KINH VĂN
Phẩm Công đức pháp sư, thứ mười chín
Giải thích tên phẩm
Ý nghĩa “pháp sư” thì [trong phẩm Pháp sư] ở trước đã nói. Về ý nghĩa “công đức”, phần trước đã nói công đức ban đầu của hạng người đầu tiên [nghe kinh tùy hỷ], nay nói về các hạng cao hơn trong 5 hạng,[1] tức là nói được sáu căn thanh tịnh.
1. Có hai loại trang nghiêm, bên trong và bên ngoài. Đạt được ý căn thanh tịnh gọi là trang nghiêm bên trong, được 5 căn khác thanh tịnh gọi là trang nghiêm bên ngoài.
Lại nữa, từ cõi địa ngục trở lên cho đến từ cõi Phật trở xuống, tất cả màu sắc hình tượng đều hiện ra trong thân, đó gọi là trang nghiêm bên trong. Từ cõi địa ngục trở lên cho đến từ cõi Phật trở xuống, tất cả màu sắc hình tượng đều có thể dùng phép Tam-muội Phổ hiện mà hóa hiện bên ngoài, đó gọi là trang nghiêm bên ngoài.
Thân căn đã được như vậy, năm căn khác cũng đều như vậy.
Việc đọc tụng đã [được công đức] như vậy, 4 loại khác cũng đều như vậy.[2]
Hạng đầu tiên [tùy hỷ] đã được như vậy, bốn hạng sau lại càng hơn thế nữa.
[Giai đoạn] tương tự đã được như vậy, [các giai đoạn] phần chứng và chân thật lại càng hơn gấp bội.[3]
2. Người tu hành được nghe dạy về lợi ích công đức này thì vui mừng không tự kiềm chế được, càng thêm chuyên cần cầu học không hề chán mệt, tăng thêm gấp bội niềm tin và sự tinh tấn.
3. Rõ biết rằng giáo pháp Đại thừa có sức mạnh lớn lao, trong tâm quyết định, dứt sạch mọi điều nghi hoặc.
4. [Công đức của] người chỉ mới vừa nhận hiểu tương tự ở bước đầu tiên đã vượt hơn xa quả vị tột cùng của hàng Nhị thừa gấp trăm ngàn vạn lần. [Đức Phật] chỉ rõ [công đức] của người sơ cơ bắt đầu để làm sáng tỏ [công đức] cuối cùng sẽ đạt được, khiến cho thấu hiểu rốt ráo Đệ nhất nghĩa đế, không thể nghĩ bàn.
Trong phẩm này nêu rõ đầy đủ 4 ý như trên,[4] cho nên gọi là phẩm Công đức pháp sư.
Về công đức của sáu căn, ngài Quang Trạch cho rằng, đem ba nghiệp [thân, khẩu, ý] phối hợp với mười nghiệp lành, mỗi nghiệp lành đều có đủ 10, tức là 100; hợp với bốn pháp tự thực hành, giáo hóa người khác, tùy hỷ và tán thán, tính chung thành 400; lại nhân lên với 5 loại pháp sư thành 2.000, nhân với ba phẩm tức là 6.000 công đức. Ở cõi [Ta-bà] này có ba căn được vận dụng yếu nên nói giảm đi còn 800 [công đức], ba căn được vận dụng mạnh nên nói tăng thêm là 1.200 công đức, hợp cả hai phần nói tăng và nói giảm thì cũng vẫn là 6.000 công đức.
Lại có người giải thích cùng con số như ngài Quang Trạch nhưng phân chia ba phẩm: phẩm hạ 800, phẩm trung 1.000, phẩm thượng 1.200.
Các vị thầy giải thích thiên lệch như vậy đều chưa tương hợp với ý nghĩa kinh này, lại cũng không phù hợp với các phần giáo pháp khác.
Đại phẩm Bát-nhã nói rằng: “Sắc thanh tịnh nên Bát-nhã thanh tịnh; Bát-nhã thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Sắc thanh tịnh nên năm căn thanh tịnh; Bát-nhã thanh tịnh nên ý căn thanh tịnh.” Nếu sáu căn bình đẳng như nhau, tại sao cho rằng có ba bậc thượng, trung, hạ; có sự vận dụng mạnh yếu khác nhau; một căn mạnh một căn không mạnh; một căn thanh tịnh một căn không thanh tịnh; một căn là phẩm thượng những căn khác không phải là phẩm thượng? Đại lược là như thế.
Kinh Chánh Pháp hoa nêu đầy đủ 6.000 công đức, không hề bàn đến thượng, trung, hạ. Đại lược là như vậy.
Luận Pháp hoa nói rằng: “Người phàm nhờ sức của kinh này nên đạt được chỗ vận dụng thù thắng của các căn. Tuy chưa vào Sơ địa mà có thể dùng nhục nhãn do cha mẹ sinh ra để nhìn thấy khắp trong ngoài thế giới đại thiên.”
Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Mỗi một căn của Như Lai đều có thể nhìn thấy hình sắc, nghe âm thanh, ngửi mùi, nếm vị, xúc chạm, biết pháp.”[5]
Nay kinh này nói sáu căn thanh tịnh là tương đồng với Đại phẩm Bát-nhã; nói dùng công đức [thanh tịnh sáu căn] này để trang nghiêm sáu căn là tương đồng với Chánh Pháp hoa; nói mũi có thể thấy hình sắc, nghe âm thanh, xúc chạm rõ biết là tương đồng với kinh Đại Bát Niết-bàn; nói nhục nhãn của phàm phu [cũng có thể] có công dụng như thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn là tương đồng với luận [Pháp hoa]. Ý nghĩa của kinh văn như vậy, không thể dùng cách nhìn sai lệch mà gượng ép làm lệch ý kinh.
Bây giờ sẽ giải thích, con số của ngài Quang Trạch thì đủ, nhưng nói về các căn không y theo kinh văn. Nay dựa theo ba nghiệp trong phẩm Hạnh an vui thì có 10 việc thiện; mỗi việc thiện đều có 10 điều, tức là 100 điều thiện. Trong mỗi điều thiện lại có 10 như, tức là 1.000 điều thiện. [Đây là tự thực hành, cộng thêm] giáo hóa người khác là thành 2.000. Dựa theo [ba việc] vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai tức thành 6.000 [công đức].
[Lại nữa,] năm loại pháp sư đều có đầy đủ sáu căn thanh tịnh, mỗi căn đều có 1.000 công đức, [tức là 6.000 công đức].
Lại nữa, trong mỗi một tâm đều có 10 pháp giới, mỗi một pháp giới đều có 10 như thị, tức là 100; mỗi một căn đều thông tiếp với sáu trần, tức là 600. Dựa vào hai sự trang nghiêm là định và tuệ, tức thành 1.200. Mỗi căn đều vận dụng hai sự trang nghiêm là định tuệ, nên đều có 1.200 công đức, bình đẳng như nhau.
Nếu bàn về sáu căn thanh tịnh, đã thanh tịnh thì không nói đến nhiều hoặc ít công đức. Nếu nói trang nghiêm thì có thể đầy đủ, có thể thiếu sót, có thể bằng nhau; trang nghiêm bằng nhau thì mỗi căn đều có 6.000 công đức. Nếu nói 1.200 công đức là làm rõ việc có thể đầy đủ; nếu nói 800 công đức là làm rõ việc có thể thiếu sót.
Nếu nói thanh tịnh thì không có đầy đủ, không có thiếu sót, không có bằng nhau, sáu căn vận dụng qua lại, đều là tự tại, không thể nghĩ bàn. Nếu nhận thức thiên lệch sẽ lạc mất ý chỉ.
Về giai vị Tương tự, nếu dựa theo tứ luân thì đây là giai vị Thiết luân; nếu dựa theo [thang bậc] 52 giai vị thì là Thập tín tâm; nếu dựa theo kinh Nhân vương thì là Thập thiện đại tâm. Nay đối với nghĩa thường tinh tấn thì đây là [Tinh tấn tâm], tức là tâm thứ ba trong Thập tín. Tuy các kinh gọi tên khác nhau nhưng đều tương đồng với giai vị Tương tự của Viên giáo.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Thường Tinh Tấn: “Nếu có thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh Pháp hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, người ấy sẽ được tám trăm công đức của mắt, một nghìn hai trăm công đức của tai, tám trăm công đức của mũi, một nghìn hai trăm công đức của lưỡi, tám trăm công đức của thân, một nghìn hai trăm công đức của ý;[6] dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn, khiến cho tất cả đều thanh tịnh.”
Kinh văn phẩm này chia làm hai phần. Trước tiên là liệt kê tổng quát về sáu căn cùng với số lượng công đức đầy đủ và thiếu sót. Phần tiếp theo chia riêng sáu đoạn để giải thích [về mỗi căn]. Mỗi phần đều chia ra có kinh văn trường hàng và kệ tụng.
KINH VĂN
“Người thiện nam hoặc thiện nữ ấy, với mắt phàm tục do cha mẹ sinh ra, nhờ thanh tịnh nên thấy hết những gì trong thế giới đại thiên, cả trong lẫn ngoài, từ núi rừng, sông biển, xuống tới địa ngục A-tỳ, lên đến cõi trời Hữu đỉnh, cũng thấy hết thảy chúng sinh trong đó cùng với nhân duyên nghiệp quả, nơi sinh ra của họ, thấy biết tất cả.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng:
“Hãy lắng nghe công đức,
Của người giữa đại chúng,
Dùng tâm không sợ sệt,
Thuyết kinh Pháp hoa này.
Người ấy được tám trăm,
Công đức mắt thù thắng;
Nhờ sự trang nghiêm ấy,
Nên mắt rất thanh tịnh;
Mắt do cha mẹ sinh,
Thấy hết cõi đại thiên,
Trong ngoài núi Di-lâu,
Núi Tu-di, Thiết vi…
Cùng những núi rừng khác,
Biển lớn và sông ngòi,
Dưới đến ngục A-tỳ,
Trên thấu trời Hữu đỉnh,
Bao chúng sanh trong đó,
Hết thảy đều thấy rõ.
Tuy chưa được thiên nhãn,
Mắt phàm thấy như vậy.”
Phần giải thích nhãn căn nêu việc dùng nhục nhãn cha mẹ sinh ra mà có thể thấy được hơn cả thiên nhãn. Phạm vương nhờ phước báo nên có được thiên nhãn, ở tại thế giới của mình thì có thể nhìn thấy khắp cùng thế giới đại thiên. Nhưng bên ngoài thế giới đại thiên có phong luân gây chướng ngại tầm nhìn nên [thiên nhãn cũng] không thể thấy ra bên ngoài. Nếu [Phạm vương] ở thế giới khác thì cũng không thể nhìn thấy khắp thế giới đại thiên, vì không nằm trong sự thống lĩnh của mình.
Tiểu La-hán thấy được [khắp thế giới] tiểu thiên, Đại La-hán thấy được [khắp thế giới] đại thiên. Vị Duyên giác thấy được 100 cõi Phật, không bị phong luân làm chướng ngại, cũng không bị ngăn cách giữa thế giới của mình đang ở và các thế giới khác.
Nay kinh này nói về con mắt có thể thấy cả trong ngoài thế giới đại thiên, lẽ ra phải là thiên nhãn, sao lại gọi là nhục nhãn? Đây chính là giai vị Tương tự của Viên giáo, nhờ sức của kinh nên có được công dụng thù thắng của các căn, nhưng chưa phát khởi tánh thể chân thật nên không gọi là thiên nhãn, vẫn gọi là nhục nhãn. Cũng giống như phương tiện Tiểu thừa, chưa được thần thông thì không gọi là thiên nhãn. Vẫn còn mang thân phần đoạn nên gọi là do cha mẹ sinh ra.
Tuy gọi là nhục nhãn nhưng có đủ công dụng của năm loại mắt. Thấy khắp trong ngoài thế giới đại thiên là công dụng của thiên nhãn; thấy được tất cả chúng sanh cùng với nghiệp nhân duyên của họ là công dụng của pháp nhãn; mắt này hết sức thanh tịnh là công dụng của tuệ nhãn; cùng lúc thấy được khắp trong ngoài thế giới đại thiên, thấy cả nghiệp cảnh và tịnh cảnh, lại có thể điều phục trọn vẹn phiền não mê hoặc vi tế của pháp giới là công dụng của Phật nhãn.
Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Tuy có nhục nhãn nhưng gọi là Phật nhãn. Vì là Phật nhãn nên gọi là thanh tịnh. Vì đầy đủ năm loại mắt nên nói là trang nghiêm.”
Có thể đầy, có thể khuyết, gọi là công dụng thù thắng của các căn, gọi là căn tự tại, há có thể giải thích là chỉ tạo ra 800 hay 1.200 công đức thôi sao?
KINH VĂN
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của tai. Người ấy dùng tai thanh tịnh nghe được trong khắp thế giới đại thiên, dưới xuống đến địa ngục A-tỳ, trên lên tới cõi trời Hữu đỉnh, đủ mọi âm thanh, ngôn ngữ ở bên trong và bên ngoài, như tiếng voi, ngựa, trâu bò, tiếng xe cộ; tiếng kêu khóc, tiếng than thở; tiếng tù và, tiếng trống, chuông, chuông lắc;[7] tiếng cười nói, tiếng đàn ông, đàn bà, tiếng trẻ em trai gái; tiếng đúng pháp, tiếng không đúng pháp; tiếng khổ đau, tiếng ưa thích; tiếng phàm phu, tiếng bậc thánh; tiếng vui mừng, tiếng không vui; tiếng chư thiên, tiếng các loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già; tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió; tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỷ; tiếng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật… Nói tóm lại là hết thảy mọi âm thanh bên trong và bên ngoài cõi thế giới đại thiên. Người ấy tuy chưa đạt được thiên nhĩ, nhưng với tai phàm tục do cha mẹ sinh ra, nhờ thanh tịnh nên nghe biết được hết thảy, phân biệt đủ mọi âm thanh như vậy mà nhĩ căn không bị hư hoại.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:
“Lỗ tai cha mẹ sinh,
Khi thanh tịnh vô nhiễm,
Có thể dùng lắng nghe,
Âm thanh khắp thế giới.
Tiếng voi, ngựa, trâu bò,
Chuông, linh, tù và, trống,
Đàn cầm, sắt, không hầu,
Tiếng tiêu hoặc tiếng địch,
Tiếng ca hát thanh tịnh,
Nghe mà không bám chấp;
Vô số loại ngôn ngữ,
Nghe rồi đều hiểu rõ;
Lại nghe tiếng chư thiên,
Tiếng xướng ca nhiệm mầu,
Tiếng kẻ nam người nữ,
Tiếng trẻ gái cùng trai;
Tiếng núi sâu, khe hiểm,
Tiếng ca-lăng-tần-già,
Các chim như mạng mạng…
Đều nghe được tiếng hót;
Tiếng khổ đau địa ngục,
Các âm thanh độc hại,
Tiếng ngạ quỷ đói khát,
Cầu xin được ăn uống,
Tiếng các a-tu-la,
Sống nơi vùng ven biển,
Lúc trò chuyện cùng nhau,
Phát ra âm thanh lớn.
Như vậy, người thuyết pháp,
Chỉ ở yên nơi này,
Nghe được âm thanh xa,
Nhĩ căn không tổn hại.
Trong mười phương thế giới,
Chim, thú kêu gọi nhau,
Người thuyết pháp ở đây,
Đều nghe rõ tất cả.
Từ trên cõi Phạm thiên,
Cõi Quang âm, Biến tịnh,
Cho đến trời Hữu đỉnh,
Những âm thanh ngôn ngữ,
Vị pháp sư ở đây,
Đều nghe được tất cả.
Hết thảy chúng tỳ-kheo,
Hoặc các tỳ-kheo-ni,
Khi tụng đọc kinh điển,
Giảng giải cùng người khác,
Vị pháp sư ở đây,
Đều nghe được tất cả.
Lại có các Bồ Tát,
Tụng kinh điển, giáo pháp,
Hoặc giảng cho người khác,
Hoặc biên soạn, giải nghĩa,
Những âm thanh như vậy,
Pháp sư đều nghe được.
Chư Phật bậc Đại thánh,
Khi giáo hóa chúng sanh,
Ở giữa các Đại hội,
Diễn giảng pháp nhiệm mầu;
Người trì kinh Pháp hoa,
Đều nghe được tất cả.
Những âm thanh trong, ngoài
Cõi thế giới đại thiên,
Trên từ trời Hữu đỉnh,
Xuống tận ngục A-tỳ,
Nghe hết mọi âm thanh,
Nhĩ căn không tổn hại,
Nhờ tai được nhạy bén,
Phân biệt nghe biết cả.
Người trì kinh Pháp hoa,
Tuy chưa được thiên nhĩ,
Chỉ dùng tai phàm tục,
Nhờ công đức được vậy.”
Phần nói về nhĩ căn, [kinh văn nói rằng] có thể nghe âm thanh của mười pháp giới ở khắp trong ngoài thế giới đại thiên.
Nghe được âm thanh trong sáu đường[8] tức là hai loại nhục nhĩ và thiên nhĩ. Nghe được âm thanh của hàng Nhị thừa tức là tuệ nhĩ. Nghe được âm thanh của Bồ Tát tức là pháp nhĩ. Nghe được âm thanh của Phật tức là Phật nhĩ.
Lại nữa, lỗ tai cha mẹ sinh ra là nhục nhĩ; có thể nghe cả trong ngoài tức là thiên nhĩ; tuy nghe mà không dính mắc tức là tuệ nhĩ; nghe không sai lầm tức là pháp nhĩ; cùng lúc có thể nghe bằng các căn khác[9] tức là Phật nhĩ.
Nếu dùng trường hợp của tai để nói về mắt thì mắt cũng giống như vậy. Nhìn thấy hai cõi trời, người là 2 loại [thiên nhãn và nhục nhãn]; nhìn thấy hàng Nhị thừa là tuệ nhãn; nhìn thấy hàng Bồ Tát là pháp nhãn; nhìn thấy Phật là Phật nhãn. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được tám trăm công đức của mũi. Người ấy dùng mũi thanh tịnh ngửi được đủ các loại mùi hương ở bên trên, bên dưới, bên trong và bên ngoài thế giới đại thiên, như hương các loại hoa tu-mạn-na, xà-đề, mạt-lợi, chiêm-bặc, ba-la-la, sen đỏ, sen xanh, sen trắng; hương hoa của cây, hương trái của cây, hương chiên-đàn, hương trầm thủy, hương đa-ma-la-bạt,[10] hương đa-già-la,[11] cùng ngàn muôn loại hương hòa hợp, hoặc hương bột, hương viên, hương thoa, người trì kinh Pháp hoa dù ở tại đây đều có thể phân biệt được. Lại có thể biết mùi hương khác biệt của các chúng sinh như mùi của voi, ngựa, trâu bò, dê..., hương đàn ông, đàn bà, trẻ em trai gái; hương cỏ cây rừng rậm, hoặc gần hoặc xa, tất cả các loại mùi hương đều ngửi biết, phân biệt không sai lầm.
“Người trì kinh này tuy ở tại đây cũng ngửi được các mùi hương trên cõi trời, như hương cây ba-lợi-chất-đa-la,[12] cây câu-bệ-đà-la,[13] cùng hương các loại hoa như mạn-đà-la, đại mạn-đà-la, mạn-thù-sa, đại mạn-thù-sa; hương chiên-đàn, trầm thủy, các thứ hương bột, các loại hương hoa trộn lẫn... những thứ hương cõi trời như thế hòa hợp tỏa ra, không loại nào không ngửi biết.
“Lại ngửi được mùi hương trên thân của chư thiên, như hương của Thích Đề Hoàn Nhân[14] khi ngự trên Thắng điện, hoặc khi đang vui chơi thụ hưởng năm món dục; hoặc khi ở trên Diệu pháp đường vì chư thiên cõi trời Đao-lợi thuyết pháp; hoặc khi dạo chơi trong các khu vườn trời; cùng với mùi hương trên thân của chư thiên nam nữ khác, đều có thể từ xa ngửi được.
“Như thế dần lên đến chư thiên cõi Phạm thế,[15] lên trên đến cõi trời Hữu đỉnh, cũng đều ngửi được mùi hương trên thân chư thiên, cùng với mùi hương mà chư thiên đốt lên. Lại cũng từ xa ngửi được mùi hương trên thân của các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật, biết được chư vị đang ở đâu.
“Tuy ngửi được đủ các thứ hương như vậy nhưng mũi không tổn hại, không nhầm lẫn, nếu muốn vì người khác phân biệt nói ra thì đều ghi nhớ không sai lầm.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Người có mũi thanh tịnh,
Ở trong thế giới này,
Mọi hương thơm, mùi hôi,
Hết thảy đều ngửi biết.
Hương tu-mạn, xà-đề,
Đa-ma-la, chiên-đàn,
Hương trầm thủy, hương quế,
Các loại hương hoa trái.
Ngửi được hương chúng sinh,
Như hương người nam, nữ.
Người thuyết pháp ở xa,
Ngửi hương, biết chỗ ở.
Đại thế Chuyển luân vương,
Tiểu Chuyển luân, thái tử,
Quần thần, các cung nhân,
Ngửi hương biết ở đâu.
Châu báu đeo trên thân,
Kho báu chôn trong đất,
Bảo nữ Chuyển luân vương,
Ngửi hương biết ở đâu.
Người khác làm đẹp thân,
Với y phục, chuỗi ngọc,
Các loại hương thoa thân,
Ngửi hương, biết thân người.
Chư thiên đi hoặc ngồi,
Vui chơi, hiện thần biến,
Người trì kinh Pháp hoa,
Ngửi hương đều biết được.
Hoa, trái, hạt các cây,
Hoặc hương từ tô du,[16]
Người trì kinh ở đây,
Đều biết được ở đâu.
Trong núi sâu hiểm trở,
Cây chiên-đàn nở hoa,
Có chúng sinh ở đó,
Ngửi hương đều biết được.
Núi Thiết vi, biển cả,
Chúng sinh trong lòng đất,
Người trì kinh ngửi hương,
Đều biết được ở đâu.
Nam, nữ a-tu-la,
Cùng quyến thuộc của họ,
Khi đánh nhau, vui chơi,
Ngửi hương đều biết được.
Nơi đồng hoang, hiểm trở,
Sư tử, voi, cọp, sói,
Trâu rừng, hoặc trâu nước...
Ngửi mùi biết ở đâu.
Nếu có người mang thai,
Chưa rõ trai hay gái,
Không giác quan, phi nhân…
Ngửi hương đều biết ngay.
Do năng lực ngửi hương,
Vừa mang thai đã biết,
Việc an ổn sinh con
Có thành tựu hay không.
Do năng lực ngửi hương,
Biết ý nghĩ trai, gái,
Tâm tham dục, sân, si,
Cũng biết người tu thiện.
Những kho tàng chôn giấu,
Chứa vàng bạc, châu báu,
Hoặc đồ chứa bằng đồng,
Ngửi hương đều biết được.
Hoặc các loại chuỗi ngọc,
Không ai biết giá bán,
Ngửi hương biết đắt, rẻ,
Từ đâu đến, ở đâu.
Các loài hoa cõi trời,
Mạn-đà, mạn-thù-sa,
Cây ba-lợi-chất-đa,
Ngửi hương đều rõ biết.
Những cung điện cõi trời,
Có hoa báu trang ngiêm,
Thượng, trung, hạ sai khác,
Ngửi hương đều rõ biết.
Vườn cõi trời, Thắng điện,
Đài quán, Diệu pháp đường,
Chư thiên vui trong đó,
Ngửi hương đều rõ biết.
Hoặc chư thiên nghe pháp,
Khi hưởng năm món dục,
Qua lại, đi, nằm, ngồi,
Ngửi hương đều rõ biết.
Y phục các thiên nữ,
Hương hoa đẹp trang nghiêm,
Khi dạo chơi loanh quanh,
Ngửi hương đều rõ biết.
Như thế dần trở lên,
Cho đến cõi Phạm thế,
Chư thiên xuất, nhập thiền,
Ngửi hương đều rõ biết.
Trời Quang âm, Biến tịnh,
Cho đến trời Hữu đỉnh,
Chư thiên sinh, diệt mất,
Ngửi hương đều rõ biết.
Như các vị tỳ-kheo…
Lúc tinh tấn tu tập,
Hoặc ngồi hoặc kinh hành,
Hoặc tụng đọc kinh điển;
Dưới cội cây trong rừng,
Chỉ chuyên tâm ngồi thiền;
Người trì kinh, ngửi hương,
Liền biết được nơi chốn.
Bồ Tát chí kiên cố,
Hoặc ngồi thiền, tụng kinh,
Hoặc vì người thuyết pháp,
Ngửi hương đều rõ biết.
Chư Phật khắp mười phương,
Được tất cả cung kính,
Thương chúng sinh thuyết pháp,
Ngửi hương đều rõ biết.
Chúng sinh ở trước Phật,
Nghe kinh đều hoan hỷ,
Y theo pháp tu hành,
Ngửi hương đều rõ biết.
Chưa được mũi sinh từ
Pháp Vô lậu Bồ-tát,
Người trì kinh đã được,
Năng lực mũi như vậy.”
Phần nói về tị căn cũng giống như vậy. Lỗ mũi do cha mẹ sinh ra tức là nhục tị. Ngửi được khắp bên trong và bên ngoài thế giới đại thiên tức là thiên tị. Ngửi mùi mà không uế nhiễm, không dính mắc tức là tuệ tị. Ngửi mùi mà phân biệt không sai lầm tức là pháp tị. Cùng lúc có thể ngửi bằng các căn khác tức là Phật tị.
Phần này nêu rõ công dụng hỗ tương [giữa các căn]. Dùng mũi ngửi có thể biết tốt xấu, phân biệt được sang hèn, nhìn thấy cả cung điện cõi trời trang nghiêm, tức là mũi có công dụng như mắt; đối với người đọc kinh, thuyết pháp, ngửi mùi hương có thể rõ biết, tức là mũi có công dụng như tai; ngửi mùi hương biết được các loại cây, hoa, trái, hạt, tô du… tức là mũi có công dụng như lưỡi. “Chư thiên xuất, nhập thiền, ngửi hương đều rõ biết”, thiền có 8 loại xúc chạm, “khi hưởng năm món dục”, cũng là xúc pháp, nên mũi có công dụng như thân. Dùng mũi ngửi biết được “tâm tham dục, sân, si; cũng biết người tu thiện”, tức là mũi có công dụng như ý. Tị căn tự tại có công dụng thù thắng như vậy. Dựa theo đó thì biết năm căn khác cũng đều như vậy.
KINH VĂN
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của lưỡi. [Thức ăn dù] tốt hay xấu, ngon hay không ngon, hoặc đắng chát, khi chạm đến lưỡi của người ấy đều hóa thành vị ngon thượng hạng, như cam lộ cõi trời, không món nào là không ngon ngọt. Nếu dùng lưỡi ấy giảng thuyết giữa đại chúng sẽ phát ra âm thanh sâu xa vi diệu đi vào lòng người, khiến người nghe đều được vui mừng thích thú.
“Lại có chư thiên nam nữ, các vị Đế thích, Phạm vương… nghe âm thanh sâu xa vi diệu ấy giảng giải luận bàn có trình tự thứ lớp, thảy đều đến nghe.
“Lại có các loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già cả nam lẫn nữ, vì nghe pháp nên đều tìm đến gần gũi cung kính cúng dường.
“Lại có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, quốc vương, thái tử, quần thần, quyến thuộc, Tiểu Chuyển luân vương, Đại Chuyển luân vương với đủ bảy báu,[17] một nghìn người con cùng nội ngoại quyến thuộc, ngồi trên các cỗ xe báu[18] cùng đến nghe pháp. Đó là do Bồ Tát [trì kinh Pháp hoa] này giỏi việc thuyết pháp.
“Người ấy lại được hàng bà-la-môn, cư sĩ, nhân dân trong nước thường trọn đời theo hầu hạ cúng dường. Các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật thường muốn gặp vị ấy. Người ấy ở phương nào thì chư Phật đều hướng về nơi đó thuyết pháp; người ấy có thể thọ trì tất cả pháp Phật, lại có thể tự mình nói ra pháp âm sâu xa vi diệu.”
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:
“Lưỡi người này thanh tịnh,
Không phải nếm vị dở,
Dù ăn uống món gì,
Đều hóa thành cam lộ.
Dùng âm thanh sâu mầu,
Thuyết pháp giữa đại chúng,
Dùng nhân duyên thí dụ,
Dẫn dắt tâm chúng sinh.
Người nghe đều hoan hỷ,
Cúng dường các món ngon.
Chư thiên, rồng, dạ-xoa,
Các loài a-tu-la…
Đều khởi tâm cung kính,
Cùng đến nghe thuyết pháp.
Người thuyết pháp như vậy,
Nếu muốn cho diệu âm,
Vang khắp cùng thế giới,
Tùy ý làm được ngay.
Tiểu, Đại Chuyển luân vương,
Cùng nghìn con, quyến thuộc,
Tâm cung kính, chắp tay,
Tìm đến nghe thuyết pháp.
Chư thiên, rồng, dạ-xoa,
La-sát, tỳ-xá-xà,
Cũng dùng tâm hoan hỷ,
Thường vui thích cúng dường.
Phạm thiên vương, Ma vương,
Tự tại, Đại tự tại…
Các thiên chúng như vậy,
Thường đến chỗ người này.
Chư Phật cùng đệ tử,
Nghe người ấy thuyết pháp,
Thường nhớ nghĩ, hộ trì,
Hoặc vì người hiện thân.”
Phần nói về thiệt căn cũng giống như vậy. Lưỡi do cha mẹ sinh ra tức là nhục thiệt, có thể nói được các ngôn ngữ trong khắp mười pháp giới, dựa theo khả năng này thì phân biệt được năm loại lưỡi. Nếu có thể nói đủ các ngôn ngữ trong khắp mười pháp giới tức là thiên thiệt; không nói ra những lời gây tổn hại, hư hoại tức là tuệ thiệt; không nói những lời sai lầm tức là pháp thiệt; cùng lúc có thể dùng như các căn khác tức là Phật thiệt. Đại lược là như vậy.
Hỏi: Các vị đắng, chát, không tốt khi chạm đến lưỡi “đều hóa thành vị ngon thượng hạng”, tại sao các màu sắc khi mắt nhìn thấy lại không hóa thành những màu tốt đẹp?
Đáp: Các nhà cựu giải cho rằng so sánh như vậy không giống nhau. Mùi vị có tổn hại, có giúp ích; có tổn hại nên biến đổi khác đi, không tổn hại thì không biến đổi. Các màu sắc không làm tổn hại mắt, cho nên so sánh như vậy không giống nhau.
Nay không giải thích như vậy. Hết thảy màu sắc đều đồng như sắc Phật; hết thảy âm thanh đồng như âm thanh Phật, tất cả đều thanh tịnh bình đẳng như nhau thì ví dụ nêu ra đó không có gì chướng ngại. Rõ biết khắp thảy các pháp hình sắc, các pháp âm thanh mà không rối loạn, không sai lầm, dù phân biệt cũng không chướng ngại. Các căn đã được tự tại, há có thể giải thích theo cách cứng nhắc như trên được sao?
KINH VĂN
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được tám trăm công đức của thân, được thân thanh tịnh như lưu ly trong suốt, chúng sanh đều vui thích ngắm nhìn.
“Thân người ấy được thanh tịnh nên những việc như sinh ra, chết đi, cao thấp, tốt xấu, sinh về cõi lành, cõi xấu ác… của tất cả chúng sanh trong thế giới đại thiên, hết thảy đều [có hình ảnh] hiện ra trong thân [lưu ly trong suốt] ấy.
“Lại nữa, các núi như Thiết vi, Đại Thiết vi, Di-lâu, Đại Di-lâu… cùng những chúng sinh sống trong đó, hết thảy đều hiện ra trong thân ấy.
“Lại nữa, từ địa ngục A-tỳ ở bên dưới lên trên đến cõi trời Hữu đỉnh, hết thảy hình tượng cùng chúng sanh đều hiện ra trong thân ấy.
“Nếu có các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật thuyết pháp, thì trong thân người ấy đều hiện đủ các hình sắc cảnh tượng.”
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Nếu trì kinh Pháp hoa,
Được thân rất thanh tịnh,
Như lưu ly trong suốt,
Chúng sinh đều thích nhìn.
Lại như đài gương sáng,
Phản chiếu mọi hình tượng,
Bồ Tát thân thanh tịnh,
Nhìn thấy khắp thế gian,
Nhưng chỉ riêng mình biết,
Người khác không thấy được.
Trong thế giới đại thiên,
Bao chúng sinh mê mờ,
Trời, người, a-tu-la,
Địa ngục, quỷ, súc sinh,
Những hình tượng như thế,
Đều hiện ra nơi thân.
Những cung điện chư thiên,
Lên đến cõi Hữu đỉnh,
Núi Thiết vi, Di-lâu,
Hoặc núi Đại Di-lâu,
Cùng các vùng biển lớn,
Đều hiện ra nơi thân.
Chư Phật cùng Thanh văn,
Đệ tử Phật, Bồ Tát,
Độc cư, hoặc thuyết pháp
Giữa đại chúng, đều hiện.
Chưa được thân vi diệu,
Từ pháp tánh vô lậu,
Thể thanh tịnh thân phàm,
Tất cả đều hiện rõ.”
Phần nói về thân căn cũng giống như vậy. Khắp thảy thế gian này đều hiện nhục thân trong thân để sử dụng. “Lên đến cõi Hữu đỉnh” là nói [chư thiên] cũng hiện thiên thân trong thân để sử dụng. Hàng Nhị thừa trong thân hiện tuệ thân để sử dụng. Bồ Tát trong thân hiện pháp thân để sử dụng. Chư Phật trong thân hiện Phật thân để sử dụng, cùng lúc hiện ra viên mãn, cùng lúc vận dụng thay thế các căn, cùng lúc không có sai lầm, cùng lúc không có dính mắc. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của ý. Với ý căn thanh tịnh này, dù chỉ nghe một bài kệ, một câu kinh cũng thấu hiểu thông suốt ý nghĩa vô lượng vô biên. Hiểu được ý nghĩa ấy rồi, có thể diễn giảng một bài kệ, một câu kinh đó trong một tháng, bốn tháng, thậm chí một năm; những pháp thuyết giảng đều thuận theo ý nghĩa, không trái với thật tướng.
“Nếu người ấy giảng giải kinh sách thế gian, nói về thuật xử thế hoặc nghề nghiệp sinh nhai… cũng đều phù hợp với chánh pháp.
“Tất cả những biến chuyển, động khởi, tạo tác, hý luận trong tâm của hết thảy chúng sanh sáu cõi trong thế giới đại thiên, người ấy đều rõ biết. Người ấy tuy chưa đạt được trí tuệ vô lậu nhưng nhờ ý căn thanh tịnh như vậy nên mọi tư tưởng suy lường, nói năng đều là pháp Phật, tất cả đều chân thật, cũng đều là những điều chư Phật trước đây đã thuyết dạy trong kinh điển.”
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Người này ý thanh tịnh,
Sáng suốt không uế nhiễm,
Dùng ý căn nhiệm mầu,
Hiểu pháp thượng, trung, hạ.
Dù nghe một bài kệ,
Thấu suốt vô lượng nghĩa,
Tuần tự thuyết giảng lại,
Một tháng đến một năm.
Hết thảy mọi chúng sanh,
Trong, ngoài thế giới này,
Chư thiên, người, loài rồng,
Dạ-xoa, các quỷ thần…
Đang ở trong sáu đường,
Niệm tưởng vừa sinh khởi,
Phước báo trì Pháp hoa,
Tức thời rõ biết hết.
Vô số Phật mười phương,
Tướng trăm phước trang nghiêm,[19]
Vì chúng sanh thuyết pháp,
Đều nghe được, thọ trì.
Suy xét vô lượng nghĩa,
Thuyết pháp cũng vô lượng,
Trước sau không sai sót,
Trì Pháp hoa được vậy.
Hiểu thấu mọi tướng pháp,
Tùy nghĩa biết trước sau,
Thông suốt mọi tên gọi,
Theo chỗ biết diễn giải.
Người ấy nói điều gì,
Đều là pháp Phật xưa,
Vì diễn giảng pháp ấy,
Giữa đại chúng không sợ.
Người trì kinh Pháp hoa,
Ý thanh tịnh như thế,
Tuy chưa được vô lậu,
Được tướng như vậy trước.
Người trì kinh an trụ,
Nơi địa vị hy hữu,
Được hết thảy chúng sanh,
Đều hoan hỷ yêu kính.
Nhờ trì kinh Pháp hoa,
Nên biết ngàn muôn cách,
Khéo léo chọn ngôn từ,
Để phân biệt thuyết pháp.
Phần nói về ý căn cũng giống như vậy. Người thế gian theo “nghề nghiệp sinh nhai… cũng đều phù hợp với chánh pháp” là nhân ý thanh tịnh; “biến chuyển, động khởi, tạo tác, hý luận trong tâm… đều rõ biết” là thiên ý thanh tịnh.
“Bốn tháng” tức là Tứ đế; “một năm” có 12 tháng, tức là nói 12 nhân duyên; “không trái với thật tướng” tức là tuệ ý thanh tịnh; “một tháng” tức là Nhất thừa, tức là Bồ Tát ý thanh tịnh; “tư tưởng suy lường… đều là những điều chư Phật trước đây đã thuyết dạy trong kinh điển” tức là Phật ý thanh tịnh, cùng lúc sáng suốt viên mãn, cùng lúc vận dụng qua lại trọn vẹn với các căn, cùng lúc không uế nhiễm, không sai lầm, công dụng các căn đều tự tại, có thể đầy, có thể khuyết, có thể bình đẳng, thanh tịnh. Đại lược là như vậy.
____________________________
CHÚ THÍCH
[1] Phần trước đã giải thích, trong 5 hạng người nghe kinh Pháp hoa đời sau, gồm hạng thứ nhất là trực tiếp khởi tâm tùy hỷ, thứ hai là thêm tự mình thọ trì đọc tụng, thứ ba là thêm khuyến khích người khác thọ trì đọc tụng, thứ tư là tu tập thêm sáu ba-la-mật, thứ năm là chuyên tu công hạnh sáu ba-la-mật.
[2] Trong phẩm Pháp sư nói có 5 loại pháp sư. Thứ nhất là [pháp sư] thọ trì kinh; thứ hai là đọc kinh; thứ ba là tụng kinh; thứ tư là thuyết giảng kinh và thứ năm là sao chép kinh. Nếu theo đây thì có chút nhầm lẫn, vì đọc và tụng đã được phân thành 2 loại.
[3] Ở đây đề cập các giai đoạn thành tựu một quả vị. Trước tiên là hành giả đạt được sự tương tự, gần giống nhưng chưa phải thực chứng; tiếp theo là thể chứng được một phần, từng phần (phần chứng) nhưng chưa toàn triệt; cuối cùng là giai đoạn thực sự thành tựu trọn vẹn, gọi là chân thật.
[4] Bốn ý như trên được Văn cú ký giải thích là dựa theo Tứ tất đàn. Ý thứ nhất là thế giới tất đàn, ý thứ hai là vị nhân tất đàn, ý thứ ba là đối trị tất đàn và ý thứ tư là đệ nhất nghĩa tất đàn.
[5] Kinh Đại Bát Niết-bàn (大般涅槃經), quyển 23 (Bắc bản), ĐCT, T12, 374, tr.503a, d.4-5.
[6] Nguyên tác dùng “眼功德 - nhãn công đức”, “耳功德 - nhĩ công đức” v.v. Các bản dịch trước đây hiểu là “công đức nơi mắt, công đức nơi tai…”. Tham khảo giảng giải trong kinh Lăng nghiêm và các kinh luận khác nói về công đức của 6 căn thì đây là “công đức của mắt, công đức của tai…” do các căn này tạo ra, chứ không phải chỉ đến công đức ở những nơi đó. Ví dụ như nhãn căn thanh tịnh tạo ra được 800 công đức, vì mắt chỉ có thể nhìn được phía trước và hai bên; nhĩ căn thanh tịnh tạo ra được 1.200 công đức, vì tai có khả năng nghe khắp chung quanh. Những công đức này được tạo ra do nhãn căn, nhĩ căn… thanh tịnh, và sự thanh tịnh này có được nhờ đọc, tụng, giảng giải, sao chép kinh Pháp hoa. Đây là ý nghĩa của phẩm kinh này. Tham khảo bản Anh ngữ của H. Kern cũng dịch tương tự là “eight hundred good qualities of the eye” (800 công đức của mắt).
[7] Chuông lắc, cũng gọi là cái linh, chỉ loại chuông nhỏ có thanh kim loại treo bên trong, khi cầm lắc hay lúc treo có gió lay thì phát ra âm thanh.
[8] Tức là sáu cảnh giới tái sinh của chúng sinh, bao gồm cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi người, cõi a-tu-la và cõi trời
[9] Văn cú nói là “hỗ văn” (互聞) chỉ việc nghe có sự hỗ dụng giữa các căn khác với tai, có thể dùng thay cho nhau.
[10] Đa-ma-la-bạt: một loại chiên đàn quý đã nói ở trước.
[11] Hương đa-già-la (H. 多伽羅香, S. tagara), loại hương thơm được chế từ cây đa-già-la.
[12] Cây ba-lợi-chất-đa-la (H. 波利質多羅樹, S. pārijātaka), cây lớn đặc biệt nằm ở thành Thiện Kiến trên cung trời Đao-lợi, cao 100 do-tuần, cành lá hoa trái đều có mùi thơm, tỏa khắp cung trời nên gọi là cây hương biến (香遍樹).
[13] Cây câu-bệ-đà-la (H. 拘鞞陀羅樹, S. kovidāra), loại cây rất cao lớn, hình dáng đẹp, cành lá sum suê tươi tốt không lúc nào đổi màu.
[14] Thích Đề Hoàn Nhân (S. Śakra Devānāmindra, H. 釋提桓因), vị thiên chủ cõi trời Đao-lợi, cũng gọi là Thiên Đế hay Thiên Đế Thích.
[15] Phạm thế (H. 梵世, S. brahmaloka), tức Phạm thế giới, chỉ cõi trời do Phạm thiên cai quản.
[16] Tô du (酥油) được chế biến từ sữa bò bằng cách lấy váng sữa, cô đặc lại, có thể dùng trị bệnh. Có 2 loại là sinh tô (生酥), tức bơ sống, và thục tô (熟酥), bơ chín.
[17] Bảy báu tự nhiên hiện ra do phước báu của vị Chuyển luân vương bao gồm: luân bảo (bánh xe báu, có thể đưa vua đi chinh phục khắp nơi); tượng bảo (voi quý); mã bảo (ngựa quý); châu bảo (các loại châu báu quý giá); nữ bảo (người con gái khéo hầu hạ, luôn rõ biết ý vua); chủ tạng bảo (vị quan giữ kho tài giỏi, rõ biết tất cả các kho tàng chôn giấu trong lòng đất); chủ binh thần bảo (vị tướng quân giỏi việc chinh phạt).
[18] Nguyên tác là “乘其宮殿 - thừa kỳ cung điện”, e rằng có sự nhầm lẫn giữa cung điện của chư thiên (vimāna), vốn được sử dụng như những cỗ xe, có thể đưa các vị đi khắp nơi tùy ý muốn. Cung điện của các vị Chuyển luân vương ở cõi Ta-bà không có chức năng này, nên họ phải đi trên các cỗ xe bình thường, không thể “thừa kỳ cung điện” giống như chư thiên “thừa thiên cung”, đã nói ở một phần trước.
[19] Tướng trăm phước trang nghiêm (H. 百福莊嚴相, S. śata-puṇya-vicitrita), chỉ 32 tướng tốt của Phật vì mỗi tướng đều do trăm phước trang nghiêm mà thành tựu.
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)

Trang chủ









