Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Đừng làm cho người khác những gì mà bạn sẽ tức giận nếu họ làm với bạn. (Do not do to others what angers you if done to you by others. )Socrates
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Chúng ta trở nên thông thái không phải vì nhớ lại quá khứ, mà vì có trách nhiệm đối với tương lai. (We are made wise not by the recollection of our past, but by the responsibility for our future.)George Bernard Shaw
Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 13. Giải thích Phẩm Khuyến khích thọ trì »»
Xem Mục lục
KINH VĂN
Phẩm Khuyến khích thọ trì, thứ mười ba
Giải thích tên phẩm
Có 20.000 vị Bồ Tát kính vâng lời Phật dạy truyền rộng này, cho nên [Hán ngữ] gọi là phẩm Trì (持), [nghĩa là gìn giữ], sau đó lại khuyến khích 80 muôn ức na-do-tha [Bồ Tát] truyền rộng kinh này, cho nên [Hán ngữ cũng] gọi là phẩm Khuyến trì (勸持), [nghĩa là “khuyến khích thọ trì”].
Hỏi: Vì sao lại nói như vậy?
Đáp: Vì có 20.000 vị Bồ Tát được nói ở đầu phẩm Pháp Sư là được Phật đặc biệt có lời dạy riêng, nên vâng lời Phật mà thọ trì kinh này. Còn số 80 muôn ức na-do-tha vị Bồ Tát đều là trước đây không có lời dạy riêng, Phật chỉ nêu chung [việc thọ trì kinh] trong đại chúng. Nay Phật đưa mắt nhìn khiến cho các vị này phát khởi thệ nguyện sẽ ở cõi này truyền bá lưu thông kinh. Suy xét việc truyền bá lưu thông kinh này thì tự có sự chứng nghiệm sâu xa quan trọng, hiểu được tâm ý ân cần giao phó của đức Phật, cho nên nhận lời khuyến khích mà phát tâm truyền rộng kinh này.
Phẩm này có 2 ý nghĩa nên kinh văn chia làm 2 phần. Phần thứ nhất nêu việc thọ trì, phần thứ hai nêu việc khuyến khích thọ trì.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Dược Vương và Đại Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết cùng với 20.000 vị Bồ Tát thân cận cùng đi đều cùng nhau ở trước Phật phát lời thệ nguyện rằng: “Nguyện đức Thế Tôn đừng lo nghĩ việc này. Sau khi Phật diệt độ, chúng con sẽ cung kính giữ gìn, tụng đọc, thuyết giảng kinh điển này. Chúng sanh trong đời xấu ác về sau căn lành dần ít đi, phần nhiều đều là những kẻ hết sức kiêu căng ngạo mạn, tham mối lợi cúng dường, những việc bất thiện tăng thêm, xa lìa con đường giải thoát. Tuy rằng khó giáo hóa được họ, nhưng chúng con sẽ phát khởi sức nhẫn nhục lớn lao, tụng đọc kinh này, hành trì, thuyết giảng, sao chép nhân rộng, thực hiện mọi sự cúng dường, không tiếc cả thân mạng.”
Khi ấy ở giữa đại chúng, 500 vị A-la-hán đã được thụ ký liền bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng xin tự phát lời thệ nguyện ở nơi cõi thế giới khác giảng rộng kinh này.”
Lại có 8.000 vị đã được thụ ký ở trong hàng [Thanh văn] hữu học và vô học, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng Phật, phát thệ nguyện rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ở nơi cõi thế giới khác giảng rộng kinh này. Vì sao vậy? Vì trong cõi Ta-bà này con người phần nhiều xấu xa hung ác, ôm lòng kiêu căng ngạo mạn, công đức mỏng manh cạn cợt, sân hận uế trược, gian trá dua nịnh, lòng không chân thật.”
Bấy giờ, di mẫu của đức Phật là tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề[1] cùng với 6.000 vị tỳ-kheo-ni thân cận cùng đi thuộc hàng hữu học và vô học, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Phật không hề chớp mắt.
Khi ấy, đức Thế Tôn nói với bà Kiều-đàm-di: “Vì sao bà lại nhìn Như Lai với ánh mắt u buồn như vậy? Hẳn trong lòng bà cho rằng ta đã không nhắc đến tên, không thụ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho bà? Này Kiều-đàm-di! Trước đây ta đã nói chung rằng hết thảy hàng Thanh văn đều được thụ ký. Nay bà muốn biết cụ thể, thì đời tương lai bà sẽ làm bậc đại pháp sư trong chánh pháp của 68.000 ức vị Phật, cùng với 6.000 tỳ-kheo-ni thuộc hàng hữu học và vô học ở đây cũng đều sẽ là bậc pháp sư. Cứ như vậy rồi bà sẽ dần dần trọn đủ [công hạnh] đạo Bồ Tát, sẽ thành Phật hiệu là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Này Kiều-đàm-di! Tiếp theo đức Phật Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến, 6.000 vị Bồ Tát sẽ lần lượt được thụ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Bấy giờ, mẹ của ngài La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la khởi lên ý nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn trong khi thụ ký chỉ riêng tên ta là không nhắc đến.”
Đức Phật bảo Da-du-đà-la: “Trong tương lai bà sẽ tu hạnh Bồ Tát trong chánh pháp của trăm ngàn muôn ức đức Phật, làm vị đại pháp sư, rồi dần dần trọn đủ Phật đạo, ở trong cõi nước tốt lành[2] mà thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, tuổi thọ đến vô số a-tăng-kỳ kiếp.”
Khi ấy, tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề và tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la cùng những người thân cận cùng đi thảy đều hết sức mừng vui hoan hỷ, được điều chưa từng có, liền ở trước Phật cùng đọc kệ rằng:
Đấng Đạo sư Thế Tôn,
Giúp trời, người an ổn.
Chúng con được thụ ký,
Tâm an vui trọn đủ.
Các vị tỳ-kheo-ni đọc kệ như vậy rồi cùng bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng có thể ở những cõi thế giới khác truyền bá giảng rộng kinh này.”
Phần thứ nhất chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất nói về 20.000 vị Bồ Tát kính vâng lời Phật ở nơi cõi [Ta-bà] này gìn giữ lưu thông kinh. Đoạn thứ hai nêu việc 500 vị và 8.000 vị Thanh văn phát thệ nguyện ở nơi các cõi thế giới khác truyền bá lưu thông kinh này. Đoạn thứ ba nêu việc các vị tỳ-kheo-ni muốn được nghe Phật thụ ký.
Hỏi: Những vị Thanh văn ấy đã thành Bồ Tát, vì sao không thể ở cõi Ta-bà để lưu thông truyền rộng kinh này?
Đáp: Vì muốn nói cho biết rằng việc hàng sơ tâm mới đầu tu hạnh Bồ Tát thì chưa thể có khả năng ở trong đời xấu ác chịu khổ nhọc mà truyền bá lưu thông kinh này. Lại nữa, đây là muốn dẫn khởi để mở ra phẩm Hạnh An vui theo sau.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đưa mắt nhìn 80 muôn ức na-do-tha các vị Đại Bồ Tát. Các vị Bồ Tát này đều đã đạt địa vị không còn thối chuyển, chuyển bánh xe pháp không thối chuyển, đạt được các pháp tổng trì. Các vị liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật, một lòng chắp tay rồi có ý nghĩ rằng: “Nếu đức Thế Tôn dạy bảo chúng con thọ trì giảng thuyết kinh này, chúng con sẽ y theo lời Phật dạy mà truyền bá giảng rộng.” Rồi các vị ấy lại suy nghĩ: “Nay Phật lặng yên không ban lời dạy bảo, chúng ta nên làm thế nào?”
Rồi các vị Bồ Tát kính thuận ý Phật cũng như muốn tự làm trọn đủ tâm nguyện từ trước, liền ở trước Phật dùng tiếng uy nghiêm như sư tử gầm mà phát lời thệ nguyện rằng: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con qua lại trong các thế giới ở khắp mười phương, nếu có thể khiến cho chúng sanh sao chép kinh này, thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết nghĩa kinh, y theo giáo pháp trong kinh tu hành, nghĩ nhớ chân chánh, đều là nhờ nơi oai lực của Phật. Kính nguyện đức Thế Tôn ở phương xa nhìn thấy mà che chở bảo vệ cho.”
Phần thứ hai khuyến khích thọ trì gồm có kinh văn trường hàng và kệ tụng. Kinh văn trường hàng chia làm 5 đoạn. Thứ nhất nêu việc đức Phật dùng mắt xem thấy. Thứ hai, các vị Bồ Tát muốn được Phật dạy [việc lưu truyền kinh này]. Thứ ba, nói việc Phật yên lặng [không nói việc lưu hành kinh]. Thứ tư, các vị Bồ Tát tự biết ý Phật. Thứ năm là các vị Bồ Tát phát lời thệ nguyện truyền bá lưu thông kinh này.
“Đức Thế Tôn đưa mắt nhìn” là lặng yên mà khuyến khích, không nói ra thành lời. Trước đó tuy không có lời chỉ dạy sai bảo riêng, nhưng đã nêu công đức sâu dày của việc thọ trì kinh, có dẫn chứng rõ ràng, lại thêm đức Phật Đa Bảo và chư Phật phân thân từ phương xa tập hợp đến đều khuyến khích phát tâm [thọ trì]. Những việc này thật đã chi ly cặn kẽ, ý nghĩa sự việc đã đầy đủ, nếu có ai muốn thuận theo ý Phật tức nhiên phát khởi thệ nguyện, không cần phải nhọc sức nói ra. Lại nữa, vì muốn hộ trì cho thệ nguyện của hàng Thanh văn ở những phương khác, cho nên Phật không nói rõ ra [với các Bồ Tát].
KINH VĂN
Tức thời, các vị Bồ Tát đều đồng thanh đọc kệ rằng:
Nguyện Phật đừng lo nghĩ,
Sau khi Phật diệt độ,
Trong đời ác đáng sợ,
Chúng con sẽ giảng rộng.
Dù có kẻ ngu si,
Dùng lời ác mắng chửi,
Lại thêm dùng dao gậy,
Chúng con đều nhẫn chịu.
Tỳ-kheo đời xấu ác,
Trí tà vạy, dua nịnh,
Chưa chứng nói đã chứng,
Tâm kiêu ngạo tràn đầy.
Hoặc ở nơi vắng vẻ,
Dùng y phục xấu tệ,
Tự xưng tu chánh đạo,
Khinh miệt người thế gian.
Hoặc tham đắm lợi dưỡng,
Thuyết pháp với cư sĩ,
Được người đời cung kính,
Như La-hán lục thông.
Hoặc ôm lòng xấu ác,
Thường nghĩ việc thế tục,
Giả xưng bậc ẩn dật,
Bới móc lỗi chúng con.
Họ nói lời thế này:
“Những ông tỳ-kheo đó,
Chỉ vì tham lợi dưỡng,
Thuyết dạy pháp ngoại đạo.
Tự nghĩ ra kinh này,
Để lừa gạt người đời.
Vì cầu được danh tiếng,
Nên giảng giải kinh này.”
Họ ở giữa đại chúng,
Muốn làm nhục chúng con,
Đến chỗ vua, đại thần,
Cư sĩ, bà-la-môn,
Và những tỳ-kheo khác,
Rồi phỉ báng, chê bai:
“Bọn chúng là tà kiến,
Nói toàn thuyết ngoại đạo.”
Chúng con cung kính Phật,
Nên nhẫn chịu tất cả.
Những kẻ khinh miệt ấy,
Sau đều sẽ thành Phật,
Nên bao lời khinh miệt,
Chúng con đều nhẫn chịu.
Phần kệ tụng có 20 khổ kệ, nêu ý nguyện [của các vị Bồ Tát] muốn bảo vệ gìn giữ kinh này, không cần phải phân chia chi tiết, chỉ y theo kinh văn có thể hiểu được.
Đoạn thứ nhất gồm 17 khổ kệ, nêu việc mặc áo nhẫn nhục để lưu hành truyền rộng kinh này.
Đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ, nêu việc thâm nhập vào nhà cửa [trong thôn ấp, thành thị] để lưu hành truyền rộng kinh này.
Đoạn thứ ba gồm 1 khổ kệ, nêu việc ngồi trên pháp tòa để giảng thuyết truyền rộng kinh này.
Đoạn thứ tư gồm 1 khổ kệ, tổng kết vấn đề, thỉnh cầu chư Phật gia hộ.
Kinh Trung A-hàm, quyển 6, dịch chữ a-lan-nhã là vô sự.[3] Đầu-đà, phiên âm là đẩu-tẩu.”[4]
Kinh Bảo Vân, quyển 6,[5] nói rằng: “Vị tỳ-kheo ở chốn a-lan-nhã, khi thấy vua, con vua, bà-la-môn hoặc bất cứ ai tìm đến thì đều nói lớn: ‘Lành thay! Quý vị có thể đến đây cùng ngồi.’ Người ấy sẽ bước đến cùng ngồi. Nếu người ấy không ngồi, vị tỳ-kheo cũng đứng không ngồi, rồi vì người ấy mà thuyết pháp, khiến cho được hoan hỷ.”
Sau khi Phật diệt độ, trong đời xấu ác về sau, các tỳ-kheo không giữ theo nghi thức, tuy thuyết giảng giới luật và giáo pháp có thể lưu loát, nhưng đối với giới luật và giáo pháp không thích hành trì. Lần lượt xét qua 5 phần pháp thân,[6] cho đến hết thảy các phần đạo pháp khác cũng đều thuyết giảng theo cách như vậy.
Giống như người bị nghẹt mũi nói về gỗ chiên đàn, đã nói [với người khác là] không có mùi thơm, lại cũng tự mình không ngửi được mùi thơm. Chư thiên, loài người, loài rồng, quỷ thần, cưu-bàn-trà… không bao giờ cúng dường cho những người không giữ giới. Đối với 4 phần [định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến] cũng vậy. Nếu không có khả năng mang giáo pháp nhiệm mầu đến cho người khác thì trước hết là do giới hạnh không thanh tịnh. Đối với 4 phần [định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến] cũng đều như vậy.
[Kinh Nguyệt đăng tam-muội, quyển 1, nói rằng:]
Nếu gặp kẻ bệnh nặng sắp chết,
Đau đớn bức bách, quá buồn khổ,
Tam-muội niệm Phật thường miên mật,
Không để khổ não chế ngự tâm.
Người ấy tự hiểu được pháp này,
Liền biết các pháp đều là không.[7]
KINH VĂN
Đời xấu ác, uế trược,
Có nhiều điều đáng sợ,
Quỷ ác nhập thân người,
Mắng, làm nhục, chúng con,
Chúng con tin kính Phật,
Mặc áo giáp nhẫn nhục.
Vì thuyết giảng kinh này,
Nhẫn chịu mọi khó khăn.
Con không tiếc thân mạng,
Chỉ trân quý Phật đạo,
Chúng con trong tương lai,
Giữ kinh như lời Phật.
Thế Tôn tự rõ biết,
Các tỳ-kheo đời ác,
Không biết phương tiện Phật,
Thuyết pháp cho thích hợp.
Nhăn mặt, nói lời ác,
Xô đuổi người thuyết kinh,
Phải xa lìa chùa tháp.
Bao việc ác như vậy,
Chúng con nhớ lời Phật,
Nên nhẫn nhục được hết.
Khắp xóm thôn, thành thị,
Nếu có người cầu pháp,
Chúng con đều tìm đến,
Thuyết dạy theo lời Phật.
Làm sứ giả Thế Tôn,
Giữa đại chúng không sợ,
Chúng con khéo thuyết pháp,
Kính nguyện Phật an lòng.
Chúng con ở trước Phật,
Cùng chư Phật mười phương,
Phát lời thệ nguyện này,
Phật biết lòng chúng con.
“Mặc áo giáp nhẫn nhục”, như kinh Trung A-hàm, quyển 5, chép rằng: “Tỳ-kheo Hắc Xỉ tố cáo với Phật rằng: ‘Xá-lợi-phất mắng chửi con.’ Đức Phật lập tức gọi ngài Xá-lợi-phất đến hỏi: ‘Ông có mắng chửi thật chăng?’ Ngài Xá-lợi-phất thưa: ‘Bạch Thế Tôn! Người tâm tán loạn mới có khi chửi mắng [người khác]; tâm con đã an định, làm sao con có thể mắng chửi người khác? Như con trâu đã gãy sừng không thể đâm húc, quấy nhiễu con người; như đứa trẻ tàn tật xấu hổ không quấy nhiễu người khác; tâm con hiện nay như đất, như nước, như gió, như lửa, dù những thứ sạch hoặc không sạch như phẩn uế, nước tiểu, đờm dãi, nước bọt, tất cả đều đón nhận không hề có sự khó chịu mắng chửi. Tâm con như cái chổi quét, những thứ sạch hay không sạch cũng đều quét đi. Lại như vật chứa đã bị rạn nứt, dùng đựng chất mỡ rồi đặt ngoài trời nắng nóng, [mỡ tan chảy nên] thường rỉ ra theo khe nứt, nay con tự quán xét thấy chín lỗ của thân mình[8] cũng thường rỉ chảy ra những chất dơ nhớp, làm sao con có thể mắng chửi người khác? Lại cũng giống như đem xác rắn chết, chó chết buộc vào cổ của đứa trẻ trong sạch, đã tự thấy xấu, tự hổ thẹn nên không thể mắng chửi nói xấu người khác.’
“Phật lại hỏi: ‘Đối với những người xấu ác như vậy thì ông quán xét thế nào?’
“[Ngài Xá-lợi-phất] thưa rằng: ‘Có 5 loại người. Loại người thứ nhất có hành vi hiền thiện mà lời nói, ý nghĩ không hiền thiện, chỉ nên nghĩ đến chỗ hiền thiện của họ, không nghĩ đến những điều bất thiện. Như vị tỳ-kheo nhặt vải may y, thấy tấm vải phủ trên đống phân dơ, tay trái nhặt lên, tay phải căng ra rồi cắt bỏ chỗ dơ, giữ lại chỗ sạch [để dùng]. Nghĩ đến hành vi hiền thiện của người ấy là để hành vi của mình noi theo; bỏ đi không nghĩ đến lời nói, ý nghĩ bất thiện của người ấy là để răn nhắc ngăn ngừa lời nói, ý nghĩ của chính mình.
“‘Loại người thứ hai có lời nói hiền thiện nhưng hành vi và ý nghĩ bất thiện, chỉ nên nghĩ đến lời nói hiền thiện, bỏ đi hành vi và ý nghĩ bất thiện.[9] Giống như người đang nóng khát gặp hồ nước nhiều cây cỏ, liền dùng tay khoác cỏ ra để vốc nước mát lên uống, thân thể được mát mẻ giải trừ cơn khát.
“‘Loại người thứ ba có ý nghĩ hiền thiện tịnh nhưng hành vi và lời nói bất thiện, cũng chỉ nên nghĩ về ý nghĩ hiền thiện, bỏ đi những hành vi và lời nói bất thiện. Giống như người đi đường nóng khát, chỉ gặp được chút nước đọng trong dấu chân trâu, nếu dùng tay vốc nước ắt sẽ khuấy bùn lên đục, nên phải quỳ gối thật thấp, chống 2 tay và cúi sát miệng xuống để hớp lấy nước uống, dứt được cơn khát.
“‘Loại người thứ tư có 3 nghiệp [thân, khẩu và ý] đều bất thiện, tuy không có gì để vận dụng noi theo, nhưng nên hết lòng nghĩ nhớ đến họ, ví như trên đường đi gặp người bệnh nặng, nên đưa đến chỗ yên ổn nghỉ ngơi. Nghĩ nhớ đến sự bất thiện của họ, mong sao cho gặp được bậc thiện tri thức, dạy dỗ chuyển hóa 3 nghiệp xấu ác của họ, không để phải đọa vào 3 cảnh giới xấu ác.
“‘Loại người thứ năm có 3 nghiệp đều hiền thiện, nên thường nghĩ nhớ đến để tự răn dạy mình noi theo [đã là tốt đẹp], huống chi là nghĩ đến sao cho sánh bằng người ấy, mong cho được bằng người ấy. Cũng giống như hồ nước trong mát lại thêm có nhiều hoa cỏ xinh đẹp, đang khi nóng khát chỉ vừa bước đến đã tự nhiên cảm thấy tỉnh táo dễ chịu ngay.’”
Thường nghĩ nhớ đến cảnh bên ngoài để so sánh trừ bỏ những điều xấu ác của mình, đây là cách theo Tạng giáo vận dụng những yếu tố “khổ, không, vô thường, bất tịnh, vô ngã” làm áo giáp nhẫn nhục.
Luận Tỳ-bà-sa, quyển 9, nói rằng: “Mắng chửi, trong Phạn ngữ nói là a-câu-lô-xa (ākrośa). Bỏ đi một chữ a, còn lại câu-lô-xa (krośa) chỉ có nghĩa là tiếng gọi. Ví như bị mắng chửi mà đừng nghĩ đến chữ a thì chỉ là nghe tiếng gọi. Dù suốt ngày nghe tiếng gọi cũng không có gì phải sinh tâm bực tức.”[10]
“Lại nữa, nên nghĩ rằng những lời mắng chửi xúc phạm ở nơi đây thì ở nơi khác lại là lời ngợi khen tốt đẹp.[11] Nếu ta ở đây nghe mắng chửi thì buồn khổ, ở nơi khác nghe khen ngợi thì thích thú mừng vui, như vậy thì chính tự nơi ta thường vui thường khổ, đâu có ai mang khổ đến cho ta?[12]
“Lại nữa, nên nghĩ rằng lời mắng chửi đó, cũng là những từ ngữ mà đảo ngược sắp xếp lại sẽ thành lời ngợi khen xưng tán.[13] [Nghĩ như vậy thì không có gì phải sanh tâm sân hận.]
“Lại nữa, nên nghĩ rằng những lời mắng chửi đó đến với ta chỉ là số ít, chỉ là 1 giới trong 18 giới, chỉ là 1 nhập trong 12 nhập, chỉ là 1 ấm trong 5 ấm,[14] những ấm, nhập, giới còn lại đều không phải là sự mắng chửi, nên phần mắng chửi là ít, phần không mắng chửi là rất nhiều.[15] [Như vậy thì đâu có gì phải sanh tâm sân hận.]
“Lại nữa nên nghĩ rằng, ai đã tạo thành sự mắng chửi, là người mắng chửi hay người bị mắng chửi? Suy xét như vậy thì thấy rằng do người mắng chửi tạo thành. Như vậy tức là người ấy tự mắng chửi, nào có gì để ta phải sanh tâm sân hận?
“Lại nữa nên nghĩ rằng, chỉ nói ra một chữ thì không thành câu mắng chửi, phải từ hai chữ mới thành câu mắng chửi. Nhưng không thể nào cùng lúc nói ra được 2 chữ, vì khi nói ra chữ sau thì chữ trước đã mất rồi. [Như vậy chỉ là do ta khởi ý phân biệt nên gọi đó là mắng chửi. Nghĩ như vậy thì không có gì phải sanh tâm sân hận.]
“Lại nữa nên nghĩ rằng, người mắng chửi với ta đều cùng lúc diệt mất trong một sát-na, sau đó là các ấm khác sanh ra, trong đó không có người mắng chửi cũng không có người bị mắng chửi, sự mắng chửi cũng không thể tìm thấy hoặc nắm bắt. Nghĩ như vậy nên không sanh tâm sân hận.”
Những quán chiếu như trên tức là vận dụng lẽ “không” làm áo giáp nhẫn nhục.
[Cũng trong luận này], quyển 17[16] nói: Phàm phu với bậc thánh đều có đủ 3 cảm thọ [khổ, vui và không khổ không vui], vì sao lại khác nhau?
[Đáp rằng:] Phàm phu trong cảm thọ khổ có 2 phần, một là thân thọ nhận sự khổ, hai là tâm thọ nhận sự buồn lo đau đớn. [Ba cảm thọ đối với phàm phu] như 3 mũi tên độc [nên gây hại], bị mất sự vui thích liền khởi lên sân hận; được sự vui thích liền khởi lên mừng vui tham đắm; không khổ không vui ắt rơi vào si mê. Bậc thánh chỉ có cảm thọ của thân mà không có cảm thọ của tâm; đối với sự khổ chẳng khởi tâm sân, đối với việc sự vui chẳng sanh tham ái, đối với sự không khổ không vui cũng không rơi vào si mê; ba kết sử [tham, sân, si] ấy không thể trói buộc sai khiến được, đối với kết sử được giải thoát, cho nên giữa phàm phu với bậc thánh có khác biệt.”
Những lập luận dùng lẽ có không để chế phục như vậy tức là vận dụng theo Biệt giáo để làm áo giáp nhẫn nhục.
Kinh này nói “mặc áo giáp nhẫn nhục” là lấy việc nghĩ nhớ đến Phật làm áo giáp, tức là nhớ nghĩ đến pháp, đệ nhất nghĩa của Phật. Phật tức là pháp, nên kinh văn nói “Chúng con nhớ lời Phật”, đó tức là pháp. Phật tức là Tăng, Tăng tức là sự và lý đều hòa hợp, tức là pháp thân biến hiện khắp mọi nơi. [Vận dụng] áo giáp như vậy thì một áo giáp là hết thảy áo giáp. Đây tức áo giáp nhẫn nhục theo Viên giáo.
__________________________________
CHÚ THÍCH
[1] Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề (H. 摩訶波闍波提, S. Mahā Prajāpatī). Bà là em gái của Hoàng hậu Ma-da, tức dì của thái tử Tất-đạt-đa. Hoàng hậu Ma-da sau khi sanh thái tử được 7 ngày thì qua đời, bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã thay thế làm người nuôi dưỡng, chăm sóc thái tử Tất-đạt-đa, cho nên bà thường được gọi một cách cung kính là di mẫu của Phật. Bà cũng được gọi là Kiều-đàm-di (憍曇彌) hoặc Cù-đàm-di (瞿曇彌).
[2] Kinh văn nói “於善國中 - ư thiện quốc trung”, theo ngữ cảnh ở đây không phải nói tên cõi nước là “Thiện Quốc”, vì những nơi khác trong kinh khi Phật thụ ký về tên cõi nước sẽ dùng “國名 - quốc danh” (cõi nước tên là…). Hơn nữa, ở đây nếu hiểu chữ “quốc” để chỉ cõi nước thì trong tên cõi nước chỉ còn lại một chữ “thiện”, không hợp lý. Do vậy chỉ có thể hiểu là “ở trong cõi nước tốt lành”. Bản Anh dịch của H. Kern cũng hoàn toàn không đề cập đến tên cõi nước trong lời thụ ký này.
[3] Trong kinh Trung A-hàm gọi vị tỳ-kheo tu hạnh A-lan-nhã là “vô sự tỳ-kheo”. A-lan-nhã (阿蘭若), phiên âm từ Phạn ngữ là araṇya, về sau cũng thường dịch là “không nhàn xứ” (空閒處), dùng để chỉ những nơi vắng vẻ như rừng núi, đồng hoang, thích hợp cho người tu hành tịch tĩnh. Văn Cú Ký cũng giải thích theo nghĩa là “vô tranh” (無諍), nghĩa là không tranh giành với người khác.
[4] Đầu-đà (頭陀), phiên âm từ Phạn ngữ dhūta, “đẩu-tẩu” (抖擻) cũng là một cách phiên âm khác, dịch nghĩa là rũ bỏ, trừ bỏ, chỉ các hạnh tu tập hạn chế tham dục, kiềm chế và diệt trừ ham muốn.
[5] Văn Cú Ký cho rằng chỗ này có nhầm lẫn vì phần trích dẫn nằm trong quyển 5. Chúng tôi cũng đã tìm thấy đoạn trích dẫn này đúng là nằm trong quyển 5 của kinh Bảo Vân (寶雲經). Kinh này có 7 quyển, do ngài Mạn-đà-la-tiên (曼陀羅仙) Hán dịch vào đời Lương. Xem Đại Chánh tạng, Tập 16, kinh số 658, trang 232, tờ a, từ dòng 15.
[6] Năm phần pháp thân: tức chỉ giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến.
[7] Văn Cú trích dẫn 6 câu kệ này từ kinh Nguyệt đăng tam-muội (月燈三昧經) nhưng không dẫn chú. Kinh này có 10 quyển, do ngài Na-liên-đề-da-xá (那連提耶舍) Hán dịch. Văn Cú đã trích dẫn 6 câu trong quyển 1 là: “若遇垂死最重病, 痛惱逼迫極無瘳, 念佛三昧常不捨, 一切苦切奪其心, 彼人自解是法故, 則知一切諸法空。 - Nhược ngộ thùy tử tối trọng bệnh, thống não bức bách cực vô sưu, niệm Phật tam-muội thường bất xả, nhất thiết khổ thiết đoạt kỳ tâm, bỉ nhân tự giải thị pháp cố, tắc tri nhất thiết chư pháp không.” Tuy nhiên, Nguyên tác kinh văn 6 câu này là: “若遇垂死最重疾, 痛惱逼迫極無聊, 念佛三昧常不捨, 不令苦切奪此心, 彼人自解是法故, 則知一切諸法空。 - Nhược ngộ thùy tử tối trọng tật, thống não bức bách cực vô liêu, niệm Phật tam-muội thường bất xả, bất linh khổ thiết đoạt thử tâm, bỉ nhân tự giải thị pháp cố, tắc tri nhất thiết chư pháp không.” Ngoài một vài chữ không khác biệt như”bệnh” và “tật”, hoặc khác biệt không quá xa như “vô sưu” (không khỏi bệnh) và “vô liêu” (buồn khổ)… riêng câu thứ tư đã sai lệch đến mức trở thành vô nghĩa “nhất thiết khổ thiết đoạt kỳ tâm”, trong khi Nguyên tác kinh văn là “bất linh khổ thiết đoạt thử tâm”. Chúng tôi đã chuyển dịch theo đúng kinh văn vì tin rằng sai sót trong Văn Cú chỉ là do lỗi sao chép. Xem Đại Chánh tạng, Tập 15, kinh số 639, trang 553, tờ b, dòng 22 đến dòng 24.
[8] Cửu khổng (九孔), 9 lỗ, chỉ thân thể con người có 9 lỗ thông ra bên ngoài, gồm 2 lỗ mắt, 2 lỗ mũi, 2 lỗ tai, 1 lỗ miệng và 2 lỗ đại tiểu tiện.
[9] Văn Cú trong đoạn trước đã dùng “thiện” và “bất thiện”, từ chỗ này lại chuyển sang dùng “tịnh” và “bất tịnh”, nhưng ý nghĩa giống nhau nên chúng tôi chuyển dịch nhất quán với đoạn trước để độc giả tiện theo dõi.
[10] Văn Cú nói là “毘婆沙第八 - Tỳ-bà-sa đệ bát” (Tỳ-bà-sa, quyển 8). Tuy nhiên, phần trích dẫn này là từ luận A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa (阿毘曇毘婆沙論), quyển 9, phẩm Kiền-độ trí, thứ năm. Luận này do 2 vị Phù-đà-bạt-ma (浮陀跋摩) và Đạo Thái (道泰) Hán dịch, gồm 60 quyển. (ĐCT, T28, 1546, tr.57a, d.20-25) Chúng tôi căn cứ nội dung trong luận để hiểu và dịch đoạn này, vì Văn Cú nói tóm lược đến mức không đủ nghĩa. Ví dụ như câu “念罵是一語餘皆喚聲 - Niệm mạ thị nhất ngữ dư giai hoán thanh” thì không thể nào hiểu được như chúng tôi đã chuyển dịch ở trên. Đây là nội dung được giải thích rõ trong nguyên tác bộ luận.
[11] Lập luận trong câu này muốn nói rằng ngôn ngữ chỉ là quy ước, nên ở các địa phương, xứ sở khác nhau thì quy ước có khi trái ngược nhau. Chẳng hạn như người Ấn Độ lắc đầu là đồng ý trong khi ở nhiều nơi khác thì lắc đầu là không đồng ý.
[12] Văn Cú nói rất ngắn và không đủ nghĩa: “我若念此卑語無處得樂 - ngã nhược niệm thử ti ngữ vô xứ đắc lạc.” Chúng tôi chuyển dịch theo nội dung đầy đủ hơn trong nguyên văn bộ luận.
[13] Văn Cú Ký giải thích về ý này bằng cách đưa ra các thí dụ, như khi có khách đến chơi, nếu chủ nhà nói “去早 - khứ tảo” (đi sớm thế) tức là có ý muốn lưu giữ khách, nhưng nói “早去 - tảo khứ” (đi ngay đi) lại là có ý đuổi khách; hoặc như đang bữa ăn gặp khách đến chơi, nếu chủ nhà nói “來早 - lai tảo” (đến sớm thế) tức là có ý bực dọc xúc phạm, nhưng nếu nói “早來 - tảo lai” (đến đây đi) tức là vui mừng hoan nghênh.
[14] Câu này đề cập đến “ấm, nhập, giới”, tức là 5 ấm bao gồm sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm; 12 nhập bao gồm 6 căn thiệp nhập với 6 trần; 18 giới bao gồm sự tiếp xúc giữa 6 căn bên trong, 6 trần bên ngoài và 6 thức ở khoảng giữa. Chuỗi âm thanh của lời mắng chửi thật ra cũng chỉ là một phần nhỏ thuộc về các ấm, nhập và giới.
[15] Chúng tôi vẫn phải dựa vào nội dung trong nguyên văn bản luận để trình bày phần này, vì Văn Cú nói không đủ nghĩa. Trong Nguyên tác luận nói chi tiết hơn nữa “có 17 giới không mắng chửi so với 1, 11 nhập không mắng chửi so với 1, 4 ấm không mắng chửi so với 1 v.v.
[16] Văn Cú Ký cho rằng chỗ này nhầm lẫn, vì phần trích dẫn nằm trong quyển 10. Chúng tôi chưa tìm thấy phần này.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.169 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập