Hạnh phúc đích thực không quá đắt, nhưng chúng ta phải trả giá quá nhiều cho những thứ ta lầm tưởng là hạnh phúc. (Real happiness is cheap enough, yet how dearly we pay for its counterfeit.)Hosea Ballou

Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề bất ổn của mình với cùng những suy nghĩ giống như khi ta đã tạo ra chúng. (We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them.)Albert Einstein
Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Hành động thiếu tri thức là nguy hiểm, tri thức mà không hành động là vô ích. (Action without knowledge is dangerous, knowledge without action is useless. )Walter Evert Myer
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 11. Giải thích phẩm Hiện tháp báu »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3
»» 11. Giải thích phẩm Hiện tháp báu

(Lượt xem: 12)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 - 11. Giải thích phẩm Hiện tháp báu

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Phẩm Hiện tháp báu, thứ mười một

Giải thích tên phẩm

Tiếng Phạn là stupa, phiên âm là tháp-bà (塔婆), cũng đọc là thâu-bà (偷婆), Hán ngữ dịch ý là phương phần (方墳), hoặc cũng dịch là linh miếu (靈廟). Cũng gọi là chi-đề (支提), nghĩa là không có xương thân [Như Lai] trong đó. Tháp báu [trong phẩm này] này có toàn thân [Như Lai] không tan rã cho nên không gọi là chi-đề.

Kinh A-hàm nêu 4 nơi làm chứng tích [trong cuộc đời đức Phật], tức là nơi Phật đản sanh, nơi Phật thành đạo, nơi Phật chuyển pháp luân và nơi Phật nhập Niết-bàn, là 4 nơi dựng tháp thờ. Nay tháp báu này là chứng tích nơi đức Phật [Đa Bảo] trước đây nhập diệt.

Trong kinh nói rằng:[1] “Ba thân Phật đều từ kinh này sanh ra.” Chư Phật ở nơi kinh này mà ngồi đạo tràng [chứng thành đạo quả]; chư Phật ở nơi kinh này mà chuyển pháp luân; chư Phật ở nơi kinh này mà nhập Niết-bàn. Cho nên kinh Pháp hoa này tức là 4 chứng tích của ba đời chư Phật.

1. Phật trước đây ở trong tháp này, Phật hiện nay cùng ngồi trong tháp này, chư Phật tương lai lại cũng sẽ như vậy. Tháp này xuất hiện để nêu rõ việc ấy, bốn chúng đều nhìn thấy, cho nên gọi là phẩm Hiện tháp báu.

2. Trong kinh Anh Lạc, ngài Tu-bồ-đề[2] thưa hỏi rằng: “[Cúng dường] sanh thân Phật, [xá-lợi] toàn thân và [xá-lợi] toái thân Phật,[3] công đức có đồng nhau chăng?” Phật dạy là không đồng nhau. Sắc thân Phật dùng lời giáo hóa, dạy dỗ chúng sanh, [khiến cho] 3 nghiệp [thân, khẩu và ý đều] trọn đủ thanh tịnh, đến được đạo trường; còn xá-lợi toàn thân hoặc toái thân của Phật thì oai thần quang minh sáng tỏa, chúng sanh cúng dường được phước, cho nên chẳng đồng như nhau. [Cũng trong kinh Anh Lạc, ngài Tu-bồ-đề] lại thưa hỏi: “[Kinh Bản sanh nói] đức Như Lai Đảnh Vương trải qua 12 na-do-tha[4] kiếp thuyết pháp giáo hóa, [sau khi diệt độ lưu lại] xá-lợi [toàn thân, người đời cúng dường được nghe thuyết pháp giáo hóa qua 12 na-do-tha kiếp] cũng giống như thế, [vậy công đức cúng dường sanh thân Phật với toàn thân xá-lợi Phật] theo lẽ có phải là giống nhau chăng?” Phật dạy: “Tất cả [những việc ấy] đều là do thần lực của đức Như Lai Đảnh Vương tạo ra.” Kinh [Anh Lạc] cho rằng, xét kỹ thì xá-lợi toàn thân, xá-lợi toái thân đều do thần lực của sanh thân Phật mà có. Kinh Pháp hoa này cho rằng, xét theo ý nghĩa rốt ráo thì sanh thân Phật, xá-lợi toàn thân, xá-lợi toái thân, cho đến xá-lợi pháp thân thiên lệch tương đối hay pháp thân viên mãn tuyệt đối cũng đều từ kinh này lưu xuất, cho nên làm rõ công đức giữ gìn truyền rộng kinh này có sức mạnh rất lớn. [Tháp báu] từ dưới lòng đất vọt lên chứng minh cho việc này, bốn chúng đều nhìn thấy, cho nên gọi là phẩm Hiện tháp báu.

3. Các vị thầy phái Địa luận ở phương bắc nói rằng: “Vào lúc đức Phật vì ngài Xá-lợi-phất thuyết giảng kinh này, [lẽ ra] tháp báu đã phải xuất hiện để chứng minh. Nếu đã thuyết kinh xong rồi thì còn chứng minh gì nữa? Đây là do các vị chép kinh sắp xếp thứ tự, mới đặt [phẩm Hiện tháp báu] này sau 3 sau vòng thuyết pháp. Như vậy là theo ý của người [chép kinh], tất nhiên không thể tin được.”

Nay dựa theo trong kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi[5] có nói, khi đức Phật thuyết vô số bài kệ của kinh Pháp hoa, có tháp 7 báu từ trong lòng đất vọt lên, bên trong tháp có tòa ngồi bằng vàng,[6] trên tòa có vị Phật hiệu là Bão-hưu-la-lan,[7] Hán dịch là Đại Bảo, xưng tán đức Thế Tôn Thích-ca và nói: “Ta vì vậy đến đây để cúng dường. Xin cùng ngồi trên tòa này rồi vì ta mà thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa.” Như vậy, y theo kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi này thì việc [hiện tháp báu] tức là chứng minh 3 vòng thuyết pháp [trước đó], sau lại thỉnh [thuyết về] thọ lượng. Kinh văn nêu rõ thánh ngôn [của Phật] còn không vận dụng, những lời xuyên tạc sai lệch của người khác lại có thể tin theo được sao? Tháp này chính là vì chứng minh cho phần thuyết giảng trước, thưa thỉnh phần [sẽ thuyết giảng] sau, nên mới từ trong lòng đất vọt lên. Bốn chúng đều thấy, cho nên gọi là phẩm Hiện tháp báu.

4. Các vị thầy phái Địa luận nói: “Đa Bảo là pháp thân Phật.” Luận Đại trí độ[8] nói: “Phật Đa Bảo có thệ nguyện nên hóa thân hiện đến để chứng minh cho kinh này.” Kinh văn ở đây cũng nói như vậy. Đại sư Nam Nhạc Tuệ Tư[9] nói: “Pháp thân không đi đến, không xuất hiện; báo thân oai nghiêm rực rỡ; ứng hóa thân ứng hiện khắp thảy. Nhưng nếu theo đó gọi là 3 thân Phật thì chưa nêu hết được bản thể, chỉ là biểu hiện cho thấy được mà thôi.” Cho nên, Phật Đa Bảo biểu hiện cho pháp thân Phật; đức Thế Tôn Thích-ca biểu hiện cho báo thân Phật; các vị phân thân Phật biểu hiện cho ứng hóa thân Phật. Ba thân Phật như vậy, tuy là ba mà không khác với một. Nên giải thích theo cách như vậy, nên tin hiểu đúng như vậy.

Bốn cách lập luận như trên chính là dựa theo 4 tất đàn để giải thích tên phẩm Hiện tháp báu. Đại lược là như vậy.

[Kinh văn nói việc] tháp báu xuất hiện chia làm 2 phần. Phần thứ nhất nêu việc [từ trong tháp] phát ra tiếng nói để chứng minh [phần kinh văn đã thuyết giảng] ở trước. Phần thứ hai nêu việc mở cửa tháp để dẫn khởi phần kinh văn về sau. Chứng minh phần trước có nghĩa là chứng minh 3 vòng thuyết pháp, [gồm thuyết chánh pháp, thuyết nhân duyên, thuyết thí dụ] đều là chân thật.

Nếu lược nói về chân thật thì đó là tất cả đều tương ưng với thật tướng. Nếu nói rộng về chân thật thì lìa cả 4 trường hợp xác định, dứt hết trăm sự phủ định.[10]

Hoặc theo trung đạo mà nói thì “bát bất”[11] gọi là chân thật. Tháp từ trong lòng đất vọt lên là “bất diệt” (không diệt mất); [Phật Đa Bảo] phân chia tòa ngồi để [2 Phật] cùng ngồi là “bất sanh” (không sanh ra); [Phật Thích-ca] vào bên trong tháp là “bất thường” (không thường còn); tháp hiện ra là “bất đoạn” (không đoạn dứt); phân thân [Phật] là “bất nhất” (không phải một); toàn thân [Phật] là “bất dị” (không khác biệt); Phật Đa Bảo nhường tòa ngồi là “bất lai” (không đi đến); Phật Thích-ca ngồi nửa tòa là “bất xuất” (không hiện ra). “Bát bất” rõ ràng như vậy nên là chân thật. Lại nữa, chứng minh tích môn gìn giữ lưu thông kinh này công đức sâu dày, giảng giải truyền rộng sức lực mạnh mẽ, tất cả đều chân thật.

Hỏi: [Trong tên kinh nói] Bình Đẳng Đại Tuệ so sánh với Bát-nhã thì thế nào?

Đáp: Luận Đại trí độ, quyển 79[12] nói: “Bát-nhã là diệu pháp của 3 đời chư Phật.” Cũng giống như chỉ một cửa thành [nhưng người từ] 4 hướng đều có thể theo đó vào thành. Nên biết rằng Bát-nhã cũng gọi là Diệu Pháp [giống như kinh này]. Cho nên kinh này gọi là Bình Đẳng Đại Tuệ [thì so với Bát-nhã] là 2 cách gọi cùng chỉ một ý nghĩa có thể biết được.

Nêu ý dẫn khởi phần [thuyết giảng] về sau là nói việc muốn mở cửa tháp thì phải tập hợp phân thân, tức là nói nghĩa huyền diệu của sự phó chúc. Âm thanh [từ đây] thấu triệt phương dưới triệu tập đệ tử thuở xưa để luận bàn về thọ lượng [Như Lai].

Tháp báu từ xa xưa, nay “từ trong lòng đất bỗng dưng vọt lên” là khai mở sức thần thông tự tại, tức là hiển bày việc làm lợi ích chúng sanh trong đời quá khứ. “Phát ra âm thanh rất lớn” là khai mở sức tinh tấn dũng mãnh như sư tử, tức là hiển bày [chư Phật] hiện tại trong 10 phương đang khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển lộ chân thật. “Có phát đại nguyện… …nếu nơi nào thuyết giảng kinh Pháp hoa thì tháp miếu của ta sẽ vì nghe kinh ấy mà từ trong lòng đất vọt lên phía trước người giảng kinh để chứng minh”, là khai mở sức mạnh mẽ uy thế lớn lao, tức là hiển bày sự thường trụ bất diệt trong tương lai.

Lại nữa, “tháp báu lớn trụ yên giữa không trung” cũng là nghĩa chứng minh phần [thuyết giảng] trước, dẫn khởi phần [thuyết giảng] sau. Người trong bảy hạng phương tiện khi còn bị che lấp ẩn tàng bởi vô minh chưa khai mở [tri kiến] giống như tháp ở trong lòng đất. Sau khi được nghe 3 vòng thuyết pháp, khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày chân thật, khai mở tri kiến Phật, pháp thân hiển lộ như tháp vọt lên hư không. Đây tức là chứng minh phần [thuyết giảng] trước. Tu tập đã đạt được pháp thân sáng tỏ từ lâu, như tháp trụ yên giữa không trung không ai có thể mở [cửa tháp ra], đây là biểu trưng bản địa thành tựu từ lâu nhưng đại chúng không biết. Nếu [được Phật] nêu rõ hình tích, hiển lộ bản nguyên thì thấu đạt rõ ràng không còn nghi ngại. Đây tức là dẫn khởi phần [thuyết giảng] về sau.

Nếu như tháp từ trong lòng đất hiện lên là biểu trưng cho sự hiển lộ pháp thân thì so với những kinh khác có chỗ tương đồng, cũng có chỗ khác nhau. Như [theo giáo pháp] Bồ Tát hiển lộ pháp thân là tương đồng, [theo giáo pháp] nhị thừa hiển lộ pháp thân thì lại khác.

Nếu tháp trụ yên giữa không trung, mở cửa tháp thấy Phật là biểu trưng cho việc nêu rõ hình tích, hiển lộ bản nguyên thì so với những kinh khác vĩnh viễn khác nhau.

Nếu tháp hiện ra là để chứng minh phần [thuyết giảng] trước thì sẽ bị che đậy việc này đã quá rõ ràng, không có gì nghi ngại.

Nếu tháp hiện ra là để dẫn khởi phần [thuyết giảng] về sau thì đó là hàm ý ngấm ngầm đại chúng còn chưa biết. Nay chọn ý nghĩa sau để đưa vào giải thích cũng không có gì sai.

Giải thích theo quán tâm, y theo kinh tu quán, cùng với pháp thân tương ưng thì cảnh và trí sẽ hợp nhau, như tháp hiện đến để chứng minh cho kinh. Cảnh và trí đã hợp nhau thì quả báo lớn lao trọn vẹn đầy đủ, như Phật Thích-ca và Phật Đa Bảo cùng chung một tòa ngồi. Do quả báo lớn lao đã trọn vẹn nên tùy cơ duyên mà xuất hiện tương ứng, như tất cả phân thân [Phật] đều tập hợp. Do Phật Đa Bảo xuất hiện cho nên ba thân Phật đều hiển bày. Do thọ trì kinh này cho nên trọn đủ ba thân. Kinh Quán Phổ Hiền nói “Ba loại thân Phật đều từ nơi kinh Phương đẳng sanh ra”, tức là nghĩa này.

Có người phân chia từ phẩm này trở đi gồm 11 phẩm là thân luân của Phật, dùng thần thông khai mở ý nghĩa bản nguyên xa xưa và hình tích thị hiện. [Phần trước từ chỗ] ngài Di-lặc thưa hỏi trở đi là khẩu luân của Phật, thuyết pháp khai mở ý nghĩa bản nguyên xa xưa và hình tích thị hiện. Nhưng ý nghĩa bản tích chưa sáng tỏ rõ ràng, từ chỗ này phân chia kinh văn thì quá sớm. Đại lược là như thế.

Phẩm này có 2 phần: kinh văn trường hàng và kệ tụng. Kinh văn trường hàng lại chia làm 3 tổng đoạn. Thứ nhất, nêu việc tháp báu của Phật Đa Bảo xuất hiện. Thứ hai, nêu việc phân thân Phật từ xa tập hợp về. Thứ ba là nêu việc đức Phật Thích-ca kêu gọi người thọ trì lưu truyền kinh này.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, ngay trước đức Phật, bỗng từ trong lòng đất phóng vọt lên một tòa tháp bảy báu, cao năm trăm do-tuần, chiều ngang và chiều dọc đều hai trăm năm mươi do-tuần, trụ yên lơ lửng giữa không trung, có đủ mọi vật báu trang nghiêm tô điểm. Bao quanh tháp có năm ngàn dãy lan can, tầng dưới có ngàn muôn bệ thờ, có vô số cờ phướn trang nghiêm làm đẹp, muôn ức chuỗi ngọc quý và chuông báu nhỏ được treo ở phần trên tháp. Từ bốn phía quanh tháp có mùi hương chiên-đàn đa-ma-la-bạt[13] lan tỏa thơm ngát khắp thế giới. Bên trên tháp có những lọng che bằng bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và ngọc mai khôi, cao vút lên tận cung trời Tứ thiên vương.

Tổng đoạn thứ nhất có 6 đoạn. Đoạn thứ nhất nói về tướng tháp báu xuất hiện. Đoạn thứ hai nói việc chư thiên cúng dường. Đoạn thứ ba nêu việc Phật Đa Bảo ngợi khen xưng tán. Đoạn thứ tư nói việc đại chúng khi ấy kinh ngạc, khởi tâm nghi ngờ không biết. Đoạn thứ năm nêu việc Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết thưa hỏi. Đoạn thứ sáu là đức Như Lai giải đáp.

Đoạn thứ nhất, “tòa tháp bằng bảy báu” là nói địa vị pháp thân do tánh thể mà đạt được tài bảo quý báu là 7 giác chi,[14] 7 thánh tài.[15] “Tháp” là cảnh bên ngoài của thật tướng, là chỗ nương vào của pháp thân. “Cao 500 do-tuần” tức là 2 muôn dặm, nói theo thời gian là trong việc tạo nhân có muôn công hạnh, trong thành tựu quả có muôn phẩm đức. “Ngang dọc 250 do-tuần” tức là 1 muôn dặm, nói theo không gian là dùng muôn điều thiện để trang nghiêm.

“Từ trong lòng đất” là chỉ tâm địa vô minh. Dùng pháp không có chỗ phá mà phá trừ vô minh; dùng pháp không có chỗ trụ mà trụ nơi nghĩa không đệ nhất. “Đủ mọi thứ vật báu”, là có nhiều loại định tuệ trang nghiêm làm đẹp. “Lan can” tức là các pháp tổng trì. “Ngàn muôn bệ thờ” là nói từ bi vô lượng làm nhà, lại cũng là căn nhà tánh không vô lượng. “Cờ phướn” là tướng trạng thù thắng của thần thông. “Chuỗi ngọc quý” là công đức của 40 giai vị Bồ Tát, trang nghiêm pháp thân bên trên, che chở chúng sanh bên dưới. “Muôn vạn chuông báu nhỏ” là 8 loại âm thanh [chư Phật dùng để thuyết pháp] và 4 biện tài vô ngại. “Bốn phía quanh tháp có mùi hương... lan tỏa” là gió đạo 4 chân đế thổi ra mùi hương 4 phẩm đức [thường, lạc, ngã, tịnh]. “Cao vút lên tận cung trời Tứ thiên vương” là tột cùng lý 4 chân đế.

KINH VĂN

Chư thiên cõi trời Đao-lợi[16] mưa xuống hoa trời mạn-đà-la để cúng dường tháp báu ấy, trong khi những chư thiên khác cùng các loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và loài phi nhân, số đông đến ngàn muôn ức, tất cả đều dùng hết thảy các loại hoa, hương thơm, chuỗi ngọc, lọng che, âm nhạc để cúng dường tháp báu, tỏ lòng tôn trọng, ngợi khen xưng tán.

Đoạn thứ hai từ câu “Chư thiên cõi trời Đao-lợi” trở đi, nói việc chư thiên cúng dường. Về sự tướng thì việc này có thể rõ biết được, nay lại dựa theo lý [để luận bàn]. Giai vị tam thập tâm là 30, Thập địa là 1, Đẳng giác là 1, Diệu giác là 1, hợp chung là 33,[17] tất cả đều là nương vào cảnh ngoài của thật tướng.

“Mưa xuống hoa trời mạn-đà-la”, là nói hàng Bồ Tát sơ tâm đã trọn đủ công đức của 42 giai vị, cho đến tâm về sau lại cũng như vậy, tất cả đều dùng loại hoa là nhân tu tập 40 giai vị để quy hướng về pháp thân.

Từ câu “những chư thiên khác cùng các loài rồng, dạ-xoa…” trở đi tức là nói hàng nội phàm, ngoại phàm, cũng đều nương vào thật tướng, tu hành các nhân để hướng đến quả.

KINH VĂN

Khi ấy, từ trong tháp báu vang ra âm thanh rất lớn xưng tán rằng: “Lành thay! Lành thay! Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni có thể vì đại chúng thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Bình Đẳng Đại Tuệ, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Đúng vậy, đúng vậy! Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni! Những điều ngài thuyết giảng đó đều là chân thật.”

Đoạn thứ ba từ câu “Khi ấy, từ trong tháp báu phát ra…” trở đi, nói việc đức Phật Đa Bảo ngợi khen xưng tán, nêu ý chính là chứng minh phần [thuyết pháp] trước khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp thật không hề hư dối.

“Bình đẳng đại tuệ” tức là trí tuệ của chư Phật, ý nghĩa cũng giống như trong kinh văn phần trước nói [trâu trắng có] “bước đi ngay ngắn”. “Bình đẳng” lại có 2 nghĩa. Thứ nhất là pháp bình đẳng, tức là lý trung đạo; thứ hai là chúng sanh bình đẳng, tức là tất cả chúng sanh đều [có thể] đạt được trí tuệ Phật như nhau. “Đại” tức là nghĩa “cao rộng” như trong kinh văn phẩm trước đã nói. Nếu dựa theo quán tâm thì pháp quán không là bình đẳng trong thời gian, pháp quán giả là bình đẳng trong không gian, pháp quán trung đạo là bình đẳng trong cả không gian và thời gian. Bình đẳng soi chiếu [cả 2 trí quyền thật] tức là “bình đẳng đại tuệ”.

“Đúng vậy, đúng vậy”, thứ nhất là tướng pháp đúng như vậy, thứ hai là căn tánh đúng như vậy, tất cả đều chân thật, vì đúng như tướng pháp mà thuyết giảng cho nên chân thật.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, bốn chúng nhìn thấy tháp báu lớn trụ yên giữa không trung, lại nghe tiếng nói phát ra từ bên trong tháp, thảy đều có được niềm vui đúng pháp, đều cho là việc kỳ lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, lùi lại đứng sang một bên.

Khi ấy có vị Đại Bồ Tát hiệu là Đại Nhạo Thuyết,[18] biết được lòng nghi của hết thảy chư thiên, loài người, a-tu-la trong thế gian, liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà có tháp báu này từ trong lòng đất bỗng dưng vọt lên, bên trong lại có tiếng nói phát ra như vậy?”

Đoạn thứ tư từ câu “Lúc bấy giờ, bốn chúng nhìn thấy…” trở đi, nói việc đại chúng khi ấy kinh ngạc, khởi tâm nghi ngờ không biết. Đoạn này có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nói đại chúng “có được niềm vui đúng pháp”. Tiểu đoạn thứ hai nêu việc khởi tâm nghi vì thấy việc lạ lùng.

Đoạn thứ năm từ câu “Khi ấy có vị Đại Bồ Tát…” trở đi, nêu việc Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết nhân nơi lòng nghi [của đại chúng] mà thưa hỏi.

Nếu dựa theo phần giải đáp theo sau để hiểu thì câu hỏi này nêu ra 3 ý. Thứ nhất là hỏi do nhân duyên gì mà có tháp này? Thứ hai là hỏi vì sao tháp lại từ trong lòng đất vọt lên? Thứ ba là hỏi vì sao [trong tháp] phát ra tiếng nói?

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Phật nói với Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết: “Trong tháp báu này có toàn thân đức Như Lai. Trong quá khứ, cách đây vô số ngàn muôn ức a-tăng-kỳ thế giới về phương đông[19] có cõi thế giới tên là Bảo Tịnh. Nơi thế giới ấy có đức Phật hiệu là Đa Bảo. Khi đức Phật ấy còn tu hành đạo Bồ Tát có phát đại nguyện rằng: ‘Nếu ta thành Phật, sau khi diệt độ rồi, trong khắp các cõi nước mười phương, nếu nơi nào thuyết giảng kinh Pháp hoa thì tháp miếu của ta sẽ vì nghe kinh ấy mà [từ trong lòng đất] vọt lên phía trước người giảng kinh để chứng minh, nói lời xưng tán: ‘Lành thay!’

“Vị ấy thành Phật rồi, đến lúc sắp diệt độ, ở giữa đại chúng chư thiên và loài người mà bảo các vị tỳ-kheo rằng: ‘Sau khi ta diệt độ, muốn cúng dường toàn thân ta thì nên xây một tòa tháp lớn.’ Do thần thông nguyện lực của Phật Đa Bảo nên ở khắp mọi nơi trong mười phương thế giới, nếu có người thuyết giảng kinh Pháp hoa thì đều có tháp báu của Phật từ trong lòng đất vọt lên ngay phía trước, toàn thân Phật bên trong tháp phát lời xưng tán: ‘Lành thay, lành thay!’

“Này Đại Nhạo Thuyết! Hôm nay tháp của đức Như Lai Đa Bảo vì nghe thuyết giảng kinh Pháp hoa nên từ trong lòng đất vọt lên nói lời xưng tán ‘Lành thay, lành thay!’”

Đoạn thứ sáu từ câu “Bấy giờ, đức Phật nói với Bồ Tát…” trở đi, đức Phật giải đáp 3 điều thưa hỏi trên.

Trước hết là giải đáp điều thứ hai, nói việc đức Phật [Đa Bảo] có lời nguyện chứng minh cho [sự thuyết giảng] kinh Pháp hoa, cho nên [tháp báu] từ trong lòng đất vọt lên.

Thứ hai, từ câu “Vị ấy thành Phật rồi…” trở đi là giải đáp trở lại điều thứ nhất, nói nguyên do Phật Đa Bảo khuyên dạy nên [bốn chúng] tạo ra tháp báu này.

Thứ ba, từ câu “Do thần thông nguyện lực của Phật Đa Bảo…” trở đi là giải đáp điều thứ ba, nói việc vì để chứng minh cho [sự thuyết giảng kinh Pháp hoa] nên phát ra tiếng nói [của Phật Đa Bảo].

Luận Đại trí độ nói rằng đức Phật Đa Bảo không thuyết pháp mà chọn cách diệt độ. Đại sư Nam Nhạc[20] giảng giải là không phải vậy. [Kinh văn có nói] Phật Đa Bảo “bảo các vị tỳ-kheo”, mà tỳ-kheo tức là những vị được Phật giáo hóa, sao có thể nói là không thuyết pháp? Nên hiểu là Phật Đa Bảo cũng đã thuyết giảng khai mở ba thừa nhưng chưa hiển bày pháp thật [Nhất thừa], cho nên luận Đại trí độ mới nói rằng “không thuyết pháp”. Do ý nghĩa đó nên tuy Phật đã diệt độ nhưng ở bất cứ nơi đâu có thuyết giảng kinh Pháp hoa thì đều hoan hỷ vui theo mà làm việc chứng minh [cho việc thuyết giảng kinh].

KINH VĂN

Khi ấy, Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết nương thần lực của Như Lai nên thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con ước nguyện được nhìn thấy toàn thân đức Phật Đa Bảo.”

Đức Phật bảo Đại Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết: “Đức Phật Đa Bảo có lời nguyện sâu nặng rằng: ‘Khi tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp hoa mà hiện ra ở trước chư Phật, nếu có vị Phật nào muốn chỉ bày cho bốn chúng thấy được toàn thân của ta thì tất cả những vị Phật phân thân của Phật ấy đang thuyết pháp trong khắp mười phương đều phải tập hợp về một nơi, sau đó toàn thân ta mới hiện ra.’ Này Đại Nhạo Thuyết! Các vị Phật phân thân của ta đang thuyết pháp trong các thế giới mười phương nay sẽ tập hợp về đây.”

Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết thưa: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng ước nguyện được gặp chư Phật phân thân của Thế Tôn để lễ bái cúng dường.”

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Khi ấy, Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết nương thần lực của đức Như Lai…” trở đi, nêu việc phân thân Phật từ xa đều tập hợp về. Tổng đoạn này có 7 đoạn. Đoạn thứ nhất là Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết thưa thỉnh, nguyện được thấy Phật Đa Bảo. Đoạn thứ hai nói việc [đức Phật Thích-ca] đồng ý triệu tập các phân thân. Đoạn thứ ba nói việc Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết thưa thỉnh muốn gặp chư Phật phân thân tập hợp. Đoạn thứ tư là [đức Phật Thích-ca] phóng hào quang triệu tập [chư Phật phân thân] từ xa. Đoạn thứ năm là chư Phật cùng đến. Đoạn thứ sáu là [đức Phật Thích-ca hóa ra] cõi nước trang nghiêm thanh tịnh. Đoạn thứ bảy là [chư Phật phân thân] đồng muốn mở cửa tháp báu.

Nay giải thích đoạn thứ nhất, kinh văn nói “nương thần lực của đức Như Lai”, vì muốn mở cửa tháp báu phải tập hợp chư Phật [phân thân]. Tập hợp chư Phật tức là phó chúc, [giao phó chánh pháp về sau]. Phó chúc tức là triệu thỉnh chư Phật ở phương dưới. [Chư Phật] phương dưới xuất hiện tức là khai thị trừ bỏ pháp gần, hiển bày pháp xa. Đây là nguyên do của việc lớn lao, lẽ nào lại không phải do thần lực của Phật khiến cho phải thưa hỏi? Các đoạn [thứ hai và thứ ba] y theo kinh văn có thể hiểu được, không cần giảng giải.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Phật phóng ra một đạo hào quang từ tướng bạch hào ở giữa hai chân mày, đại chúng liền nhìn thấy chư Phật đang dùng âm thanh hết sức nhiệm mầu thuyết pháp trong các cõi Phật nhiều như số cát của 500 muôn ức na-do-tha con sông Hằng về phương đông; tất cả những cõi Phật ấy đều có mặt đất bằng pha lê, trang nghiêm bằng những loại cây báu, những tấm vải quý,[21] lại có vô số ngàn muôn ức vị Bồ Tát khắp nơi, có màn báu giăng che, bên trên có lưới báu, lại cũng thấy vô số ngàn muôn ức vị Bồ Tát đầy khắp các cõi Phật ấy, đều đang vì chúng sanh thuyết pháp.

Về phương nam, phương tây, phương bắc, 4 phương phụ và phương trên, phương dưới, những nơi được hào quang từ tướng bạch hào của Phật soi chiếu đến cũng đều hiện ra như vậy.

Khi ấy, chư Phật [phân thân của Phật Thích-ca Mâu-ni] trong mười phương, mỗi vị đều nói với chúng Bồ Tát rằng: “Các thiện nam tử! Nay ta phải đến chỗ đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bà, cũng để cúng dường tháp báu của đức Như Lai Đa Bảo.”

Lúc bấy giờ, thế giới Ta-bà lập tức hóa ra thanh tịnh, mặt đất bằng lưu ly, có cây báu trang nghiêm, đường đi về tám hướng[22] đều có dây bằng vàng ròng giăng theo ven đường để ngăn cách, không còn có xóm làng, thôn ấp, thành thị, biển lớn, núi sông, khe suối hay rừng rậm; có lò hương quý rất lớn được đốt lên, hoa mạn-đà-la trải khắp trên mặt đất, có lưới báu giăng che, phủ khắp bên trên, treo các chuông báu nhỏ, và chỉ giữ lại hội chúng trong pháp hội này, còn tất cả chư thiên và người bên ngoài đều di chuyển sang cõi khác.

Khi ấy, mỗi vị phân thân Phật khi đến thế giới Ta-bà đều mang theo một vị Đại Bồ Tát làm thị giả, đến dưới những cây báu, mỗi cây đều cao 500 do-tuần, cành lá hoa trái thứ lớp trang nghiêm đẹp đẽ. Bên dưới mỗi cây báu đều có tòa sư tử cao năm do-tuần, cũng được trang trí bằng châu báu rất đẹp. Lúc bấy giờ, mỗi vị Phật đều ngồi kết già trên một tòa sư tử dưới gốc cây báu, cứ như vậy mà trải đầy khắp cõi thế giới đại thiên mà số Phật phân thân của Phật Thích-ca Mâu-ni ở một phương vẫn còn chưa hết.

Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn dung chứa hết các vị Phật phân thân, nên về mỗi phương trong tám phương đều biến hóa ra 200 muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng như a-tu-la, lại di chuyển hết chư thiên và loài người sang cõi nước khác. Mỗi cõi nước được biến hóa ra đó cũng đều có mặt đất bằng lưu ly, có cây báu trang nghiêm cao 500 do-tuần, cành lá hoa trái thứ lớp trang nghiêm đẹp đẽ, dưới gốc cây có tòa sư tử cao năm do-tuần, có đủ mọi loại châu báu để trang nghiêm làm đẹp, lại cũng không có biển lớn, sông ngòi cho đến các núi chúa như núi Mục-chân-lân-đà, núi Ma-ha Mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di. Tất cả những cõi nước được biến hóa ra đó lại thông nhau thành một cõi Phật, đất báu bằng phẳng, có màn che bằng các loại châu báu xen nhau che phủ bên trên, treo đầy các loại cờ phướn, lọng che, có lò hương quý rất lớn được đốt lên, có hoa quý của các cõi trời trải khắp mặt đất.

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vì chư Phật phân thân còn sắp đến ngồi nên về mỗi phương trong tám phương lại biến hóa ra thêm 200 muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng như a-tu-la, lại di chuyển hết chư thiên và loài người sang cõi khác. Mỗi cõi nước được biến hóa ra đó cũng đều có mặt đất bằng lưu ly, có cây báu trang nghiêm cao 500 do-tuần, cành lá hoa trái thứ lớp trang nghiêm đẹp đẽ, dưới gốc cây có tòa sư tử cao năm do-tuần, có đủ mọi loại châu báu để trang trí làm đẹp, lại cũng không có biển lớn, sông ngòi cho đến các núi chúa như núi Mục-chân-lân-đà, núi Ma-ha Mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di. Tất cả những cõi nước được biến hóa ra đó lại thông nhau thành một cõi Phật, đất báu bằng phẳng, có màn che bằng các loại châu báu xen nhau che phủ bên trên, treo đầy các loại cờ phướn, lọng che, có lò hương quý rất lớn được đốt lên, có hoa quý của các cõi trời trải khắp mặt đất.

Lúc bấy giờ, các vị Phật phân thân của đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang thuyết pháp trong những cõi nước về phương đông nhiều như số cát của trăm ngàn muôn ức na-do-tha con sông Hằng, đều tập hợp về nơi đây. Cũng giống như vậy, chư Phật phân thân trong mười phương đều lần lượt tập hợp đến ngồi ở khắp tám phương, mỗi phương đều đầy khắp 400 muôn ức na-do-tha[23] cõi nước [đã được đức Phật Thích-ca Mâu-ni biến hóa ra].

Đoạn thứ tư từ câu “Lúc bấy giờ đức Phật phóng ra một đạo hào quang…” trở đi, nói việc Phật phóng hào quang triệu tập [chư Phật phân thân] ở xa.

[Đoạn thứ năm nói] đức Phật ba lần biến hóa ra cõi nước thanh tịnh, việc này chính là nhờ sức tam-muội.

Tam-muội [ở đây] lại có 3 loại.

Lần đầu tiên Phật biến cõi Ta-bà [thành cõi thanh tịnh], đây là [tam-muội] bội xả,[24] có công năng biến uế nhiễm thành thanh tịnh.

Lần thứ hai [Phật] biến hóa ra 200 [muôn ức] na-do-tha [cõi nước thanh tịnh], đây là [tam-muội] thắng xứ, [có công năng] chuyển biến tự tại [theo ý muốn].

Lần thứ ba, [đức Phật] biến hóa ra [thêm] 200 [muôn ức] na-do-tha [cõi nước thanh tịnh], đây là [tam-muội] nhất thiết xứ, [có công năng] đối với ngoại cảnh không còn ngăn ngại.

Lại nữa, một lần đầu tiên biến hóa [cõi Ta-bà thành cõi] thanh tịnh là biểu trưng cho sự thanh tịnh dứt trừ 4 trụ địa [phiền não]. Một lần thứ hai biến hóa ra cõi thanh tịnh là biểu trưng cho sự thanh tịnh dứt trừ trần sa hoặc. Một lần thứ ba biến hóa ra cõi thanh tịnh là biểu trưng cho sự thanh tịnh dứt trừ vô minh hoặc.

KINH VĂN

Khi ấy, mỗi vị Phật phân thân đều ngồi trên tòa sư tử dưới gốc cây báu, sai thị giả đến vấn an đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Mỗi vị đều trao cho vị thị giả một bụm đầy hoa quý và dặn rằng: “Thiện nam tử! Ông hãy đến chỗ đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở núi Kỳ-xà-quật, chuyển lời của ta thưa hỏi rằng: ‘Thế Tôn có được ít bệnh ít phiền, khí lực an vui, cùng các vị Bồ Tát, chúng Thanh văn hết thảy đều được an ổn chăng?’ Hãy dùng bụm hoa quý này tung rải để cúng dường Phật rồi thưa rằng: ‘Đức Phật nơi kia có danh hiệu như vậy, đồng lòng muốn mở cửa tháp báu này ra.’” Tất cả các vị Phật phân thân đều sai khiến thị giả làm giống như vậy.

[Đoạn thứ sáu nói chư Phật cùng đến, y theo kinh văn có thể hiểu được, không cần giảng giải.]

Đoạn thứ bảy từ câu “Khi ấy, mỗi vị Phật phân thân đều ngồi trên tòa sư tử...”, nói việc [chư Phật phân thân] đều muốn mở cửa tháp. Đoạn này lại có 5 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nói việc chư Phật [phân thân sai thị giả đến] thăm hỏi [Phật Thích-ca] và nói việc cùng muốn mở cửa tháp. Tiểu đoạn thứ hai nói việc đức Phật Thích-ca mở cửa tháp. Tiểu đoạn thứ ba nói việc 4 chúng đều cùng được thấy nghe. Tiểu đoạn thứ tư nói việc 2 đức Phật phân chia tòa rồi cùng ngồi. Tiểu đoạn thứ năm nêu việc 4 chúng thỉnh [Phật] gia trì [để được lên cao].

[Tiểu đoạn thứ nhất, kinh văn nói] chư Phật [phân thân] “đồng lòng muốn mở cửa tháp báu”, ý nghĩa cũng giống như trong tăng chúng thực hành pháp “dữ dục”,[25] [gửi ý kiến của mình đến trước đại chúng].

Kinh Đại tập[26] nói “có biết bao nhiêu Phật dữ dục”; kinh Hoa nghiêm cũng nói “trong mười phương có biết bao nhiêu Phật cùng thuyết kinh Hoa Nghiêm”; Đại phẩm Bát-nhã cũng nói “ngàn vị Phật cùng thuyết giảng Bát-nhã”. Nhưng những kinh ấy đều không nói chư Phật ấy là phân thân của đức Phật Thích-ca. Dựa theo kinh Pháp hoa này thì nên hiểu chư Phật đó đều là phân thân [của Phật Thích-ca]. Vì những kinh ấy còn mang giữ phương tiện [chưa phá trừ], cho nên trong lúc thuyết giảng không nêu rõ điều đó. Nay trong kinh Pháp hoa này không chỉ là nêu số lượng Phật rất nhiều, lại cũng nói rõ đó đều là phân thân [của Phật Thích-ca] và đều hiện đến để bày tỏ ý muốn [mở cửa tháp].

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni thấy tất cả các vị Phật phân thân đều đã tập hợp đến ngồi trên tòa sư tử, lại nghe hết thảy chư Phật đều đồng lòng muốn mở cửa tháp báu, nên liền từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bay lên trụ yên giữa không trung. Hết thảy bốn chúng đều đứng yên chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật.

Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni dùng ngón tay trỏ bên phải mở cửa tháp bảy báu, liền vang lên âm thanh rất lớn, giống như lúc tháo chốt khóa mở cửa thành lớn. Ngay lập tức, toàn thể hội chúng đều nhìn thấy đức Như Lai Đa Bảo bên trong tháp báu, ngồi trên tòa sư tử, toàn thân không hư rã, như đang nhập thiền định, lại nghe tiếng Phật nói rằng: “Lành thay, lành thay! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết giảng kinh Pháp hoa này thật vui thích thay! Ta vì nghe kinh này nên mới đến nơi đây.”

Khi ấy bốn chúng thấy việc đức Phật đã diệt độ từ vô số ngàn muôn ức kiếp nói ra lời như vậy thì đều ngợi khen là chưa từng có, liền dùng rất nhiều hoa báu cõi trời tung rải lên trên thân Phật Đa Bảo và Phật Thích-ca Mâu-ni.

Bấy giờ, đức Phật Đa Bảo bên trong tháp báu liền phân chia một nửa tòa ngồi cho đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nói rằng: “Phật Thích-ca Mâu-ni! Có thể đến đây ngồi trên tòa này.” Tức thời, đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền vào bên trong tháp báu, ngồi kết già trên nửa tòa ngồi ấy.

Khi ấy, đại chúng nhìn thấy hai đức Như Lai cùng ngồi kết già trên tòa sư tử bên trong tháp báu thì mỗi người đều khởi lên ý nghĩ rằng: “Tòa Phật ngồi cao xa quá, kính nguyện đức Như Lai dùng sức thần thông giúp chúng con cũng được bay lên trụ yên trên cao như vậy.” Tức thời, đức Phật Thích-ca Mâu-ni dùng sức thần thông đón lấy đại chúng đưa cả lên không trung.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Lúc bấy giờ đức Phật Thích-ca Mâu-ni thấy…” trở đi, nói việc mở cửa tháp, tức là khai thị trừ bỏ quyền thừa. Nhìn thấy Phật [Đa Bảo bên trong tháp] tức là hiển bày pháp chân thật, cũng tức là chứng minh cho phần thuyết giảng trước, lại sắp sửa mở ra thuyết giảng phần sau. “Như lúc tháo chốt khóa”, là nói căn cơ [Đại thừa] phát khởi, tháo gỡ che chướng.

[Từ tiểu đoạn thứ ba đến tiểu đoạn thứ năm, y theo kinh văn có thể hiểu được, không cần giảng giải.]

KINH VĂN

Rồi Phật cất tiếng rền vang bảo khắp bốn chúng rằng: “Những ai có thể ở cõi Ta-bà này rộng thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì nay chính là lúc thích hợp. Không bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập Niết-bàn, nên Phật muốn có người để giao phó kinh Diệu Pháp Liên Hoa này.”

Tổng đoạn thứ ba[27] từ câu “Rồi Phật cất tiếng rền vang bảo khắp bốn chúng…” trở đi, nêu việc đức Phật Thích-ca kêu gọi tìm người thọ trì, lưu thông kinh này.

Tổng đoạn này lại chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất là Phật cất tiếng rền vang nêu lên việc Như Lai chẳng còn ở đời lâu dài. Đoạn thứ hai nêu rõ thời điểm phó chúc, giao phó chánh pháp đã đến. Đoạn thứ ba từ câu “Phật muốn có người…” trở đi, nêu việc phó chúc cần có người. Nói “có người” nghĩa là những người mà khi Phật tại thế có thể tùy cơ duyên làm lợi ích chúng sanh, tự mình thuyết giảng chánh pháp, không cần đến người khác. Nay cơ duyên giáo hóa của Phật đã hết, muốn cho chánh pháp này tiếp tục làm lợi ích vô cùng [cho chúng sanh], nên cần phải phó chúc để lưu thông truyền rộng về sau.

Nói “có người để giao phó” lại bao gồm 2 ý. Thứ nhất là giao phó có người ở gần, tức là giao phó việc giảng thuyết truyền rộng cho 8 muôn, 2 muôn Bồ Tát[28] từ xưa đã trụ ở cõi thế giới này. Thứ hai là giao phó có người ở xa, tức là giao phó cho những đệ tử bản nguyên ở phương dưới, nhiều như số hạt bụi nhỏ trong cả ngàn thế giới, để làm cho kinh này được lưu truyền thông suốt đến khắp mọi nơi, cũng là để phát khởi ý nghĩa thọ lượng [của Như Lai].

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Bậc Thế Tôn Thánh Chủ,
Tuy diệt độ đã lâu,
An vị trong tháp báu,
Còn vì pháp đến đây.

Vậy đại chúng tại sao,
Không chuyên cần vì pháp?
Phật Đa Bảo diệt độ,
Đã vô số kiếp rồi,
Vẫn nghe pháp khắp nơi,
Vì chánh pháp khó gặp.

Phật xưa vốn có nguyện:
“Sau khi ta diệt độ,
Nơi nào có ta đến,
Đều chỉ vì nghe pháp.”

Lại phân thân của ta,
Là vô số chư Phật,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều muốn đến nghe pháp,
Cùng gặp Phật diệt độ:
Đức Như Lai Đa Bảo,
Nên bỏ cõi tốt đẹp,
Cùng các chúng đệ tử,
Chư thiên, người, long thần,
Và những việc cúng dường,
Vì chánh pháp dài lâu,
Nên cùng đến nơi này.

Vì tòa ngồi chư Phật,
Ta đã dùng thần thông,
Dời chuyển vô số chúng,
Làm cõi nước thanh tịnh.

Và hết thảy chư Phật,
Đến ngồi dưới cây báu,
Như hồ nước thanh tịnh,
Có hoa sen trang nghiêm.

Dưới gốc mỗi cây báu,
Đều có tòa sư tử,
Chư Phật ngồi trên tòa,
Trang nghiêm, đẹp, sáng tỏa,
Như giữa đêm tối tăm,
Bừng lên ngọn đuốc lớn.

Thân tỏa hương nhiệm mầu,
Khắp cõi nước mười phương,
Chúng sanh được xông ướp,
Vui không thể tự chế,
Giống như cơn gió mạnh,
Thổi lay nhánh cây nhỏ.
Dùng phương tiện như vậy,
Để pháp trụ lâu dài.

Phần kệ tụng có 48 khổ kệ, [cũng chia làm 3 tổng đoạn,] tụng lại ý nghĩa 3 tổng đoạn trong kinh văn trường hàng. Tổng đoạn thứ nhất có 3 khổ rưỡi kệ, tụng về đức Phật Đa Bảo đã diệt độ. Tổng đoạn thứ hai có 8 khổ rưỡi kệ, tụng về việc [chư Phật] phân thân [của đức Phật Thích-ca] đều tập hợp. Tổng đoạn thứ ba có 36 khổ kệ, tụng về việc đức Phật Thích-ca giao phó chánh pháp.

Tổng đoạn thứ nhất và thứ hai đều có thể y theo kinh văn mà hiểu được, không cần giảng giải.

KINH VĂN

Thế Tôn hỏi đại chúng:
“Sau khi ta diệt độ,
Ai có thể giữ gìn,
Tụng đọc, thuyết kinh này?

Hôm nay ở trước Phật,
Nên tự phát thệ nguyện.
Như đức Phật Đa Bảo,
Tuy diệt độ đã lâu,
Nhưng do đại thệ nguyện,
Phát tiếng hộ trì pháp.

Đức Như Lai Đa Bảo,
Cùng phân thân của ta,
Các hóa Phật tựu về,
Ắt rõ thệ nguyện ấy.

Nay hết thảy Phật tử,
Ai có thể hộ pháp,
Nên phát đại thệ nguyện,
Giữ chánh pháp lâu dài.

Ai có thể giữ gìn,
Bản kinh Pháp hoa này,
Tức là đã cúng dường,
Ta và Phật Đa Bảo.

Đức Phật Đa Bảo này,
Trụ yên trong tháp báu,
Thường hiện khắp mười phương.
Ai giữ gìn kinh này,
Cũng là đã cúng dường,
Chư hóa Phật đến đây,
Làm trang nghiêm sáng đẹp,
Khắp thảy các thế giới.

Nếu thuyết giảng kinh này,
Ắt sẽ được thấy ta,
Cùng Như Lai Đa Bảo,
Và tất cả hóa Phật.

Tổng đoạn thứ ba từ câu “Thế Tôn hỏi đại chúng” trở đi, chia thành 2 đoạn. Đoạn thứ nhất có 8 khổ rưỡi kệ, nêu ra “ba Phật” gồm Phật Đa Bảo, Phật Thích-ca và các vị phân thân Phật, để khuyến khích việc lưu thông kinh này. Đoạn thứ hai có 27 khổ rưỡi kệ, nêu việc thọ trì giữ gìn kinh Pháp hoa này là rất khó để khuyến khích lưu thông.

Đoạn thứ nhất lại có 3 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ nêu việc đức Phật kêu gọi tìm người [giao phó lưu truyền kinh này].

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Như đức Phật Đa Bảo” trở đi gồm 3 khổ kệ, cũng nêu “ba Phật” để khuyến khích việc thọ trì gìn giữ kinh này.

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Ai có thể giữ gìn” trở đi gồm 4 khổ kệ, nói việc thường thọ trì kinh này tức là cúng dường “ba Phật” cùng được thấy “ba Phật” để giải thích ý nghĩa khuyến khích thọ trì kinh này.

KINH VĂN

Này các thiện nam tử!
Hãy suy xét thật kỹ,
Việc này rất khó khăn,
Cần phát khởi đại nguyện.

Bao nhiêu kinh điển khác,
Nhiều như cát sông Hằng,
Tuy thuyết giảng tất cả,
Chưa đủ gọi là khó.

Nắm lấy núi Tu-di,
Mang đặt ở phương khác,
Cách vô số cõi Phật,
Cũng chưa gọi là khó.

Hoặc dùng một ngón chân,
Hất tung cõi đại thiên,
Văng xa đến cõi khác,
Cũng chưa gọi là khó.

Lên cõi trời Hữu đỉnh,
Vì đại chúng thuyết giảng,
Vô số những kinh khác,
Cũng chưa gọi là khó.

Sau khi Phật diệt độ,
Ở trong đời xấu ác,
Có thể thuyết kinh này,
Mới thực sự là khó.

Ví như có một người,
Tay nắm được hư không,
Mang đi khắp đó đây,
Cũng chưa gọi là khó.

Sau khi ta diệt độ,
Tự sao chép kinh này,
Hoặc bảo người khác chép,
Mới thực sự là khó.

Có thể đặt cõi đất,
Trên đầu một móng chân,
Bay lên cõi Phạm thiên,
Cũng chưa gọi là khó.

Sau khi Phật diệt độ,
Ở trong đời xấu ác,
Đọc kinh này chốc lát,
Mới thực sự là khó.

Gặp tai kiếp lửa thiêu,
Mà gánh vác cỏ khô,
Vào lửa không bị cháy,
Cũng chưa gọi là khó.

Sau khi Phật diệt độ,
Nếu trì tụng kinh này,
Vì một người giảng thuyết,
Mới thực sự là khó.

Nếu trì tụng tám muôn
Với bốn ngàn pháp tạng,
Mười hai thể loại kinh,
Vì người khác giảng thuyết,
Giúp cho người nghe kinh,
Đều được sáu thần thông.
Tuy làm được như vậy,
Cũng chưa gọi là khó.

Sau khi Phật diệt độ,
Nghe, tin nhận kinh này,
Thưa hỏi về nghĩa lý,
Mới thực sự là khó.

Như có người thuyết pháp,
Giúp cho ngàn muôn ức,
Đến vô số chúng sanh,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều chứng A-la-hán,
Đầy đủ sáu thần thông.
Dù hữu ích như thế,
Cũng chưa gọi là khó.

Sau khi Phật diệt độ,
Nếu kính vâng thọ trì,
Bản kinh Pháp hoa này,
Mới thực sự là khó.

Ta vì truyền Phật đạo,
Ở vô số cõi nước,
Từ thuở xưa đến nay,
Rộng thuyết nhiều kinh điển,
Nhưng trong những kinh ấy,
Pháp hoa là bậc nhất.

Nếu gìn giữ kinh này,
Là giữ gìn thân Phật.

Đoạn thứ hai từ câu “Này các thiện nam tử” trở đi, có 27 khổ rưỡi kệ nêu việc thọ trì gìn giữ kinh này là rất khó để khuyến khích sự lưu thông.

Đoạn này lại có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 20 khổ kệ, nêu ý chính khuyến khích [sự lưu thông kinh]. Tiểu đoạn thứ hai gồm 7 khổ rưỡi kệ, giải thích ý nghĩa phần khuyến khích.

Tiểu đoạn thứ nhất lại có 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ nêu ý khuyên răn.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Bao nhiêu kinh điển khác” trở đi có 17 khổ kệ, nêu ý chính là việc thọ trì giữ gìn kinh này rất khó để khuyến khích lưu thông.

Phân đoạn thứ ba từ câu “Ta vì truyền Phật đạo” trở đi có 2 khổ kệ, giải thích ý nghĩa việc thọ trì giữ gìn kinh này rất khó. Nếu ai có thể thọ trì giữ gìn kinh này tức là giữ gìn thân Phật, ý nghĩa như vậy thì làm sao có thể là dễ dàng được.

KINH VĂN

Này các thiện nam tử!
Sau khi ta diệt độ,
Ai có thể thọ trì,
Tụng đọc kinh điển này,
Thì nay ở trước Phật,
Hãy tự phát thệ nguyện.

Kinh này khó thọ trì,
Ai thọ trì chốc lát,
Đủ làm ta hoan hỷ,
Chư Phật cũng đều vui.

Người làm được như vậy,
Chư Phật đều khen ngợi.
Đó chính là dũng mãnh,
Đó chính là tinh tấn,
Cũng chính là trì giới,
Là tu hạnh đầu đà,
Ắt sẽ được nhanh chóng,
Thành tựu đạo Vô thượng.

Ở trong đời tương lai,
Đọc, thọ trì kinh này,
Đúng thật là Phật tử,
Ở địa vị thuần thiện.

Sau khi Phật diệt độ,
Thường giảng giải kinh này,
Thì là mắt nhìn thay
Cho trời, người thế gian.

Giữa đời nhiều khiếp sợ,
Thuyết kinh này chốc lát,
Cũng đủ để trời, người,
Đều nên đến cúng dường.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này các thiện nam tử” trở đi gồm 7 khổ rưỡi kệ, nêu việc có thể thọ trì giữ gìn [kinh này vốn] khó thọ trì giữ gìn thì có thể thành tựu công đức thù thắng, để giải thích ý nghĩa khuyến khích.

Tiểu đoạn này lại có 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất có 1 khổ rưỡi kệ, lặp lại lời kêu gọi khuyên người thọ trì kinh.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Kinh này khó thọ trì” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ nêu rõ việc ai có thể thọ trì pháp khó thọ trì ắt sẽ được chư Phật hoan hỷ ngợi khen xưng tán.

Phân đoạn thứ ba từ câu “Đó chính là dũng mãnh” trở đi, có 4 khổ rưỡi kệ, nêu rõ việc có thể thọ trì chánh pháp khó thọ trì tức là thành tựu công hạnh thù thắng. Công hạnh thù thắng lại có 2 ý nghĩa là tự mình được thù thắng và giúp người khác trở nên thù thắng.

“Giữa đời nhiều khiếp sợ”, tiếng Phạn gọi là sa-bội, Hán ngữ dịch là “khủng úy”, nhiều khiếp sợ. Cũng như tiếng Phạn gọi là bạt-đà, Hán ngữ dịch là Hiền kiếp,[29] chỉ là cách gọi tên khác nhau.

_________________________________


CHÚ THÍCH

[1] Văn Cú nói: “經云: 佛三種身從此經生。 - Kinh vân: Phật tam chủng thân tùng thử kinh sanh.” Kinh được trích dẫn ở đây là kinh Phật Thuyết Quán Phổ Hiền Bồ Tát hành pháp (佛說觀普賢菩薩行法經), nguyên văn là: “佛三種身從方等生 - Phật tam chủng thân tùng Phương đẳng sanh.” (ĐCT, T9, 277, tr.393a, d.10).

[2] Văn Cú nói “瓔珞經 - Anh Lạc kinh”, tức “Bồ Tát Anh Lạc Kinh - 菩薩瓔珞經” gồm 14 quyển. Nội dung trích dẫn nằm trong quyển 11, phẩm thứ 31 là “供養舍利品 - Cúng dường xá-lợi phẩm”. Văn Cú nói “善吉問 - Thiện Cát vấn” nhưng trong kinh dùng tên “須菩提 - Tu-bồ-đề”, cả 2 danh xưng này đều chỉ đến một người.

[3] Sanh thân Phật tức là thân Phật đang sống, cũng tức là sắc thân. Xá-lợi toàn thân là trường hợp sau khi Phật diệt độ nhưng thân thể vẫn nguyên vẹn không hư rã. Xá-lợi toái thân là xá-lợi còn lại sau khi trà-tỳ (hỏa thiêu) thân Phật, gồm những phần nhỏ không nguyên vẹn.

[4] Văn Cú dùng “那術 - na-thuật”, tức là na-do-tha (那由他), đều phiên âm từ Phạn ngữ nayuta, để chỉ một con số rất lớn.

[5] Văn Cú nói “薩雲分陀利經 – Tát-vân Phân-đà-lợi kinh” là bị nhầm, vì đúng ra là “薩曇分陀利經 - Tát-đàm Phân-đà-lợi kinh”, 1 quyển, đã mất tên người Hán dịch. Tên kinh này là được phiên âm từ Phạn ngữ “Saddharma Puṇḍarīka”, tức là kinh Pháp hoa, như trong chính nội dung kinh này có nói: “薩曇分陀利, 漢言法華 – Tát-đàm Phân-đà-lợi, Hán ngôn Pháp hoa”. Quyển kinh này có khả năng là bản lược dịch ban đầu của ngài Pháp Hộ (6 quyển), đã thất bản. Đây có thể là một trong 6 quyển còn sót lại, hiện được xem là mất tên người dịch. Xem Đại Chánh tạng, Tập 9, kinh số 265, trang 197, tờ a, dòng 12.

[6] Y theo trong kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi nói là “金床 - kim sàng” (giường bằng vàng), nhưng đối chiếu nội dung kinh này thì đây là tòa ngồi của Phật. Có thể do cách dịch sang Hán ngữ thời kỳ đầu chưa chính xác như về sau nên gọi đây là “giường”.

[7] Văn Cú trích dẫn kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi nói là “袍休蘭羅 - Bão-hưu-lan-la”, nhưng y theo kinh ấy thì là “抱休羅蘭 - Bão-hưu-la-lan”. Đây là danh hiệu Phật được phiên âm từ Phạn ngữ Prabhūtaratna. Các bản dịch về sau đều dịch nghĩa là Đa Bảo (多寶) thay vì Đại Bảo (大寶).

[8] Nguyên tác dùng Thích luận (釋論), thật ra là chỉ đến luận Đại trí độ, như chúng tôi đã dẫn chứng ở trước.

[9] Văn Cú nói “師云 - sư vân”, theo Văn Cú Ký là chỉ đến thầy của ngài Trí Khải, tức là Đại sư Nam Nhạc Tuệ Tư (南嶽慧思).

[10] Nguyên tác là “離四句絕百非 - ly tứ cú, tuyệt bách phi”. “Tứ cú” (4 câu) là chỉ 4 trường hợp xác định của bất kỳ luận đề nào, bao gồm: có, không, cũng có cũng không và chẳng phải có chẳng phải không; “bách phi” (trăm sự phủ định) thật ra là chỉ tất cả mọi trường hợp phủ định, vì được dùng theo cách nói biểu trưng, “trăm” để chỉ số lượng rất nhiều. Trong phạm vi tranh luận dựa trên ngôn thuyết, khái niệm thì bất kỳ vấn đề nào được xác định cũng không thể ra ngoài 4 trường hợp vừa nêu. Hoặc vấn đề đó được xác định là có, hoặc là không, hoặc cũng có cũng không, hoặc chẳng phải có cũng chẳng phải không. Lìa cả 4 trường hợp này có nghĩa là vượt ngoài ngôn thuyết, khái niệm, không thuộc về mọi sự xác định mới thực sự là ý nghĩa chân thật rốt ráo, và do đó cũng dứt hết mọi sự phủ định.

[11] Nguyên tác là “八不 - bát bất”, chỉ bát bất trung đạo (八不中道), bao gồm 8 trường hợp xếp thành 4 cặp phạm trù đối đãi được đề cập đến trong Trung luận của ngài Long Thụ, bao gồm: bất sanh diệc bất diệt - 不生亦不滅 (không sanh cũng không diệt), bất thường diệc bất đoạn -不常亦不斷 (không thường cũng không đoạn), bất nhất diệc bất dị - 不一亦不異 (không phải một cũng không phải khác, và bất lai diệc bất xuất - 不來亦不出 (không đi đến cũng không xuất hiện). Trong thế giới của nhận thức tương đối thì tất cả sự vật đều rơi vào một trong hai bên của các cặp phạm trù này, chẳng hạn như một vật không còn sống (sanh) thì phải là chết (diệt), không thường hằng thì phải đoạn diệt, không đồng nhất thì phải khác biệt… Nhận thức chân thật không rơi vào một trong hai bên như thế gọi là trung đạo, cho nên pháp chân thật thì không sanh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn v.v. Do đó, “bát bất” có thể hiểu là 8 điều không, không rơi vào 4 cặp phạm trù đối đãi nói trên.

[12] Văn Cú dùng tên Thích luận (釋論) để chỉ Đại trí độ luận thích (大智度論釋). Câu trích dẫn này nằm ở quyển 79, phẩm Chúc lụy thứ 66 (囑累品第六十六). Nguyên văn: “般若是十方三世諸佛妙法。 - Bát-nhã thị thập phương tam thế chư Phật diệu pháp.” Xem Đại Chánh tạng, Tập 25, số 1509, trang 620, tờ b, dòng 18.

[13] Đa-ma-la-bạt (tamālapa), một loại chiên-đàn quý, có mùi hương rất thơm.

[14] Văn Cú dùng “七覺 - thất giác”, tức thất giác chi (七覺支), là nhóm thứ sáu trong 37 đạo phẩm. Thất giác chi bao gồm: 1. Niệm giác chi; 2. Trạch pháp giác chi; 3. Tinh tấn giác chi; 4. Hỷ giác chi; 5. Khinh an giác chi; 6. Định giác chi; 7. Xả giác chi. Bảy pháp này góp phần đưa đến sự giác ngộ nên được xem là tài sản quý báu của người tu tập.

[15] Văn Cú dùng “七聖財 - thất thánh tài”, tức là 7 tài sản quý báu của bậc thánh, bao gồm: 1. Tín tài; 2. Giới tài; 3. Tàm tài; 4. Quý tài; 5. Văn tài; 6. Thí tài; 7. Định tuệ tài. Tín chỉ niềm tin, đức tin; giới là phẩm hạnh trì giới; tàm là tự hổ thẹn về việc xấu mình làm; quý là xấu hổ với người khác; văn là được nghe chánh pháp, nghe nhiều học rộng các pháp môn; thí là tu tập bố thí; định tuệ là tu tập đạt được định tuệ.

[16] Văn Cú dùng “三十三天 - tam thập tam thiên” (Trāyastriṃśat-deva), tức là cõi trời Đao-lợi (忉利天). Vì cõi trời này có tất cả 33 thiên cung nên được gọi là cõi trời Tam thập tam (ba mươi ba). Đây là tầng trời thứ hai trong 6 tầng trời thuộc Dục giới.

[17] Phần lý giải này nêu đến số 33 là tương ứng với danh xưng “tam thập tam thiên” như đã giải thích, tức là cõi trời Đao-lợi.

[18] Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết (大樂說), được dịch từ tên Phạn ngữ là Mahā Pratibhāna. Tên gọi này có liên quan đến một trong Tứ vô ngại biện là Nhạo thuyết vô ngại biện, tức là biện tài không ngăn ngại, có thể thuyết pháp tùy theo sự ưa thích của chúng sanh. Do vậy, tuy chữ 樂 có thể đọc theo cả 2 âm là “lạc” (niềm vui) hoặc “nhạo” (ưa thích), nhưng đọc là “nhạo” mới phù hợp với tên của vị này.

[19] Theo bản Anh dịch của H. Kern thì là về phương dưới (in the point of space below). Điều này phù hợp với phần kinh văn sau trong phẩm Đề-bà-đạt-đa nói Bồ Tát Trí Tích, thị giả của Phật Đa Bảo, đến từ phương dưới.

[20] Văn Cú dùng chữ “師 - sư” để chỉ ngài Nam Nhạc, thầy của Đại sư Trí Khải.

[21] Kinh văn dùng chữ “寶衣 - bảo y”, thông thường hiểu là “áo quý”, nhưng trong ngữ cảnh này không phải y áo để mặc mà là những tấm vải quý. Bản Anh dịch của H. Kern là “decorated with strings of fine cloth” (trang hoàng bằng những tấm vải đẹp).

[22] Kinh văn dùng “八道 - bát đạo” (8 con đường), tức chỉ các con đường đi về tám hướng, tức là các hướng đông, tây, nam, bắc và 4 hướng phụ là đông nam, đông bắc, tây nam và tây bắc.

[23] Kinh văn phần trên nói đức Phật Thích-ca Mâu-ni 2 lần biến hóa ra các cõi nước, mỗi lần là 200 muôn ức na-do-tha cõi nước, cho nên ở đây nói tổng cộng là 400 muôn ức na-do-tha.

[24] Văn Cú dùng “背捨 - bội xả”, tức là bát bội xả (八背捨), 8 sự buông xả dứt bỏ, cũng gọi là bát giải thoát (八解脫), bao gồm: bao gồm: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Ở trong sắc giới, quán nội sắc và ngoại sắc, trừ bỏ tâm ham thích sắc thể; 2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Không quán nội sắc, quán ngoại sắc, nhận ngoại sắc là ô nhiễm; 3. Tịnh thân tác chứng cụ túc tác giải thoát: Quán tưởng về thanh tịnh nhưng không chấp giữ; 4. Không vô biên xứ giải thoát: Vượt qua sắc thể, quán tưởng rằng hư không là vô biên; 5. Thức vô biên xứ giải thoát: Đạt đến ý niệm thức là vô biên; 6. Vô sở hữu xứ giải thoát: Đạt địa vị trong tâm không còn có vật gì; 7. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát: Đạt đến mức định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; 8. Diệt tận định giải thoát: Đạt mức định Diệt thọ tưởng xứ.

[25] Dữ dục (與欲) là một nghi thức được thực hiện khi vị tỳ-kheo không thể trực tiếp đến tham dự một buổi họp bàn của tăng chúng. Vị ấy có thể gửi ý kiến của mình về vấn đề đang bàn thảo cho một vị tỳ-kheo khác đến trình bày trước đại chúng. Người nhận việc truyền đạt ý kiến đó gọi là “thụ dục” (受欲), và mang ra trình bày trước đại chúng gọi là “thuyết dục” (說欲).

[26] Tức là Đại phương đẳng Đại tập kinh (大方等大集經).

[27] Văn Cú nói “第二 - đệ nhị”, nhưng theo phân chia ở phần trước thì đây là tổng đoạn thứ ba.

[28] Ở đây nói 8 muôn Bồ Tát là số lượng được nêu ở đầu phẩm Pháp sư (80.000), 2 muôn Bồ Tát là số Bồ Tát được nêu ở đầu phẩm Khuyến khích thọ trì (20.000).

[29] Văn Cú dùng “颰陀 - bạt-đà” là phiên âm từ Phạn ngữ Bhadrā, nói đủ là Bhadrā-kalpa, tức là Hiền kiếp, danh xưng của thời đại chúng ta đang sống hiện nay. Trong Hiền kiếp này sẽ có tất cả là 1.000 vị Phật lần lượt ra đời. Văn Cú dùng chữ “沙悖 - sa-bội” cũng là phiên âm từ Phạn ngữ để chỉ “khủng úy thế”, nghĩa là “đời nhiều khiếp sợ”.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 20 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




An Sĩ toàn thư - Khuyên người tin sâu nhân quả - Quyển Thượng


Cảm tạ xứ Đức


Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa


Gõ cửa thiền

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.169 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...