Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm

Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Khi tự tin vào chính mình, chúng ta có được bí quyết đầu tiên của sự thành công. (When we believe in ourselves we have the first secret of success. )Norman Vincent Peale
Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Sự thành công thật đơn giản. Hãy thực hiện những điều đúng đắn theo phương cách đúng đắn và vào đúng thời điểm thích hợp. (Success is simple. Do what's right, the right way, at the right time.)Arnold H. Glasow
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Vết thương thân thể sẽ lành nhưng thương tổn trong tâm hồn sẽ còn mãi suốt đời. (Stab the body and it heals, but injure the heart and the wound lasts a lifetime.)Mineko Iwasaki
Khi ý thức được rằng giá trị của cuộc sống nằm ở chỗ là chúng ta đang sống, ta sẽ thấy tất cả những điều khác đều trở nên nhỏ nhặt, vụn vặt không đáng kể.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 25. Giải thích phẩm Phổ môn - Bồ Tát Quán Thế Âm »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3
»» 25. Giải thích phẩm Phổ môn - Bồ Tát Quán Thế Âm

(Lượt xem: 10)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 - 25. Giải thích phẩm Phổ môn - Bồ Tát Quán Thế Âm

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Phẩm Phổ môn - Bồ Tát Quán Thế Âm, thứ hai mươi lăm

Giải thích tên phẩm

Phẩm này là bản kinh đương thời được tôn quý nhất,[1] rất nhiều người giảng giải. Nay ở đây giải thích không giống như những vị khác. Riêng về phẩm này tôi có ghi chép 2 quyển giảng giải, nay lược lấy những điểm cốt yếu để giải thích tên phẩm này, có phần giải thích nghĩa tổng quát, có phần nói nghĩa chi tiết cụ thể. Giải thích nghĩa tổng quát thì nêu mười cặp theo nhau, giải thích chi tiết cụ thể thì giảng rõ năm chữ [trong tên phẩm].

Mười cặp theo nhau là từ cặp thứ nhất nêu người và pháp, cho đến cặp thứ mười nói trí đức và đoạn đức. Đại lược là như vậy.

- Thứ nhất, cặp người và pháp. Quán Thế Âm là nói về người, Phổ môn là nói về pháp. Người có nhiều loại… Pháp có nhiều loại…[2] Theo phần hỏi đáp ở trước là bàn về Bồ Tát Quán Thế Âm, tức là người; theo phần hỏi đáp ở sau là bàn về Phổ môn, tức là pháp. Người và pháp hợp lại nêu chung, cho nên gọi là phẩm Phổ môn Bồ Tát Quán Thế Âm.

- Thứ hai, [cặp bi và từ]. Quán Thế Âm là nói tâm đại bi cứu khổ. Theo phần hỏi đáp ở trước, có trăm ngàn khổ não đều được giải thoát. Phổ môn là nói tâm đại từ ban vui. Theo phần hỏi đáp ở sau thì tùy theo chỗ có thể hóa độ được chúng sanh mà vì họ thuyết pháp.

- Thứ ba, [cặp trí và phước]. Quán Thế Âm là nói trí tuệ trang nghiêm. Trí tuệ có khả năng đoạn trừ mê hoặc, như lúc sáng thì không có bóng tối. Phổ môn là nói phước đức trang nghiêm. Phước đức có thể làm thay đổi tuổi thọ, như hạt châu [như ý] làm mưa xuống các món báu.

- Thứ tư, [cặp pháp và ứng]. Quán Thế Âm là nói quán sát ngầm khế hợp nơi cảnh, tức là pháp thân. Phổ Môn là nói tùy nơi mà ứng hiện, tức là ứng thân.

- Thứ năm, [cặp thuốc và ngọc]. Quán Thế Âm là ví như cây thuốc chúa, bệnh tật khắp châu thân đều trừ dứt. Phổ môn ví như hạt ngọc như ý, [người có ngọc thì] tùy ý muốn gì cũng có.

- Thứ sáu, [cặp ngầm và hiển]. Quán Thế Âm là nói ngấm ngầm làm lợi ích [chúng sanh], không có chỗ thấy nghe nhưng ba món độc, bảy tai nạn đều được lìa thoát; hai sự mong cầu, hai tâm nguyện đều được thỏa mãn. Phổ môn là nói sự hiển lộ rõ rệt làm lợi ích, [chúng sanh được] tận mắt nhìn thấy dung nhan 33 bậc thánh, tai nghe 19 lời dạy đáng tôn kính.

- Thứ bảy, [cặp thật và quyền]. Quán Thế Âm là nói tùy theo tự ý soi chiếu trí chân thật. Phổ môn là nói tùy theo ý chúng sanh soi chiếu trí quyền biến.

- Thứ tám, [cặp bản và tích]. Quán Thế Âm là bản nguyên tột cùng không lay động. Phổ môn là hình tích tùy duyên mà biến hiện thích hợp.[3]

- Thứ chín, [cặp liễu và duyên]. Quán Thế Âm, từ căn bản là chủng tử liễu nhân [của tánh Phật]. Phổ môn, từ căn bản là chủng tử duyên nhân [của tánh Phật].

- Thứ mười, [cặp trí và đoạn]. Quán Thế Âm, rốt ráo là trí đức, như ánh sáng mặt trăng đêm 14 [giữa tháng]. Phổ môn, rốt ráo là đoạn đức, như mặt trăng vào đêm 29 [cuối tháng] ánh sáng đã gần dứt mất.

Hai lần hỏi đáp trong kinh văn hàm chứa vô lượng ý nghĩa, nay chỉ lược nêu 10 cặp theo nhau, khởi đầu từ người và pháp, cuối cùng là trí và đoạn, dùng để giải thích tên phẩm theo nghĩa chung. Ý nghĩa là như vậy.

Bàn về ý nghĩa chi tiết cụ thể thì giải thích năm chữ [trong tên phẩm].

Thứ nhất là chữ “quán”. Quán có nhiều loại, là nói các loại quán chiếu phân tích chia chẻ, quán chiếu bản thể, quán chiếu trình tự và quán chiếu viên mãn.[4] Quán chiếu phân tích là diệt trừ hình sắc, thể nhập tánh không. Quán chiếu bản thể là thấy được sắc tức là không. Quán chiếu trình tự là tuần tự đi từ quán chiếu phân tích cho đến quán chiếu viên mãn. Quán chiếu viên mãn là thấy được quán chiếu phân tích là thật tướng, cho đến quán chiếu trình tự cũng là thật tướng.

Nay lược bớt ba loại quán, chỉ luận riêng về quán chiếu viên mãn. Kinh văn nói “phổ môn quán”, nếu không phải cửa vào viên mãn thì không gọi là “phổ”, tức là ý nghĩa này.

Thứ hai là chữ “thế”. Nếu xét theo sự hành trì thì [phải luận về] thế trước, quán sau; xét theo lời nói thì quán trước, thế sau. Nay theo sự thuận tiện lời văn nên bàn về [quán trước] thế sau.

Thế cũng có nhiều loại, là nói có hữu vi thế, vô vi thế, nhị biên thế và bất tư nghị thế. Hữu vi thế tức là ba cõi thế gian. Vô vi thế tức là 2 cảnh giới Niết-bàn. Nhị biên thế tức là sanh tử và Niết-bàn. Bất tư nghị thế là cảnh giới thật tướng. Nay lược bỏ đi các loại khác, chỉ giữ lại bất tư nghị thế.

Thứ ba là chữ “âm”, ở đây chỉ căn cơ. Căn cơ lại có nhiều loại, như căn cơ hàng trời người, căn cơ nhị thừa, căn cơ Bồ Tát, căn cơ Phật.

Căn cơ hàng trời người là “không làm các việc ác, vâng làm các việc lành”. Căn cơ nhị thừa là “chán sợ sanh tử, vui chuộng vô vi”. Căn cơ Bồ Tát là trước lo cho người, sau mới đến mình, từ bi, nhân hậu, khiêm nhường. Căn cơ Phật là trong hết thảy các pháp đều dùng phép quán bình đẳng thể nhập, hết thảy mọi việc đều không ngăn ngại người, chỉ một đường thoát khỏi sanh tử. Nay lược bỏ các căn cơ âm khác, chỉ dùng Phật âm cơ mà bày ra sự ứng hóa. Dùng nhân duyên căn cơ ứng hóa này nên gọi là Quán Thế Âm.

[Thứ tư là] chữ “phổ”, có nghĩa là rộng khắp mọi nơi. Các pháp không hạn lượng, nếu không rộng khắp tức là thiên lệch; nếu rộng khắp mới là viên mãn. Cho nên, kinh Tư ích nói: “Hết thảy các pháp là tà vạy, hết thảy các pháp cũng là chân chánh.”

Nay lược nói mười pháp để nêu rõ nghĩa “phổ” là rộng khắp. Hiểu được ý nghĩa này rồi thì hết thảy các pháp không gì là không rộng khắp. Mười pháp này là: từ bi rộng khắp, hoằng thệ rộng khắp, tu hành rộng khắp, dứt trừ mê hoặc[5] rộng khắp, nhập pháp môn rộng khắp, thần thông rộng khắp, phương tiện rộng khắp, thuyết pháp rộng khắp, thành tựu chúng sanh rộng khắp, cúng dường chư Phật rộng khắp.

1. Từ bi rộng khắp: Khởi đầu từ hàng trời người [tu tập] cuối cùng cho đến hàng Bồ Tát, tất cả đều có từ bi, nhưng [trong đó] có rộng khắp hoặc không rộng khắp. Lòng từ phụ thuộc hai duyên sinh, pháp là đã thiên lệch từ nơi tánh thể, do trói buộc nơi duyên không thể mở rộng nên không gọi là rộng khắp. Lòng từ vô duyên đồng thể với thật tướng, lý đã viên mãn nên lòng từ ấy không đâu không biến hiện; như đá nam châm hút sắt, thuận theo tự nhiên mà tương ứng. Lòng từ bi như vậy thấm nhuần hết thảy muôn loài, cho nên gọi là từ bi rộng khắp.

2. Hoằng thệ rộng khắp: Hoằng là rộng lớn, thệ là thúc chế. Có sự thúc chế rộng lớn thiết yếu trong tâm nên nói là hoằng thệ. Hoằng thệ nương theo tứ đế mà sinh khởi. Nếu dựa vào tứ đế hữu tác, vô sanh, vô lượng, không thâu nhiếp được hết thảy các pháp thì không gọi là rộng khắp. Nếu dựa vào tứ đế vô tác mới gọi là hoằng thệ rộng khắp.

3. Tu hành rộng khắp: Ví như đức Phật [Thích-ca Mâu-ni], khi chưa gặp Phật Định Quang, trước đó mọi sự tu tập đều không tương hợp với lý. Từ sau khi [gặp Phật Định Quang] được thụ ký rồi thì ngay nơi mọi sự mọi việc đều là tánh lý. Dùng lý và trí trải qua các pháp tu hành thì không một công hạnh nào không rộng khắp.

4. Dứt trừ mê hoặc rộng khắp: Nếu dùng Nhất thiết trí và Đạo chủng trí để dứt trừ bốn trụ địa phiền não,[6] trần sa hoặc… cũng giống như cắt bỏ cành lá, không gọi là dứt trừ mê hoặc rộng khắp. Nếu dùng Nhất thiết chủng trí dứt trừ vô minh, cả năm trụ địa phiền não đều dứt sạch tận gốc rễ, đó gọi là dứt trừ mê hoặc rộng khắp.[7]

5. Nhập pháp môn rộng khắp: Các giai vị đạo tiền[8] gọi là tu phương tiện, sự thể nhập từ các giai vị đạo hậu gọi là nhập pháp môn. Nếu là hàng Nhị thừa nhất tâm nhập một pháp định; nhất tâm chỉ tạo tác được một, chẳng được nhiều, lại bị thiền định trói buộc, cho nên không gọi là rộng khắp. Nếu [tuần tự] trải qua các giai vị, mức độ cạn hay sâu đều sai khác, cũng không gọi là rộng khắp. Nếu nhập pháp tam-muội Vương, tất cả các tam-muội đều vào trong [pháp tam-muội] ấy, “không khởi diệt định mà hiện các oai nghi”,[9] cho nên gọi là pháp môn rộng khắp.

6. Thần thông rộng khắp: Các vị Đại A-la-hán có thiên nhãn nhìn thấy khắp thế giới đại thiên; hàng Duyên giác[10] thấy khắp hàng trăm cõi Phật, hàng Bồ Tát nhìn thấy khắp số thế giới nhiều như cát sông Hằng. Tất cả đều duyên nơi cảnh nhỏ hẹp [mà tu tập], phát khởi thần thông lại thiên lệch. Nếu duyên nơi thật tướng để tu tập thì một pháp phát khởi tất cả đều phát khởi. Thần thông tương tự [của người trì kinh này] như phần trước đã nói, huống chi là thần thông chân thật lại không rộng khắp hay sao?

7. Phương tiện rộng khắp: Có 2 loại. Phương tiện của các giai vị đạo tiền được thâu nhiếp trong sự tu hành. Phương tiện của các giai vị đạo hậu chia làm 2 loại. Thứ nhất là [phương tiện của] pháp thể, như trong phần Nhập pháp môn rộng khắp đã nói. Thứ hai là vận dụng [phương tiện] để giáo hóa, ngay sau đây sẽ nói. [Đó là dùng phương tiện] khế hợp căn cơ làm lợi ích chúng sanh, tương xứng thích nghi, đúng hợp cơ duyên, nhất thời biến hiện viên mãn khắp cùng; tuy cũng vận dụng đủ mọi cách làm nhưng trong phạm vi pháp tánh không hề có sự suy giảm. Đây gọi là phương tiện rộng khắp.

8. Thuyết pháp rộng khắp: Có thể dùng một âm thanh [thuyết pháp] mầu nhiệm xứng hợp với căn cơ [của tất cả chúng sanh] trong mười pháp giới, [chúng sanh] tùy loại thích hợp mà đều được giải thoát, giống như cây đàn của a-tu-la,[11] cho nên gọi là thuyết pháp rộng khắp.

9. Thành tựu chúng sanh rộng khắp: Hết thảy mọi sự nghiệp trong thế gian và xuất thế gian đều là chỗ làm của Bồ Tát, như đào giếng, đóng thuyền, Thần Nông nếm thuốc,[12] mây che mát, mặt trời chiếu sáng[13] làm lợi ích chúng sanh. Cho đến lợi ích hết thảy các bậc hiền thánh bằng việc tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu, khiến cho thể nhập được đạo Vô thượng. Đây gọi là thành tựu chúng sanh rộng khắp.

10. Cúng dường chư Phật rộng khắp: Nếu cúng dường bằng các sự vật bên ngoài thì [có thể] dùng một nén hương, một đóa hoa, một bữa ăn cùng lúc cúng dường lên hết thảy chư Phật, không có trước, không có sau, trong một lúc đều bình đẳng cúng dường, cũng giống như trong một hạt bụi hiện ra vô số hạt bụi. Nếu thực hiện pháp quán nội tâm thì dùng trí tuệ viên mãn dẫn dắt mọi công hạnh. Trí tuệ viên mãn gọi là Phật, các công hạnh hỗ trợ thành tựu trí tuệ viên mãn, tức là cúng dường Phật. Nếu công hạnh hỗ trợ thành tựu những loại trí tuệ khác thì không gọi là cúng dường rộng khắp. Các công hạnh hỗ trợ thành tựu trí tuệ viên mãn mới gọi là cúng dường rộng khắp.

[Thứ năm là chữ] “môn”, tức là cửa vào. Từ pháp giả nhập pháp không thì pháp không thông suốt mà pháp giả bị ngăn lấp; từ pháp không nhập pháp giả thì pháp giả thông suốt mà pháp không bị ngăn lấp. Sự thông suốt có thiên lệch thì không phải rộng khắp; vì bị ngăn lấp nên không phải cửa vào. Trung đạo thì chẳng phải không, chẳng phải giả, hoàn toàn thông suốt thật tướng. Đồng thời soi chiếu cả hai chân lý [không và giả][14] nên gọi là rộng khắp; hoàn toàn thông suốt nên gọi là cửa vào.

“Phổ môn” là cửa vào rộng khắp, có vô số ý nghĩa thông suốt viên mãn, nay chỉ lược nêu 10 ý nghĩa như trên thì có thể biết được [các ý nghĩa khác].

KINH VĂN

Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý[15] từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo trần vai bên phải,[16] chắp tay cung kính hướng về đức Phật thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Bồ Tát Quán Thế Âm[17] có danh hiệu ấy?”

Phẩm này vẫn thuộc phần biến hiện tam-muội rộng khắp, lưu thông [kinh điển để] giáo hóa chúng sanh. Kinh văn chia làm 3 tổng đoạn. Thứ nhất là thưa hỏi, thứ hai là giải đáp, thứ ba là nêu lợi ích khi được nghe phẩm kinh này.

Phần thưa hỏi và giải đáp lại có 2 lượt. Lượt thưa hỏi thứ nhất chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất là phần mở đầu của người chép kinh, [“lúc ấy” là] nói về thời điểm, [có bốn ý nghĩa theo bốn tất đàn].

- Thứ nhất, thuyết giảng về Bồ Tát ở phương đông đã xong, nay là thời điểm thuyết giảng về Bồ Tát ở phương tây. Đây là nghĩa thế giới tất đàn.

- Thứ hai, thuyết giảng về việc khởi sinh việc lành ở phương đông đã xong, nay là thời điểm thuyết giảng về việc khởi sinh việc lành ở phương tây. Đây là nghĩa vị nhân tất đàn.

- Thứ ba, thuyết giảng về việc dứt trừ nghi hoặc ở phương đông đã xong, nay là thời điểm thuyết giảng về việc dứt trừ nghi hoặc ở phương tây. Đây là nghĩa đối trị tất đàn.

- Thứ tư, thuyết giảng về việc đạt đạo ở phương đông đã xong, nay là thời điểm thuyết giảng về việc đạt đạo ở phương tây. Đây là đệ nhất nghĩa tất đàn.[18]

[Về ý nghĩa danh xưng] Vô Tận Ý, kinh Đại phẩm Bát-nhã nói “nghĩa không thì vô tận”; kinh Đại tập nói “80 pháp môn vô tận”; kinh Tịnh Danh nói: “Vô tận là không phải tận cũng không phải vô tận, cho nên gọi là vô tận.” Nay gộp lại ý nghĩa cả ba kinh, dùng ba pháp quán và ba loại trí tuệ để giải thích ý nghĩa vô tận.

Thứ nhất, Ý tức là trí, Vô Tận là cảnh, trí khế hợp với cảnh. Thứ hai, chỉ riêng theo cảnh thì nói là Vô Tận; chỉ riêng theo trí thì nói là Ý. Thứ ba, cảnh và trí hợp lại để xưng tên nên gọi là Vô Tận Ý. [Theo cách giải thích] thứ nhất, ý là gốc của [các pháp] thế gian và xuất thế gian. [Theo cách giải thích] thứ hai, ý là trung đạo của pháp giới, cho nên nói rằng có thể quán chiếu tâm tánh gọi là thiền định bậc thượng. [Theo cách giải thích] thứ ba, là dựa theo ba pháp quán và ba loại trí tuệ để giải thích danh xưng.

[Đoạn thứ hai nói việc] nêu lên câu hỏi, kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Đầy đủ hai phẩm tính trang nghiêm[19] thì có khả năng thưa hỏi, có khả năng giải đáp.” Ngài Vô Tận Ý trước tiên dùng trí tuệ trang nghiêm để thưa hỏi về trí tuệ trang nghiêm của Bồ Tát Quán Thế Âm, đức Phật dùng trí tuệ trang nghiêm để giải đáp về trí tuệ trang nghiêm của Bồ Tát Quán Thế Âm.

KINH VĂN

Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Thiện nam tử! Nếu có vô số trăm ngàn muôn ức chúng sanh đang chịu các khổ não, nghe đến Bồ Tát Quán Thế Âm liền một lòng xưng niệm danh hiệu, Bồ Tát Quán Thế Âm lập tức quán chiếu âm thanh xưng niệm, khiến cho những chúng sanh ấy đều được giải thoát.

Phần giải đáp của đức Phật lại có 3 đoạn. Thứ nhất là giải đáp tổng quát, thứ hai là giải đáp chi tiết, thứ ba là giải đáp bằng cách khuyến khích thọ trì danh hiệu [Bồ Tát Quán Thế Âm].

[Đoạn thứ nhất] giải đáp tổng quát lại có 4 tiểu đoạn. Thứ nhất là nêu số người, thứ hai nói việc gặp khổ nạn, thứ ba nêu việc được nghe danh hiệu Bồ Tát rồi xưng niệm, thứ tư nói việc đều được giải thoát.

Trong phần này tự có [4 trường hợp]. Thứ nhất là nhiều nỗi khổ cùng làm khổ một người; thứ hai là nhiều người cùng chịu một nỗi khổ; thứ ba là một người [tuần tự] chịu nhiều nỗi khổ;[20] thứ tư là một người chịu ít nỗi khổ.

Kinh văn nói “có vô số trăm ngàn muôn ức chúng sanh” tức là nhiều người, “chịu các khổ não” tức là nhiều khổ. Nêu ra số nhiều để làm rõ số ít, vì nhiều khổ còn cứu được huống chi là ít khổ? Người gặp khổ là việc xấu ác, “một lòng xưng niệm danh hiệu” là việc hiền thiện. Thiện ác gặp nhau, đó là ý nghĩa cơ duyên; “đều được giải thoát” tức là cảm ứng. Đây là nhân duyên cơ cảm, nên gọi là Quán Thế Âm; lại cũng là nhân duyên người và pháp, cho đến nhân duyên trí tuệ và đoạn trừ [mê hoặc] gọi là Quán Thế Âm. Phần sau cũng hiểu theo giống như vậy nên kết lại việc giải thích danh xưng ở đây, không cần nói thêm rườm rà.

KINH VĂN

“Nếu có người trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù vào lửa dữ cũng không bị thiêu đốt; đó là do sức oai thần của Bồ Tát.

“Nếu bị nước lớn cuốn trôi, niệm danh hiệu Bồ Tát liền gặp chỗ nước cạn.

“Nếu có trăm ngàn muôn ức chúng sanh vì muốn tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, các thứ bảo vật... nên đi vào biển lớn, gặp cơn mưa bão tối tăm[21] xô đẩy thuyền trôi dạt vào nước quỷ la-sát; dù chỉ một người trong số ấy xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người khác cũng đều thoát khỏi nạn quỷ la-sát.

“Do nhân duyên như vậy nên có danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.

“Thiện nam tử! Nếu có người sắp bị giết hại, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì dao gậy kẻ kia tự nhiên gãy nát, liền được giải thoát.

“Nếu trong thế giới đại thiên đầy dẫy dạ-xoa, la-sát muốn đến hại người, vừa nghe xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những quỷ dữ đó không dám nhìn người bằng ánh mắt hung dữ, huống chi là làm hại?

“Nếu người bị gông cùm xiềng xích, dù có tội hay không có tội, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì gông cùm xiềng xích tự nhiên gãy nát, liền được giải thoát.

“Nếu trong thế giới đại thiên đầy bọn giặc cướp, có một thương chủ[22] dẫn các thương nhân, mang nhiều hàng hóa quý báu đi qua đường hiểm. Một người trong số ấy nói rằng: ‘Này các vị, xin đừng lo sợ, chúng ta nên một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Vị Bồ Tát này thường mang an ổn đến cho chúng sanh, nếu ta xưng danh hiệu ngài sẽ được thoát nạn giặc cướp.’ Các thương nhân nghe vậy cùng nhau niệm lớn: ‘Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát.’ Nhờ niệm danh hiệu nên liền thoát nạn.

“Này Vô Tận Ý! Sức oai thần của Đại Bồ Tát Quán Thế Âm lớn lao như thế.”

[Đoạn thứ hai] giải đáp chi tiết có 3 tiểu đoạn. Thứ nhất là nêu cảm ứng với cơ duyên của khẩu; thứ hai là cảm ứng với cơ duyên của ý; thứ ba là cảm ứng với cơ duyên của thân.

[Tiểu đoạn thứ nhất,] cảm ứng với cơ duyên của khẩu lại có 2 phân đoạn. Thứ nhất là nêu rõ bảy loại khổ nạn,[23] thứ hai là tóm kết.

Nói về nạn lửa thiêu lại có 4 phần. Thứ nhất, “trì niệm danh hiệu” là việc hiền thiện; thứ hai, “vào lửa dữ” là việc xấu ác; thứ ba là nêu cảm ứng [“không bị thiêu đốt”]; thứ tư là kết lại [“do sức oai thần của Bồ Tát”].

Trong mỗi một nạn lại có ba tầng ý nghĩa. [Như đối với nạn lửa thiêu,] thứ nhất là lửa do quả báo, từ địa ngục trở lên cho đến cõi trời Sơ thiền trở xuống đều luận về cảm ứng với cơ duyên; thứ hai là lửa do ác nghiệp, từ địa ngục trở lên cho đến cõi trời Phi tưởng[24] trở xuống đều luận về cảm ứng với cơ duyên; thứ ba là lửa do phiền não, từ địa ngục trở lên cho đến bậc Đẳng giác trở xuống, đều luận về cảm ứng với cơ duyên.

Đối với bảy loại khổ nạn, ba món độc,[25] hai sự mong cầu[26] [theo sau] đều giải thích giống như vậy.

KINH VĂN

“Nếu có chúng sanh thường tham dâm dục, cung kính niệm danh Bồ Tát Quán Thế Âm liền xa lìa dâm dục; nếu nhiều sân hận, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền xa lìa sân hận; nếu nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền xa lìa ngu si.

“Này Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có những oai thần lớn lao như vậy, làm lợi ích rất nhiều, do vậy chúng sanh nên thường xưng niệm.”

[Tiểu đoạn thứ hai, cảm ứng với cơ duyên của ý], ý nghĩa này đã rộng, có thể dùng ý để nhận hiểu rõ biết, không thể dùng văn ghi chép.

KINH VĂN

“Nếu có phụ nữ muốn sinh con trai, cúng dường lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm liền sinh con trai phước đức, trí tuệ; nếu muốn sinh con gái, liền sinh con gái xinh đẹp, nết na đoan chính, từng trồng sâu các gốc công đức, được mọi người yêu kính.

“Này Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần như vậy; chúng sanh cung kính lễ bái, phước đức không hề luống mất.”

[Tiểu đoạn thứ ba,] cảm ứng với cơ duyên của thân lại có 2 phân đoạn. Thứ nhất nêu hai sự mong cầu, thứ hai là kết luận.

[Phân đoạn thứ nhất] nói về cầu con trai có nêu việc lập nguyện tu hành, tích tạo công đức. Nói về cầu con gái thì kinh văn lược bớt không nói việc tu hành. Phần nêu việc lễ bái giống nhau nên lược bớt, còn về ước nguyện, duyên nghiệp đều khác biệt nhau nên lại nêu ra lần nữa.

[Phân đoạn thứ hai] nêu kết luận thì y theo kinh văn có thể hiểu được.

KINH VĂN

“Vì thế chúng sinh đều nên thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.

“Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh hiệu các Bồ Tát nhiều như số cát sáu mươi hai ức sông Hằng, lại trọn đời cúng dường thức ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc men trị bệnh. Ý ông nghĩ sao, công đức của thiện nam hay thiện nữ ấy có nhiều chăng?”

Vô Tận Ý thưa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều.”

Phật dạy: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù chỉ một lần cúng dường lễ bái, phước đức hai người ấy bằng nhau, không hề khác biệt, trong trăm ngàn muôn ức kiếp không thể cùng tận.

“Này Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm được lợi ích phước đức vô lượng vô biên như vậy.”

[Đoạn thứ ba] từ câu “Vì thế chúng sinh đều nên” trở đi là khuyến khích trì niệm danh hiệu [Bồ Tát], lại có 3 tiểu đoạn. Thứ nhất là khuyến khích trì niệm [danh hiệu Bồ Tát], thứ hai là suy lường [công đức trì niệm], thứ ba là kết lại ngợi khen xưng tán. Phần trước nói về danh hiệu thù thắng, phẩm đức tốt đẹp nhưng chưa nói đến thể chất hình dạng. Nếu muốn quy phục tôn sùng thì nên trì niệm danh hiệu, cho nên khuyến khích việc trì niệm.

Luận Nhập Đại thừa nói rằng: “Pháp thân chỉ có một nhưng sắc thân ứng hiện rất nhiều.” Xét như các ứng thân “Bồ Tát nhiều như số cát sáu mươi hai ức sông Hằng” cũng bằng như một pháp thân mà thôi. Đại sư Trí Giả nói: “Người [thành tựu] viên mãn chỉ có một, người thiên lệch ắt là nhiều.” Xét như các Bồ Tát thiên lệch thì “nhiều như số cát sáu mươi hai ức sông Hằng” cũng bằng với một Bồ Tát viên mãn.

KINH VĂN

Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật: “Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm đi khắp thế giới Ta-bà như thế nào? Vì chúng sanh thuyết pháp thế nào? Sử dụng sức phương tiện ra sao?”

Lượt thưa hỏi thứ hai lại chia làm 3 đoạn. “Đi khắp thế giới Ta-bà như thế nào” là thưa hỏi về thân. “Vì chúng sanh thuyết pháp thế nào” là thưa hỏi về khẩu. “Sử dụng sức phương tiện ra sao” là thưa hỏi về ý. Tam mật ấy[27] của bậc thánh là quyền hiện không hề mưu tính trước, chỉ tùy căn cơ mà ứng hiện thích hợp.

KINH VĂN

Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong cõi nước phải dùng thân Phật mới có thể hóa độ, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật vì họ thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân Duyên giác mới có thể hóa độ, liền hiện thân Duyên giác vì họ thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân Thanh văn mới có thể hóa độ, liền hiện thân Thanh văn thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân Phạm vương mới có thể hóa độ, liền hiện thân Phạm vương thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân Đế-thích mới có thể hóa độ, liền hiện thân Đế-thích thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân Tự tại thiên mới có thể hóa độ, liền hiện thân Tự tại thiên thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân Đại tự tại thiên mới có thể hóa độ, liền hiện thân Đại tự tại thiên thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân Thiên đại tướng quân mới có thể hóa độ, liền hiện thân Thiên đại tướng quân thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân Tỳ-sa-môn mới có thể hóa độ, liền hiện thân Tỳ-sa-môn thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân tiểu vương mới có thể hóa độ, liền hiện thân tiểu vương thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân trưởng giả mới có thể hóa độ, liền hiện thân trưởng giả thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân cư sĩ mới có thể hóa độ, liền hiện thân cư sĩ thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân tể quan mới có thể hóa độ, liền hiện thân tể quan thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân bà-la-môn mới có thể hóa độ, liền hiện thân bà-la-môn thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di mới có thể hóa độ, liền hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân phụ nữ là trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà-la-môn mới có thể hóa độ, liền hiện ra những thân phụ nữ như vậy thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân đồng nam, đồng nữ mới có thể hóa độ, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ thuyết pháp.

“Nếu phải dùng những thân trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân mới có thể hóa độ, liền hiện ra những thân như vậy thuyết pháp.

“Nếu phải dùng thân thần Chấp kim cang mới có thể hóa độ, liền hiện thân thần Chấp kim cang thuyết pháp.”

Phần đức Phật giải đáp chia làm 3 đoạn. Thứ nhất là giải đáp chi tiết; thứ hai là giải đáp tổng quát; thứ ba là khuyến khích sự cúng dường. “Nếu phải dùng” là giải đáp về sức phương tiện [của Bồ Tát], “liền hiện thân” là giải đáp câu hỏi “đi khắp như thế nào”; “thuyết pháp” là giải đáp sự thưa hỏi về khẩu. Tính chung có 33 thân [Bồ Tát ứng hiện], 19 cách thuyết pháp. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

“Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu những công đức như vậy, dùng đủ mọi hình tướng đi khắp các cõi nước mà độ thoát chúng sanh. Vì vậy các ông nên một lòng cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.

“Đại Bồ Tát Quán Thế Âm này, trong lúc nguy cấp sợ sệt thường mang đến sự an ổn không sợ sệt cho chúng sanh, nên trong cõi Ta-bà đều gọi ngài là bậc Thí Vô Úy.”

Từ câu “Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu những công đức như vậy” trở đi là kết lại phần giải đáp chi tiết, mở ra phần giải đáp tổng quát. Giải đáp chi tiết thì kinh văn nói rộng mà ý nghĩa hẹp, giải đáp tổng quát thì kinh văn hẹp mà ý nghĩa rộng. Đại lược là như thế.

Từ câu “Vì vậy các ông nên” là khuyến khích sự cúng dường, chia làm 2 đoạn. u Thứ nhất nêu việc [Phật] khuyến khích, thứ hai nói việc [Bồ Tát Vô Tận Ý] kính nhận lời khuyên.

KINH VĂN

Bồ Tát Vô Tận Ý thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Nay con xin cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.”

Liền cởi chuỗi ngọc quý trị giá trăm ngàn lượng vàng dâng lên Bồ Tát Quán Thế Âm, thưa rằng: “Thưa ngài, xin nhận món pháp thí là chuỗi ngọc quý này.”

Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm không nhận. Bồ Tát Vô Tận Ý lại thưa: “Thưa ngài! Xin thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này.”

Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Nên thương Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng, cùng hàng trời, người, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già mà nhận chuỗi ngọc này.”

Ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm vì thương Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng, cùng hàng trời, rồng, cho đến người, phi nhân... liền nhận chuỗi ngọc rồi chia làm hai phần, một phần dâng lên Phật Thích-ca Mâu-ni, một phần dâng lên tháp Phật Đa Bảo.

Đức Phật dạy: “Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần tự tại như vậy, đi khắp thế giới Ta-bà.”

[Đoạn thứ hai] nêu việc kính nhận lời khuyên lại có 6 tiểu đoạn. Thứ nhất kính vâng lời Phật [cúng dường]; thứ hai, [Bồ Tát] không thọ nhận; thứ ba, thưa thỉnh cúng dường lần nữa; thứ tư, đức Phật khuyến khích; thứ năm, [Bồ Tát] liền thọ nhận; thứ sáu, tóm kết. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.

KINH VĂN

Bấy giờ, Bồ Tát Trì Địa[28] từ chỗ ngồi đứng dậy thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào được nghe phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm này, nói về công hạnh tự tại với sức thần thông thị hiện khắp mọi nơi, nên biết rằng công đức của người ấy thật không nhỏ.”

Khi Phật thuyết phẩm Phổ môn này, trong chúng hội có tám mươi bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không gì so sánh được.

Từ câu “Bấy giờ, Bồ Tát Trì Địa” trở đi là nêu công đức của người được nghe phẩm kinh này. Đại lược là như vậy.

“Không gì so sánh được” là nói các tâm trong chín pháp giới không thể sánh đồng với thật lý.

1. Tâm của pháp giới Phật thì có thể sánh đồng với thật lý, cho nên không sánh đồng mà đồng.

2. Lại nữa, nói đến lý rốt ráo thì không thể sánh đồng, ban sơ nương theo lý rốt ráo mà phát tâm, có thể sánh đồng với lý cho nên nói là “không gì so sánh được”.

3. Lại nữa, tâm với lý đều không thể nắm bắt, vậy lấy vật gì so sánh với vật gì mà nói là “không thể so sánh”? Tâm với lý đều không thể giảng nói; không thể nói mà nói, nói tâm này sánh đồng với lý này, cho nên gọi là “không gì so sánh được”.

Ý thứ nhất là giải thích theo không gian, ý thứ hai là giải thích theo thời gian,[29] ý thứ ba là giải thích không theo thời gian cũng không theo không gian. Đại lược là như vậy.[30]

___________________________________


CHÚ THÍCH

[1] Văn Cú nói là “đương đồ vương kinh” (當途王經). Chữ “đồ” là đường đi, chỉ sự lưu truyền ở đời, chữ “vương” là vua, chỉ sự tôn quý bậc nhất.

[2] Những chỗ này Văn Cú dùng chữ “vân vân” (云云), có thể là lược đi so với ghi chép trong 2 quyển giảng giải như đã nói trước.

[3] Văn Cú nói là “任方圓” (nhậm phương viên), nghĩa là tùy duyên mà có thể vuông, có thể tròn, ý nói biến đổi thích hợp tùy trường hợp.

[4] Tích quán (析觀) là quán chiếu phân tích chia chẻ đối tượng; thể quán (體觀) là quán chiếu sâu vào bản thể, thực chất; thứ đệ quán (次第觀) là quán chiếu theo trình tự; viên quán (圓觀) là quán chiếu trọn vẹn, viên mãn.

[5] Văn Cú dùng “ly hoặc” (離惑) ở đây, nhưng trong phần giảng rộng theo sau dùng “đoạn hoặc” (斷惑).

[6] Bốn trụ địa phiền não: tức chỉ kiến hoặc và tư hoặc, bao gồm Kiến nhất thiết trụ địa (tức là hết thảy kiến hoặc trong ba cõi), Dục ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Dục giới), Sắc ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Sắc giới), Hữu ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Vô sắc giới). Bốn yếu tố này là căn bản khởi sinh của tất cả phiền não nên gọi là trụ địa. Các yếu tố này được gọi chung là kiến tư hoặc. Giáo lý tông Thiên Thai xác định Tam hoặc bao gồm kiến tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc. Vô minh hoặc cũng chính là trụ địa phiền não thứ năm trong ngũ trụ địa hoặc (五住地惑).

[7] Phần giải thích này dựa theo giáo nghĩa của tông Thiên Thai cho rằng Nhất thiết trí dứt trừ kiến tư hoặc, Đạo chủng trí dứt trừ trần sa hoặc, Nhất thiết chủng trí dứt trừ vô minh hoặc.

[8] Đạo tiền (道前): chí các giai vị trước khi chứng ngộ thực đạo, cũng gọi là Địa tiền. Đạo trung là giai đoạn tiếp tục tu tiến sau khi chứng ngộ thực đạo. Đạo hậu là giai vị đạt được chân như thanh tịnh vô cấu.

[9] Câu này trích từ phẩm Đệ tử trong kinh Duy-ma-cật. (不起滅定而現諸威儀 – Bất khởi diệt định nhi hiện chư oai nghi. (ĐCT, T14, 475, tr.539c, d.21-22) “Diệt định” trong câu này chỉ Diệt tận định, một pháp định rất sâu, hành giả khi nhập định dứt sạch mọi hoạt động tâm lý và an trú trong trạng thái vô tâm; “hiện các oai nghi” chỉ bốn oai nghi thường nhật tức là những việc đi, đứng, nằm, ngồi. Hàm ý câu này là người tu định vẫn hiện hình tướng đi đứng nằm ngồi như bình thường nhưng không hề ra khỏi thiền định.

[10] Văn Cú dùng Chi Phật (支佛), chỉ Bích-chi Phật, cũng tức là vị Duyên giác.

[11] Văn Cú dùng “tu-la cầm” (修羅琴), chỉ cây đàn của a-tu-la, có công năng đặc biệt là tự phát ra loại âm nhạc mà a-tu-la muốn nghe, không cần người khảy đàn, do vậy ở đây dùng so sánh với sự thuyết pháp của Bồ Tát có thể khiến cho mỗi chúng sanh tùy theo căn cơ mà đều được nghe đúng loại giáo pháp thích hợp với mình.

[12] Thần Nông nếm thuốc: truyền thuyết Trung Hoa cho rằng vua Thần Nông vì muốn tìm ra các loại thuốc trị bệnh cho dân nên đã tự mình nếm thử tất cả các loại cây cỏ trong tự nhiên để xác định mùi vị và dược tính cũng như phát hiện và chỉ cho dân biết những cây cỏ có độc. Tương truyền ông chết vì nếm phải một loại cỏ cực độc và không kịp dùng thuốc giải độc.

[13] Ở đây nêu ra những việc lợi ích do người làm như đào giếng giúp người có nước dùng, đóng thuyền giúp người qua sông; và những lợi ích từ tự nhiên như mây che tạo bóng mát, mặt trời chiếu sáng mỗi ngày. Tất cả những điều này được xác định “đều là chỗ làm của Bồ Tát”.

[14] Văn Cú dùng “nhị đế” (二帝) chỉ không đế (空帝) và giả đế (假帝), tức là 2 chân lý nhận ra được nhờ thực hành quán không (thấy được thực thể của hết thảy các pháp đều là không) và quán giả (thấy được hết thảy các pháp đều là giả hợp).

[15] Bồ Tát Vô Tận Ý (H. 無盡意, S. Akṣayamati), cũng được dịch là Vô Tận Tuệ (無盡慧) hay Vô Lượng Ý (無量意).

[16] Nguyên tác là “偏袒右肩 - thiên đản hữu kiên” (vạch trần vai bên phải). Đây là nghi thức bày tỏ sự tôn kính theo lễ nghi Ấn Độ thuở xưa.

[17] Bồ Tát Quán Thế Âm (H. 觀世音菩薩, S. Avalokiteśvara), dịch âm là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la (阿縛盧枳低濕伐羅), cũng dịch nghĩa thành các tên khác như Quang Thế Âm (光世音), Quán Tự Tại (觀自在), Quán Thế Tự Tại (觀世自在), Quán Thế Âm Tự Tại (觀世音自在), Hiện Âm Thanh (現音聲), Khuy Âm (闚音), thường gặp cách gọi tắt là Bồ Tát Quán Âm (觀音菩薩).

[18] Trong đoạn này Văn Cú dùng “kỳ nhất” (其一), “kỳ nhị” (其二), “kỳ tam” (其三), “kỳ tứ” (其四), dựa theo Văn Cú ký giải thích là chỉ đến bốn tất đàn.

[19] Hai sự trang nghiêm: chỉ định và tuệ, cũng được giải thích là phước đức và trí tuệ. Có đủ hai phẩm tính này gọi là “cụ nhị trang nghiêm” (具二莊嚴).

[20] Trường hợp thứ nhất là “多苦苦一人” (đa khổ khổ nhất nhân) có vẻ như tương tự với trường hợp thứ ba là “一人受多苦” (nhất nhân thụ đa khổ). Tuy nhiên, có thể hiểu trong trường hợp thứ nhất là nhiều nỗi khổ cùng dồn ép vào làm khổ một người; còn trường hợp thứ ba là một người tuần tự trải qua nhiều nỗi khổ, chịu nhiều nỗi khổ.

[21] Nguyên tác là “黑風 - hắc phong” (gió đen), chỉ cơn bão lớn kèm theo mây đen, mưa lớn, khiến trời đất tối đen không còn ánh sáng.

[22] Thương chủ: người cầm đầu, dẫn đầu một đoàn thương nhân cùng đi buôn đường xa.

[23] Bảy loại khổ nạn được nêu lần lượt trong phẩm kinh này là: nạn lửa thiêu, nạn nước trôi, nạn la-sát, nạn dao gậy đánh chém, nạn các loài quỷ dữ, nạn gông cùm và nạn giặc cướp.

[24] Văn Cú nói “Phi tưởng thiên” (非想天), tức là cách nói tắt để chỉ cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ (非想非非想處天). Đây là tầng trời cao nhất của cõi Vô sắc nên cũng là cao nhất trong ba cõi.

[25] Ba món độc: chỉ tham, sân và si. Trong phẩm kinh này nói người trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm có thể xa lìa được ba món độc này.

[26] Hai sự mong cầu: chỉ việc cầu sinh con trai và cầu sinh con gái. Phẩm kinh này nói rằng người trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm nếu có hai sự mong cầu này sẽ được thỏa mãn.

[27] Tam mật (三密): tức thân mật, khẩu mật và ý mật. Vì ba nghiệp thân, khẩu, ý của bậc thánh là ẩn mật sâu kín, phàm phu không thể nhận biết, suy lường nên gọi là tam mật.

[28] Bồ Tát Trì Địa (H. 持地菩薩, S. Dharaṇīndhara).

[29] Văn Cú dùng “hoành thích” (橫釋) để chỉ cách giải thích không theo trình tự thời gian, nghĩa là đồng thời xảy ra và “thụ thích” (豎釋) để chỉ cách giải thích theo trình tự thời gian, như đề cập đến lúc ban sơ phát tâm rồi tu tập dần lên…

[30] Phần giảng giải của Văn Cú không đề cập đến kệ tụng theo sau kinh văn trường hàng. Văn Cú ký giải thích rằng do bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập không có phần kệ tụng. Theo Tục tăng truyện thì phần kệ này về sau do ngài Xà-na-quật-đa dịch thêm vào, nhưng giảng giải của Văn Cú là dựa theo bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập nên cũng không có phần kệ tụng.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 20 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.169 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...