là thưa hỏi, trước tiên ngợi khen các vị Bồ Tát trong phẩm trước công hạnh sâu xa, có thể rộng truyền kinh điển như lời Phật dạy. Sau đó thưa hỏi về việc các vị Bồ Tát công hạnh còn non kém thì trong đời xấu ác về sau phải thuyết giảng truyền rộng kinh này như thế nào?
KINH VĂN
Đức Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi: “Nếu Đại Bồ Tát trong đời xấu ác về sau muốn thuyết giảng kinh này, nên trụ yên trong 4 pháp.
“Thứ nhất, trụ yên trong phạm vi thực hành và thân cận của hàng Bồ Tát thì có thể vì chúng sanh diễn giải, thuyết giảng kinh này.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là phạm vi thực hành của hàng Bồ Tát? Nếu vị Đại Bồ Tát trụ nơi giai vị nhẫn nhục,[28] luôn nhu hòa, khéo léo tùy thuận mà không hấp tấp thô bạo, trong lòng không sợ sệt, lại đối với các pháp không có chỗ làm, chỉ quán xét thấy đúng tướng như thật, cũng không thực hành sự không phân biệt, đó gọi là phạm vi thực hành của hàng Bồ Tát.”
Phần thứ hai là giải đáp, từ câu “Đức Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi…” trở đi, có 3 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nêu các phần trong 4 hạnh an vui. Tổng đoạn thứ hai là giải thích phương pháp tu hành. Tổng đoạn thứ ba nêu tổng quát tướng trạng thành tựu của các hạnh.
Tổng đoạn thứ nhất nêu các phần, ý nghĩa y theo kinh văn [có thể hiểu được].
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Thứ nhất, trụ yên trong phạm vi thực hành và thân cận của hàng Bồ Tát…” trở đi là giải thích phương pháp, tức là nói 4 pháp khác biệt, [chia ra 4 đoạn].
Đoạn thứ nhất lại có 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là giải thích phương pháp, thứ hai là kết lại thành tựu của công hạnh.
Tiểu đoạn thứ nhất nói phương pháp tu hành, gồm có kinh văn trường hàng và kệ tụng. Phần kinh văn trường hàng lại có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất từ câu “Thứ nhất, trụ yên …” trở đi, nêu phạm vi thực hành thân cận. Phân đoạn thứ hai từ câu “Này Văn-thù-sư-lợi!...” trở đi là giải thích phạm vi thực hành thân cận.
Phân đoạn thứ nhất nêu 2 vấn đề thực hành và thân cận, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Phân đoạn thứ hai, trong sự giải thích lại có 2 ý, tức là nêu chỗ thực hành (hành xứ) và chỗ thân cận (cận xứ).
Ý thứ nhất, có người nói chỗ thực hành ban đầu của các giai vị nội phàm[29] gọi là hành xứ; tu tập lâu ngày thuần thục, dần dần có thể đến gần lẽ thật nên gọi là cận xứ. Lập luận này viện dẫn việc thực hành cận quả trong phẩm trước làm tiền lệ để noi theo.
Có người nói hành xứ là dựa vào nhân tạo tác, cận xứ là dựa vào quả thành tựu. Hành xứ nêu trí tuệ, cận xứ nêu cảnh ngoài.
Ngài Đàm Dao nói rằng, [hàng Bồ Tát] từ giai vị thất trụ[30] trở lên, tâm thể nhập nơi thật lý, gọi là hành xứ, vì đã vượt qua sanh tử phần đoạn. Từ giai vị này trở về trước chưa đạt vô sanh, chưa [giác ngộ] hiện tiền, đang dần dần tiến đến gần với thật lý nên là cận xứ, cũng là sanh tử phần đoạn. Hai loại [hành xứ và cận xứ] này đều là chỗ thực hành ban đầu, nên đều xếp chung là một hạnh an vui.
Theo ý riêng tôi cho rằng,[31] lập luận của 2 vị trước[32] cho hành xứ là chỗ [thực hành] còn nông cạn hơn, nhưng kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Hàng Bồ Tát Thập địa còn dựa vào chỗ hành, cho nên thấy biết [tánh Phật] chưa rõ ràng.”[33] Như vậy thì biết là hành xứ không phải còn nông cạn. Lập luận sau đó của ngài Đàm Dao thì cho rằng cận xứ là nông cạn hơn, nhưng kinh Tịnh Danh nói [về các Đại Bồ Tát] là “đã đến gần trí tuệ tự tại của Phật không gì sánh bằng”,[34] như vậy tức là cận xứ ấy rốt lại rất sâu xa.
Nếu nói cả hai [cận xứ và hành xứ] đều sâu xa thì lại trở thành công hạnh sâu xa của các vị Bồ Tát [nhận lãnh việc] lưu thông truyền rộng kinh điển trong phẩm trước, không liên quan đến phương pháp [chỉ bày cho] hàng Bồ Tát mới phát tâm. Còn nếu nói cả hai đều nông cạn thì đó là chỗ thực hành của [hành giả trong] 7 hạng phương tiện, không liên quan đến phương pháp thực hành công hạnh viên mãn. Cho nên không thể thiên lệch dựa vào sự sâu xa hay nông cạn.
Tuy nhiên, hành tức là phát triển khuynh hướng, cận gọi là tự thân tu tập. Tu tập cho nên phát triển, phát triển cho nên tu tập, đâu có sự sâu xa hay nông cạn?
Lại nữa, chỗ thực hành và chỗ thân cận cũng là phương pháp [đã nói trong phẩm Pháp sư] ở trước. Hành xứ là “đắp y Như Lai”, cận xứ là “ngồi tòa Như Lai”, tòa và y đã không có sâu cạn, hành xứ và cận xứ làm sao lại có chỗ hơn kém?
Lại nữa, nhẫn nhục ắt trong lòng luôn hướng đến thật lý, trải qua ngoại duyên mà nhẫn chịu mọi việc, xem đó là chỗ thực hành. Ngồi tòa [Như Lai] muôn pháp đều không ắt thể đạt ngoại duyên mà dừng bặt nơi cảnh chân thật, xem đó là chỗ thân cận. Thế thì sự với lý cùng hỗ trợ cho nhau mà hiển hiện, làm sao có cạn với sâu?
Nhưng nếu đã như vậy thì tại sao lại phân biệt hành xứ với cận xứ? Thấu đạt lý[35] nhưng lược thuyết gọi là hành xứ, nương theo sự mà giảng rộng nên gọi là cận xứ. Thuyết giảng có rộng có lược, nhưng thật lý không có sâu cạn.
Nay lược nói 3 pháp để giải thích về hành xứ.
Thứ nhất là nêu tương duyên trực tiếp với một chân lý rốt ráo. Một chân lý rốt ráo là chỗ quy về của tất cả các pháp, là căn bản của tất cả mà cùng khắp không phân biệt.
1. Chỗ quy về của tất cả các pháp tức là nhẫn nhục địa. “Địa” là trung đạo, nơi các pháp quy về cho nên gọi là địa. Những chỗ thực hành đều dừng nghỉ nên gọi là nhẫn nhục. Đây tức là hạnh làm mà không làm.
2. Căn bản của tất cả pháp là cũng giống như muôn vật nhờ có đất mà sanh trưởng. Những chỗ thực hành đều do thấu đạt thật lý mà thành tựu. Nếu đạt đến cội nguồn của lý thì ở nơi cứng rắn có thể nhu hòa, ở nơi trái nghịch có thể đồng thuận, ở nơi bạo loạn có thể trị yên, ở nơi kinh sợ có thể an ổn. Vô lượng công đức đều từ nơi đất trung đạo mà sanh ra. Đất không sanh ra gì nhưng sanh công đức. Đây tức là hạnh không làm mà làm.
3. Cùng khắp không phân biệt tức là không phân biệt tướng trạng sai khác giữa làm với không làm, cho nên [kinh văn] nói “cũng không thực hành sự không phân biệt”. Đây tức là hạnh chẳng phải làm chẳng phải không làm.
Không có ba hạnh như trên mà đầy đủ ba hạnh, cho nên gọi là “hành”. Đồng nhất một chân lý rốt ráo cho nên gọi là “xứ”. Đúng như hành xứ này là tương hợp với kinh văn phẩm [Pháp sư ở] trước. Những chỗ thực hành đều dừng bặt, tương hợp với “đắp y Như Lai”, công đức theo đó sanh ra là tương hợp với “vào nhà Như Lai”, cùng khắp không phân biệt là tương hợp với “ngồi tòa Như Lai”. Đây gọi là vận dụng một pháp để giải thích hành xứ, cũng là phương pháp, nguyên tắc của việc lưu thông truyền rộng kinh điển.
Thứ hai là dựa vào 2 pháp [để giải thích], tức là 2 nhẫn: sanh nhẫn và pháp nhẫn, cũng tức là 2 không: sanh không và pháp không.
Hai không này khác với 2 không của hàng nhị thừa. Vì sao vậy? Vì nhân không và pháp không [của hàng nhị thừa] là dựa vào chân tục, giả thật. Nêu 2 không là 2 nhẫn, đều là thấy được trung đạo cho nên không đồng với nhị thừa.
Nếu lại mở rộng thêm thì là 4 nhẫn.[36] Nếu nói 5 nhẫn[37] thì [kinh văn nói] “khéo léo” tức là thêm tín nhẫn. Nếu nói 6 nhẫn[38] thì [kinh văn nói] “luôn nhu hòa” tức là thêm hòa tùng nhẫn. Nếu xét theo các giai vị [Bồ Tát] thì mở rộng ra đến 42 nhẫn. Mỗi một giai vị Bồ Tát còn có đủ công đức của 41 giai vị khác,[39] lẽ nào một nhẫn lại không có đủ 41 pháp nhẫn khác hay sao? Nay chỉ lược nói 4 nhẫn để hiểu ý nghĩa kinh văn, tức là phục nhẫn, thuận nhẫn, vô sanh nhẫn và tịch diệt nhẫn. Bốn nhẫn này so với [các pháp nhẫn của] Biệt giáo là khác biệt. Theo Biệt giáo thì phục nhẫn và thuận nhẫn thuộc về sanh nhẫn, tức còn nông cạn; vô sanh nhẫn và tịch diệt nhẫn thuộc về pháp nhẫn, tức là sâu xa. Nay theo Viên giáo thì sanh nhẫn, pháp nhẫn đều thông nên 4 nhẫn cũng thông. Vì sao vậy? Vì lý 2 không tức là trung đạo. Hàng Bồ Tát sơ trụ tu tập 4 nhẫn, thể nhập trung đạo thấy lý 2 không, cho đến các tâm về sau cũng là thấu đáo tột cùng lý 2 không đó. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Khi mới phát tâm cho đến tu tập rốt ráo, 2 tâm ấy không hề khác biệt.”
Nếu dựa vào lý không có cạn sâu mà phân biệt 4 nhẫn thì từ lúc mới phát tâm đến khi điều phục trọn vẹn 5 trụ địa phiền não,[40] cho đến lúc trụ Kim Cang đảnh, tất cả đều gọi là phục nhẫn.
Từ ban đầu cho đến về sau, tất cả đều không sai biệt với thật tướng nên gọi là thuận nhẫn.
Từ ban đầu cho đến về sau đều không khởi tâm phân biệt hai bên nên gọi là vô sanh nhẫn.
Từ ban đầu cho đến về sau đều dừng bặt mọi thực hành nên gọi là tịch diệt nhẫn.
Nghe việc sanh tử không vội vàng sanh tâm sợ khổ, nghe được Niết-bàn không vội vàng thể chứng sự vui. Nghe những việc như Phật là thường hoặc vô thường, nhị thừa có thể làm Phật hoặc không làm Phật; nghe sanh tử với Niết-bàn là khác nhau hoặc không khác, nghe con đường thành Phật lâu dài hay ngắn ngủi, khó khăn hoặc dễ dàng, hoặc không dài không ngắn, không khó không dễ... cũng đều không kinh hãi sợ sệt.
Thực hành hạnh như thế là từ ban đầu cho đến sau cuối đều vận dụng lý 2 không, sanh không và pháp không, để nhẫn chịu các pháp, tức là “đắp y Như Lai”; trụ yên trong lý nhị không tức là “ngồi tòa Như Lai”; thương xót hết thảy chúng sanh tức là “vào nhà Như Lai”.
Hai pháp không, bốn pháp nhẫn gọi là “hành”, thật lý tức là “xứ”. Đây gọi là dựa vào 2 pháp để giải thích hành xứ, cũng là phương pháp, nguyên tắc của việc lưu thông truyền rộng kinh điển.
Thứ ba là dựa theo ba pháp [để giải thích]. Ba pháp tức là ba chân đế không thể nghĩ bàn: [giả đế, không đế và trung đế]. Trụ nơi giai vị nhẫn nhục để luận khái quát về ba chân đế cũng giống như đứng vững vàng trên mặt đất, rồi mới có thể thực hành nhẫn nhục.
“Nhu hòa, khéo léo tùy thuận” là nói khéo léo tùy thuận chân đế nên có thể nhẫn chịu những điều hư vọng như [2 loại phiền não:] kiến phiền não và ái phiền não,[41] [cùng những điều không thích ý như] lạnh, nóng v.v. Do vậy nên nói là “khéo léo tùy thuận”.
“Mà không hấp tấp thô bạo” là nói tâm không kinh sợ, trụ yên nơi chân lý thế tục mà nhẫn chịu các căn duyên [trái nghịch], ứng phó thích hợp tùy cơ nghi, cho nên nói là “không hấp tấp thô bạo”. Đặt mình vào chỗ nhẫn chịu mọi điều thuận nghịch cho nên tâm không kinh sợ.
“Đối với các pháp không có chỗ làm…” tức là trụ yên nơi chân lý trung đạo, có thể nhẫn chịu được sự thiên lệch về 2 bên, cho nên nói là “không có chỗ làm”. Trụ yên đúng nơi trung đạo cho nên nói là “chỉ quán xét thấy đúng tướng như thật”, nhưng không bám giữ chỗ trung đạo ấy, cho nên nói là “cũng không thực hành sự không phân biệt”.[42]
Giải thích như trên là dựa vào “mặt đất” 3 chân đế: [giả đế, không đế và thật đế] nên gọi là “xứ”; nhẫn chịu sự khổ nhục của 5 trụ địa phiền não nên gọi là “hành”.
“Hành” [với nghĩa thực hành] lại có 3 loại, tức là nói thực hành pháp chỉ, đó là hạnh làm mà không làm; thực hành pháp quán, đó là hạnh chẳng phải làm chẳng phải không làm; thực hành từ bi, đó là hạnh không làm mà làm. Những ý nghĩa này tương hợp với [kinh văn trong phẩm Pháp sư] phần trước nói về các nghĩa “đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, vào nhà Như Lai”.
Đây là vận dụng 3 pháp để giải thích về hành xứ, nêu rõ phương pháp, nguyên tắc lưu thông truyền rộng kinh điển.
Long sư giải thích rằng: “Trụ nơi giai vị nhẫn nhục” là nói chung sanh nhẫn và pháp nhẫn, tiếp theo nêu riêng về 2 loại nhẫn này. “Nhu hòa, khéo tùy thuận” là nêu thân nghiệp; “mà không hấp tấp thô bạo” là nêu khẩu nghiệp; “trong lòng không sợ sệt” là nêu ý nghiệp. Đây là nêu 3 nghiệp để nói về tu tập sanh nhẫn. “Đối với các pháp không có chỗ làm”, là nói không thực hành pháp “hữu tướng”; “chỉ quán xét thấy đúng tướng như thật”, là nói thực hành pháp “không” bình đẳng; “cũng không thực hành sự không phân biệt”, là nói không thực hành pháp “vô tướng”. [Như vậy] có và không đều mất nên lãnh hội được trung đạo. Ba câu này là nói việc tu tập pháp nhẫn. Đạt được 2 loại nhẫn này, kết lại là “hành xứ”.
Cách giải thích này nêu sanh nhẫn và pháp nhẫn nhưng không biết là nói theo giáo pháp nào? Nếu là 2 nhẫn theo Tạng giáo thì hoàn toàn không phải nghĩa của Pháp hoa, còn nếu nói theo Viên giáo thì lẽ ra không nên có sự cách biệt chẳng dung thông. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
“Thế nào gọi là phạm vi thân cận[43] của hàng Bồ Tát?
“Vị Đại Bồ Tát không thân cận với hàng vua chúa, con vua, đại thần, tướng quân;[44] không thân cận với hàng ngoại đạo xuất gia cũng như tại gia,[45] cùng những người viết văn chương thế tục, ca ngâm tán vịnh thế gian;[46] những kẻ luyện chú thuật thế tục hoặc nghiên tầm triết lý thế gian;[47] cũng không thân cận những kẻ chơi trò hung hiểm đâm nhau, đánh nhau,[48] cùng những kẻ diễn trò nhảy múa,[49] biểu diễn ảo thuật biến hóa;[50] cũng không thân cận hạng chiên-đà-la, những người làm nghề ác hại như nuôi súc vật heo, dê, gà, chó, những người săn bắn, đánh cá…[51] Những người như trên nếu có lúc tìm đến thì Bồ Tát vì họ thuyết pháp nhưng không mong cầu gì.
“Lại không thân cận hàng Thanh văn tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, hàng cư sĩ nam, cư sĩ nữ,[52] cũng không tới lui thăm hỏi. Dù trong phòng ốc hay nơi kinh hành, hoặc trong giảng đường, đều không ở chung với những người này. Nếu có khi họ tìm đến thì Bồ Tát vì họ thuyết pháp nhưng không mong cầu gì.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ Tát đối với thân thể người nữ không vì đó là tướng có thể làm khởi sanh ý tưởng tham dục nên thuyết pháp cho họ, cũng không ưa thích ngắm nhìn.
“Nếu vào nhà người khác, không cùng trò chuyện với thiếu nữ, phụ nữ chưa chồng hoặc phụ nữ góa chồng; cũng không gần gũi thân thiết với năm loại đàn ông không đủ nam tính.[53]
“Đại Bồ Tát không một mình vào nhà người khác. Nếu có nhân duyên cần phải vào thì trong lúc ấy một lòng chú tâm niệm Phật.
“Nếu vì phụ nữ thuyết pháp thì không cười để lộ răng, không lộ ngực trần. Đó là vì pháp mà còn không thân thiết sâu đậm, huống chi là với những việc khác.
“Bồ Tát không ưa thích nuôi dưỡng đệ tử nhỏ tuổi, sa-di, trẻ con, cũng không thích theo học cùng thầy.
“Bồ Tát thường ưa thích ngồi thiền ở nơi vắng vẻ, tu tập nhiếp phục tâm mình.
“Văn-thù-sư-lợi! Như vậy là phạm vi thân cận thứ nhất của hàng Bồ Tát.
Ý thứ hai từ câu “Thế nào gọi là phạm vi thân cận…”, giải thích về cận xứ. Kinh văn phần này có 3 tiểu ý. Thứ nhất, nêu 10 điều gây phiền não rối loạn nên lìa xa, tức là nêu xa để luận nghĩa “gần”, cũng là dựa vào tu học giới để trợ giúp cho pháp quán. Thứ hai, nói “tu tập nhiếp phục tâm” tức là nêu gần để luận nghĩa “gần”, cũng là dựa vào tu học định để trợ giúp cho pháp quán. Thứ ba, nói “quán xét hết thảy các pháp đều là không”, tức là nêu chẳng phải gần chẳng phải xa để luận nghĩa “gần”, cũng là dựa vào tu học trí tuệ để trợ giúp cho pháp quán.
Tiểu ý thứ nhất, kinh văn phần trước nêu lý tương duyên trực tiếp trụ nơi giai vị nhẫn nhục, phần này nói rộng việc tu tập giới, nêu rõ các ngoại duyên thấp hèn nên lìa xa. Không nắm giữ dao gậy cũng không vất bỏ, chỉ dùng trí tuệ chân chánh mà xa lìa. Nên biết rằng, nêu xa để luận nghĩa “gần” tức là nói rộng hạnh làm mà không làm ở phần trước.
Tiểu ý thứ hai, kinh văn phần trước nói “không hấp tấp thô bạo, trong lòng không sợ sệt”, phần này nói rộng việc tu tập định, nêu rõ chỗ tu định, tinh yếu của việc tu định. Nhờ có sức định nên ở nơi rối rắm thô bạo mà được yên ổn, ở nơi đáng sợ mà được an lành. Nên biết rằng, nêu gần để luận nghĩa “gần” tức là nói rộng hạnh không làm mà làm ở phần trước.
Tiểu ý thứ ba, kinh văn phần trước nói thẳng là “không có chỗ làm”, phần này nói rộng ra “quán xét hết thảy các pháp đều là không”, trải qua trọn vẹn hết thảy các cảnh giới, không có hạn lượng, không có tận cùng, không ngăn ngại, không che chướng. Nên biết rằng, nêu chẳng phải xa chẳng phải gần để luận nghĩa “cận” tức là nói rộng hạnh chẳng phải làm chẳng phải không làm ở phần trước.
Tóm lại trong tiểu ý thứ nhất có 10 điều nên xa lìa:
- Thứ nhất là nên xa lìa những kẻ có quyền thế, giàu có.
- Thứ hai là nên xa lìa người theo tà đạo, pháp của tà đạo.
- Thứ ba là nên xa lìa những kẻ chơi trò hung hiểm.
- Thứ tư là nên xa lìa hạng chiên-đà-la.
- Thứ năm là nên xa lìa hàng nhị thừa.
- Thứ sáu là nên xa lìa tư tưởng tham dục.
- Thứ bảy là nên xa lìa hạng đàn ông không đủ nam tính.
- Thứ tám là nên xa lìa những nơi dễ gây nguy hại [cho sự tu tập].
- Thứ chín là nên xa lìa những kẻ ganh ghét đố kỵ với người có tâm lành.
- Thứ mười là nên xa lìa những người nuôi súc vật vì lợi ích.
Giải thích về Phạn ngữ lộ-già-da-đà (lokayāta),[54] Hán dịch là “ác luận”, cũng dịch là “phá luận”. Nghịch lộ-già-da-đà (vāmalokayāta) tức là trái nghịch với [luận thế gian, nghĩa là] đạo nghĩa vua tôi, cha con. Lại nữa, “lộ” là khéo biện luận, cũng gọi là thầy chế phục được đệ tử; “nghịch lộ” là biện luận xấu ác, cũng gọi là đệ tử luận giải ngược với thầy.
Phạn ngữ na-la (naṭa)[55] chỉ hạng người nhảy múa giúp vui, cũng gọi là người hóa trang với nhiều màu sắc, thân thể biến đổi hình dạng kỳ lạ [để làm diễn trò], lại cũng chỉ chung những người làm xiếc khéo léo nhào lộn trên cao.
Mười điều nên xa lìa như nói trên lại phân ra thành 2 nhóm, 9 điều thuộc trong sanh tử thế gian và 1 điều là Niết-bàn [nhị thừa]. Xa lìa cả 2 tức là tên gọi khác của tịch diệt.
Theo quán tâm cũng có cách giải thích khác về 10 điều nên xa lìa. Đại lược là như vậy.
Ý thứ hai về chỗ nên thân cận có 3 tiểu ý… Đại lược là như thế.[56]
KINH VĂN
“Lại nữa, Đại Bồ Tát quán xét hết thảy các pháp đều là không, thấy rõ tướng như thật, không điên đảo, không dao động, không thối thất, không lay chuyển, giống như hư không, không có tánh sở hữu,[57] vượt ngoài khả năng diễn đạt của ngôn từ,[58] không sanh, không xuất, không khởi, không tên gọi, không hình tướng, thật không hiện hữu, không thể đo lường, không giới hạn, không ngăn ngại, không che chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ nơi điên đảo khởi sanh cho nên nói là có. Thường ưa thích quán xét tướng pháp như vậy, đó gọi là phạm vi thân cận thứ hai của hàng Bồ Tát.”
Tiểu ý thứ ba nêu nghĩa chẳng phải xa chẳng phải gần, kinh văn có 3 điều. Thứ nhất là nêu tổng quát việc trí tuệ soi chiếu cảnh giới; thứ hai là giải thích cụ thể; thứ ba là kết lại sự thành tựu.
“Quán xét” là dùng trí tuệ trung đạo để quán xét; “hết thảy các pháp” là cảnh giới của 10 pháp giới. Nếu chỉ luận riêng về trí thì tự thân trí không phải đối tượng của sự quán xét, cho nên nêu lên “hết thảy các pháp” để hiển bày rõ tất cả đều là không.
“Như thật” là giải thích cụ thể, nhị biên[59] với tam đế[60] không đồng nhất cũng không khác biệt nên gọi là “như”; không thuộc về 7 hạng phương tiện nên gọi là “thật”. Lấy chân thật làm tướng nên gọi là “tướng như thật”.
“Không điên đảo” là nói không có 8 sự điên đảo;[61] “không dao động” là nói không bị 2 loại sanh tử phần đoạn và sanh tử biến dịch làm cho dao động; “không thối thất” là nói tâm thường tịch diệt, thể nhập biển trí tuệ Phật.[62]
“Không lay chuyển” là nói không giống như phàm phu lưu chuyển trong sanh tử, cũng không giống như hàng nhị thừa chuyển từ phàm lên thánh.
“Giống như hư không” là nói [hết thảy các pháp] chỉ là tên gọi, mà tên gọi thì không thể nắm bắt; cho đến trí tuệ trung đạo quán xét cũng chỉ là tên gọi, cầu không thể được.
“Không có tánh sở hữu” là nói [hết thảy các pháp] không thể tự sanh, không thể do pháp khác sanh, không do tự thể hòa hợp với pháp khác mà sanh, cũng không phải không có nhân mà sanh.[63]
“Vượt ngoài khả năng diễn đạt của ngôn từ” nghĩa là không thể nghĩ bàn; “không sanh” là nói mọi nghi hoặc, trí, lý đều không sanh; “không xuất” là nói những gì Như Lai đã điều phục không bao giờ phát khởi lại;[64]
“Không khởi” là nói hết thảy phương tiện đều vắng lặng diệt mất; “không tên gọi” là không thể dùng danh xưng để gọi tên; “không hình tướng” là hết thảy hình tướng đều không thể biểu hiện [tướng thật].
“Thật không hiện hữu” là nói không hiện hữu [theo 2 nghĩa bám chấp] nơi có hoặc không; “không thể đo lường” là không thuộc về pháp toán số; “không giới hạn” là không có phương hướng, vị trí; “không ngăn ngại, không che chướng” là ở khắp mọi nơi.
“Chỉ do nhân duyên mà có” là nói tóm kết lại [các ý nghĩa trước].
Như trên đã nêu qua về trí tuệ quán xét theo trung đạo, bây giờ sẽ nêu rõ nghĩa cùng lúc quán xét soi chiếu hai bên đối đãi.
Lại nữa, tánh lý rốt ráo thanh tịnh, không phải giải thoát, không phải mê hoặc, nhưng từ nhân duyên mê hoặc mà sanh ra sanh tử, từ nhân duyên giải thoát mà sanh ra Niết-bàn.
Lại nữa, “do nhân duyên mà có” là có nơi Niết-bàn; “từ nơi điên đảo khởi sanh” là sanh nơi sanh tử. Như vậy tức là làm rõ ý nghĩa cùng lúc soi chiếu vậy [hai bên đối đãi].
“Thường ưa thích quán xét tướng pháp như vậy”, tức là quán xét các pháp theo 3 chân đế.[65] Lại nữa, “chỉ do nhân duyên mà có, từ nơi điên đảo khởi sanh” là tóm kết lại cảnh giới không thể nghĩ bàn của 3 chân đế; “cho nên nói là” tức là nói giáo pháp không thể nghĩ bàn. “Thường ưa thích quán xét” là tóm kết về 3 pháp quán [không, giả và trung] không thể nghĩ bàn.
Lại nữa, “quán xét hết thảy các pháp đều là không, thấy rõ tướng như thật” là nêu thể của quán; từ câu “không điên đảo” trở đi là 9 điều nêu tướng của quán.
Không bị 8 sự điên đảo đối đãi hai bên[66] làm dao động, nên gọi là “không điên đảo, không dao động”. Không rơi vào các giai vị của hàng nhị thừa và phàm phu nên nói là “không thối thất, không lay chuyển”. Đây là 2 điều nêu công dụng của trí.
Lý không thuộc về tương lai nên “không sanh”, không thuộc về quá khứ nên “không xuất”, không thuộc về hiện tại nên “không khởi”.
Luận Đại Trí độ, quyển 51 nói: “Như hư không, không có các tướng vào, ra hay trụ lại.”[67] Luận Nhiếp Đại thừa cũng nói như vậy: “Không có chỗ đi vào trong tương lai, không có chỗ hiện ra trong quá khứ, không có chỗ trụ lại trong hiện tại.” Luận Đại Trí độ, quyển thứ 43 nói: “Về phía nhân không khởi nên gọi là ‘không xuất’, về phía duyên không khởi nên gọi là ‘không sanh’.”[68]
Phần này nêu tất cả 19 điều. Điều trước tiên là nêu tổng quát và 18 điều sau là tương hợp với 18 pháp không trong Đại phẩm Bát-nhã.
“Tướng như thật” tức là đệ nhất nghĩa không;[69] “không điên đảo” tức là nội không,[70] vì bên trong không có 6 nhập, không có ta và vật của ta nên không điên đảo; “không dao động” tức là ngoại không,[71] vì bên ngoài không bị 6 trần cảnh làm cho dao động.
“Không thối thất” tức là nội ngoại không,[72] vì 12 nhập đều không nên nói là không thối thất; “không lay chuyển” tức là không không,[73] vì không này phá trừ các pháp, các pháp là bị phá, không này có công năng phá, [cuối cùng] các pháp đều không tồn tại, chỉ còn lại không, nhưng không này lại cũng là không, cho nên nói là không không; không đã là không thì không còn có thể lay chuyển, cho nên nói là không lay chuyển; “giống như hư không” tức là đại không,[74] vì phá sự bám chấp vào không nên nói là giống như hư không.[75]
“Không có tánh sở hữu” tức là tất cánh không,[76] các pháp rốt cùng chẳng còn lại gì, nên gọi là tất cánh không; vì rốt cùng chẳng còn gì cho nên không có tánh sở hữu; “vượt ngoài khả năng diễn đạt của ngôn từ” tức là nhất thiết không,[77] vì hết thảy đều không nên không thể dùng lời diễn nói, cho nên vượt ngoài khả năng diễn đạt của ngôn từ; “không sanh” tức là hữu vi không;[78] pháp hữu vi là do nhân duyên hòa hợp mà có, nếu đã không hòa hợp tức là không sanh.
“Không xuất” tức là vô vi không;[79] “vô” là rời khỏi, xa lìa; rời khỏi, xa lìa pháp không cho nên gọi là không xuất; “không khởi” tức là vô thủy không;[80] không thể tìm được đến chỗ ban sơ, cho nên là không khởi; “không tên gọi” tức là tánh không,[81] ý nghĩa này có thể hiểu được [không cần giảng giải].
“Không hình tướng” tức là tướng không;[82] “thật không hiện hữu” tức là bất khả đắc không;[83] “không thể đo lường” tức là hữu pháp không;[84] có pháp tức là có thể đo lường, sự đo lường đã là không cho nên nói là không thể đo lường.
“Không giới hạn” tức là vô pháp không;[85] vô pháp là giới hạn bên ngoài, nay đã là không nên không có giới hạn; “không ngăn ngại” tức là vô pháp hữu pháp không;[86] cả hai pháp [hữu, vô] đều không thể nắm bắt, cho nên nói là không ngăn ngại; “không che chướng” tức là tán không,[87] không thể ngăn che chướng ngại được cho nên nói là không che chướng.
Mười tám pháp không đều là trí tuệ trung đạo chân chánh, đều gọi là không, nhưng tùy theo 18 loại hoàn cảnh khác nhau cho nên nói có 18 pháp.
Kinh Đại Bát Niết-bàn nói “Như Lai thường tu 18 nghĩa không”, cho nên dùng 18 nghĩa không để giải thích 18 điều [nêu trong kinh văn].
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
Nếu có hàng Bồ Tát,
Đời xấu ác về sau,
Với tâm không sợ sệt,
Muốn thuyết giảng kinh này.
Phần kệ tụng có 28 khổ và 3 câu kệ, chia làm 3 phân đoạn. § Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nêu khái quát vấn đề. Phân đoạn thứ hai gồm 22 khổ kệ, tụng về sự tu tập các hạnh [an vui]. Phân đoạn thứ ba gồm 5 khổ và 3 câu kệ nêu sự thành tựu các hạnh [an vui].
Trong kinh văn trường hàng thì hành xứ và cận xứ được giải thích riêng, nay trong kệ tụng thì hợp chung lại để tụng. Đây tức là ý nghĩa diễn đạt như nhau nhưng vận dụng mở ra, hợp lại để hỗ trợ cho nhau hiển bày. Việc giải thích mở rộng và tóm lược bổ sung cho nhau nên có thể y cứ.
Kinh văn trường hàng ở trước giải thích về hành xứ và cận xứ, mỗi phần đều có 3 ý, nay phần kệ tụng hợp lại để nói, không theo đúng thứ tự như trước.
KINH VĂN
Nên vào chỗ thực hành,
Cùng với chỗ thân cận.
Thường xa lìa vua chúa,
Cùng những người con vua,
Hàng đại thần, quan chức,
Kẻ chơi trò hung ác,
Hoặc người chiên-đà-la,
Những Phạm chí ngoại đạo.
Lại cũng không thân cận,
Những kẻ tăng thượng mạn,
Tham chấp theo Tiểu thừa,
Học suông Kinh, Luật, Luận.
Những tỳ-kheo phá giới,
A-la-hán giả danh,
Cùng những tỳ-kheo-ni,
Ưa đùa giỡn bỡn cợt,
Đắm sâu năm món dục,
Cầu diệt độ hiện đời,
Với các ưu-bà-di,
Cũng đừng nên gần gũi.
Nếu những người như trên,
Với tâm lành tìm đến,
Chỗ Bồ Tát tu tập,
Vì muốn nghe Phật pháp.
Bồ Tát liền vì họ,
Khởi tâm không sợ sệt,
Cũng không có mong cầu,
Chỉ như pháp thuyết pháp.
Nữ góa chồng, chưa chồng,
Nam không đủ nam tính,
Đều tránh không gần gũi,
Không thân thiết sâu đậm.
Lại cũng không thân cận,
Kẻ giết mổ bán thịt,
Hoặc săn bắn, đánh cá,
Vì lợi mà giết hại
Bán thịt để mưu sinh,
Hạng bán sắc buôn hương,
Hết thảy người như vậy,
Đều không nên thân cận.
Kẻ hung ác đánh nhau,
Làm trò để mua vui,
Hoặc những gái bán dâm,
Thảy đều không thân cận.
Không một mình chỗ vắng,
Thuyết pháp cho nữ nhân,
Nếu đủ duyên thuyết pháp,
Thì không được cười đùa.
Vào xóm làng khất thực,
Đi cùng tỳ-kheo khác,
Nếu phải đi một mình,
Thì chuyên tâm niệm Phật.
Phép tắc trên gọi là,
Chỗ thực hành, thân cận.
Trụ yên hai chỗ này,
Được an vui thuyết pháp.
[Phân đoạn thứ hai chia làm 2 ý.] Ý thứ nhất từ câu “Nên vào chỗ thực hành” trở đi, gồm 14 khổ kệ, tụng về những việc nên xa lìa và nên thân cận. Kinh văn phần trước nêu 10 điều nên xa lìa, kệ tụng có lược bớt và không theo đúng thứ tự như trước, so sánh kinh văn có thể thấy được. Phần này cũng là tụng về việc người trụ nơi 2 pháp không mà thực hành công hạnh, nhận hiểu theo ý nghĩa cũng tức là bao gồm 3 tiểu ý nói về chỗ thân cận, cho nên kệ tụng nói “phép tắc trên gọi là, chỗ thực hành, thân cận”, tức là nói đủ hành xứ, cận xứ.
“Thường lìa xa vua chúa”, vì tỳ-kheo thân cận vua chúa [phải chịu ảnh hưởng xấu của] 10 điều không đúng chánh pháp. Thứ nhất, có kẻ âm mưu giết vua. Thứ hai, vua giết [oan] quan đại thần. Thứ ba, người giữ kho vua để mất báu vật. Thứ tư, cung nữ [dâm loạn] mang thai. Thứ năm, vua bị trúng độc. Thứ sáu, các quan đại thần ganh ghét tranh giành nhau. Thứ bảy, xảy ra chiến tranh với nước khác. Thứ tám, vua keo kiệt không bố thí giúp dân. Thứ chín, vua vơ vét của dân. Thứ mười, xảy ra nhiều dịch bệnh.
Vị tỳ-kheo vốn thường thực hành chú nguyện, khi có 10 việc xấu như trên xảy ra, hết thảy mọi người dân đều cho rằng đó là do vị tỳ-kheo [ở gần đức vua] gây ra, cho nên sẽ chê bai phỉ báng vị tỳ-kheo, tức là phỉ báng Chánh pháp, phỉ báng Phật. Do vậy đức Phật không cho phép tỳ-kheo thân cận các vị vua chúa.
“Những Phạm chí ngoại đạo.” Kinh Ma-đăng-già nói: “Ban sơ có người tên là Phạm Thiên, tạo ra 1 bộ luận Vi-đà.[88] Sau đó có người tên Bạch Tịnh biến đổi 1 bộ này thành 4 bộ, thứ nhất là Vi-đà xưng tụng khen ngợi, thứ hai là Vi-đà cúng tế, thứ ba là Vi-đà ca vịnh, thứ tư là Vi-đà cầu nguyện trừ tai ách. Mỗi bộ này đều có 320.000 bài kệ, hợp thành 1.280.000 bài kệ, chia ra 1.700 quyển. Sau đó có người tên là Phất-sa, có 25 người đệ tử, mỗi người đều có khả năng phân biệt giảng rộng bộ Vi-đà này, nên thành ra có 25 bộ Vi-đà. Kế tiếp lại có người tên là Anh Vũ, biến đổi 1 bộ Vi-đà thành ra 18 bộ. Tiếp theo có người tên là Thiện Đạo, có 21 người đệ tử, lại biến đổi thành 21 bộ Vi-đà. Như vậy dần dần biến thành 1.206 bộ Vi-đà.”[89]
[Lại có] luận Tỳ-đà, Hán dịch là Trí luận, do Bà-da-sa làm ra, gồm có 4 nội dung. Thứ nhất là Tỳ-đà Tín lực, nói việc thờ lửa để tiêu trừ tội lỗi. Thứ hai là Tỳ-đà Da-thụ, nói việc cúng dường bà-la-môn được phước. Thứ ba là Tỳ-đà Sa-ma, nói về phương cách tạo ra sự hòa hợp giữa 2 nước. Thứ tư là Tỳ-đà A-đà-bà, nói về các phương pháp chiến đấu. Những kẻ đọc qua 4 bộ luận này tự xưng là người có trí biết được hết thảy mọi việc.
[Lại có] luận Tỳ-già-la, Hán dịch là Ký luận, do Bà-ni-ni làm ra, nói về các loại kinh sách [thế gian] cùng các vấn đề về ngôn ngữ.[90]
[Lại có] luận Vệ-thế-sư,[91] do Ưu-lưu-khư[92] làm ra, Hán dịch là luận Tối thắng, ra đời được 800 năm, nói về 6 cú nghĩa.[93]
[Lại có] luận Ca-tì-la,[94] Hán dịch là Hoàng đầu, cũng gọi là Quy chủng. Khi làm ra tên là luận Tăng-khư,[95] Hán dịch là Vô đảnh. Vì dựa theo tên người tạo luận [là Ca-tì-la] cho nên gọi là luận Ca-tì-la, nói về 25 yếu tố.[96]
“Tham chấp theo Tiểu thừa, học suông Kinh, Luật, Luận.” Khi đức Phật ở thành Ba-la-nại, lần đầu tiên vì 5 người mà thuyết dạy Khế kinh, tức là tạng Tu-đa-la; khi Phật ở thành La-duyệt-kỳ, lần đầu tiên vì Tu-na-đề thuyết giảng tạng Tỳ-ni; khi Phật ở hồ Mi Hầu tại thành Tỳ-xá-ly, lần đầu tiên vì Bạt-kỳ tử thuyết giảng tạng A-tỳ-đàm.[97] 500 vị A-la-hán trong đêm đầu tiên kết tập tạng A-tỳ-đàm rồi tiếp tục đến tạng Luật, rồi đến tạng Kinh.[98] Đây là những điều học theo Tam tạng.
“Đắm sâu năm món dục.” Nói về tướng trạng dâm dục thì người trong 4 cõi thiên hạ, loài rồng, a-tu-la cho đến Tứ thiên vương, [khi nam nữ hành dâm] đều đưa dục căn đến với nhau. Cõi trời Đao-lợi thì chư thiên khi hành dâm xuất ra hơi gió.[99] Cõi trời Diễm-ma thì chư thiên hành dâm bằng cách đến gần ôm nhau.[100] Cõi trời Đâu-suất thì chư thiên hành dâm bằng cách nắm tay nhau.[101] Ở cõi trời Hóa lạc, chư thiên khi hành dâm thì nhìn nhau cười.[102] Cõi trời Tha hóa tự tại thì chư thiên khởi tâm niệm là hành dâm.[103] Những cõi trời trên nữa đều đã lìa khỏi sự dâm dục.[104]
“Nữ góa chồng, chưa chồng.” Ngài A-nan thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ rồi, [hàng tỳ-kheo] khi gặp phụ nữ nên [ứng xử] như thế nào?” Đức Phật dạy rằng: “Không nên cùng họ gặp gỡ. Nếu như phải gặp gỡ thì đừng cùng họ trò chuyện. Nếu như phải cùng họ trò chuyện thì trong lúc đó hãy chuyên tâm niệm Phật.”
“Nam không đủ nam tính.” Những người này [tiếng Phạn gọi là paṇḍakāḥ, phiên âm] là ban-trá, Hán dịch là hoàng môn, là những người tuy có hình dạng nam căn nhưng không thể quan hệ nam nữ như người bình thường.[105]
“Vào xóm làng khất thực.” Kinh Tạp A-hàm nói: “Có một con dê đến chỗ đống phân ăn no, rồi quay trở lại với bầy dê, lên mặt cao ngạo nói rằng ‘ta đã được món ăn ngon’. Tỳ-kheo [không khéo tu tập] cũng giống như vậy, [khi khất thực] nhận được 4 nhu cầu thiết yếu[106] rồi thì khởi tâm đắm nhiễm tham muốn, không biết thoát ra. Nếu xin không được thì ôm lòng mơ tưởng mong muốn, nếu xin được rồi thì đối với các tỳ-kheo khác sanh tâm cao ngã ngạo, chê bai khinh miệt, nói rằng ‘như ta mới được [cúng dường], bọn họ không được cúng dường’. Như vậy tức là tỳ-kheo đi khất thực như con dê kia.
“Chúa sư tử [đi săn mồi] gặp con thú lớn liền bắt lấy ăn, không nếm trước, không tham đắm, gặp con thú nhỏ cũng bắt lấy ăn, không chê bai, không khinh thường. Vị tỳ-kheo [khéo tu tập] cũng giống như vậy, [khi khất thực] nhận được sự cúng dường 4 nhu cầu thiết yếu rồi không khởi tâm đắm nhiễm tham muốn, tự biết thoát ra. Nếu không được cúng dường lợi dưỡng cũng không khởi niệm tán loạn, trong tâm không có gì tăng giảm. Như vậy tức là tỳ-kheo đi khất thực như chúa sư tử.”[107]
Khi đi khất thực phải luôn ghi nhớ trong lòng 4 việc, chia ra trước sau thành 8 lần, nêu thành 8 sự tinh tấn hay 8 sự giải đãi.
Thứ nhất, trước khi đi khất thực, trong lòng luôn nhớ nghĩ rằng: “Vì sự tu tập đạo [nên cần xin thức ăn] để giúp trừ căn bệnh đói.” Khi khất thực tuy chưa được thức ăn cũng không từ bỏ tâm niệm tu hành. Thứ hai, khi khất thực đã được thức ăn rồi, lại vì muốn báo ân nên vẫn không ngừng nhớ nghĩ đến đạo pháp. Trước và sau [khi đi khất thực] đều luôn như vậy, ngày càng thêm tinh tấn, [tức là 2 sự tinh tấn].
Đối với 3 nhu yếu khác [là y phục, chỗ ở và thuốc men trị bệnh thì trước và sau khi xin được] cũng [luôn nhớ nghĩ] như vậy, [tức là 8 sự tinh tấn]. Ngược lại 8 sự tinh tấn này thì gọi là 8 sự lười nhác.
Kinh Bảo vân nêu việc khất thực nên chia làm 4 phần, một phần cúng dường các bậc đồng tu,1 một phần thí cho những người cùng khổ đi xin ăn,2 một phần thí cho quỷ thần, còn một phần để tự mình ăn.3
KINH VĂN
Không phân biệt thực hành,
Các pháp thượng, trung, hạ,
Hữu vi hoặc vô vi,
Pháp thật hay không thật,
Lại cũng không phân biệt,
Đây là nam, là nữ,
Không nắm bắt các pháp,
Không thấy cũng không biết,
Được như thế gọi là,
Chỗ thực hành Bồ Tát.
Quán xét hết thảy pháp,
Là không, không thật có,
Không có sự thường còn,
Cũng không khởi, không diệt,
Đó là chỗ thân cận,
Của bậc có trí tuệ.
Người điên đảo phân biệt,
Các pháp thành có, không,
Là thật, chẳng phải thật,
Là sanh, chẳng phải sanh.
Bồ Tát nơi vắng vẻ,
Tu tập nhiếp phục tâm,
Trụ yên không dao động,
Như núi chúa Tu-di.
Quán hết thảy các pháp,
Vốn đều không thật có,
Chỉ đồng như hư không,
Chẳng có gì bền chắc.
Không sanh, không xuất hiện,
Không động, không thối lui,
Chỉ một tướng thường trụ,
Gọi là chỗ thân cận.
Ý thứ hai từ câu “Không phân biệt thực hành” trở đi gồm 8 khổ kệ, tụng về lẽ chẳng phải xa chẳng phải gần và nêu chỗ xa gần.
KINH VĂN
Nếu có tỳ-kheo nào,
Sau khi Phật nhập diệt,
Thể nhập chỗ thực hành,
Cùng với chỗ thân cận,
Để thuyết giảng kinh này,
Thì không hề khiếp nhược.
Khi một vị Bồ Tát,
Vào am thất vắng lặng,
Dùng ý niệm chân chánh,
Quán xét pháp đúng nghĩa.
Rồi ra khỏi thiền định,
Vì các vị vua chúa,
Con vua hoặc dân thường,
Hoặc các bà-la-môn,
Mở bày và diễn giải,
Thuyết giảng bộ kinh này,
Tâm vị ấy an ổn,
Không có sự khiếp nhược.
Này Văn-thù-sư-lợi!
Đó gọi là Bồ Tát,
Trụ nơi pháp thứ nhất,
Có thể trong đời sau,
Thuyết giảng kinh Pháp hoa.
Phân đoạn thứ ba từ câu “Nếu có tỳ-kheo nào” trở đi, gồm 5 khổ và 3 câu kệ, nói về sự thành tựu công hạnh, lại chia thành 3 ý.
Ý thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu sự thành tựu công hạnh. Thành tựu về sự thì không để mất oai nghi bên ngoài; thành tựu về lý thì trong tâm không ngưng trệ, cho nên nói là “thì không hề khiếp nhược”.
Ý thứ hai gồm 3 khổ kệ, từ câu “Khi một vị Bồ Tát” trở đi, nói việc thành tựu công hạnh nên được an vui.
Ý thứ ba gồm 1 khổ và 1 câu kệ, tụng lại ý nghĩa tổng kết trong kinh văn trường hàng.
Từ câu “khi một vị Bồ Tát, vào am thất vắng lặng” là giải thích về nhân tạo ra sự an vui. Nhân tu thiền định, ngăn dừng mọi việc xấu ác lỗi lầm, đạt nhân vô ngã,[108] bên ngoài không tổn hại; nhân tu trí tuệ, lìa bỏ mọi sự bám chấp nắm giữ, đạt pháp vô ngã,[109] bên trong tâm không điên đảo. Như vậy ắt là tâm không khiếp nhược; không khiếp nhược tức là an vui.
Từ câu “Này Văn-thù-sư-lợi!” trở đi là tiểu đoạn thứ hai, gồm 1 khổ và 1 câu kệ, tụng lại ý nghĩa tổng kết trong kinh văn trường hàng.
KINH VĂN
Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Sau khi Như Lai điệt độ, trong đời mạt pháp nếu muốn thuyết giảng kinh này, nên trụ yên trong hạnh an vui, khi mở lời thuyết giảng, hoặc khi đọc kinh này, đều không ưa thích nói ra những lỗi lầm của người khác hoặc của kinh điển, cũng không khinh thường các vị thầy thuyết pháp khác, không nói đến những điều tốt xấu, ưu điểm hay khuyết điểm của người khác; đối với hàng Thanh văn, không nêu tên ra để chê bai những điều xấu lỗi, cũng không khen ngợi xưng tán điều tốt đẹp. Bồ Tát lại cũng không khởi tâm thù hiềm oán ghét, nhờ khéo tu tập tâm an vui như vậy. Đối với người đến nghe pháp đều tùy thuận không trái ý; nếu có vặn hỏi đều không dùng giáo pháp Tiểu thừa để giải đáp, chỉ dùng giáo pháp Đại thừa để vì họ giảng giải, khiến cho đạt được trí tuệ Phật.[110]
Đoạn thứ hai nêu hạnh an vui của lời nói, cũng có 2 phần trường hàng và kệ tụng. Kinh văn trường hàng lại chia làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là nêu vấn đề, thứ hai là giải thích pháp tu hành.
Tiểu đoạn thứ nhất nêu vấn đề, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Khi mở lời thuyết giảng” trở đi, giải thích về pháp tu hành, có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói về thực hành pháp chỉ, phân đoạn thứ hai nói về thực hành pháp quán.
Phân đoạn thứ nhất có 4 ý. Ý thứ nhất nêu việc không nói lỗi [người khác]; ý thứ hai nói không cao ngạo khinh người; ý thứ ba nói không khen ngợi cũng không chê bai; ý thứ tư nói không oán ghét thù hiềm.
Ý thứ nhất, không ưa thích nói lỗi của người khác hoặc của kinh điển. Đó là chỗ nghe của con người có lỗi lầm sai trái, các pháp nào có lỗi gì? Các pháp dành cho 7 hạng phương tiện đều là do đức Phật tùy thuận tâm ý người nghe mà giảng giải thích hợp, nên gọi là pháp chưa liễu nghĩa. Nếu nói lỗi sai trái của các pháp này tức là gây não loạn tổn hại những người nghe pháp, không phải là tướng trạng của hạnh an vui.
Ý thứ hai nói việc không cao ngạo khinh người, tức là nói người tu tập không dựa vào pháp viên mãn mà khinh chê pháp thiên lệch; không xem trọng pháp chân thật mà khinh chê pháp quyền thừa.
Ý thứ ba nêu việc không nói chỗ tốt xấu, hay dở của người khác. Trước tiên nêu là không nói [chỗ tốt xấu] của tất cả mọi người. Tiếp theo chỉ nêu riêng về hàng Thanh văn. Nói chung, mọi người đều không thích nghe chỗ xấu của họ, cho nên không nói về sự kém cỏi khiếm khuyết của người khác. Với những người cùng đối diện, khen ngợi người này thì người khác sẽ cảm thấy như họ bị chê bai, cho nên không khen ngợi chỗ tốt đẹp ưu điểm của người khác. Lại cũng không bảo người này đến khen người kia,[111] bởi người kia sẽ cho rằng vì mình dở còn người ấy giỏi hơn, cho nên mới bảo người ấy đến nói như vậy để giễu cợt mình. Cũng không ở trước mặt người này nói chỗ xấu dở của người kia, bởi nói xấu sau lưng người khác thì người khác cũng sẽ nói xấu sau lưng mình. Vì những ý nghĩa đó cho nên đối với các thiện ác tốt xấu đều ngăn dứt chẳng khen chê.
Lại nữa, về việc không nói chỗ tốt xấu của người khác, trong kinh Nhật Tạng, quyển 1 nói: “Từ đầu hôm, giữa đêm cho đến gần sáng luôn ít ngủ, tỉnh giác, tinh tấn ngồi thiền, tụng kinh, tu tập đạo pháp; quay lưng từ bỏ sanh tử, hướng đến con đường Niết-bàn. Không nói chỗ yếu kém của người khác, cũng không nói chỗ ưu điểm của mình; tự hạ mình khiêm tốn, không cao ngạo kiêu căng. Cơm ăn áo mặc luôn tự biết đủ [không cầu dư thừa], luôn giữ hạnh đầu đà tinh tấn không buông thả lười nhác; chánh niệm suy xét, tâm không tán loạn; khởi tâm từ bi đối với hết thảy chúng sanh.”[112]
Lại nữa, như trong kinh điển giảng về Không hạnh có nói: “[Đối với kinh điển luôn] tự mình tụng đọc, dạy cho người khác tụng đọc; không chê bai hủy báng hoặc nói chỗ sai trái của người khác, không tự nêu ưu điểm của mình.”
Đối với hàng Thanh văn căn tánh vốn còn chưa được vững chãi ổn định, nếu tán thán khen ngợi Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, có thể làm cho họ thối tâm Đại thừa mà tu tập theo Tiểu thừa; hoặc nếu chê bai hủy báng hai thừa ấy, có thể làm cho họ bỏ mất cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa, rốt lại chẳng còn được gì.
Ý thứ tư nói không sanh tâm oán ghét thù hiềm. Nếu cho rằng người khác, pháp khác làm chướng ngại, tổn hại đạo của ta, đó là tâm oán ghét; nếu cho rằng người khác hèn kém xấu xa, đó là tâm ngờ vực thù hiềm. Trong tâm vừa động khởi, lời nói liền phát ra; chấm dứt được từ cội nguồn là không nói chỗ xấu của người khác cho nên không làm khởi sanh sự oán ghét thù hiềm.
Phân đoạn thứ hai từ câu “nhờ khéo tu tập tâm an vui như vậy” trở đi là nói việc tu tập pháp quán. Quán hết thảy các pháp đều không, không có gì vướng mắc nắm giữ, tâm không chút bám chấp. “Đối với người đến nghe pháp đều tùy thuận không trái ý”, là không trái với tướng pháp. “Đều không dùng giáo pháp Tiểu thừa để giải đáp, chỉ dùng giáo pháp Đại thừa để vì họ giảng giải.” Nếu như thấy biết được người không có căn cơ Đại thừa nên thuyết pháp Tiểu thừa thì giúp họ được lợi ích phương tiện; nếu không thấy biết rõ là người không có căn cơ Đại thừa nhưng lại thuyết dạy giáo pháp Tiểu thừa, có thể sẽ làm chướng ngại che lấp cơ duyên Đại thừa của họ. Cho nên những trường hợp không thể thấy biết rõ thì chỉ nên thuyết dạy Đại thừa, như vậy sẽ không mắc lỗi.
KINH VĂN
Bồ Tát thường vui thích,
Tâm an ổn thuyết pháp,
Ở nơi đất thanh tịnh,
Thiết lập một pháp tòa.
Tắm gội sạch bụi bặm,
Bôi dầu thơm lên thân,
Đắp y mới sạch sẽ,
Trong ngoài đều thanh tịnh.
Phần kệ tụng tiếp theo có 16 khổ rưỡi kệ, chia làm 3 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, tụng nêu vấn đề. Tiểu đoạn thứ hai có 9 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa phương pháp tu hành ở trước. Tiểu đoạn thứ ba gồm 5 khổ kệ, tụng về sự thành tựu công hạnh.
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng ở trước nói trụ yên trong hạnh an vui. Kinh văn trường hàng chỉ nói tổng quát là “nên trụ yên trong hạnh an vui”, trong phần kệ tụng nêu chi tiết tướng trạng thực hành, chia làm 3 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất nói “Bồ Tát thường vui thích, tâm an ổn thuyết pháp”, là nói việc muốn giúp cho người nghe pháp1 hiểu được đạo an ổn, đạt được quả an vui, tức là nghĩa “vào nhà Như Lai”.
Phân đoạn thứ hai nói “ở nơi đất thanh tịnh, thiết lập một pháp tòa”, tức là nghĩa của “ngồi tòa Như Lai”.
Phân đoạn thứ ba từ câu “Tắm gội sạch bụi bặm” trở đi gồm 1 khổ kệ, tức là nghĩa “đắp y Như Lai”.
Cả 3 pháp trên dẫn dắt nghiệp của lời nói, gọi là hạnh an vui.
KINH VĂN
Ngồi yên trên pháp tòa,
Tùy chỗ hỏi, giảng thuyết.
Nếu có những tỳ-kheo,
Hoặc các tỳ-kheo-ni,
Cùng hàng cư sĩ nam,
Hoặc những cư sĩ nữ,
Cho đến vua, con vua,
Quan, trí thức, dân thường…
Đều dùng nghĩa vi diệu,
Hiền hòa vì họ thuyết.
Nếu có người vặn hỏi,
Tùy ý nghĩa mà đáp,
Nêu nhân duyên, thí dụ,
Để diễn bày phân biệt.
Dùng phương tiện như vậy,
Khiến cho đều phát tâm,
Rồi dần dần tăng trưởng,
Thể nhập vào đạo Phật.
Trừ tâm ý biếng nhác,
Cùng tư tưởng trễ lười,
Không lo âu buồn bực,
Khởi tâm từ thuyết pháp.
Ngày đêm vẫn thường thuyết,
Giáo pháp đạo Vô thượng,
Dùng các lẽ nhân duyên,
Và vô số thí dụ,
Để chỉ bày chúng sanh,
Khiến cho đều hoan hỷ.
Y phục, chỗ nằm, ngồi,
Thức ăn uống, thuốc men,
Đối với những thứ ấy,
Không khởi ý mong cầu,
Chỉ duy nhất tâm niệm,
Nhờ nhân duyên thuyết pháp,
Được trọn thành Phật đạo,
Cùng tất cả chúng sanh.
Đó là sự cúng dường,
An vui, lợi ích lớn.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Ngồi yên trên pháp tòa” trở đi gồm 9 khổ rưỡi kệ, có 2 phân đoạn tụng về 2 pháp thực hành. Phân đoạn thứ nhất gồm 5 khổ rưỡi kệ tụng về thực hành pháp chỉ. Phân đoạn thứ hai gồm 4 khổ kệ tụng về thực hành pháp quán.
Phân đoạn thứ nhất tụng về thực hành pháp chỉ, kinh văn trường hàng có 4 ý, kệ tụng cũng lặp lại đầy đủ.
Ý thứ nhất nói “Ngồi yên trên pháp tòa, tùy chỗ hỏi, giảng thuyết” là tụng lại ý nghĩa không khinh chê xem thường người khác. Nếu xem thường tức là không tùy theo.
Ý thứ hai từ câu “Nếu có những tỳ-kheo…” cho đến câu “Tùy ý nghĩa mà đáp” gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa không nói chuyện hay dở, tốt xấu [của người khác]. Tức là chỉ nói theo ý nghĩa [chánh pháp], không bàn đến chỗ tốt xấu của người khác.
“Nếu có người vặn hỏi, tùy ý nghĩa mà đáp.” Có 2 trường hợp, thứ nhất là có thể giải đáp, thứ hai là không thể giải đáp.
Đôi bên hỏi đáp, chất vấn nhau, mỗi bên đều có lúc hơn lúc kém nhau, [cuối cùng] ai thắng ai thua đều tự biết rõ, đó là cách tranh luận của bậc trí. [Đây là trường hợp có thể giải đáp.] Nếu [người hỏi] phóng túng buông thả [theo ý mình], ai dám nói trái ý liền trừng phạt, đó là cách tranh luận của bậc vua chúa.[113] Hoặc lập luận hay dở, đúng sai đều không cần biết, chỉ muốn giành lấy phần thắng, đó là cách tranh luận của người ngu. [Hai trường hợp này đều là không thể giải đáp.][114]
Ý thứ ba từ câu “Nêu nhân duyên, thí dụ” đến câu “thể nhập vào đạo Phật” gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa ý thứ nhất trong kinh văn trường hàng là không ưa thích nói ra lỗi lầm sai trái của người và kinh điển. Nếu nói ra chỗ lỗi lầm sai trái của người khác tức là khiến cho họ khởi sanh tâm ác độc, nay nhờ không nói ra nên khiến họ phát tâm thể nhập đạo Phật. Đó là việc thể nhập đạo Phật có được từ tâm hoan hỷ.
Ý thứ tư từ câu “Trừ tâm ý biếng nhác” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa không oán ghét thù hiềm. Khi tâm oán ghét thù hiềm khởi lên liền chán ghét lười nhát, buồn bực âu lo, nay dùng tâm từ mẫn thuyết pháp, không oán ghét thù hiềm, tinh tấn không buồn lo. Kinh văn trường hàng phần trước chỉ dựa theo nghĩa tốt đẹp của pháp chỉ, trong kệ tụng đều dựa theo sự thực hành pháp chỉ.
Phân đoạn thứ hai tụng về pháp quán, từ câu “Ngày đêm vẫn thường thuyết, giáo pháp đạo Vô thượng” trở đi, gồm 4 khổ kệ. Kinh văn trường hàng phần trước nói “chỉ dùng giáo pháp Đại thừa” để giải đáp, kệ tụng nói “thuyết giáo pháp đạo Vô thượng”. Kinh văn trường hàng nói “khiến cho đạt được trí tuệ Phật”, kệ tụng nói “được trọn thành Phật đạo”.
KINH VĂN
Sau khi Phật diệt độ,
Nếu có tỳ-kheo nào,
Có khả năng thuyết giảng,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
Không ganh ghét bực tức,
Gặp phiền não chướng ngại,
Cũng không lo không buồn,
Hoặc bị người chửi mắng,
Cũng không hề sợ sệt.
Lại thêm dùng dao gậy,
Cũng không hề trốn chạy,
Nhờ trụ nơi nhẫn nhục.
Bậc trí tuệ như vậy,
Khéo tu tập tự tâm,
Có thể trụ an vui,
Như trên ta đã nói.
Công đức của vị ấy,
Dù muôn ngàn ức kiếp,
Dùng tính toán, thí dụ,
Cũng không thể nói hết.
Tiểu đoạn thứ ba[115] từ câu “Sau khi Phật diệt độ” trở đi gồm 5 khổ kệ, nêu sự thành tựu hạnh an vui của lời nói. Tiểu đoạn này có 4 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nêu tổng quát việc thành tựu công hạnh.
Phân đoạn thứ hai[116] từ câu “Không ganh ghét bực tức” trở đi gồm 2 khổ kệ nêu ý nghĩa trong lòng không có lỗi lầm sai trái thì không sanh ra nạn khổ bên ngoài, cũng giống như không có đồ hôi thối thì ruồi nhặng không bay đến.
Phân đoạn thứ ba từ câu “Bậc trí tuệ như vậy” trở đi gồm 1 khổ kệ nêu ý nghĩa trong lòng có đủ pháp lành cho nên công hạnh được thành tựu.
“Như trên ta đã nói.” Nếu là nghĩa trong lòng không có lỗi lầm sai trái thì như trong kinh văn trường hàng nói; nếu là nghĩa trong lòng có đủ pháp lành thì như trong kệ tụng nói.
Phân đoạn thứ tư từ câu “công đức của vị ấy” trở đi gồm 1 khổ kệ nêu việc so sánh ước lượng công đức, y theo kinh văn [có thể hiểu được không cần giải thích].
KINH VĂN
Lại nữa, này Đại Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi! Vào đời sau cùng khi chánh pháp sắp mất đi, người thọ trì tụng đọc kinh điển này không ôm lòng ganh ghét, dua nịnh dối trá, cũng đừng khinh chê người học Phật, soi mói những chỗ ưu điểm, khuyết điểm của họ. Đối với người tu tập như tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ cầu đạo Thanh văn hay Duyên giác, hoặc cầu đạo Bồ Tát, cũng không quấy rối, khiến họ nghi ngờ hối tiếc bằng cách nói rằng: “Các người còn cách đạo quá xa, mãi mãi không thể đạt được trí tuệ Phật. Vì sao vậy? Vì các người là những kẻ buông thả phóng túng, lười nhác trên đường đạo.” Lại cũng không nên bàn luận vô bổ về các pháp, tranh cãi đúng sai. Nên khởi lòng đại bi đối với hết thảy chúng sanh, đối với các đức Như Lai xem như đấng cha lành, đối với các vị Bồ Tát xem như bậc thầy lớn, đối với các vị Đại Bồ Tát trong mười phương thường khởi tâm cung kính sâu xa mà lễ bái. Đối với hết thảy chúng sanh đều thuyết pháp một cách bình đẳng, chỉ thuận theo pháp nên không nói nhiều, không nói ít, thậm chí đối với người hết sức ưa muốn chánh pháp cũng không vì họ mà nói nhiều hơn.
Đoạn thứ ba nêu hạnh an vui của tâm ý, cũng có kinh văn trường hàng và kệ tụng. Kinh văn trường hàng lại có 3 tiểu đoạn: nêu công hạnh, giải thích công hạnh và tóm kết sự thành tựu công hạnh.
Tiểu đoạn thứ hai giải thích công hạnh lại có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói thực hành pháp chỉ, phân đoạn thứ hai nói thực hành pháp quán.
Phân đoạn thứ nhất nói thực hành pháp chỉ lại có 4 ý. Ý thứ nhất nói không ganh ghét dua nịnh; ý thứ hai nói không khinh chê mắng chửi; ý thứ ba nói không quấy rối [sự tu tập] và ý thứ tư nói không tranh cãi.
Hàng nhị thừa muốn nhanh chóng ra khỏi sanh tử thì trước tiên phải diệt trừ tham dục. Hàng Bồ Tát thì trước tiên trừ sân hận và kiến chấp. Ganh ghét là cấu nhiễm của sân hận; dua nịnh là cấu nhiễm của kiến chấp. Ganh ghét trái nghịch với tâm từ bi, không phải là pháp giáo hóa chúng sanh. Dua nịnh, dối trá là trái nghịch với đạo trí tuệ, không phải là pháp tự thực hành. Trí tuệ bị che chướng thì dựa vào đâu cầu [Phật đạo] bên trên? Từ bi bị ngăn ngại thì lấy gì giáo hóa [chúng sanh bên dưới? Cho nên Bồ Tát tu hạnh an vui thì quan trọng nhất là phải từ bỏ [sân hận và kiến chấp].
Từ câu “cũng đừng khinh chê” trở đi, nói không nên dựa theo công hạnh của Viên giáo mà chê bai quở trách công hạnh của Biệt giáo. Như người rõ biết căn cơ thì nên quở trách, nếu đã không rõ biết thì không nên trách mắng, là nghĩa nên bao dung đối với người thối thất căn lành.
Từ câu “Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni…” trở đi, nói không nên dựa theo công hạnh của Viên giáo mà chê bai quở trách công hạnh của Thông giáo. [Hàng Bồ Tát Thông giáo] vốn không có căn cơ Đại thừa, nếu cứng rắn dựa theo hạnh Viên giáo mà quở trách thì trái nghịch với tâm ý họ thành ra “quấy rối người tu tập”. [Tu tập theo] Thông giáo đã bị quở trách, theo Viên giáo thì lại chưa nhận hiểu được, [cho nên] tiến đến [với Viên giáo] thì sanh tâm “nghi ngờ” [vì không hiểu], quay lại với Thông giáo thì “hối tiếc” [vì bị quở trách], như vậy thì Đại thừa, Tiểu thừa đều không đạt được. [Chê trách người] đi theo đường tới lui quanh co rằng “cách đạo quá xa”, đó là quấy rối sự tu tập của người tu theo hạnh Biệt giáo; [chê trách người] đắm chấp lẽ không, bám giữ chỗ chứng đắc, rằng “mãi mãi không thể đạt được”, đó là quấy rối sự tu tập của người tu theo hạnh Thông giáo.
Chán ghét sanh tử gọi là “lười nhác trên đường đạo”. Kinh Bi Hoa nói tu tập theo Tiểu thừa gọi là “lười nhác”.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Nên khởi lòng đại bi…” trở đi, nêu việc thực hành pháp quán, lại có 4 ý. Vì chế phục 4 việc xấu ác vừa nói ở đoạn trước mà khởi tâm thực hành những điều hiền thiện.
Ý thứ nhất, “khởi lòng đại bi đối với hết thảy chúng sanh” là chế phục sự “ganh ghét dua nịnh”.
Ý thứ hai, “đối với các đức Như Lai xem như đấng cha lành” là chế phục sự “khinh chê”. Những người cầu Phật đạo tức là người học Phật, phải cung kính người học ấy như Phật, không được khinh chê, Bởi những người học Phật nếu nhìn thông suốt qua cả ba đời thì đều là những vị Phật tương lai.
Ý thứ ba, “đối với các vị Bồ Tát xem như bậc thầy lớn” là chế phục sự “quấy rối người tu tập”. Cứ theo lý mà luận giải thì người trong ba thừa đều là Bồ Tát; người có đức giáo hóa, khuyên dạy đều là bậc thầy của chúng sanh, nên khởi tâm “xem như bậc thầy lớn”, không nói đến những chỗ khiếm khuyết nhược điểm của họ.
Ý thứ tư, “đối với hết thảy chúng sanh đều thuyết pháp một cách bình đẳng” là chế phục sự “tranh cãi đúng sai”. Bình đẳng là phá trừ sự tranh cãi do bám chấp thiên lệch. “Không nói nhiều, không nói ít” là ước lượng đúng theo căn tánh người nghe nhanh nhạy hay trì độn.
KINH VĂN
Này Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ Tát ấy trong đời sau cùng khi chánh pháp sắp mất đi, nếu thành tựu được hạnh an vui thứ ba này thì khi thuyết kinh Pháp hoa này không ai có thể quấy nhiễu làm cho rối loạn. Vị ấy sẽ có những người bạn đồng học tốt, cùng nhau tụng đọc kinh này. Lại cũng sẽ có đại chúng tìm đến nghe kinh, nghe rồi thường ghi nhớ, ghi nhớ rồi thường tụng đọc, tụng đọc rồi thường giảng thuyết, giảng thuyết rồi thường sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, cúng dường bản kinh, cung kính, tôn trọng, ngợi khen xưng tán.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Này Văn-thù-sư-lợi!” trở đi tóm kết về sự thành tựu công hạnh, có 2 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất nói do [thực hành pháp chỉ] ngưng dứt các việc xấu ác nên việc xấu ác không thể tăng thêm, cho nên nói là “không ai có thể quấy nhiễu làm cho rối loạn”.
Phân đoạn thứ hai nói do thực hành pháp quán được những người tốt đẹp cao quý tìm đến, cho nên nói là “có những người bạn đồng học tốt”.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
Muốn thuyết giảng kinh này,
Bỏ ganh ghét, kiêu ngạo,
Bỏ dua nịnh, gian dối,
Tâm chân thật, thẳng thắn.
Không khinh chê người khác,
Không luận pháp vô bổ,
Nói lời gây hoài nghi:
‘Ông không thể thành Phật.’
Vị Phật tử thuyết pháp,
Thường nhu hòa, nhẫn chịu,
Từ bi với hết thảy,
Không sanh tâm biếng lười.
Đại Bồ Tát mười phương,
Thương chúng sanh, hành đạo,
Nên sanh tâm cung kính:
Bậc thầy lớn của ta.
Với chư Phật Thế Tôn,
Đấng cha lành Vô thượng,
Phá trừ tâm kiêu mạn,
Thuyết pháp không ngăn ngại.
Pháp thứ ba như vậy,
Người trí nên giữ theo,
Chuyên tâm hạnh an vui,
Vô số người cung kính
Phần kệ tụng có 6 khổ kệ, chia thành 2 tiểu đoạn. v Tiểu đoạn thứ nhất gồm 5 khổ kệ, tụng lại phần kinh văn trường hàng ở trước nói việc thực hành 2 pháp chỉ và quán, mỗi pháp đều nói có 4 ý. v Tiểu đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ tụng về nghĩa thành tựu công hạnh.
KINH VĂN
Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ Tát vào đời sau cùng khi chánh pháp sắp mất đi, nếu có hành trì kinh Pháp hoa này thì đối với những người tại gia và xuất gia nên khởi tâm từ ái lớn lao, đối với những người không thuộc hàng Bồ Tát nên khởi tâm bi mẫn lớn lao, nên nghĩ như thế này: “Những người này thật là chịu sự mất mát lớn lao. Đức Như Lai phương tiện thuyết pháp thích hợp nhưng họ lại không được nghe, không hay không biết đến, không thưa hỏi, không tin tưởng, không nhận hiểu được. Những người này tuy không thưa hỏi, không tin tưởng, không nhận hiểu kinh này, nhưng khi nào ta đạt được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tùy theo họ đang ở nơi nào ta sẽ dùng sức thần thông, sức trí tuệ mà dẫn dắt, khiến cho họ được trụ yên trong giáo pháp này.
Đoạn thứ tư nêu hạnh an vui của thệ nguyện, chia ra kinh văn trường hàng và kệ tụng. Kinh văn trường hàng có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nói về pháp thực hành. Tiểu đoạn thứ hai ngợi khen xưng tán kinh này.
Tiểu đoạn thứ nhất nói pháp thực hành lại có 3 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu vấn đề, phân đoạn thứ hai nói pháp thực hành và phân đoạn thứ ba tóm kết sự thành tựu [công hạnh].
Phân đoạn thứ nhất nêu vấn đề, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Phân đoạn thứ hai nói về pháp thực hành lại chia làm 3 ý. Ý thứ nhất, câu “đối với những người tại gia và xuất gia…” là nêu bối cảnh phát khởi thệ nguyện. Ý thứ hai từ câu “nên nghĩ như thế này…” trở đi nêu nguyên do phát khởi thệ nguyện. Ý thứ ba từ câu “khi nào ta đạt được quả Vô thượng” trở đi, nêu việc lập thệ nguyện.
Ý thứ nhất nêu bối cảnh phát khởi thệ nguyện từ ái, kể chung tất cả những người đã từng phát tâm [theo giáo pháp] phương tiện nhưng chưa thoát ra khỏi ba cõi nên đều gọi là “tại gia”; những ai đã đoạn trừ dứt sạch phiền não chung[117] thì gọi là “xuất gia”. Như vậy là bao gồm được 2 hàng [Thanh văn và Duyên giác] của nhị thừa, 3 hàng Bồ Tát của [Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo]. Tất cả những hạng này đều vẫn còn vô minh, lẽ ra cũng nên là bối cảnh phát khởi tâm đại bi, nhưng vì họ đã từng phát tâm tương ưng với thệ nguyện từ ái, nên giúp họ có được niềm vui của đạo viên mãn, quả viên mãn, cho nên nói là “khởi tâm từ ái lớn lao”.
Bối cảnh phát khởi lòng bi là những người không phải Bồ Tát, tức là kể chung tất cả những người chưa từng phát tâm [theo giáo pháp] phương tiện đều gọi chung là không phải Bồ Tát. Tất cả những người này đối với pháp phương tiện [Tiểu thừa] mà còn hoàn toàn chưa quy hướng, huống chi là pháp chân thật [Đại thừa]. Cho nên bối cảnh phát khởi lòng bi này là bao gồm tất cả chúng sanh trong ba cõi. Những chúng sanh này lại cũng nên được ban cho niềm vui, nhưng sự lưu chuyển của họ [trong sanh tử] không có bờ mé, tương ưng với thệ nguyện bi mẫn, nên cần cứu bạt nhân tội lỗi, quả tội lỗi của họ, cho nên nói là “khởi tâm bi mẫn lớn lao”.
Ý thứ hai từ câu “nên nghĩ như thế này” cho đến “thuyết pháp thích hợp” là nói nguyên do phát khởi lòng từ. Vì những người ưa thích Tiểu thừa bám chấp nơi pháp phương tiện của Phật cho đó là chân thật, không nhận hiểu được đạo viên mãn, cho nên gọi là “chịu sự mất mát lớn lao”. Sự mất mát lớn lao đó là nguyên do của thệ nguyện từ ái.
Từ câu “không được nghe, không hay không biết” trở đi là nêu nguyên do của thệ nguyện bi mẫn. Vì chưa phát tâm Tiểu thừa cũng như Đại thừa[118] nên không được nghe cả 2 đạo Tiểu thừa và Đại thừa. Vì không nghe đạo Tiểu thừa nên không có văn tuệ; không biết là không có tư tuệ; không hay là không có tu tuệ. Lại cũng không có ba tuệ [văn, tư, tu] của Đại thừa. Vì sao vậy? Vì không thưa hỏi nên không được nghe; vì không tin nên không biết, vì không hiểu nên không tu. Không có ba tuệ của Tiểu thừa cũng như Đại thừa, hai pháp quyền thật đều không, nên thật hết sức đáng thương xót. Đó là nguyên do phát khởi tâm đại bi.
Ý thứ ba nêu việc lập thệ nguyện, từ câu “những người này tuy không thưa hỏi, không tin tưởng, không nhận hiểu kinh này” trở đi, nêu việc phát khởi thệ nguyện. Những người này tuy không thưa hỏi, không tin tưởng nơi cả Tiểu thừa và Đại thừa nhưng Bồ Tát không dựa vào Tiểu thừa mà phát khởi thệ nguyện, chỉ muốn giúp cho họ đạt được ba tuệ viên mãn của Đại thừa. Cho nên nói rằng, tuy họ không thưa hỏi, không tin tưởng kinh này, “nhưng khi nào ta đạt được quả Vô thượng… …sẽ dùng sức thần thông, sức trí tuệ mà dẫn dắt, khiến cho họ được trụ yên trong giáo pháp này.” Thệ nguyện thành tựu quả Bồ-đề, trí tuệ và thần thông, đều là dựa vào hạnh an vui mà đạt được. Vì sao vậy? Quán chiếu sâu xa [ý nghĩa] “ngồi tòa Như Lai” nên được sức trí tuệ, bốn biện tài trang nghiêm, có thể dùng trí tuệ để cứu bạt [khổ não]. Quán chiếu sâu xa [ý nghĩa] “vào nhà Như Lai” và “đắp y Như Lai”, được sức khéo an trú tịch tịnh lớn lao, không rời khỏi cảnh định diệt tận mà hiện các oai nghi.[119] Thần thông, phước đức trang nghiêm, trước tiên đều phải nhờ vào sự an định tâm động loạn.
KINH VĂN
“Này Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ Tát sau khi đức Như Lai diệt độ nếu thành tựu được 4 pháp này thì khi thuyết pháp không có lỗi lầm, thường được các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, vua chúa, con vua, đại thần, thường dân, bà-la-môn, cư sĩ cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xưng tán, chư thiên ở giữa hư không vì muốn nghe pháp nên cũng thường đi theo vị Bồ Tát ấy. Khi vị Bồ Tát ấy ở nơi xóm làng, thành thị hoặc rừng sâu vắng vẻ, nếu có người đến hỏi khó thì suốt ngày đêm chư thiên sẽ thường theo giúp đỡ bảo vệ người ấy, khiến cho người đến nghe pháp đều được vui mừng hoan hỷ. Vì sao vậy? Vì kinh này được sức thần của hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai thường gia hộ.
Phân đoạn thứ ba từ câu “Này Văn-thù-sư-lợi!” trở đi là tóm kết lại ý nghĩa thành tựu công hạnh, chia ra làm 3 ý.
Ý thứ nhất là tổng kết ý nghĩa [khi thuyết giảng kinh] không mắc phải lỗi lầm sai sót, tức là thành tựu công hạnh. Công hạnh do đâu thành tựu? Do sự phát khởi thệ nguyện lớn lao của người tu tập nên “vào nhà Như Lai”, tức là công hạnh thành tựu; do sự rõ biết của người tu tập về việc bốn chúng để mất đạo Đại thừa nên “ngồi tòa Như Lai”, tức là công hạnh thành tựu; do thệ nguyện của người tu tập chế ngự được tâm không còn lười nhác trễ nãi nên “đắp y Như Lai”, tức là công hạnh thành tựu. Ba hạnh đều trọn đủ cho nên nói là công hạnh thành tựu.
“Không có lỗi lầm”, là hạnh từ bi thành tựu [như “vào nhà Như Lai”] nên không có lỗi lầm của cấu nhiễm sân hận; [hạnh nhẫn nhục] thành tựu như “đắp y Như Lai” nên không có lười nhác trễ nãi; [hạnh quán các pháp đều không] thành tựu như “ngồi tòa Như Lai” nên không có dua nịnh dối trá.
Ý thứ hai từ câu “thường được các tỳ-kheo” trở đi là tóm kết riêng về sự thành tựu công hạnh từ bi. Nhờ thành tựu tâm từ nên nhiếp hóa được bốn chúng, trời người đều đến cúng dường, nghe pháp. Thệ nguyện thành tựu nên chiêu cảm thần thông của Phật, được chư thiên hộ trì. Thành tựu quán muôn pháp đều không như “ngồi tòa Như Lai” nên có thể khiến cho người nghe pháp đều hoan hỷ.
Ý thứ ba từ câu “Vì sao vậy?” trở đi giải thích công hạnh thệ nguyện thành tựu. Ba đời chư Phật còn giữ gìn bảo vệ [cho người ấy], huống chi là chư thiên?
KINH VĂN
“Này Văn-thù-sư-lợi! Có vô số cõi thế giới thậm chí còn chưa được nghe đến tên kinh Pháp hoa này, huống chi là việc được nhìn thấy, thọ trì, tụng đọc? Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như vị Chuyển luân Thánh vương mạnh mẽ, muốn dùng oai thế để hàng phục các nước, nhưng vua các nước nhỏ không chịu thần phục, Chuyển luân Thánh vương liền huy động các loại binh chủng đến chinh phạt. Vua nhìn thấy quân lính chiến đấu lập công, liền hết sức vui mừng, liền tùy theo công lao mà ban thưởng, hoặc ban cho ruộng đất, nhà cửa, xóm ấp, thành thị, hoặc ban cho y phục, những món trang sức làm đẹp thân thể, hoặc ban cho đủ các món quý báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, người hầu, cư dân,[120] duy nhất chỉ có viên ngọc tỏa sáng trên búi tóc là vua không lấy ra ban thưởng. Vì sao vậy? Chỉ trên đỉnh đầu vua mới có duy nhất một viên ngọc ấy, nếu lấy cho đi thì những người thân thuộc của vua sẽ hết sức kinh sợ vì quái lạ.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Đức Như Lai cũng giống như vậy, dùng sức trí tuệ và thiền định mà được cõi nước pháp, là vua của ba cõi, nhưng bọn ma vương không chịu quy phục. Các vị hiền thánh của Như Lai liền chiến đấu với ma vương, lập công trạng nên Như Lai cũng hoan hỷ, ở giữa 4 chúng mà thuyết giảng các kinh điển khiến cho tâm họ được an vui, ban thưởng cho các tài sản quý báu của pháp là thiền định, giải thoát, các căn và lực vô lậu, lại cũng ban thưởng cho hóa thành Niết-bàn, nói rằng đã được diệt độ, để dẫn dắt tâm ý họ khiến cho đều hoan hỷ, nhưng không vì họ thuyết kinh Pháp hoa này.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này Văn-thù-sư-lợi! Có vô số cõi thế giới thậm chí còn chưa được nghe đến tên kinh Pháp hoa này...” trở đi, khen ngợi xưng tán kinh này rất khó được nghe. Tiểu đoạn này có 2 phân đoạn, nói về giáo pháp và nêu thí dụ. Trong phân đoạn nói pháp lại có 2 ý. Thứ nhất là thuở xưa chưa từng thuyết giảng chung cho tất cả mọi người, cho nên thuở xưa [đại chúng] chưa được nghe; thứ hai là ngày nay [đại chúng] mới được nghe.
Phân đoạn nói thí dụ cũng có 2 ý. Thứ nhất là thí dụ [vua Chuyển luân] không ban tặng viên ngọc tỏa sáng, ví với việc [đức Phật] từ xưa chưa từng thuyết giảng kinh này [chung cho tất cả mọi người]; thứ hai là thí dụ [vua Chuyển luân] lấy viên ngọc tỏa sáng ra ban cho, ví với việc ngày nay [đại chúng] được nghe [Phật thuyết kinh Pháp hoa này]. Hai ý này, mỗi ý đều có chia ra tiểu ý thứ nhất nêu thí dụ và tiểu ý thứ hai nói nghĩa tương hợp với thí dụ.
[Ý thứ nhất nói vua không ban tặng viên ngọc tỏa sáng giấu trong búi tóc.] ª Tiểu ý thứ nhất nêu thí dụ này có 6 điều. Điều thứ nhất là nói [vua Chuyển luân] “muốn dùng oai thế để hàng phục các nước”; thứ hai là nói “vua các nước nhỏ chịu thần phục”; thứ ba là nói [vua Chuyển luân] “kéo quân đến chinh phạt”; thứ tư là nói [quân lính chiến đấu] lập công, [vua Chuyển luân] vui mừng hoan hỷ; thứ năm là nói [vua Chuyển luân] tùy theo công lao mà ban thưởng; thứ sáu là nói không lấy viên ngọc tỏa sáng châu ra ban thưởng.
Điều thứ nhất dùng “Chuyển luân thánh vương” để ví cho đức Như Lai giáo hóa người đời. Hàng phục các nước ví như [điều phục] các cảnh giới của ấm, nhập, giới.
Điều thứ hai dùng “vua các nước nhỏ” để ví dụ cho các phiền não. [Người tu tập] chưa đạt được sự điều phục [thân tâm đến mức] vô lậu nên gọi là “không chịu thần phục”.
Điều thứ ba nói “huy động các loại binh chủng” để ví cho các pháp môn tu trong trong 7 bậc hiền,[121] tức là đội quân đi trước; các pháp môn tu của bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, tức là đội quân tiếp theo; các pháp môn tu của bậc A-ha-hàm, A-la-hán, tức là đội quân đi sau. Quân địch bị đánh phá là ví cho 3 độc [tham, sân, si], phân chia thành 84.000 phiền não, tức là [giặc cướp]; quân đánh phá được giặc là ví cho 84.000 pháp môn, tức là quan tướng và quân lính.
Điều thứ tư từ câu “Vua nhìn thấy quân lính…” trở đi, nêu việc quân chiến đấu lập công nên đức vua mừng vui hoan hỷ.
Điều thứ năm từ câu “tùy theo công lao…” trở đi, nêu việc đức vua tùy theo công lao [của mỗi người] mà ban thưởng.
[Đức vua ban cho] “ruộng đất” tức là chánh định;[122] ban cho “nhà cửa” tức là trí tuệ; ban cho “xóm ấp” tức là sơ quả, nhị quả; “thành” tức là tam quả; “thị” tức là Niết-bàn [của Tiểu thừa];[123] ban cho “y phục” tức là các pháp lành như biết hổ thẹn, nhẫn nhục; ban cho “những món trang sức làm đẹp thân thể” tức là các pháp lành hỗ trợ đạo pháp; ban cho “đủ các món quý báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách” tức là bảy giác chi; ban cho “voi, ngựa, xe cộ” tức là tận trí và vô sanh trí của hàng nhị thừa; ban cho “người hầu” tức là thần thông; ban cho “cư dân” tức là giúp cho đạt được các pháp lành hữu lậu.
Điều thứ sáu từ câu “duy nhất chỉ có viên ngọc tỏa sáng trên búi tóc” trở đi, nói việc đức vua không lấy viên ngọc quý tỏa sáng ra ban thưởng. [Trong đại chúng tu tập] có những người vượt thoát ra khỏi sanh tử phần đoạn, ví như công trạng nhỏ; có những người vượt thoát ra khỏi sanh tử biến dịch, ví như công trạng lớn. “Kinh sợ vì quái lạ” là vì nếu chưa có công trạng lớn mà bỗng dưng ban cho viên ngọc tỏa sáng giấu trong búi tóc, quần thần đều lấy làm quái lạ. Đây là ví cho chúng sanh khi chưa phát khởi căn cơ Đại thừa, nếu bỗng dưng thuyết giảng kinh Pháp hoa này thì hàng nhị thừa nghi hoặc, hàng Bồ Tát lấy làm quái lạ.
Tiểu ý thứ hai nói nghĩa tương hợp với 6 thí dụ trên thì y theo kinh văn có thể hiểu được, không cần giảng giải.
KINH VĂN
“Này Văn-thù-sư-lợi! Cũng như Chuyển luân Thánh vương, thấy binh sĩ lập công lớn thì trong lòng hết sức vui mừng, liền đem viên ngọc quý đến mức khó tin, từ lâu vẫn cất giữ trong búi tóc không tùy tiện mang cho người khác, nay lấy ra ban cho. Đức Như Lai cũng vậy, là bậc Đại Pháp Vương trong ba cõi, dùng chánh pháp giáo hóa hết thảy chúng sanh, thấy các vị hiền thánh chiến đấu với quân ma năm ấm, ma phiền não, ma chết, có công lao rất lớn, diệt trừ được ba món độc, ra khỏi ba cõi, phá được lưới ma, thì đức Như Lai cũng hết sức hoan hỷ, liền đem kinh Pháp hoa này, có thể giúp cho chúng sanh đạt đến trí tuệ Phật, là kinh điển mà người thế gian oán ghét khó tin nhận, trước đây chưa từng thuyết giảng, nay đem ra thuyết giảng cho nghe.
“Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp hoa này là giáo thuyết bậc nhất của các đức Như Lai, là sâu xa nhất trong các giáo thuyết, sau cùng mới ban cho, giống như đức vua mạnh mẽ kia từ lâu vẫn giữ kỹ viên ngọc tỏa sáng, nay mới lấy ra ban cho.
Này Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp hoa này là kho tàng bí mật của các đức Phật Như Lai, ở vị trí cao nhất trong các kinh điển, chư Phật ngày đêm giữ gìn không tùy tiện thuyết giảng, cho đến hôm nay mới đem ra diễn giải thuyết giảng cho các ông.”
Ý thứ hai từ câu “Này Văn-thù-sư-lợi! Cũng như Chuyển luân Thánh vương…” trở đi, nói thí dụ vua Chuyển luân lấy viên ngọc tỏa sáng giấu trong búi tóc ra ban thưởng. Ý này cũng có 2 tiểu ý, thứ nhất nêu thí dụ và thứ hai là nói nghĩa tương hợp với thí dụ.
Tiểu ý thứ nhất nêu thí dụ có 2 điều. Điều thứ nhất nêu việc có công trạng lớn; điều thứ hai nêu việc ban thưởng viên ngọc quý.
Viên ngọc tỏa sáng là ví cho trí tuệ trung đạo; ngọc tròn ví cho pháp thường; nằm trên đỉnh đầu là ví cho tông chỉ của quả vị cao nhất; giấu trong búi tóc là ví với pháp thật vì quyền thừa mà ẩn giấu; mở búi tóc ra là ví như khai thị trừ bỏ pháp quyền; ban thưởng viên ngọc quý là ví như hiển bày pháp thật.
Tiểu ý thứ hai nói nghĩa tương hợp cũng có 2 điều [tương ứng], từ câu “có thể giúp cho chúng sanh đạt đến trí tuệ Phật” trở đi. “Trí tuệ Phật” là tên gọi của quả, tức là hành nhất; “giáo thuyết bậc nhất của các đức Như Lai” là giáo nhất; “kho tàng bí mật của các đức Phật Như Lai” là lý nhất, cũng gồm cả nghĩa nhân nhất.
KINH VĂN
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
“Thường thực hành nhẫn nhục,
Thương xót mọi chúng sanh,
Mới có thể thuyết giảng,
Kinh được Phật khen ngợi.
Cho đến đời sau cùng,
Những ai trì kinh này,
Đối với hàng tăng, tục,
Hoặc không phải Bồ Tát,
Đều khởi tâm từ bi,
Thương họ không được nghe,
Không tin nhận kinh này,
Là mất mát lớn lao.
‘Nguyện khi ta thành Phật,
Sẽ dùng nhiều phương tiện,
Vì họ mà thuyết pháp,
Khiến trụ trong pháp này.’
Phần kệ tụng có 14 khổ rưỡi kệ, chia làm 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất có 4 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng ở trước nói về phương pháp tu hành. Tiểu đoạn thứ hai gồm 10 khổ rưỡi kệ, tụng lại phần trước nói việc xưng tán khen ngợi kinh.
Tiểu đoạn thứ nhất tụng về pháp tu hành lại có 2 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng trước[124] về ý nghĩa công hạnh thành tựu. Kinh văn ở trước chỉ nêu tổng quát sự thành tựu công hạnh, nay kệ tụng nêu rõ chi tiết hơn. “Thường thực hành nhẫn nhục” là tụng về việc thành tựu hạnh “đắp y Như Lai”; “thương xót mọi chúng sanh” là tụng về việc thành tựu hạnh “vào nhà Như Lai”; “mới có thể thuyết giảng” là tụng về việc thành tựu hạnh “ngồi tòa Như Lai”.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Cho đến đời sau cùng” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng về phương pháp tu hành. Kinh văn phần trước nêu 3 bối cảnh là nguyên do phát khởi thệ nguyện, kệ tụng cũng có đủ.
KINH VĂN
Ví như vua Chuyển luân,
Có oai thế sức mạnh,
Quân chiến đấu lập công,
Liền ban thưởng các thứ,
Voi, ngựa và xe cộ,
Đồ trang sức trên thân,
Cùng ruộng đất, vườn nhà,
Thôn xóm và thành thị,
Hoặc ban cho y phục,
Đủ các món quý báu,
Người phục dịch, tiền của,
Vui vẻ ban thưởng cho.
Như có người dũng mãnh,
Làm được việc khó làm,
Vua liền mở búi tóc,
Lấy ngọc sáng ban cho.
Đức Như Lai cũng vậy,
Là vua của các pháp,
Sức nhẫn nhục rất lớn,
Có kho báu trí tuệ,
Dùng tâm đại từ bi,
Giáo hóa người như pháp.
Thấy hết thảy người đời,
Chịu bao điều khổ não,
Vì muốn cầu giải thoát,
Phải chiến đấu với ma.
Vì những chúng sanh ấy,
Phật thuyết đủ mọi pháp,
Dùng phương tiện lớn lao,
Thuyết dạy những kinh khác.
Khi rõ biết chúng sanh,
Đã được mạnh mẽ rồi,
Cuối cùng mới vì họ,
Thuyết kinh Pháp hoa này.
Như vua cởi búi tóc,
Lấy ngọc sáng ban cho.
Kinh này là tôn quý,
Trên tất cả các kinh,
Phật vẫn thường gìn giữ,
Không tùy tiện chỉ bày.
Nay đúng lúc thích hợp,
Vì các ông thuyết giảng.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Ví như vua Chuyển luân, có oai thế sức mạnh” trở đi, gồm 10 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa kinh văn trường hàng ở phần trước xưng tán giáo pháp này rất khó được nghe. Kinh văn nói nghĩa thuyết pháp, nêu thí dụ và tương hợp ý nghĩa thí dụ, nay trong kệ tụng chỉ có 2 phân đoạn, nêu thí dụ và tương hợp ý nghĩa .
Phân đoạn thứ nhất nêu thí dụ lại có 2 ý.
Ý thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng về nghĩa không dùng viên ngọc tỏa sáng để ban thưởng.
Ý thứ hai từ câu “Như có người dũng mãnh” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng về việc ban cho viên ngọc tỏa sáng.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Đức Như Lai cũng vậy” trở đi nói nghĩa tương hợp với thí dụ, gồm 6 khổ rưỡi kệ chia làm 2 ý.
Ý thứ nhất gồm 3 khổ rưỡi kệ, tụng nghĩa tương hợp với thí dụ không dùng viên ngọc quý để ban thưởng.
Ý thứ hai từ câu “Khi rõ biết chúng sanh” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với thí dụ ban thưởng viên ngọc tỏa sáng. Trong ý này lại mở ra nói những chi tiết. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Sau khi ta diệt độ,
Những ai cầu đạo Phật,
Nếu muốn được an ổn,
Giảng kinh Pháp hoa này,
Thì phải thường theo đúng,
Bốn pháp như nói trên.
Người tụng đọc kinh này,
Thường không có lo buồn,
Cũng không bệnh đau đớn,
Dáng vẻ được tươi sáng,
Không sanh vào cảnh nghèo,
Hoặc hèn kém, xấu xí;
Chúng sanh ưa thích gặp,
Như ngưỡng mộ hiền thánh,
Các đồng tử chư thiên,
Thường đi theo giúp đỡ,
Dao gậy không chạm đến,
Thuốc độc không thể hại,
Người xấu ác mắng chửi,
Liền bị bịt kín miệng.
Dạo chơi không sợ sệt,
Như sư tử chúa rừng.
Trí tuệ thường chiếu sáng,
Như mặt trời trên cao.
Tổng đoạn thứ ba từ câu “Sau khi ta diệt độ” trở đi, gồm 23 khổ kệ nêu ý tổng kết về sự thành tựu công hạnh, chiêu cảm thành những tướng trạng để chứng minh, khuyến khích sự tu hành.
Tổng đoạn này chia làm 3 đoạn. u Đoạn thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, tóm kết việc khuyến khích 4 hạnh [an vui]. Đoạn thứ hai gồm 20 khổ rưỡi kệ nêu 3 phước báo để khuyến khích, cũng gọi là được thanh tịnh 3 chướng. Đoạn thứ ba gồm 1 khổ kệ là tổng kết.
[Đoạn thứ hai nêu 3 phước báo, có 3 tiểu đoạn.] Ba chướng chuyển thành thanh tịnh, đó là trong hiện đời và đời sau đều dứt hết mọi nghiệp xấu ác, tức là được quả báo thù thắng trong cả hiện tại và sau này. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nói việc không có lo âu phiền não. Đây là nói sự chuyển hóa báo chướng, làm thay đổi quả báo ngay trong hiện tại (hiện báo). Tiểu đoạn thứ hai gồm nửa khổ kệ “Không sanh vào cảnh nghèo, hoặc hèn kém, xấu xí”. Đây là nói sự chuyển hóa nghiệp chướng, làm thay đổi quả báo trong đời tiếp theo (sanh báo). Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Chúng sanh ưa thích gặp” trở đi gồm 19 khổ kệ. Đây là nói sự chuyển hóa phiền não chướng, làm thay đổi quả báo trong các đời tương lai (hậu báo).
Tiểu đoạn thứ nhất, từ câu “Người tụng đọc kinh này” trở đi gồm 1 khổ kệ, nói việc diệt trừ được sự lo âu phiền não trong hiện tại, tức trừ quả báo cảm thọ khổ não. Đây là làm thay đổi quả báo hiện tại trong tâm. “Cũng không bệnh đau đớn, dáng vẻ được tươi sáng”, đây là thay đổi quả báo của thân, tức hình sắc.
Tiểu đoạn thứ hai gồm 2 câu “Không sanh vào cảnh nghèo, hoặc hèn kém, xấu xí”, tức là chuyển hóa nghiệp xấu ác. Nhân tạo nghiệp xấu ác thì lẽ ra phải chiêu cảm quả báo xấu ác, nhưng nhờ sức của kinh này mà nhân xấu ác [đã tạo trước đây] có thể chuyển hóa thành quả báo tốt đẹp, tức là chuyển được quả báo trong đời tiếp theo (sanh báo). “Không sanh” tức là không tạo nghiệp sanh ra điều xấu ác. Hiện tại trì tụng kinh này thì không tạo ra nghiệp phải chịu cảnh nghèo khốn, nên đời sau không sanh vào cảnh “hèn kém, xấu xí”.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Chúng sanh vui thích gặp” trở đi gồm có 19 khổ kệ, nêu sự chuyển hóa quả báo trong các đời tương lai (hậu báo), tức là chuyển 3 loại chướng phiền não [gồm tham dục, sân hận và si mê]. Tiểu đoạn này chia làm 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, nêu riêng về sự chuyển hóa 3 chướng phiền não. Phân đoạn thứ hai gồm 16 khổ kệ nêu tổng quát hết thảy các chướng đều được chuyển hóa.
Phân đoạn thứ nhất lại có 3 ý.
Ý thứ nhất từ câu “Chúng sanh vui thích gặp” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu riêng về sự chuyển hóa chướng tham dục. Người nhiều tham dục tự nhiên sẽ trở thành kiêu ngạo, khinh người, lại bị chướng ngại không sanh cõi Phạm thiên. Chướng tham dục đã được chuyển hóa nên khiến cho người khác vui thích gặp gỡ, lại được “các đồng tử chư thiên, thường đi theo giúp đỡ”.
Ý thứ hai từ câu “Dao gậy không chạm đến” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu riêng về sự chuyển hóa chướng sân hận. Xả bỏ sân hận tức là trừ được những đao kiếm, cung tên trong lòng. Nếu vào trận chiến ắt không bị đao kiếm bên ngoài gây tổn thương.
Ý thứ ba gồm 2 câu “Trí tuệ thường chiếu sáng, như mặt trời trên cao”, nêu riêng về sự chuyển hóa chướng si mê.
KINH VĂN
Người ấy khi nằm mộng,
Chỉ thấy điều tuyệt diệu,
Như thấy các đức Phật,
Ngồi trên tòa sư tử,
Có đại chúng tỳ-kheo,
Vây quanh nghe thuyết pháp.
Hoặc thấy chư thiên, rồng,
Cùng loài a-tu-la,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều cung kính chắp tay,
Lại thấy tự thân mình,
Đang vì họ thuyết pháp.
Lại được thấy chư Phật,
Thân tướng màu vàng ròng,
Phóng vô lượng hào quang,
Soi sáng khắp mọi nơi,
Dùng âm thanh Phạm thiên,
Diễn giải, thuyết các pháp.
Thấy Phật vì bốn chúng,
Thuyết giảng pháp Vô thượng,
Thấy thân mình ở đó,
Chắp tay ngợi khen Phật.
Được nghe pháp mừng vui,
Lại cúng dường lên Phật,
Rồi được pháp tổng trì,
Chứng trí tuệ bất thối.
Phật biết tâm người này,
Đã vào sâu đạo Phật,
Nên liền thụ ký cho,
Thành bậc Chánh Đẳng Giác:
‘Nghe đây thiện nam tử!
Trong một đời tương lai,
Ông được trí vô lượng,
Thành tựu Vô thượng đạo.
Cõi nước trang nghiêm, đẹp,
Rộng lớn không đâu bằng.’
Lại thấy có bốn chúng,
Cùng chắp tay nghe pháp.
Lại cũng thấy thân mình,
Ở giữa chốn rừng núi,
Tu tập các pháp lành,
Chứng biết các tướng thật,
Vào sâu các thiền định,
Thấy được mười phương Phật.
Chư Phật thân sắc vàng,
Trang nghiêm trăm phúc tướng.
Nghe pháp, vì người thuyết,
Thường nằm mộng an lành.
Mộng thấy làm quốc vương,
Bỏ cung điện, quyến thuộc,
Năm món dục hấp dẫn,
Đi thẳng đến đạo trường.
Ngay dưới cội bồ-đề,
Ngồi trên tòa sư tử,
Cầu đạo qua bảy ngày,
Đạt trí tuệ chư Phật.
Thành đạo Vô thượng rồi,
Bắt đầu chuyển pháp luân,
Vì bốn chúng thuyết pháp,
Qua ngàn muôn ức kiếp,
Thuyết diệu pháp vô lậu,
Độ vô số chúng sanh.
Sau đó nhập Niết-bàn,
Như đèn tắt khói dứt.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Người ấy khi nằm mộng, chỉ thấy điều tuyệt diệu” trở đi gồm 16 khổ kệ, nêu tổng quát việc hết thảy các chướng phiền não đều được chuyển hóa, lại cũng là chuyển hóa quả báo trong các đời tương lai. Việc trì kinh trong hiện tại chiêu cảm các tướng trạng này, nên biết là đã [tu tập] thành tựu từ lâu xa trong quá khứ, nay dựa theo duyên lành mà phát sanh [tướng trong mộng]. Lại có các tướng tạo nhân thành Phật, quả thành Phật, cũng đều là quả báo trong tương lai. Trong mộng thấy được các tướng quả báo trong tương lai, nên việc của trăm ngàn muôn kiếp đều ở nơi một niệm trong mộng. Dùng [thí dụ này] để sự biểu trưng cho diệu pháp không thể nghĩ bàn, một ở trong vô lượng, vô lượng ở trong một. Tướng như vậy đã hiện ra trước thì về sau ắt phải đạt được quả. Phân đoạn này lại có 6 ý, nêu từ lúc phát khởi tín tâm ban đầu cho đến quả vị Diệu giác, hiển lộ 8 tướng thành Phật,[125] đều là dùng sự trang nghiêm của đức Như Lai để tự trang nghiêm mình, tức là phước báo nhẫn nhục.
Ý thứ nhất có 3 khổ kệ, nói người nằm mộng thể nhập thập tín. Ý này lại có 2 tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất gồm 2 khổ rưỡi kệ là nói phước báo của từ bi.
Tiểu ý thứ hai gồm nửa khổ kệ là nói phước báo chánh kiến, không si mê.
Ý thứ hai từ câu “Lại được thấy chư Phật” trở đi, gồm 6 khổ rưỡi kệ, người nằm mộng thể nhập thập trụ.
Ý thứ ba từ câu “Lại cũng thấy thân mình” trở đi gồm 3 câu kệ, mộng thấy tu thập hạnh.
Ý thứ tư là câu “chứng biết các tướng thật”, người nằm mộng giác ngộ thập hồi hướng.
Ý thứ năm là 2 câu “Vào sâu các thiền định, thấy được mười phương Phật”, người nằm mộng thể nhập thập địa.
Ý thứ sáu từ câu “Chư Phật thân sắc vàng” trở đi gồm 5 khổ kệ, người nằm mộng thể nhập giai vị Diệu giác.
Đã nói “chứng trí tuệ bất thối” tức là được thụ ký, cho nên biết là đã thể nhập sơ trụ, đạt địa vị vô sanh, được thụ ký.
“Lại cũng thấy thân mình, ở giữa chốn rừng núi” nên biết đây là giai đoạn thập hạnh, cho nên nói “tu tập các pháp lành”.
“Chứng biết các tướng thật” nên biết đây là giai đoạn thập hồi hướng, đạt địa vị chánh quán trung đạo. “Vào sâu các thiền định” tức là được pháp Tam-muội Vô cấu trong giai vị Thập địa, khi nhập pháp định Kim cang thì được chư Phật hiện ra dùng tay xoa đầu cho biết chức phận. [Phần kệ tiếp theo nói] mộng thấy 8 tướng thành Phật nên biết đây là giai vị Diệu giác. Chỗ này cũng có thể nói rằng, từ sơ trụ cũng bắt đầu hiện được 8 tướng thành Phật. Tuy nhiên, từ trước đã nêu những giai vị tuần tự lên cao chính là để ở đây nói giai vị cao nhất.
KINH VĂN
Đời xấu ác về sau,
Thuyết pháp đệ nhất này,
Sẽ được lợi ích lớn,
Đủ công đức như trên.
Đoạn thứ ba từ câu “Đời xấu ác về sau” trở đi gồm 1 khổ kệ, tổng kết về sự thành tựu công hạnh.
Giải thích về năm căn, tám chánh đạo:
Tín căn là đối với Tam bảo có niềm tin kiên cố, không gì có thể cản trở, phá hoại. Tinh tấn căn là đạt được bốn pháp chánh cần. Niệm căn là đạt được pháp quán bốn niệm xứ; phương tiện siêng năng điều phục được tham dục, sầu ưu. Định căn là đạt được bốn bậc thiền.[126] Tuệ căn là thấu hiểu được bốn chân đế, rõ biết đúng như thật.
Lại nữa, tín căn là ở chỗ đức Như Lai phát tâm Bồ-đề mà được lòng tin thanh tịnh. Tinh tấn căn là ở chỗ đức Như Lai phát tâm mà khởi lên sự tinh tấn chuyên cần. Niệm căn là ở chỗ đức Như Lai phát tâm mà khởi niệm, thường nhớ nghĩ không quên. Định căn là ở chỗ đức Như Lai mà khởi lên pháp Tam-muội chánh định. Tuệ căn là ở chỗ đức Như Lai mà khởi lên trí tuệ.
Tám chánh đạo là con đường tu tập của bậc sa-môn, lại cũng là phương pháp tu tập của bậc sa-môn. Tu tập thành tựu thì tham lam, sân hận cho đến hết thảy mọi phiền não đều dứt sạch. Đây là ý nghĩa của [việc xuất gia làm] bậc sa-môn; đạt được bốn thánh quả là kết quả tu tập của bậc sa-môn.
Giải thích về việc nằm mộng:
Các bậc chứng thánh quả từ Tu-đà-hoàn cho đến Phật Bích-chi đều có việc nằm mộng. Chỉ riêng Phật không có nằm mộng. Vì không có nghi ngờ, không còn tập khí, cho nên không có nằm mộng. [Luận A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa] nói, do 5 nguyên nhân mà có việc nằm mộng, như lời kệ nói rằng:
Có tâm nghi; phân biệt;
Học tập; việc hiện tại;
Hàng phi nhân giao tiếp;
Do năm việc, nên mộng.[127]
Lại nữa, là do những điều đã nghe, đã thấy cùng những mối lo toan trong lòng... cả thảy có 7 nguyên nhân khiến cho có việc nằm mộng.
Hỏi: Hiện tại khi tỉnh mà ý thức còn không thể thấy được hình sắc, [phải nhờ có con mắt], làm sao trong mộng tâm ý lại có thể thấy có hình sắc?
Đáp: Đó đều là những điều đã từng thấy, đã từng nghe, cho nên tâm nhớ tưởng lại [mà thấy trong mộng] thôi. Lại cũng là do tướng tốt hoặc không tốt [mà có hình sắc].
Hỏi: Trong mộng không có thần thông, không có trí túc mệnh, làm sao có thể thấy được những việc trong các đời tương lai?
Đáp: Những điều ấy không phải cảnh giới của tâm trí mong muốn mà thấy, nên là chỗ biết của sự so sánh. Có những người đã từng nằm mộng như thế, sau được quả như thế, nay dùng sự so sánh mà biết.
Hỏi: [Nói về giấc ngủ thì] ai ngủ?
Đáp: Chúng sanh trong năm đường[128] cũng như trong cảnh giới trung ấm, tất cả đều có giấc ngủ. Chúng sanh còn trong bào thai, khi các căn đầy đủ rồi thì cũng có giấc ngủ. Cho đến đức Phật cũng có ngủ.
Hỏi: Giấc ngủ là ngu muội [nên là một trong 5] che chướng,[129] làm sao có thể có ở cả chúng sanh và Phật?
Đáp: Đức Phật hiện tiền luôn tỉnh thức, chỉ vì muốn điều hòa thân tứ đại cho nên ngủ, không phải là giấc ngủ che chướng, ngu muội.
_________________________
CHÚ THÍCH
[1] Nguyên văn dùng “六道生死 - lục đạo sanh tử” (6 đường sanh tử), chỉ 6 cảnh giới tái sanh của tất cả chúng sanh trong vòng sanh tử, bao gồm các cảnh giới chư thiên, nhân loại, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Tất cả chúng sanh tùy theo nghiệp thiện ác đã tạo, đều phải tái sanh vào một trong 6 cảnh giới này.
[2] Nguyên văn dùng “二聖涅槃 - nhị thánh Niết-bàn”, chỉ 2 cảnh giới Niết-bàn hữu dư và Niết-bàn vô dư.
[3] Nguyên văn dùng “不緣二邊 - bất duyên nhị biên” (không duyên theo 2 bên). Hai bên ở đây chỉ 2 quan điểm chấp có và chấp không. Người hiểu lẽ trung đạo thì không rơi vào một trong 2 bên này mà luôn nhận hiểu về các pháp đúng như thật tướng.
[4] Đây là đoạn kệ tụng nói về việc đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhập thiền định ngồi yên bất động suốt trong 10 tiểu kiếp.
[5] Nguyên văn dùng “五受 - ngũ thụ”, chỉ 5 loại cảm thụ là khổ thụ, lạc thụ, ưu thụ, hỷ thụ và xả thụ. Văn Cú Ký diễn giải khác hơn, cho rằng cả 4 trường hợp bám chấp của ngoại đạo như có, không, chẳng phải có chẳng phải không, vừa có vừa không đều dứt bỏ, cho đến tự thân sự dứt bỏ đó cũng dứt bỏ luôn tức là không cảm thụ 5 loại cảm thụ. Văn Cú Ký cũng cho rằng đối với Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, mỗi giáo đều có 4 cửa vào đạo (tứ môn), cũng tức là có, không, chẳng phải có chẳng phải không và cũng có cũng không. Dứt bỏ hết các môn này, cho đến sự dứt bỏ cũng dứt bỏ luôn, tức là không cảm thụ 5 loại cảm thụ. Viên giáo cũng dứt trừ 4 môn, cho đến nếu chưa chứng được thật tánh khởi sinh bám chấp kiến giải cũng dứt trừ luôn, gọi là không cảm thụ 5 loại cảm thụ.
[6] Nguyên tác Văn Cú dùng “無常拙度 - vô thường chuyết độ” để chỉ sự tu tập vận dụng lẽ vô thường của hàng Nhị thừa là không khéo léo; ngược lại hàng Bồ Tát thì “如實巧度 - như thật xảo độ”, tức là vận dụng khéo léo lẽ như thật để hướng đến sự giác ngộ, giải thoát.
[7] Phần trích dẫn này nằm ở quyển 27, kinh Đại Bát Niết-bàn, theo Bắc bản do ngài Đàm-vô-sấm Hán dịch. Kinh văn nói “定苦 - định khổ” để chỉ trường hợp nhất định là khổ, lúc nào cũng khổ…; “定樂 - định lạc” để chỉ trường hợp nhất định là vui, lúc nào cũng vui. Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 523, tờ b, dòng 24 đến 28.
[8] Ở đây chỉ 3 phẩm đức là Pháp thân, Bát-nhã và Giải thoát. Ba phẩm đức này được xem là đức tướng của Niết-bàn, là 3 phẩm đức chung của chư Phật.
[9] Đoạn này đề cập đến 3 phẩm đức của chư Phật là đoạn đức (斷德), trí đức (智德) và ân đức (恩德).
[10] Tức tam mật (三密) của chư Phật, bao gồm thân mật (身密), khẩu mật (口密) và ý mật (意密).
[11] Tức tam luân (三輪) của chư Phật, bao gồm thần thông luân (神通輪), thuyết pháp luân (說法輪) và ý luân (意輪).
[12] Văn Cú Ký giải thích rằng tam nghiệp, tam mật, tam luân đều là những tên gọi khác của tam đức; ý mật tức là bát-nhã, khẩu mật tức là giải thoát, thân mật tức là pháp thân. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 34, kinh số 1719, trang 317, tờ a, dòng 7-8.) Điều này cho thấy những cách giải thích, gọi tên như trên chỉ là những sự biểu đạt khác nhau về 3 phẩm đức chung của chư Phật.
[13] Văn Cú dẫn từ kinh văn nhưng không nêu rõ. Đây là câu kinh trong Duy-ma-cật sở thuyết kinh: “若菩薩行於非道, 是為通達佛道。- Nhược Bồ Tát hành ư phi đạo, thị vi thông đạt Phật đạo.” Xem Đại Chánh tạng, Tập 14, kinh số 475, trang 549, tờ a, dòng 1 và 2.
[14] Văn Cú nói “與涅槃義合 - dữ Niết-bàn hợp nghĩa”, Niết-bàn ở đây là chỉ kinh Đại Bát Niết-bàn, với nội dung tương hợp đang được so sánh.
[15] Văn Cú chỉ nói “彼云 - bỉ vân” (kia nói rằng), nhưng theo ngữ cảnh và nội dung nên biết được “kia” là chỉ “kinh kia”, và “kinh kia” tức là kinh Đại Bát Niết-bàn với nội dung được trích dẫn tiếp theo.
[16] Nguyên văn kinh: “復有一行是如來行。 - Phục hữu nhất hạnh, thị Như Lai hạnh.” Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 432, tờ a, dòng 12.
[17] Nguyên văn trong kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “有河端直不曲名娑婆耶喻如繩墨直入西海。 - Hữu hà đoan trực bất khúc danh Ta-bà-da, dụ như thằng mặc trực nhập tây hải.” (Có con sông tên là Ta-bà-da, chảy không uốn khúc, thẳng như dây mực, chảy thẳng vào biển phía tây.) Văn Cú không dùng tên phiên âm Phạn ngữ Ta-bà-da mà dịch nghĩa tên sông này là “金沙大河 - Kim sa đại hà” (sông lớn Kim sa). Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 426, tờ a, dòng 23-24.
[18] Trong kinh Đại Bát Niết-bàn nói về 5 hạnh, bao gồm thánh hạnh (聖行), phạm hạnh (梵行), thiên hạnh (天行), anh nhi hạnh (嬰兒行) và bệnh hạnh (病行). Văn Cú Ký giải thích về sự tương đồng cụ thể hơn, cho rằng thánh hạnh là tương đồng với “ngồi tòa Như Lai”, thiên hạnh là tương đồng với “đắp y Như Lai” và 3 hạnh còn lại là tương đồng với “vào nhà Như Lai”.
[19] Những nội dung trích dẫn để so sánh ở đây là trong kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 10. Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, từ trang 422.
[20] Nội dung trích dẫn này được tìm thấy ở nhiều nơi trong quyển 3, kinh Đại Bát Niết-bàn, cụ thể như câu kinh này: “護持正法者… 應持刀劍弓箭鉾槊守護持戒清淨比丘。 - Hộ trì chánh pháp giả… ưng trì đao kiếm cung tiễn mâu sóc thủ hộ trì giới thanh tịnh tỳ-kheo.” (Người hộ trì chánh pháp… nên cầm đao kiếm, cung tên, giáo mác theo bảo vệ vị tỳ-kheo giữ giới thanh tịnh.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 383, tờ b, dòng 22-24.
[21] Tức là 2 phương pháp chiết phục (折伏) và nhiếp thụ (攝受). Chiết phục có nghĩa là khuất phục kẻ tà ác, khiến cho họ không thể chống lại mà phải quay về chánh đạo. Nhiếp thụ nghĩa là thâu nhận, nhiếp hóa người hiền thiện, giúp cho họ tiếp tục phát triển căn lành, tăng tiến trên đường tu tập.
[22] Văn Cú nói “一子地 - Nhất tử địa”, tức là Cực ái nhất tử địa (極愛一子地), gọi tắt là giai vị Nhất tử, là giai vị của hàng Bồ Tát đã phát khởi tình thương đối với tất cả chúng sanh, giống như chúng sanh thương yêu đứa con duy nhất của mình.
[23] Văn Cú chỉ nói “頭破作七分 - đầu phá thất phần”, đây là trích dẫn từ phẩm Đà-la-ni trong kinh này nói: “惱亂說法者, 頭破作七分 – não loạn thuyết pháp giả, đầu phá tác thất phần” (quấy nhiễu người thuyết pháp, đầu vỡ làm 7 phần). Xem Đại Chánh tạng, Tập 9, kinh số 262, trang 59, tờ b, dòng 12-13.
[24] Văn Cú nói là “圓行 - viên hạnh”, Văn Cú Ký giải thích là: “欲修圓行, 欲利他 - dục tu viên hạnh, dục lợi tha cố” (muốn tu hạnh viên mãn, tức là muốn làm lợi ích chúng sanh). Cũng có thể hiểu là hạnh tu tập theo Viên giáo. Tuy nhiên, xét ngữ cảnh ở đây thì ý nghĩa lợi tha phù hợp hơn.
[25] Đồng thể từ bi (同體慈悲), cũng gọi là đồng thể đại bi (同體大悲), chỉ tâm từ bi khởi sanh vì thấy biết tất cả chúng sanh đều cùng một thể tánh với mình. Do trí tuệ Bát-nhã dẫn đến sự thấy biết này nên nói rằng “trí Bát-nhã khởi sanh đồng thể từ bi”.
[26] Văn Cú chỉ nói “南岳師 - Nam Nhạc sư”, chỉ Đại sư Nam Nhạc Tuệ Tư (南嶽慧思) là thầy của Đại sư Trí Khải. Chúng tôi ghi rõ để tránh nhầm lẫn với thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng (南嶽懷讓).
[27] Văn Cú nói “天台師 - Thiên Thai sư”, chỉ Đại sư Trí Khải. Đây có lẽ là một lỗi biên tập không thích hợp của người đời sau khi ghi chép vì toàn bộ sách này đã là của Đại sư Trí Khải nên không cần chỉ ra như vậy. Một số nơi khác trong sách đều dùng “私謂 - tư vị” (tôi cho rằng) khi nêu ý riêng của Đại sư.
[28] Giai vị nhẫn nhục: tức nhẫn nhục địa (忍辱地), một trong các giai vị tu tập thành tựu của hàng Bồ Tát, bao gồm thành tựu được sanh nhẫn (生忍) và pháp nhẫn (法忍). Sanh nhẫn là nhẫn chịu được tất cả những điều trái ý do chúng sanh hữu tình gây ra cho mình, như bị mắng chửi, đánh đập, vu oan v.v.; pháp nhẫn là nhẫn chịu được tất cả những điều trái ý do hoàn cảnh bên ngoài gây ra như nóng bức, rét lạnh, đói khát v.v.
[29] Nội phàm (內凡) có nhiều cách hiểu, nhưng theo các tông phái Đại thừa nói chung thì chỉ các giai vị đã vào bậc Tam hiền, tức Thập trụ, Thập hành và Thập hồi hướng. Khái niệm này để phân biệt với ngoại phàm (外凡) là những giai vị thấp hơn trước đó.
[30] Thất trụ (七住), giai vị thứ bảy trong thập trụ (十住) của hàng Bồ Tát, được gọi là Bất thối trụ (不退住).
[31] Nguyên tác là “私謂 - tư vị” (ý riêng cho rằng), vì là tác phẩm giảng giải của Đại sư Trí Khải nên đây là cách tự xưng của ngài. Điều này cho thấy những trích dẫn trước nêu tên ngài là cách trình bày nhầm lẫn.
[32] Văn Cú nói “初家 - sơ gia”, Văn Cú Ký giải thích rằng “即初兩家 - tức lưỡng sơ gia”. Phần trên đã nêu 3 cách giải thích, và “sơ gia” ở đây chỉ cho 2 cách giải thích trước.
[33] Ở đây Văn Cú dựa theo ý kinh để dẫn lại, không phải nguyên văn. Kinh văn Nguyên tác trong quyển 27 là “菩薩摩訶薩智慧因故見不了了 - Bồ Tát ma-ha-tát trí tuệ nhân cố kiến bất liễu liễu”. Kinh văn đoạn này đang nói về sự thấy biết tánh Phật. Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 527, tờ c, dòng 25-26.
[34] Văn Cú dẫn từ kinh Duy-ma-cật sở thuyết (維摩詰所說經), quyển 1, phẩm Phật quốc. Nguyên văn kinh là “近無等等佛自在慧 – cận vô đẳng đẳng Phật tự tại tuệ”. Xem Đại Chánh tạng, Tập 14, kinh số 475, trang 537, tờ a, dòng 24-25.
[35] Văn Cú dùng “詣理 - nghệ lý”, Văn Cú Ký giải thích rằng đây là dựa theo kinh văn nói trụ ở giai vị nhẫn nhục. (言詣理者, 以經云住忍辱地故也。 - Ngôn nghệ lý giả, dĩ kinh vân trụ nhẫn nhục địa dã.)
[36] Văn Cú dùng “四忍 - tứ nhẫn”, lược dùng 4 nhẫn trong 5 pháp nhẫn nói ở kinh Nhân vương, bao gồm phục nhẫn (伏忍), thuận nhẫn (順忍), vô sanh nhẫn (無生忍), tịch diệt nhẫn (寂滅忍).
[37] Văn Cú nói “五忍 - ngũ nhẫn” tức là 5 loại nhẫn được nói trong kinh Nhân vương hộ quốc Bát-nhã ba-la-mật-đa (仁王護國般若波羅蜜多經), quyển thượng, bao gồm: phục nhẫn (伏忍), tín nhẫn (信忍), thuận nhẫn (順忍), vô sanh nhẫn (無生忍), tịch diệt nhẫn (寂滅忍). Xem Đại Chánh tạng, Tập 8, kinh số 246, trang 836, tờ b, dòng 14 - 17.
[38] Văn Cú dùng “六忍 - lục nhẫn” tức là 5 loại nhẫn được nói trên, thêm vào hòa tùng nhẫn (和從忍).
[39] Ở đây đề cập đến 42 giai vị của hàng Bồ Tát từ Thập trụ trở lên, bao gồm Thập trụ (十住), Thập hành (十行), Thập hồi hướng (十迴向), Thập địa (十地), Đẳng giác (等覺) và Diệu giác (妙覺).
[40] Văn Cú dùng “五住 - ngũ trụ” (5 trụ), chỉ 5 trụ địa phiền não, bao gồm Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa. Vì là gốc sanh ra phiền não nên gọi là các trụ địa.
[41] Kiến phiền não là những phiền não do mê muội không rõ thật lý, như ngã kiến, tà kiến, v.v. Ái phiền não là những phiền não do mê muội về sự việc, như tham dục, sân hận v.v. Hai loại phiền não này đều do hư vọng khởi sanh.
[42] Văn cú chỗ này dẫn kinh văn là “亦不分別 - diệc bất phân biệt”, có lẽ nhầm lẫn, vì kinh văn nói “亦不行不分別 - diệc bất hành bất phân biệt”.
[43] Hán văn dùng chữ “親近 - thân cận” có lẽ để diễn đạt một ý nghĩa trong Phạn ngữ rộng hơn nhiều, vì ngoài ý nghĩa là gần gũi còn hàm ý có sự chia sẻ mật thiết, có mối quan tâm chung. Bản kinh Chánh Pháp hoa thì dịch là “tùng sự” (從事). Bản Anh dịch của H. Kern diễn đạt những ý nghĩa này phức tạp hơn là “not serve, not court, not wait upon… nor keep any intercourse with them” (không phục vụ, không lấy lòng, không mong đợi… cũng không có bất cứ mối quan hệ nào với họ). Do vậy, nên hiểu từ ngữ này theo một nghĩa mở rộng là không có mối quan hệ gần gũi, thân thiết, không nhờ cậy, không mua chuộc lấy lòng, không cộng tác...
[44] Nguyên tác Hán văn dùng “大臣, 官長 - đại thần, quan trưởng” có lẽ muốn phân biệt các vị quan lớn (đại thần) và quan chức nói chung (quan trưởng).
[45] Hán văn dùng “外道梵志, 尼揵子等 - ngoại đạo Phạm chí, ni-kiền tử đẳng”. Chữ Phạm chí được dịch từ Phạn ngữ brāhmaṇa, thường đọc theo âm thành bà-la-môn, chỉ những người theo đạo thờ Phạm thiên. Trong ngữ cảnh này, Phạm chí chỉ người xuất gia theo ngoại đạo, trong khi ni-kiền tử chỉ cho những người theo ngoại đạo nhưng không xuất gia. Văn Cú Ký giải thích ngược lại, rằng ni-kiền tử chỉ người xuất gia và Phạm chí là người tại gia. Dù hiểu theo cách nào thì trong câu này cũng chỉ chung 2 hạng xuất gia và tại gia theo ngoại đạo. Ni-kiền tử ở đây không dùng để chỉ phái ngoại đạo Ni-kiền tử, vì trước đó đã nói chung tất cả ngoại đạo rồi.
[46] Hán văn dùng chữ “外書 - ngoại thư”, không phải chỉ kinh sách ngoại đạo, mà chỉ chung những loại sách không thuộc về đạo Phật, tương tự như sự phân biệt nội điển (kinh sách đạo Phật) và ngoại điển (sách vở nói về những kiến thức thế tục). Bản Anh dịch của H. Kern chỉ nói chung là “literature” (văn chương).
[47] Nguyên tác Hán văn là “路伽耶陀, 逆路伽耶陀 - lộ-già-da-đà, nghịch lộ-già-da-đà”. Lộ-già-da-đà (lokayāta) dịch nghĩa là thuận theo thế tục, nghịch lộ-già-da-đà (vāmalokayāta) dịch nghĩa là ngược với thế tục. Tuy nhiên, Từ điển Phật Quang bản Hán ngữ dẫn Phạn văn kinh Pháp hoa hiện còn cùng với bản Tạng ngữ, cho rằng lokayāta là tương đương với lokāyatamantradhāraṇā (trì thế chú thuật), và như vậy vāmalokayāta là nghịch lại với chú thuật, chỉ cho các triết lý thế gian. Bản Anh dịch của H. Kern chỗ này cũng dịch là “adepts at worldly spells, and votaries of a worldly philosophy” (những người giỏi chú thuật thế tục và những người sùng bái triết lý thế gian). Chúng tôi cho rằng các ý nghĩa này phù hợp hơn với ngữ cảnh của kinh văn đang đề cập. Đặc biệt ở đây không thể hiểu là danh xưng của các phái ngoại đạo, vì trước đó đã đề cập chung tất cả ngoại đạo rồi.
[48] Ở đây chỉ các trò biểu diễn cho nhiều người xem như đấu kiếm, đấu vật v.v.
[49] Nguyên tác Hán văn là “那羅 - na-la”, phiên âm từ Phạn ngữ naṭa, chỉ chung những người biểu diễn nhảy múa, khiêu vũ v.v.
[50] Nguyên tác Hán văn là “種種變現之戲 - chủng chủng biến hóa chi hý”, chỉ tất cả các trò biến hóa lạ lùng để mua vui, tức là các trò biểu diễn ảo thuật.
[51] Kinh văn gọi chung những nghề nghiệp này là “諸惡律儀 - chư ác luật nghi”, chỉ đến những nghề nghiệp gây hại chúng sanh, tạo nghiệp xấu ác.
[52] Ở đây chỉ chung những người có tâm cầu quả Thanh văn trong bốn chúng, xuất gia cũng như tại gia.
[53] Nguyên tác Hán văn là “五種不男 - ngũ chủng bất nam”, cũng gọi là “五種不能男 - ngũ chủng bất năng nam”, Phạn ngữ là pañca paṇḍakāḥ, chỉ 5 trường hợp tuy mang hình thể nam giới nhưng không có khả năng hành dâm hoặc hành dâm bất thường. Năm loại này bao gồm: 1. Sanh bất năng nam (生不能男 - jāti-paṇḍaka): người sanh ra đã không có khả năng hành dâm; 2. Bán nguyệt bất năng nam (半月不能男 - pakṣa-paṇḍaka): người mỗi tháng đều bị mất khả năng hành dâm trong nửa tháng; 3. Đố bất năng nam (妒不能男 - īrṣyā-paṇḍaka): người nhìn thấy người khác hành dâm khởi tâm ghen tức rồi mới tự mình khởi tâm dâm. 4. Tinh bất năng nam (精不能男 - āsaktaprādurbhāvī-paṇḍaka): người mỗi khi hành dâm thì nam căn tự nhiên biến mất. Cũng có chỗ giải thích rằng đây là người hành dâm thụ động, tùy thuộc vào người khác. 5. Bệnh bất năng nam (病不能男 - āpat-paṇḍaka): người do bệnh hoặc vì lý do khác phải cắt bỏ nam căn.
[54] Văn Cú dẫn từ kinh văn nhưng chỉ nói lược là “lộ-già-da”, trong kinh văn là “lộ-già-da-đà”.
[55] Kinh văn dùng chữ “那羅 - na-la” nhưng Văn Cú chỗ này dẫn là na-la-diên (那羅延), nhầm với chữ nārāyaṇa chỉ vị lực sĩ cõi trời, cũng gọi là kim cang lực sĩ, có sức mạnh vô song.
[56] Đến đây là hết quyển 8 của Văn Cú, bắt đầu quyển 9.
[57] Nguyên tác Hán văn là “無所有性 - vô sở hữu tánh”, có thể hiểu là tính chất không thể thuộc về sở hữu của người hay vật khác.
[58] Nguyên tác Hán văn là “一切語言道斷 - nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn” (dứt sạch mọi ngôn ngữ), hàm ý là tất cả ngôn từ, mọi cách diễn đạt đều không thể nêu ra, không thể mô tả được.
[59] Chỉ sự bám chấp nghiêng về một trong hai bên, hoặc chấp có, hoặc chấp không.
[60] Chỉ 3 chân lý đạt đến nhờ sự tu tập quán chiếu, gồm giả đế, không đế và trung đế.
[61] Chỉ 8 sự điên đảo của phàm phu và hàng nhị thừa. Phàm phu có 4 sự điên đảo, đối với các pháp thế gian chấp thật có thường, lạc, ngã, tịnh; hàng nhị thừa có 4 sự điên đảo, đối với Niết-bàn tịch diệt chấp rằng không có thường lạc, ngã, tịnh.
[62] Văn Cú dùng “薩婆若 - tát-bà-nhã”, phiên âm từ chữ sarva-jñatā, dịch là nhất thiết trí, chỉ trí tuệ của chư Phật với ý nghĩa là “rõ biết tất cả”.
[63] Văn Cú nói “無自他共無因等性 – vô tự tha cộng vô nhân đẳng tánh”. Đây là chỉ rõ thực thể của tất cả các pháp vốn không tự sanh ra hoặc tồn tại (tự tánh), không thể do pháp khác (tha tánh), không phải do hòa hợp tự và tha (cộng tánh), cũng không thể do không có nhân mà thành (vô nhân tánh).
[64] Kinh văn nói “不出 - bất xuất”, Văn Cú Ký giải thích: “出者退也 - xuất giả thối giả” (xuất nghĩa là thối), như vậy “bất xuất” tức là “bất thối” (không thối chuyển), làm rõ thêm ý nghĩa được Văn Cú giải thích ở đây.
[65] Văn Cú dùng “三帝 - tam đế”, tức chỉ không đế, giả đế và trung đế.
[66] Văn Cú dùng “nhị biên bát đảo”, chỉ 8 sự điên đảo do bám chấp thiên lệch về 2 bên đối đãi. Phàm phu có 4 sự điên đảo là bám chấp vào các pháp thế gian cho đó là thường, lạc, ngã, tịnh; hàng nhị thừa có 4 sự điên đảo là bám chấp Niết-bàn tịch diệt lại cho là không có thường, lạc, ngã, tịnh. Cả 8 sự điên đảo này đều do thiên chấp giữa 2 bên đối đãi là có và không.
[67] Văn Cú dùng Thích luận (釋論), thật ra là chỉ đến Luận Đại Trí độ (大智度論), quyển 51, nguyên văn là: “如虛空常相故, 無入相, 無出相, 無住相。 - Như hư không thường tướng cố, vô nhập tướng, vô xuất tướng, vô trụ tướng.” Văn Cú chỉ dẫn theo ý, không đúng nguyên văn. Xem Đại Chánh tạng, Tập 25, kinh số 1509, trang 423, tờ c, dòng 22-23.
[68] Luận Đại Trí độ (大智度論), quyển 43, xem Đại Chánh tạng, Tập 25, kinh số 1509, trang 374, tờ c, dòng 27-28.
[69] Đệ nhất nghĩa không (第一義空 - paramārtha-śūnyatā), lìa khỏi các pháp thì không hề riêng có tự tánh thật tướng đệ nhất nghĩa có thể nắm bắt, nên đối với thật tướng cũng không bám chấp.
[70] Nội không (內空 - adhyātma-śūnyatā), bên trong không có 6 nội xứ như nhãn xứ, nhĩ xứ… không có ngã, ngã sở, cho đến không có các pháp như mắt, tai, mũi…
[71] Ngoại không (外空 - bahirdhā-śūnyat), bên ngoài không có 6 ngoại xứ như sắc xứ, thanh xứ… không có ngã, ngã sở, cho đến không có các pháp hình sắc, âm thanh, mùi hương…
[72] Nội ngoại không (內外空 - adhyātma-bahirdhā-śūnyatā), không có toàn bộ 6 căn bên trong, 6 trần cảnh bên ngoài, tức không có 12 xứ, không có ngã, ngã sở, cũng không có pháp của chúng.
[73] Không không (空空 - śūnyatā-śūnyatā), không bám chấp vào các pháp nội không, ngoại không và nội ngoại không.
[74] Đại không (大空 - mahā-śūnyatā), trong khắp các thế giới mười phương thật không có các tướng xác định như xưa hoặc nay, phương này hoặc phương khác.
[75] Văn Cú dùng “執方計破 - chấp phương kế phá”. Pháp hoa kinh văn cú phụ chánh ký (法華經文句輔正記) giải thích rằng: “疏執方計破者, 執空為有, 有即屬方, 破之執故, 故云計破。 - Sớ chấp phương kế phá giả, chấp không vi hữu, hữu tức thuộc phương, phá chi chấp cố, cố vân kế phá.” Theo đây thì có thể hiểu rằng Văn Cú muốn nói việc phá sự bám chấp vào “không” như một thực thể thật có. Xem Tục tạng kinh, Tập 28, kinh số 593, trang 776, tờ c, dòng 8-9.
[76] Tất cánh không (畢竟空 - atyanta-śūnyatā), quán xét vận dụng các pháp hữu vi không và vô vi không mà phá trừ hết thảy các pháp, cuối cùng thấu triệt không còn lại gì nên rốt ráo là không.
[77] Nhất thiết không (一切空), tức chư pháp không (諸法空 - sarva-dharma-śūnyatā), cũng gọi là nhất thiết pháp không, vì 5 ấm, 12 xứ, 18 giới… cùng hết thảy các pháp đều không tự có tướng xác định nên lìa tướng bám chấp, nắm giữ.
[78] Hữu vi không (有為空 - saṃskṛta-śūnyatā), tất cả các pháp do nhân duyên hội tụ sanh khởi cùng với các tướng pháp nhân duyên đều không thể nắm bắt.
[79] Vô vi không (無為空 - asaṃskṛta-śūnyatā), tức là đối với pháp Niết-bàn lìa bỏ hết thảy mọi sự bám chấp xác định.
[80] Vô thủy không (無始空 - anavarāgra-śūnyatā), cũng gọi là vô hạn không (無限空), vô tế không (無際空), là rõ biết hết thảy các pháp đều sanh khởi từ vô thủy nhưng trong tất cả các pháp đó vẫn thường lìa bỏ tướng bám chấp nắm giữ.
[81] Tánh không (性空 - prakṛti-śūnyatā), cũng gọi là bản tánh không (本性空), Phật tánh không (佛性空), là rõ biết tự tánh của hết thảy các pháp đều là không.
[82] Tướng không (相空), tức là tự tướng không (自相空- svalakṣaṇa-śūnyatā), cũng gọi là tự cộng tướng không (自共相空), là nói tất cả các tướng chung hay riêng, đồng hay khác của các pháp, thảy đều không thể nắm giữ bám chấp.
[83] Bất khả đắc không (不可得空 - anupalambha-śūnyatā), cũng gọi là vô sở hữu không (作無所有空), là nói trong tất cả các pháp do nhân duyên đều không thể tìm được ngã hay pháp.
[84] Hữu pháp không (有法空 - svabhāva-śūnyatā), cũng gọi là tự tánh không (自性空), phi hữu tánh không (非有性空), vì tất cả các pháp chỉ do nhân duyên mà có nên sự hiện hữu được thấy trong hiện tại không phải là chân thật hiện hữu.
[85] Vô pháp không (無法空 - abhāva-śūnyatā), cũng gọi là vô tánh không (無性空), phi hữu không (非有空), là nói tất cả các pháp sau khi hoại diệt không thể tìm thấy tự tánh, tất cả các pháp tương lai chưa hiện hữu cũng vậy, đều không thể tìm thấy tự tánh.
[86] Văn Cú chép là “有法無法空 - hữu pháp vô pháp không”, nhưng thường dùng là vô pháp hữu pháp không (無法有法空 - abhāva-svabhāva-śūnyatā), cũng gọi là vô tánh tự tánh không (無性自性空), là nói sự sanh diệt của tất cả các pháp trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai nói chung, cùng tất cả các pháp vô vi đều không thật có, không thể nắm bắt.
[87] Tán không (散空 - anavakāra-śūnyatā), cũng gọi là tán vô tán không (散無散空), bất xả không (不捨空), bất xả ly không (不捨離空), tức là quán xét thấy hết thảy các pháp đều do nhân duyên giả hợp mà có, nên thực sự không hề có sự ly tán, tan rã.
[88] Vi-đà (韋陀), phiên âm chữ Veda, cũng thường đọc là Phệ-đà (吠陀), chỉ bộ thánh điển của đạo Bà-la-môn từ thời cổ đại, gồm 4 nội dung chính được gọi là Tứ Phệ-đà.
[89] Đoạn trích dẫn này là trong kinh Ma-đăng-già (摩登伽經), quyển 1, thuộc Đại Chánh tạng, Tập 21, kinh số 1300, trang 403, tờ a, trích từ dòng 12. Văn Cú không trích dẫn nguyên văn kinh mà chỉ thuật lại ý kinh nhưng không hoàn toàn chính xác. Do vậy, những con số trong đoạn trích này không hoàn toàn phù hợp với trong kinh. Tuy nhiên, ý chính của đoạn kinh văn lại không được Văn Cú đề cập đến, đó là đức Phật nêu việc hình thành và biến đổi của bộ Vệ-đà qua thời gian để chỉ rõ nó không có ý nghĩa chân thật và dễ thay đổi. Đức Phật nêu rõ điều này trong câu mở đầu đoạn kinh văn nhưng Văn Cú không trích: “我今當說此圍陀典, 無有實義, 易可離散。 - Ngã kim đương thuyết thử Vi-đà điển vô hữu thật nghĩa, dị khả ly tán.” (Nay ta sẽ nói về bộ sách Vi-đà này, không có nghĩa chân thật, dễ bị thay đổi phân tán.)
[90] Văn Cú dùng “雜語 - tạp ngữ”. Bộ luận này tên Phạn ngữ là Vyākaraṇa, còn được gọi là Thanh minh ký luận (聲明記論) hay Tự bản luận (字本論), chủ yếu nói về các vấn đề ngôn ngữ như ngữ âm, ngữ pháp, văn phạm... Cho nên có thể hiểu rằng “tạp ngữ” ở đây là các vấn đề về ngôn ngữ.
[91] Phiên âm từ Phạn ngữ Vaiśeṣika.
[92] Phiên âm từ Phạn ngữ Ulūka.
[93] Văn Cú nói là “六諦 - lục đế”, hàm ý là 6 chân lý của học phái Thắng luận. Học phái này chủ trương hết thảy mọi hiện tượng trong thế giới đều không nằm ngoài 6 phạm trù là thật (實), đức (德), nghiệp (業), đồng (同), dị (異) và hòa hợp (和合), gọi chung là 6 cú nghĩa (句義), Phạn ngữ là satpadārtha.
[94] Phiên âm từ Phạn ngữ Kapila.
[95] Tăng-khư (僧 佉), phiên âm từ Phạn ngữ Sāṅkhya, dịch nghĩa là Số luận (數論). Đây là Số luận ngoại đạo, khác với phái Số luận thuộc Thuyết nhất thiết hữu bộ của Phật giáo Tiểu thừa.
[96] Văn Cú nói là “二十五諦 - nhị thập ngũ đế”, chỉ đến 25 yếu tố mà học phái này cho rằng bao hàm hết thảy mọi hiện tượng trong thế giới, được phân ra thành 4 nhóm. 1. Nhóm 5 yếu tố phổ quát bao gồm: thần ngã, giác, nguyên chất, ngã mạn và tâm thức. 2. Nhóm 10 căn của chúng sanh bao gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, da (gọi là 5 tri căn) và miệng, tay, chân, cơ quan sinh dục, cơ quan bài tiết (gọi là 5 tác căn). 3. Nhóm 5 ngoại cảnh bao gồm: hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm và sự xúc chạm. 4. Nhóm 5 yếu tố cấu thành gồm: đất, nước, lửa, gió, khoảng không (gọi chung là 5 đại).
[97] Tu-đa-la (sūtrānta-piṭaka) tức là tạng Kinh, Tỳ-ni (vinaya-piṭaka) là tạng Luật, A-tỳ-đàm (abhidharma-piṭaka) là tạng Luận. Ba tạng này gọi chung là Tam tạng (trīṇi piṭakāni).
[98] Văn Cú nói “解脫 - giải thoát” tức là biệt giải thoát (別解脫), chỉ giới luật do Phật chế định, tức là tạng Luật.
[99] Về phương thức hành dâm của các cõi trời như nêu ở đây, Văn Cú diễn đạt rất tối nghĩa và có một vài khác biệt, chúng tôi tham khảo luận A-tỳ-đạt-ma Câu-xá (阿毘達磨俱舍論), quyển 11 để hiểu cách nói của Văn Cú. Văn Cú nói “忉利天以風為事 - Đao-lợi thiên dĩ phong vi sự”, có vẻ như “dùng gió để hành dâm”, nhưng luận Câu-xá nói rõ hơn là chư thiên ở đây “形交成婬與人無別, 然風氣泄熱惱便除, 非如人間有餘不淨 - hình giao thành dâm dữ nhân vô biệt, nhiên phong khí duệ nhiệt não tiện trừ, phi như nhân gian hữu dư bất tịnh” (khi hành dâm thân xác giao nhau không khác với con người, nhưng khi hơi gió xuất ra nóng bức liền dứt, không như người thế gian còn lại chất dơ nhớp). Do vậy có thể hiểu rằng ở đây Văn Cú muốn nói đến “hơi gió xuất ra” khi hành dâm, là điều khác biệt với con người. Về những chi tiết tham khảo trong đoạn này, xin xem trong Đại Chánh tạng, Tập 29, kinh số 1558, trang 60, tờ b, dòng 4 - 8.
[100] Văn Cú nói là “相近為事 - tương cận vi sự” (gần nhau là hành dâm), nhưng luận Câu-xá nói “夜摩天眾纔抱成婬 – Dạ-ma thiên chúng tài bão thành dâm” (Chư thiên cõi trời Dạ-ma vừa ôm nhau tức là hành dâm.) Dạ-ma là cách gọi khác của Diễm-ma, như vậy phải hiểu rằng chư thiên khi hành dâm không chỉ đến gần bên nhau mà là ôm nhau.
[101] Văn Cú nói “相牽為事 - tương khiên vi sự”, luận Câu-xá nói rõ hơn là “但由執手 - đãn do chấp thủ” (chỉ cần nắm tay nhau), như vậy có thể hiểu chữ “牽 - khiên” không phải dẫn dắt, lôi kéo mà là nắm tay.
[102] Văn Cú nói “相視為事 - tương thị thành sự” (nhìn nhau là hành dâm), luận Câu-xá nói “唯相向笑 - duy tương hướng tiếu” (chỉ cười với nhau).
[103] Văn Cú nói “心念為事 - tâm niệm vi sự” (tâm nghĩ đến là hành dâm) nhưng luận Câu-xá nói chư thiên cõi trời này mới “相視成婬 – tương thị thành dâm” (nhìn nhau là hành dâm) chứ không phải cõi trời Hóa lạc. Chúng tôi chưa rõ là Văn Cú căn cứ vào tài liệu khác hay đã nhầm lẫn giữa 2 cõi trời này.
[104] Cõi trời Tha hóa tự tại là cao nhất trong Dục giới, do vậy Văn Cú nói “những cõi trời trên nữa” tức là đã ra khỏi Dục giới, thuộc về Sắc giới và Vô sắc giới.
[105] Văn Cú nói “有男女形不能男女 - hữu nam nữ hình bất năng nam nữ”, kinh văn gọi những người này là “不男 - bất nam”, nghĩa là mang hình dạng đàn ông nhưng không đủ nam tính. Do vậy, hàm ý của Văn Cú khi nói “bất năng nam nữ” là không thể quan hệ nam nữ như bình thường.
[106] Nguyên văn là “四事 - tứ sự”, chỉ 4 nhu cầu thiết yếu là thức ăn, y phục, chỗ ở và thuốc men trị bệnh.
[107] Chúng tôi tìm thấy nội dung trích dẫn này ở kinh Tăng nhất A-hàm (增壹阿含經), quyển 11. Văn Cú không trích dẫn nguyên văn mà chỉ thuật lại vắn tắt nội dung. Xem chi tiết trong Đại Chánh tạng, Tập 2, kinh số 125, trang 599, tờ c, dòng 6 đến trang 600, tờ a, dòng 4.
[108] Nhân vô ngã: quán chiếu thấy rõ con người thực sự do năm ấm hợp thành, trong đó không thể tìm ra một tự ngã làm chủ thể, cho nên gọi là nhân vô ngã, cũng gọi là nhân không.
[109] Pháp vô ngã: quán chiếu thấy rõ hết thảy các pháp đều do nhân duyên giả hợp mà thành, mỗi pháp đều không thể tự tồn tại, không có tự tánh, không có một chủ thể có thể gọi là ngã, cho nên gọi là pháp vô ngã, cũng gọi là pháp không.
[110] Nguyên tác Hán văn là “一切種智 - nhất thiết chủng trí” (trí biết được tất cả), chỉ cho trí tuệ Phật, hiểu biết tất cả mọi vấn đề, không có phạm vi giới hạn. Ở đây muốn phân biệt với trí tuệ của ba thừa (Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát), tuy sáng suốt nhưng vẫn còn có giới hạn, chưa phải là Nhất thiết chủng trí.
[111] Văn Cú nói “不約張說趙長 - bất ước Triệu thuyết Trương trường”. Trương và Triệu được dùng như những đại từ phiếm chỉ để chỉ người này, người kia… mà không xác định là ai, tương tự như cách dùng mỗ giáp (某甲) trong văn xưa. Văn Cú Ký giải thích rõ hơn bằng cách dùng lại thành Trương gia (張家), Triệu gia (趙家), Trương nhân (張人), Triệu nhân (趙人)…
[112] Văn Cú nói là trích từ kinh Nhật Tạng (日藏經), quyển 1, nhưng hiện chỉ thấy tên kinh được ghi trong các bản mục lục kinh điển, không tìm thấy quyển kinh riêng biệt. Tuy nhiên, nội dung đoạn trích dẫn này được tìm thấy trong Đại phương đẳng Đại tập kinh (大方等大集經), quyển 34, phần Nhật Tạng, phẩm thứ nhất Hộ trì chánh pháp (日藏分護持正法品第一). Xem chi tiết trong Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 237, tờ a, từ dòng 24 đến dòng 28.
[113] Nội dung đoạn này có vẻ như dựa theo kinh Tỳ-kheo Na-tiên (那先比丘經), lúc vua Di-lan-đà hỏi Tỳ-kheo Na-tiên thế nào cách tranh luận khác biệt của bậc trí giả và hàng vương giả. Văn Cú đã lặp lại theo cách nói giản lược. (ĐCT, T32, 1670B, tr.706b, d.16-24: “Bậc trí tuệ khi tranh luận thì chất vấn nhau đến chỗ rốt ráo, giải thích cho nhau cùng hiểu, có những lời hơn nhau hoặc kém nhau, lập luận có thắng có bại, có đúng có sai, tự biết nhận ra lý lẽ đúng sai, đó là trí tuệ cao tột nhất… … Vua chúa tranh luận thì phóng túng, chỉ theo ý mình. Nếu người tranh luận dám nói những điều ngược lại, không hợp ý vua, ắt sẽ bị vua dùng sức mạnh mà trách phạt, trừng trị. Cách tranh luận của vua chúa là như thế.” (Kinh Tỳ-kheo Na-tiên, bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến, NXB Tôn giáo, Hà Nội 2009)
[114] Văn Cú chỉ nêu đại lược. Chúng tôi dựa theo Văn Cú Ký để hiểu được những ý nghĩa này. Văn Cú Ký giải thích: “三種語也, 智者語即可答, 王者語, 愚者語即不可答。 - Tam chủng ngữ giả, trí giả ngữ tức khả đáp, vương giả ngữ, ngu giả ngữ tức bất khả đáp.” (ĐCT, T34, 1719, tr.322b, d.9-10)
[115] Chỗ này Văn Cú ghi nhầm là “第二 - đệ nhị”, theo cấu trúc đã nói ở trước thì đây là tiểu đoạn thứ ba.
[116] Văn Cú ghi nhầm là “第三 - đệ tam”, nhưng đây là đoạn thứ hai.
[117] Văn Cú dùng “通惑 - thông hoặc” (phiền não chung), chỉ 2 loại phiền não là kiến hoặc và tư hoặc. Đây là những phiền não mà người tu tập trong ba thừa đều phải dứt trừ nên gọi là phiền não chung, khác với vô minh hoặc và trần sa hoặc là hàng Bồ Tát Biệt giáo phải dứt trừ, nên gọi là “別惑 - biệt hoặc” (phiền não riêng).
[118] Văn Cú dùng “偏圓 - thiên viên” để chỉ 2 phần giáo pháp. Thiên là thiên lệch, viên là viên mãn, trọn đủ. Giáo pháp còn thiên lệch tức là Tiểu thừa, giáo pháp đã viên mãn, trọn đủ là Đại thừa. Trong một số trường hợp khác, “thiên” cũng được dùng để chỉ chung Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo; “viên” chỉ cho Viên giáo.
[119] Văn Cú trích dẫn câu này từ kinh Duy-ma-cật sở thuyết (維摩詰所說經): “不起滅定而現諸威儀 - bất khởi diệt định nhi hiện chư oai nghi”. (ĐCT, T14, 475, tr.539c, d.21-22)
[120] Nguyên tác Hán văn là “奴婢人民 - nô tỳ, nhân dân”, cần được hiểu theo bối cảnh của Ấn Độ thời cổ đại, trong đó có tồn tại chế độ nô lệ. Do vậy, khi nhà vua ban cho “nô tỳ” có nghĩa là các nô lệ có bổn phận phục dịch người chủ, và ban cho “nhân dân” có nghĩa là một số cư dân ở địa phương nào đó và người được ban thưởng có quyền thu thuế cũng như cai quản những cư dân này.
[121] Văn Cú dùng “七賢 - thất hiền” (bảy bậc hiền), cũng gọi là thất gia hành vị (七加行位), trong đó bao gồm tam hiền và tứ thiện căn (các giai vị nội phàm). Bảy bậc hiền này bao gồm: 1. Ngũ đình tâm vị; 2. Biệt tướng niệm trụ vị; 3. Tổng tướng niệm trụ vị. (3 giai vị này thuộc về ngoại phàm, cũng gọi chung là tam hiền.) 4. Noãn pháp vị; 5. Đính pháp vị; 6. Nhẫn pháp vị; 7. Thế đệ nhất pháp vị. (4 giai vị này thuộc về nội phàm, cũng gọi chung là tứ thiện căn.)
[122] Văn Cú dùng “三昧 - tam-muội”, phiên âm từ chữ samādhi, cũng đọc là tam-ma-đề (三摩提), dịch nghĩa là chánh định.
[123] Văn Cú chỉ nói là “涅槃 - Niết-bàn” nhưng theo văn cảnh ở đây đang nói đến sơ quả (Tu-đà-hoàn), nhị quả (Tư-đà-hàm), tam quả (A-na-hàm), tức là 3 thánh quả Tiểu thừa, nên có thể hiểu Niết-bàn này tức là thánh quả thứ tư, quả A-la-hán, cũng tức là Niết-bàn của Tiểu thừa.
[124] Văn Cú nói là “超頌 - siêu tụng” (tụng vượt sang), vì trong kinh văn trường hàng ở trước nói về các pháp tu hành trước, sau mới nói về sự thành tựu công hạnh. Ở đây lại tụng ý nghĩa thành tựu công hạnh trước, nên gọi là “siêu tụng”.
[125] Tức là các tướng của một vị Phật khi xuất thế, bao gồm: giáng thần, nhập thai, đản sanh, xuất gia, hàng ma, thành đạo, thuyết pháp và nhập Niết-bàn.
[126] Bốn bậc thiền, tức Tứ thiền, gồm sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền.
[127] Văn Cú không dẫn chú nhưng nội dung này được trích dẫn từ Luận A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa (阿毘曇毘婆沙論), với chỉ một vài chữ khác biệt. (ĐCT, T28, 1546, tr.145b, d.16-18)
[128] Năm đường (ngũ đạo), tức cõi trời, cõi người, cảnh giới địa ngục, cảnh giới ngạ quỷ và cảnh giới súc sanh.
[129] Tức là nói hôn miên cái (惛眠蓋), gồm hôn trầm (惛沈) và thụy miên (睡眠), được cho là một trong 5 yếu tố che chướng sự sanh khởi của trí tuệ, được gọi chung là ngũ cái (五蓋).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.169 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập