Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Tứ Phần Luật [四分律] »» Bản Việt dịch quyển số 59 »»

Tứ Phần Luật [四分律] »» Bản Việt dịch quyển số 59


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.63 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.77 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luật Tứ Phần

Kinh này có 60 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 48 | 49 | 50 | 51 | 52 | 53 | 54 | 55 | 56 | 57 | 58 | 59 | 60 |
Việt dịch: Thích Đỗng Minh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Thích Nguyên Chứng - Thích Đức Thắng
Hiệu chính và chú thích
46. Đức Thế Tôn ở tại Ba-la-nại. Bấy giờ, Ngài biết mà vẫn hỏi Tôn giả A nan:
«Trong khi mất mùa, lúa gạo khan hiếm, Ta từ mẫn vì các tỳ-kheo nên cho phóng xả bốn việc: ngủ chung với thức ăn trong nội giới, nấu trong nội giới, tự mình nấu, tự nhận thức ăn. Nay các tỳ-kheo vẫn cứ tiếp tục như vậy hay sao?»
A nan bạch Phật:
«Các tỳ-kheo vẫn tiếp tục.»
Đức Phật dạy:
«A nan, không được ăn như vậy. Nếu ăn, sẽ như pháp trị.»
47. Đức Phật bảo tôn giả A nan:
«Do khi lúa gạo khan hiếm, Ta thương các tỳ-kheo nên cho phép: sáng sớm thọ tiểu thực từ người kia mang đến, như trái hồ đào v.v... và thức ăn có thể ăn trong nước. Những thứ như vậy vẫn tiếp tục ăn hay sao?»
Tôn giả A nan trả lời:
«Vâng!»
Đức Phật dạy:
«Không được ăn. Nếu ăn, sẽ như pháp trị.»
48. Có bốn pháp tác yết-ma ha trách, phi pháp phi tỳ-ni yết-ma không thành, không đúng cách. Bốn pháp đó là gì? [1002a1] Vô căn phá giới, phá kiến, phá oai nghi, phá chánh mạng. Đó là bốn pháp.
49. Có bốn pháp tác yết-ma quở trách như pháp như tỳ-ni yết-ma thành tựu, đúng cách (ngược nghĩa với câu trên).
50. Có bốn đại tặc.[133] Những gì là bốn?
a. Hoặc có đại tặc sanh ý nghĩ như vầy: ‘Nếu có được trăm người, ngàn người để phá thành ấp đó.’ Một thời gian sau, tên giặc ấy có được trăm người, ngàn người phá thành ấp đó. Cũng vậy, ác tỳ-kheo nghĩ như vầy: ‘Ở chỗ nào mà ta sẽ được một trăm nhơn chúng, một ngàn nhơn chúng để du hành tại thành ấp nào đó.’ Vào thời gian khác vị kia có được một trăm nhơn chúng, một ngàn nhơn chúng du hành nơi thành ấp kia. Đó là đại tặc thứ nhứt.
b. Lại nữa, có đại tặc chẳng phải tịnh hạnh tự nói là tịnh hạnh. Đó là hạng đại tặc thứ hai.
c. Lại nữa, có đại tặc vì miệng bụng, nên tuy không chơn thật, chẳng phải mình có, mà đối giữa đại chúng cố ý vọng ngữ, tự xưng được pháp thượng nhơn. Đó là hạng đại tặc thứ ba.
d. Lại có đại tặc xử dụng bông trái, rau lá của Tăng để tự nuôi sống. Đó là đại tặc thứ tư.
51. Có bốn tín pháp:
Nếu tỳ-kheo ở nơi thành quách, thôn xóm, làm nhiều bất tịnh hạnh, chẳng phải pháp sa-môn. Trong đây, nên tùy thuận giáo thọ cư sĩ khiến cho họ tin. Tỳ-kheo kia nói với tỳ-kheo này rằng: «Thầy ở nơi thành ấp, thôn xóm đó làm nhiều bất tịnh hạnh, chẳng phải pháp sa-môn. Thầy nên trở lại giáo hóa cư sĩ kia. Nếu thầy không thể tùy thuận giáo hóa cư sĩ khiến cho họ tin thì Thầy không thể cư trú tại đây. Nếu Thầy có thể tùy thuận giáo hóa cư sĩ thì cho phép Thầy ở tại đây. Nếu không thể tùy thuận giáo hóa cư sĩ khiến cho họ tin thì các tỳ-kheo không cùng Thầy đồng yết-ma, thuyết giới, tự tứ, chung đồng một chỗ ngồi, tiểu thực đại thực không theo thứ tự mà ngồi, cũng không đón tiếp, chắp tay lễ bái chào hỏi. Nếu Thầy có thể tùy thuận giáo hóa cư sĩ kia khiến cho họ tin thì các tỳ-kheo sẽ cùng thầy đồng yết-ma, cho đến lễ bái hỏi chào.» Đó là bốn tín pháp. Nếu là cư sĩ hay con cư sĩ cũng như vậy.
52. Có bốn phi Thánh pháp: cái không thấy nói thấy, cái không nghe nói nghe, cái không xúc nói xúc, cái không biết nói biết.[134] Đó là bốn phi Thánh pháp.
53. Có bốn Thánh pháp (ngược lại nghĩa câu trên).
54. Có bốn phi Thánh pháp: cái thấy nói không thấy, cái nghe nói không nghe, cái xúc nói không xúc, cái biết nói không biết. Đó là bốn phi Thánh pháp.
55. Có bốn Thánh pháp: (ngược lại nghĩa câu trên).
56. Có bốn lời xả giới: «Xả Phật, xả Pháp, xả Tăng, xả Hòa thượng.» Đó là bốn lời xả giới.
Cũng vậy, «xả Phật, xả Pháp, xả Tăng,» làm phần đầu, rồi thêm, cho đến «phi sa-môn Thích tử.»[135] Mỗi cụm bốn lời như vậy.
57. Vì bốn nghĩa lợi nên đức Như Lai ra đời vì các tỳ-kheo chế giới: nhiếp thủ đối với Tăng, cho đến chánh pháp tồn tại lâu dài. Mỗi cụm gồm bốn nghĩa như vậy.[136]
58. Có bốn nghĩa lợi nên đức Như Lai ra đời vì các tỳ-kheo chế yết-ma ha trách; nhiếp thủ đối với Tăng, cho đến chánh pháp tồn tại lâu dài. Mỗi cụm gồm bốn bốn nghĩa như vây.[137]
Cho đến bảy diệt tránh cũng như vậy.
V. NĂM PHÁP
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở thành Vương-xá, bảo các tỳ-kheo:
1. «Có năm pháp không được trao đại giới cho người:[138] không giới, không định, không tuệ, không giải thoát tuệ, không tri kiến giải thoát. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
2. Lại có năm pháp nên trao đại giới cho người: (Ngược lại nghĩa câu trên).
3. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: tự mình không giới, không định, không tuệ, không giải thoát tuệ, không kiến giải thoát tuệ, cũng không thể dạy người khiến an trụ giới-định-tuệ, cho đến kiến giải thoát tuệ. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
4. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại nghĩa câu trên).
5. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không tín, không tàm, không quý, giải đãi, quên nhiều. Có năm pháp như vậy, không được trao đại giới cho người.
6. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (Ngược lại nghĩa câu trên).
7. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không biết tăng giới, tăng tâm, tăng tuệ học, không biết bạch, không biết yết-ma. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
8. Có năm pháp nên trao đại giới cho người (tức ngược với nghĩa câu trên).
9. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không biết oai nghi giới, không biết tăng tịnh hạnh,[139] không biết Ba-la-đề-mộc-xoa giới, không biết bạch, không biết yết-ma. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
10. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại nghĩa câu trên).
11. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không biết phạm, không biết phạm rồi sám hối, không biết phạm rồi sám hối thanh tịnh, không biết bạch, không biết yết-ma. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
12. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại nghĩa câu trên).
13. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không biết có nạn pháp, không biết không nạn pháp, không biết bạch, không biết yết-ma, không đủ mười tuổi (hạ). Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
14. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại nghĩa câu trên).
15. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không thể dạy người tăng giới học, tăng tâm học, tăng tuệ học, không thể làm người nuôi bệnh,[140] cũng không thể nhờ người nuôi bệnh đến khi lành hoặc đến khi qua đời, hoặc không đủ mười tuổi (hạ). Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
16. Lại có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược nghĩa lại câu trên).
17. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không thể dạy đệ tử tăng oai nghi giới, tăng tịnh hạnh, tăng Ba-la-đề-mộc-xoa giới, nếu đệ tử có ác kiến không thể phương tiện dạy khiến cho bỏ ác kiến trụ thiện kiến, hoặc không đủ mười tuổi (hạ). Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
18. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại nghĩa câu trên).
19. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không biết phạm, không biết không phạm, không biết nhẹ, không biết nặng, không rộng tụng hai bộ tỳ-ni. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
20. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại nghĩa trên).
21. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không thọ trì đủ Ba-la-đề-mộc-xoa giới, không đa văn, không thể dạy đệ tử Tỳ-ni, A-tỳ- đàm, không đủ mười tuổi. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới.
22. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại nghĩa câu trên).
23. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không thọ trì đủ Ba-la-đề-mộc-xoa giới, không thể dạy đệ tử Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, nếu đệ tử có ác kiến không thể dạy khiến xả ác kiến trụ thiện kiến. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
24. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại nghĩa câu trên).
25. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không thể dạy đệ tử Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, nếu đệ tử có ác kiến không thể dạy khiến xả ác kiến trụ thiện kiến, nếu đệ tử không an lạc ở trú xứ này, không thể dời đến trú xứ khác an lạc, nếu đệ tử có sanh tâm nghi hối mà không thể khai giải đúng Phật Pháp. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
26. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại nghĩa câu trên).
27. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: Không thể dạy đệ tử Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, nếu [1003a1] đệ tử có ác kiến không thể dạy khiến xả ác kiến trụ thiện kiến, nếu đệ tử không an lạc ở trú xứ này, không thể dời đến trú xứ khác an lạc, không đủ mười tuổi. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
28. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại nghĩa câu trên).
29. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không biết Ba-la-đề-mộc-xoa giới, cũng không thể thuyết giới, không biết bố-tát, không biết yết-ma bố-tát, không đủ mười tuổi. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
30. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại câu trên).
31. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không khéo biết phạm, không khéo biết sám hối phạm, không khéo nhập định, không khéo xuất định, không đủ mười tuổi. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
32. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại lại câu trên).
33. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không biết phạm, không biết không phạm, không biết nhẹ, không biết nặng, không đủ mười tuổi. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
34. Lại có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại câu trên).
35. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không thọ trì đủ Ba-la-đề-mộc-xoa giới, không đa văn, không thể dạy đệ tử tăng giới học, không thể chăm sóc bệnh, không thể nhờ người chăm sóc bệnh đến khi lành hay qua đời, không rộng tụng hai bộ tỳ-ni. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
36. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại câu trên).
37. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không thọ trì đủ Ba-la-đề-mộc-xoa giới, không đa văn, không thể dạy đệ tử tăng giới học, nếu đệ tử có ác kiến không thể dạy đệ tử xả bỏ ác kiến khiến trụ thiện kiến, không khéo tụng tỳ-ni. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
38. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược lại câu trên).
39. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không thọ trì đủ Ba-la-đề-mộc-xoa giới, không đa văn, không thể dạy đệ tử tăng giới học, nếu đệ tử không an lạc ở trú xứ này, không thể di chuyển đến trú xứ khác an lạc, không kiên trụ tỳ-ni. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
40. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (trái với nghĩa câu trên).
41. Lại có năm pháp không được trao đại giới cho người: không thọ trì đủ hai trăm năm mươi giới, không đa văn, không thể dạy đệ tử tăng giới học; đệ tử có nghi, không thể như Phật pháp giải thích, không thể quyết đoán tránh sự. Có năm pháp như vậy không được trao đại giới cho người.
42. Có năm pháp nên trao đại giới cho người: (ngược với câu trên).
Cũng vậy tăng tâm, tăng tuệ, tăng oai nghi học, tăng tịnh hạnh học, tăng Ba-la-đề-mộc-xoa học (cũng từng mỗi cụm gồm năm như trên).
Nếu tỳ-kheo nào tự điều phục, không sợ hãi, có khả năng nói năng; tự mình có những việc này, thì cũng có thể dạy đệ tử. Người như vậy nên trao đại giới cho người, nên cho người y chỉ, nên nuôi sa-di, nên nhận Tăng sai giáo thọ tỳ-kheo-ni; nếu đã sai thì nên giáo thọ.
43. Có năm hạng người không được thọ đại giới: tự nói phạm biên tội, phạm tỳ-kheo-ni, hoặc tặc tâm thọ giới, phá nội ngoại đạo, huỳnh môn.[141] Người có năm pháp như vậy không được cho thọ đại giới.
44. Lại có năm hạng người không được cho thọ đại giới: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá Tăng, ác tâm làm thân Phật ra máu.[142] Có năm pháp như vậy không được cho thọ đại giới.
45. Có năm hạng huỳnh môn: sanh huỳnh môn, hình tàn huỳnh môn, thạch huỳnh môn, biến huỳnh môn, bán nguyệt hình môn. Đó là năm hạng huỳnh môn.[143]
46. Có năm hạng bịnh nhơn không được cho thọ đại giới: hủi, ung thư, hủi trắng, càn tiêu, điên cuồng. Năm hạng người có bệnh như vậy không được cho thọ đại giới.
47. Có năm hạng người thanh tịnh, không có nạn sự nên cho thọ đại giới: đàn ông,[144] không mắc nợ, chẳng phải tôi tớ, đủ hai mươi tuổi, cha mẹ cho phép. Năm hạng người thanh tịnh không có nạn sự như vậy nên cho thọ đại giới.
48. Có năm pháp (cách) cho người y chỉ: hoặc nói, «Được.» Hoặc nói, «Chấp thuận.» Hoặc nói, «Phải.» Hoặc nói, «Ngươi hãy khéo tự tu hành.» Hoặc nói, «Ngươi chứ buông lung.» Đó là năm cách nói cho pháp y chỉ.
49. Có năm cách nói khi cho người y chỉ: Hoặc nói, «Lành thay.» Hoặc nói, «Tốt.» Hoặc nói, «Hãy đứng dậy.» Hoặc nói, «Hãy đi.» Hoặc nói, «Ta cho ngươi y chỉ.» Đó là năm cách nói khi cho người y chỉ.
50. Có năm pháp không được sống không y chỉ: không giới, không định, không tuệ, không giải thoát tuệ, không kiến giải thoát tuệ. Có năm pháp như vậy không được sống không y chỉ.
51. Có năm pháp có thể sống không y chỉ: (ngược lại với năm câu trên).
52. Lại có năm pháp không nên sống không y chỉ: không giới lại không thể tự siêng tu học giới, không định, không tuệ, không giải thoát tuệ, không kiến giải thoát tuệ, lại không thể tự siêng tu giới-định-tuệ, giải thoát tuệ, kiến giải thoát tuệ. Có năm pháp như vậy không nên sống không y chỉ.
53. Có năm pháp có thể sống không y chỉ: (ngược lại câu trên).
55. Lại có năm pháp không được sống không y chỉ: không thọ trì đủ 250 giới, không đa văn, không thể tự học Tỳ-ni, A tỳ đàm, nếu tâm sanh ác kiến không thể khai giải khiến tu tập thiện kiến. Có năm pháp như vậy không được sống không y chỉ.
56. Có năm pháp có thể sống không y chỉ: (ngược lại câu trên).
57. Lại có năm pháp không được sống không y chỉ: không thọ trì đủ 250 giới, không đa văn, không thể học Tỳ-ni, A tỳ đàm, không đủ 5 tuổi (hạ). Có năm pháp như vậy không được sống không y chỉ.
58. Có năm pháp nên sống không y chỉ: (ngược lại câu trên).
59.Lại có năm pháp không được sống không y chỉ: không thể tự học Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, ác kiến sanh không thể xả để trụ thiện kiến, nếu không an lạc sống nơi trú xứ này không thể đi đến chỗ khác an lạc, tâm có sanh nghi hối không thể như pháp khai giải. Có năm pháp như vậy không được sống không y chỉ.
60. Có năm pháp được sống không y chỉ: (ngược lại câu trên).
61. Lại có năm pháp không được sống không y chỉ: không thể tự siêng năng tu giới, tăng tâm, tăng tuệ học, có bệnh không thể tự điều dưỡng, cũng không thể khiến người khác nuôi bệnh mình, không đủ 5 tuổi. Đó là năm pháp không được sống không y chỉ.
62. Có năm pháp được sống không y chỉ: (ngược lại câu trên).
63. Lại có năm pháp không được sống không y chỉ: không tự siêng năng tu oai nghi giới, không thể tăng tịnh hạnh,[145] tăng Ba-la-đề-mộc-xoa giới, có ác kiến không thể xả để trụ thiện kiến, không đủ 5 tuổi. Có năm pháp như vậy không được sống không y chỉ.
64. Có năm pháp được sống không y chỉ: (ngược lại câu trên).
65. Lại có năm pháp không được sống không y chỉ: không biết tránh sự, không biết tránh sự khởi, không biết tránh sự diệt, không biết hướng đến tránh sự diệt,[146] không đủ 5 tuổi. Có năm pháp như vậy không được sống không y chỉ.
66. Có năm pháp được sống không y chỉ: (ngược lại câu trên).
67. Lại có năm pháp không được sống không y chỉ: không biết phạm, không biết sám hối, không khéo vào định, không khéo xuất định, không [1004a1] đủ 5 tuổi. Có năm pháp như vậy không được sống không y chỉ.
68. Có năm pháp được sống không y chỉ: (ngược lại câu trên).
69. Lại có năm pháp không được sống không y chỉ: không biết phạm, không biết không phạm, không biết nhẹ, không biết nặng, không rộng tụng hai bộ tỳ-ni. Có năm pháp như vậy không được không y chỉ mà trụ.
70. Có năm pháp được sống không y chỉ: (ngược lại câu trên).
71. Lại có năm pháp mất y chỉ: hoặc bị đuổi ra,[147] hoặc bỏ đi,[148] hoặc thôi tu, hoặc thôi không cho y chỉ,[149] hoặc đến trên giới trường. Có năm pháp như vậy mất y chỉ.
72. Lại có năm pháp mất y chỉ: hoặc chết, hoặc bỏ đi, hoặc thôi tu, hoặc thôi không cho y chỉ, hoặc 5 tuổi hay quá 5 tuổi (hạ). Có năm pháp như vậy mất y chỉ.
73. Lại có năm pháp mất y chỉ: hoặc chết, hoặc đi, hoặc thôi tu, hoặc không cho y chỉ, hoặc gặp Hòa thượng cũ. Có năm pháp như vậy mất y chỉ.
74. Lại có năm pháp mất y chỉ: hoặc chết, hoặc đi, hoặc thôi tu, hoặc thôi không cho y chỉ, hoặc Hoà thượng A-xà-lê qua đời. Có năm pháp như vậy mất y chỉ.
75. Lại có năm pháp mất y chỉ: hoặc chết, hoặc đi, hoặc thôi tu, hoặc không cho y chỉ, hoặc Hòa thượng A-xà-lê thôi tu. Có năm pháp như vậy mất y chỉ.
76. Lại có năm pháp mất y chỉ: hoặc chết, hoặc đi, hoặc thôi tu, hoặc thôi không cho y chỉ, hoặc trở lại theo Hòa thượng cũ. Có năm pháp như vậy mất y chỉ.
77. Có năm pháp phải xua đuổi đệ tử: hoặc Hòa thượng nói với đệ tử rằng: «Nay tôi đuổi ông đi», «Ông không được vào phòng tôi», «Ông không được giúp việc cho tôi», «Ông đừng đến chỗ tôi», «Tôi không nói với ông.» Đây là năm pháp Hòa thượng xua đuổi đệ tử.
76. A-xà-lê có năm pháp xua đuổi đệ tử:[150] «Nay tôi đuổi ông đi», «Ông không được vào phòng tôi», «Ông không được giúp việc cho tôi», «Ông đừng đến chỗ tôi», «Tôi không nói với ông.» Đây là năm pháp A-xà-lê xua đuổi đệ tử.
77. Đệ tử có năm pháp bị Hòa thượng A-xà-lê xua đuổi: không tàm, không quí, không thể dạy bảo, chẳng phải oai nghi, không cung kính. Đệ tử có năm pháp như vậy bị Hòa thuợng A-xà-lê xua đuổi.
78. Lại có năm pháp: không tàm, không quý, không thể dạy bảo, gần ác tri thức, thường đến nhà dâm nữ.[151] Có năm pháp như vậy bị Hòa thượng A-xà-lê xua đuổi. (cũng như vậy, ưa đến nhà phụ nữ,[152] nhà phụ nữ chưa chồng, nhà huỳnh môn, chỗ tỳ-kheo-ni, chỗ thức-xoa-ma-na, chỗ sa-di-ni, chỗ người bắt rùa trạnh.[153] Mỗi bốn sự như mục trên, thêm một trong các sự này, thành mỗi cụm năm pháp).
79. Có năm cách dữ dục: Nói, «Tôi gởi dục nơi Thầy», «Nhờ vì tôi thuyết dục», ra dấu bằng thân, miệng nói, ra dấu bằng thân cùng miệng nói. Đó là năm thứ dữ dục.
80. Có năm trường hợp mất dục: tỳ-kheo nhận dục qua đời, hoặc thôi tu, hoặc nhập chúng ngoại đạo, hoặc nhập Tăng bộ khác,[154] hoặc đến trên giới trường sau khi tướng bình minh đã xuất hiện.[155] Đó là năm thứ mất dữ dục.
81. Có năm thứ gởi thanh tịnh và gởi tự tứ (cũng như trên, nếu mất cũng như trên).
82. Đức Như lai ra đời thấy những sai lầm của các tỳ-kheo nên vì năm lợi nghĩa mà chế pháp ngọa cụ: không khiến gió thổi, nước mưa thấm ướt, nắng xém, bụi đất, không khiến chim quạ làm bẩn. Đó là năm.
83. Hòa thượng có năm phi pháp thì đệ tử nên sám hối rồi bỏ đi. Nên thưa với Hòa thượng: «Con có như pháp hay không, Hòa thượng không biết. Con không như pháp, Hòa thượng cũng không biết. Con phạm giới mà Hòa thượng bỏ bê, không dạy, không quở trách. Phạm cũng không biết. Phạm mà sám hối cũng không biết.» Hòa thượng có năm pháp như vậy, đệ tử nên sám hối mà xin đi.
83. Tỳ-ni có năm sự[156] trả lời: tựa, chế, trùng chế, tu-đa-la, tùy thuận tu-đa-la.[157] Đó là năm.
84. Lại có năm pháp gọi là trì luật: biết phạm, biết không phạm, biết nhẹ, biết nặng, rộng tụng hai bộ giới. Đó là năm.
85. Lại có năm pháp: biết phạm, biết không phạm, biết nhẹ, biết nặng, rộng tụng tỳ-ni. Đó là năm.
86. Lại có năm pháp: biết phạm, biết không phạm, biết nhẹ, biết nặng, an trụ tỳ-ni mà không động. Đó là năm.
87. Lại có năm pháp: biết phạm, biết không phạm, biết nhẹ, biết nặng, tránh sự khởi khéo hay diệt trừ. Đó là năm.
88. Có năm hạng trì luật: tụng thuộc tựa giới, bốn sự, mười ba sự, hai bất định, rộng tụng ba mươi sự. Đó là hạng trì luật thứ nhất. Nếu tụng thuộc tựa giới, bốn sự, mười ba sự, hai bất định, rộng tụng ba mươi sự, rộng tụng chín mươi sự. Là hạng trì luật thứ hai. Nếu rộng tụng giới tỳ-ni là hạng trì luật thứ ba. Nếu rộng tụng hai bộ giới tỳ-ni là hạng trì luật thứ tư. Nếu tụng toàn bộ tỳ-ni là hạng trì luật thứ năm. Ở đây xuân, thu, và đông nên y theo bốn hạng trì luật đầu, nếu không y vào đó để sống thì phạm đột-kiết-la. Hạ an cư nên y vào hạng trì luật thứ năm. Không y vào đó để sống thì phạm ba-dật-đề.
89. Người trì luật có năm công đức: giới phẩm kiên cố, khéo thắng các oán địch, giữa đại chúng quyết đoán không sợ, có nghi hối có thể khai giải, khéo trì tỳ-ni khiến chánh pháp tồn tại lâu dài. Đó là năm.
90. Có năm thứ tâm giặc: tâm hắc ám, tâm tà vạy, tâm khúc lệ, tâm bất thiện, tâm thường muốn lấy trộm vật của người. Đó là năm.
91. Lại có năm hạng giặc: cương quyết mà lấy, đe dọa lấy, gởi vật lấy, thấy bèn lấy, ỷ thác lấy.[158] Đó là năm.
92. Lại có năm hạng: đồng nghiệp với người tội, chỉ dẫn người làm giặc cướp, dò xét chỗ để tài vật cho cướp, giữ vật cho giặc cướp, canh chừng cho giặc cướp. Đó là năm.
93. Lại có năm loại phạm:[159] ba-la-di, tăng-già-bà-thi-sa, ba-dật-đề, ba-la-đề-đề-xá-ni, đột-kiết-la. Đó là năm. Cũng gọi là năm loại chế giới, cũng gọi là năm tụ phạm.[160]
94. Nếu không biết, không thấy năm loại phạm này, Ta nói người đó ngu si: ba-la-di, tăng-già-bà-thi-sa, ba-dật-đề, ba-la-đề-đề-xá-ni, đột-kiết-la. Đó là năm loại phạm.
Năm loại chế giới cũng như vậy. Năm tụ phạm cũng như vậy.
95. Nếu không biết, không thấy năm phạm, ba-la-di, tăng-già-bà-thi-sa, ba-dật-đề, ba-la-đề-đề-xá-ni, đột-kiết-la, Tăng nên trao cho pháp yết-ma quở trách.
Năm loại chế giới cũng như vậy. Năm phạm tụ cũng như vậy.
96. Lại có năm loại phạm: hoặc có phạm tự tâm niệm sám hối,[161] hoặc có phạm tiểu tội đến người khác sám hối,[162] hoặc có phạm trung tội đến người khác sám hối,[163] hoặc có phạm không thể sám hối.[164]
97. Có năm pháp, Tăng nên trao cho yết-ma quở trách: phá giới, phá kiến, phá oai nghi, hoặc hủy báng Phật và Pháp. Đó là năm.
98. Lại có năm pháp: phá giới, phá kiến, phá oai nghi, hủy báng Phật và Tăng. Đó là năm.
99. Lại có năm: phá giới, phá kiến, phá oai nghi, hủy báng Pháp và Tăng. Đó là năm pháp nên trao cho yết-ma ha trách. Yết-ma tẫn, yết-ma ngăn không cho đến nhà bạch y, yết-ma cử tội cũng như vậy.
100. Có năm pháp tác yết-ma ha trách phi pháp, phi tỳ-ni, yết-ma không thành, không đúng cách. Năm pháp là: không tác cử, không tác ức niệm, không tác tự ngôn, phi pháp, biệt chúng. Đó là năm.
101. Lại có năm pháp: không phạm, phạm không thể sám, phạm đã sám, phi pháp, biệt chúng. Đó là năm pháp yết-ma không thành, không đúng cách.
102. Lại có [1005a1] năm pháp yết-ma như pháp thành tựu, đúng cách: (ngược lại câu trên).
103. Người bị yết-ma ha trách có năm việc không được làm (như trong Kiền độ Ha trách[165] đã nói ).
104. Người bị cử có năm pháp không được cho giải yết-ma: mạ báng tỳ-kheo; phương tiện làm cho tỳ-kheo khác tổn giảm, mất lợi ích; (làm cho tỳ-kheo khác) mất chỗ ở; trong nội giới hay ngoại giới nhận thiện tỳ-kheo lễ bái cúng dường; ở chỗ không có tỳ-kheo. Tỳ-kheo có năm pháp như vậy không được cho giải yết-ma bị cử.
105. Lại có năm pháp nên cho giải yết-ma bị cử. (ngược với câu trên).
106. Nếu tỳ-kheo bị yết-ma cử tôi vì không thấy tội nên bằng năm sự mà tự quán sát: «Nếu ta không thấy tội thì các tỳ-kheo không cùng ta yết-ma, thuyết giới, tự tứ, đồng phòng ngủ; không cùng đồng một chỗ ngồi; tiểu thực đại thực, không tùy theo thứ tự lớn nhỏ; không chắp tay lễ bái cung kính hỏi chào.» Đây là người bị yết-ma bất kiến tội cử, dùng năm việc này để quán sát.
Yết-ma không sám hối, yết-ma cử tội ác kiến không xả, cũng như vậy. Tác yết-ma cử tội bất kiến đối với người khác cũng phải bằng vào năm này để quán sát.
Yết-ma không sám hối, cử tội không xả ác kiến, cũng như vậy.
107. Tỳ-kheo có năm pháp, Tăng không nên tác yết-ma ngăn cho không đến nhà bạch y: không hiếu với cha, với mẹ; không kính sa-môn; bà-la-môn; không khéo nhận lời nói.[166] Có năm pháp như vậy không được tác yết-ma ngăn không đến nhà bạch y.
107. Có năm pháp nên tác yết-ma ngăn không cho đến nhà bạch y: (ngược lại câu trên).
108. Lại có năm pháp nên cho tác yết-ma ngăn không cho đến nhà bạch y: ưa mạ báng bạch y; phương tiện làm cho bạch y tổn giảm, mất lợi ích; làm cho (bạch y) không có chỗ ở; gây mâu thuẫn giữa bạch y.[167] Đó là năm pháp.
108. Lại có năm pháp, trước mặt bạch y mà hủy báng Phật, Pháp, Tăng, mạ bạch y, làm nghiệp thấp hèn, hoặc dối gạt bạch y. Đó là năm pháp.
109. Tỳ-kheo có năm pháp khiến cho bạch y không tin: (như trường hợp «gây mâu thuẫn giữa bạch y» trên).
120. Tỳ-kheo lại có năm pháp khiến bạch y không tin (như trường hợp «dối gạt bạch y trên»).
121. Đối với bạch y có năm pháp, Tăng không được tác yết-ma úp bát: bất hiếu với cha, với mẹ, không kính sa-môn, bà-la-môn, không kính thờ tỳ-kheo. Đó là năm.
122. Với bạch y có năm pháp, Tăng nên cho tác yết-ma úp bát: (ngược với câu trên).
123. Có năm pháp, Tăng nên cho tác úp bát: mạ báng tỳ-kheo, làm tỳ-kheo tổn giảm, làm mất lợi ích, làm cho không có trú xứ, đấu loạn tỳ-kheo. Đó là năm.
124. Lại có năm pháp: đối trước tỳ-kheo mà hủy báng Phật, Pháp, Tăng, dùng vô căn bất tịnh hạnh vu khống tỳ-kheo, phạm tỳ-kheo-ni. Đó là năm.
125. Có năm trường hợp chê bai mà phạm ba-dật-đề: không vì nghĩa, không vì pháp, không vì tỳ-ni, không vì giáo thọ, không vì thân hậu. Có năm trường hợp chê bai như vậy phạm ba-dật-đề.
126. Lại có năm pháp chê bai không phạm ba-dật-đề. (ngược với câu trên).
127. Nếu tỳ-kheo nào không được Tăng không sai mà, bằng năm sự,[168] kể tội tỳ-kheo khác với người chưa thọ đại giới, phạm ba-dật-đề. Năm sự đó là: nói tên tuổi, dòng họ, tướng mạo, y phục, phòng xá. Đó là năm việc.
128. Có năm đối tượng hành dâm phạm ba-la-di: phụ nữ, đồng nữ, hai căn, huỳnh môn, nam tử. Đó là năm.
129. Có năm trường hợp ăn trộm phạm ba-la-di: tự mình lấy, chỉ thị lấy, sai phái đi lấy, trọng vật, dời khỏi vị trí. Đó là năm.
130. Lại có năm việc: với ý tưởng vật không phải sở hữu của mình, không tạm lấy, không do thân tình mà lấy, trọng vật, dời khỏi chỗ cũ. Đó là năm.
131. Lại có năm: của người, có ý tưởng là của người, trọng vật, với tâm trộm, dời khỏi chỗ cũ. Đó là năm.
132. Người chết có năm điều bất hảo: 1. bất tịnh, 2. hôi thối, 3. ghê sợ, 4. khiến người ghê sợ nên ác quỷ được cơ hội, 5. trú xứ cho ác thú, phi nhơn. Đó là năm.
Người phạm giới có năm sự thiệt hại: có thân, khẩu, ý nghiệp bất tịnh. Như sự bất tịnh của tử thi kia, Ta nói người này cũng như vậy. Hoặc có thân, khẩu, ý nghiệp bất tịnh, tiếng xấu đồn khắp. Như tử thi kia, hôi thối từ đó tiết ra, Ta nói người này cũng như vậy. Người kia có thân, khẩu, ý nghiệp bất tịnh, các thiện tỳ-kheo sợ tránh. Như tử thi kia khiến người ghê sợ, Ta nói người này cũng như vậy. Có thân khẩu ý nghiệp bất tịnh, khiến các thiện tỳ-kheo thấy sanh ác tâm nói: «Sao ta lại thấy người ác như vầy?» Như người thấy tử thi sanh ghê sợ, khiến cho ác quỷ có cơ hội. Ta thấy người này cũng như vậy. Có thân khẩu ý nghiệp bất tịnh ở chung cùng người bất tịnh. Như chỗ tử thi kia có ác thú, phi nhơn cùng ở, Ta thấy người kia cũng như vậy. Đó là năm điều mất mát của người phạm giới như tử thi kia.
133. Người không nhẫn nhục có năm thiệt hại: 1. Hung ác bất nhẫn, 2. Sau sanh hối hận, 3. Nhiều người không ưa, 4. Tiếng xấu đồn khắp, 5. Chết đọa ác đạo. Đó là năm.
134. Người hay nhẫn nhục có năm công đức: (ngược lại câu trên).
135. Sưởi lửa có năm điều mất mát: 1. khiến cho người không nhan sắc, 2. Không có sức khoẻ, 3. Khiến cho con mắt mờ, 4. Khiến nhiều người tập hợp làm ồn, 5. Nói nhiều việc đời. Đó là năm.
136. Thường tới lui nhà bạch y, tỳ-kheo có năm điều mất mát: 1. Không dặn tỳ-kheo bèn vào thôn xóm, 2. Ngồi trong chỗ nam nữ có dục ý, 3. Ngồi một mình, 4. Ngồi chỗ khuất, chỗ kín, 5. Không có trí nam tử mà nói pháp cho người nữ quá năm, sáu lời.[169] Đó là năm.
137. Lại có năm: 1. Thường gặp nữ nhơn, 2. Đã gặp nhau thì gần gũi nhau, 3. Chuyển thành thân tình, 4. Đã thân tình rồi dục ý sanh, 5. Đã có dục ý, hoặc phạm tử tội, hay gần tử tội. Đó là năm.
138. Ngủ với tâm tán loạn có năm điều thiệt hại: thấy ác mộng, chư thiên không vệ hộ, tâm không nghĩ đến pháp, không buộc ý nơi ánh sáng, xuất bất tịnh. Đó là năm.
139. Ngủ với tâm không tán loạn có năm công đức: (ngược với câu trên).
140. Uống rượu có năm điều mất mát: không nhan sắc, cơ thể không sức lực, mắt mờ, ưa hiện tướng sân, mất của cải. Đó là năm.
141. Lại có năm việc: sanh thân bệnh, ưa đấu tranh, tiếng xấu đồn khắp, trí tuệ kém dần, chết đoạ ác đạo. Đó là năm.
142. Phá giới có năm điều mất mát: tự hại, bị người trí quở trách, có tiếng xấu đồn khắp, khi gần chết hối hận, chết đọa ác đạo. Đó là năm.
143. Trì giới có năm công đức: (ngược với câu trên).
144. Lại có năm việc: vật mà trước chưa được thì không được; đã được thì không giữ nỗi; hoặc ở tại giữa bất cứ đám đông nào, hoặc chúng sát-lợi, chúng bà-la-môn, chúng cư sĩ, chúng tỳ-kheo, trong đó đều có sự hổ thẹn; trong phạm vi vô số do tuần sa-môn bà-la-môn xưng nói cái ác kia; người ác phá giới chết đọa đường dữ. Đó là năm.
145. Trì giới có năm công đức: (ngược với câu trên).
146. Không xỉa răng có năm điều thiệt hại: miệng hôi thúi, không khéo phân biệt mùi vị, nhiệt ấm không tiêu, không dẫn thực, mắt không sáng. Đó là năm.
147. Xỉa răng có năm điều tốt. (tráivới câu trên).
148. Ăn cháo có năm điều tốt: trừ đói, giải khát, tiêu thức ăn qua đêm, đại tiểu tiện thông lợi, trừ phong. Đó là năm.
149. Kinh hành có năm điều tốt: có thể đi xa, có thể tư duy, ít bệnh, tiêu thực, đắc định và an trú lâu.
150. Có năm thức ăn: cơm, lương khô, bách bột, [1006a1] thịt và cá.[170]
151. Có năm thứ muối: muối xanh, muối đen, muối tỳ-trà, muối lam-bà, muối chi-đô-tỳ.[171] Đó là năm.
152. Lại có năm thứ muối: muối đất, muối tro, muối đỏ, muối đá, muối biển. Đó là năm.
153. Thức ăn khư-xà-ni, có năm trường hợp không được ăn: phi thời, bất tịnh, không cho, không thọ, không tác pháp dư thực. Đó là năm.
Có năm việc nên ăn (ngược với câu trên).
154. Có năm thứ thọ thực: thân trao thân thọ, y trao y thọ, khủy tay trao khủy tay thọ, đồ trao đồ thọ, khi có nhơn duyên để dưới đất thọ. Đó là năm.
155. Lại có năm: thân trao thân thọ, hoặc thân trao vật thọ, hoặc vật trao thân thọ, hoặc vật trao vật thọ, hoặc từ xa quăng rơi vào trong tay. Đó là năm.
156. Có năm thứ quả được tác:[172] tác tịnh bởi lửa XE "Tác tịnh bởi lửa" , tác tịnh bởi dao XE "tác tịnh bởi dao" , tác tịnh bởi mụt nhọt XE "tác tịnh bởi mụt nhọt" , tác tịnh bởi chim cắn XE "tác tịnh bởi chim cắn" , tác tịnh bởi loại hột trỉa không mọc XE "tác tịnh bởi loại hột trỉa không mọc" . Đó là năm.
157. Lại có năm: bóc ít vỏ, bóc hết vỏ, ung thối, bị dập vỡ, bướu. Đó là năm.
158. Có năm thứ mỡ: mỡ gấu, mỡ cá, mỡ lừa, mỡ chó, mỡ cá sấu.[173] Đó là năm.
159. Có năm thứ da không được dùng: da sư tử, da cọp, da báo, da rái cái, da chồn mèo. Đó là năm.
160. Lại có năm thứ da: da người, da độc trùng, da chó, da cẩm văn trùng, da cáo đồng. Đó là năm.
161. Có năm loại da không được chứa: da voi, da ngựa, da lạc đà, da bò, da lừa. Đó là năm.
162. Lại có năm: da linh dương, da dê trắng, da hươu, da báo, da y-sư. Đó là năm.
163. Có năm loại thịt không được ăn: thịt voi, thịt ngựa, thịt người, thịt báo, thịt thú độc trùng. Đó là năm.
164. Lại có năm: thịt sư tử, thịt cọp, thịt báo, thịt gấu, thịt bò. Đó là năm.
165. Có năm cách thuyết giới: Nói bài tựa rồi, nên bạch Tăng: «Ngoài ra, như Tăng thường nghe.» Hoặc nói bài tựa, nói bốn ba-la-di rồi nên bạch Tăng: «Ngoài ra, như Tăng thường nghe.» Hoặc nói bài tựa, nói bốn ba-la-di, nói mười ba tăng tàn rồi nên bạch Tăng: «Ngoài ra, như Tăng thường nghe.» Hoặc nói bài tựa, bốn ba-la-di, tăng tàn, hai bất định rồi nên bạch Tăng: «Ngoài ra, như Tăng thường nghe.» Hay là tụng đầy đủ. Đó là năm.
166.Lại có năm: Nói bài tựa, bốn ba-la-di rồi nên bạch Tăng: «Ngoài ra, như Tăng thường nghe.» Nói bài tựa, bốn ba-la-di, tăng tàn rồi nên bạch Tăng: «Ngoài ra, như Tăng thường nghe.» Nói bài tựa, bốn ba-la-di, tăng tàn, hai bất định rồi bạch Tăng: «Ngoài ra, như Tăng thường nghe.» Nói bài tựa, bốn ba-la-di, tăng tàn, hai bất định, ba mươi ni-tát-kỳ ba-dật-đề rồi bạch Tăng: «Ngoài ra, như Tăng thường nghe.» Hay nói đầy đủ. Đó là năm.
167. Lại có năm: Nói bài tựa, bốn ba-la-di, tăng tàn rồi bạch Tăng: «Ngoài ra như Tăng thường nghe.» Cũng vậy, mỗi mỗi đều bạch Tăng, cho đến ba-dật-đề. Hay nói đầy đủ. Đó là năm.
168. Có năm pháp không được sai làm người chia cháo, nếu đã sai không được chia. (Như trong Kiền độ Phòng xá[174] đã nói).
168. Do năm nhơn duyên thọ công đức y: được chứa trường y, lìa y ngủ, ăn biệt chúng, lần lượt ăn, không dặn được vào thôn. Có năm nhơn duyên này thọ công đức y.
169. Thọ công đức y rồi được năm việc (ngược với câu trên.)[175]
170. Có năm nhơn duyên gởi tăng-già-lê: mất an ninh, nguy cơ mất an ninh, trời mưa, nghi sẽ mưa, kinh dinh may tăng-già-lê hoặc giặt nhuộm hoặc cất dấu kỹ. Đó là năm nhơn duyên để gởi Tăng-già-lê.
171. Có năm nhơn duyên gởi y tắm mưa: nhận thọ thực ngoài giới, lội nước, bệnh, ăn no rồi, kinh dinh may y tắm mưa, hoặc giặt nhuộm hoặc cất dấu kỹ. Do năm nhơn duyên này gởi y tắm mưa.
172. Hạ an cư rồi nên làm năm việc: tự tứ, giải giới, kết giới lại, thọ y công đức, chia ngọa cụ. Đó là năm.
173. Tỳ-kheo có năm pháp không được coi là thân hậu: ưa đấu tranh, nhiều tác nghiệp,[176] tranh chấp với tỳ-kheo hơn mình giữa đại chúng, ưa đi du hành không chấm dứt, không vì người nói pháp chỉ cho người biết việc thiện việc ác. Đó là năm.
174. Có năm pháp nên làm cho thân tình: (ngược với câu trên).
175. Có năm pháp nên sai giáo thọ tỳ-kheo-ni: thọ trì đầy đủ Ba-la-đề-mộc-xoa giới, đa văn, khéo sử dụng ngôn ngữ, luận nói rõ ràng khiến người nghe hiểu được, không theo Phật xuất gia mà phạm trọng tội, hai mươi tuổi hay hơn. Đó là năm.
176. Có năm pháp khiến chánh pháp mau diệt:
a. Có tỳ-kheo không lắng nghe thọ tụng, ưa quên nhầm, văn không đầy đủ mà đem dạy người khác, văn đã không đầy đủ mà nghĩa lại thiếu. Đó là điều thứ nhất làm cho chánh pháp mau tiêu diệt.
b. Lại nữa, có tỳ-kheo là bậc thắng nhơn thượng tọa ở trong Tăng, cả nước tôn trọng, mà phần nhiều không trì giới, chỉ tu các pháp bất thiện, phóng xả giới hành, không siêng năng tinh tấn để đắc điều chưa sở đắc, nhập điều chưa sở nhập, chứng điều chưa được chứng. Tỳ-kheo-niên thiếu hậu sanh bắt chước tập theo hạnh đó, phá giới nhiều, tu pháp bất thiện, phóng xả giới hành, không siêng năng tinh tấn để đắc điều chưa sở đắc, nhập điều chưa sở nhập, chứng điều chưa được chứng. Đó là điều thứ hai làm cho chánh pháp mau tiêu diệt.
c. Lại nữa, có tỳ-kheo đa văn trì Pháp, trì Luật, trì Ma-di, nhưng không đem sự hiểu biết của mình dạy cho tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, bèn qua đời. Vị kia đã qua đời kiến chánh pháp đoạn diệt. Đó là điều thứ ba khiến chánh pháp mau diệt.
d. Lại nữa, có tỳ-kheo khó có thể giáo thọ, không công nhận lời hay, không thể nhẫn nhục, các thiện tỳ-kheo liền xả trí. Đó là điều thứ bốn khiến chánh pháp mau tiêu diệt.
e. Lại nữa, có tỳ-kheo ưa đấu tranh, mạ lị nhau, hơn thua với nhau, tuôn ra lời như đao kiếm, xoi bói tốt xấu nhau. Đó là điều thứ năm khiến chánh pháp mau tiêu diệt.
177. Lại có năm pháp khiến khiến chánh pháp tồn tại lâu dài (ngược với câu trên).
178. Tỳ-kheo có năm pháp không được làm bạn đồng hành: ưa đi trước quá xa; ưa đi sau xa; ưa nhại theo lời nói của đoán nhơn; không phân biệt thiện, ác ngữ; thiện ngữ không khen, khen ác ngữ; được của lợi như pháp không vì người kia thọ đúng lúc. Có năm pháp như vậy không được làm bạn cùng đi.
179. Có năm pháp làm bạn cùng đi (ngược lại câu trên).
180. Tỳ-kheo có năm pháp tự tổn giảm: có phạm bị người trí quở trách mắc tội vô lượng; nhiễm ô đối với người không khiến cho thanh tịnh; vì người kia tác phạm, không tác vô phạm; thọ nhận tự ngôn của vị kia mà không tri như tự ngôn pháp; không biết được lời nói xa gần có tổn giảm. Đó là năm.
181. Lại có năm pháp không tự tổn giảm (ngược với câu trên).
182. Lại có năm pháp tự tổn giảm: không hiểu điều đã được nói; cũng không khéo ghi nhớ nhận biết; lời nói vị kia nên nạn vấn lại không nạn vấn; người kia nạn vấn đến thì không thể hiểu; không thọ trì đủ Ba-la-đề-mộc-xoa giới. Đó là năm.
183. Lại có năm pháp không tự tổn giảm (ngược với câu trên).
184. Lại có năm pháp không tự tổn giảm: ưa sân nhuế; không phóng xả; tăng thêm lời nói của người; chịu lời nói bất thiện, xa lìa lời nói thiện. Đó là năm.
185. Lại có năm pháp không tự tổn giảm (ngược với câu trên).
186. Người bệnh có năm pháp khó chăm nuôi, có năm pháp dễ chăm nuôi, có năm pháp nên thọ y của người bệnh (như trong [1007a1] «Kiền độ Y»[177] đã nói).
187. Tỳ-kheo có năm pháp người đời nghi hoặc, cho đến A-la-hán: tỳ-kheo thường đến nhà dâm nữ, nhà phụ nữ, nhà đàn bà chưa chồng, nhà huỳnh môn, nhà tỳ-kheo-ni, đó là năm.
188. Tỳ-kheo có năm pháp làm cho bạch y không ưa gặp: ưa gần bạch y, ưa giận bạch y, cưỡng bức đến nhà bạch y, ưa cùng bạch y nói lén, ưa xin xỏ. Đó là năm điều mà bạch y không ưa gặp.
189. Có năm pháp bạch y ưa gặp (ngược với câu trên).
190. Đức Thế Tôn ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Ưu-ba-ly từ chỗ ngồi đứng dậy, để trống vai bên hữu, đầu gối bên hữu chấm đất, chắp tay bạch Phật:
«Tỳ-kheo-niên thiếu đối trước tỳ-kheo Thượng tọa sám hối, có bao nhiêu pháp?»[178]
Đức Phật bảo Ưu-ba-ly:
Có năm pháp: trống vai bên hữu, cởi bỏ giày dép, kính lễ sát chân, đầu gối bên hữu chấm đất, chắp tay nói tên và chủng tánh tội như sau: «Tôi tỳ-kheo tên là... phạm tội như vậy như vậy, đến Trưởng lão sám hối.» Thượng tọa nên trả lời: «Tự trách tâm thầy, sanh yểm ly.» Vị kia trả lời: «Xin vâng.» Tỳ-kheo-niên thiếu ở trước Thượng tọa sám hối nên dùng năm pháp này.
191. Ưu-ba-ly lại hỏi:
«Tỳ-kheo khách niên thiếu kính lễ tỳ-kheo cựu Thượng tọa nên dùng bao nhiêu pháp?»
Đức Phật bảo:
Tỳ-kheo khách niên thiếu nên dùng năm pháp kính lễ tỳ-kheo cựu Thượng tọa: để trống vai bên hữu, cởi bỏ giày dép, đầu gối bên hữu chấm đất, nắm hai chân Thượng tọa, nói: «Đại đức, tôi hòa nam.» Đó là năm pháp. Cựu tỳ-kheo-niên thiếu kính lễ tỳ-kheo Thượng tọa khách cũng như vậy.
192. Có năm hạng người không được kính lễ: tự nói phạm biên tội, phạm tỳ-kheo-ni, tặc tâm thọ giới, phá nhị đạo, huỳnh môn. Đó là năm.
195. Lại có năm pháp: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá Tăng, ác tâm làm thân Phật ra máu.[179] Đó là năm.
196. Lại có năm cử chỉ oai nghi không được kính lễ: đại tiện, tiểu tiện, ở trần, khi cạo tóc, hoặc khi nói pháp. Đó là năm.
197. Lại có năm: xỉa răng, súc miệng, ăn, uống, ăn trái cây. Đó là năm.
198. Thượng tọa, thứ tọa có năm pháp không lợi ích đối với tỳ-kheo đấu tranh: không thọ trì đủ hai trăm năm mươi giới, không đa văn, không rộng tụng hai bộ giới, không thể vấn đáp, không thể như pháp quở trách và tác diệt tẫn khiến được hoan hỷ, không khéo hay diệt đấu tranh sự. Đó là năm.
199. Lại có năm pháp Thượng tọa hoặc thứ tọa đối với tỳ-kheo đấu tranh có lợi ích (ngược với câu trên).
200. Có năm pháp gọi là đại tặc, suốt đời tạo tội nặng, nhưng không bị trói cột câu thúc. Năm pháp là: Nếu ở chỗ vô định, có bạn tốt. Hoặc có nhiều đao gậy. Hoặc giàu to, của tiền nhiều, người kia nghĩ: «Nếu có bắt ta, ta sẽ cho họ nhiều của cải.» Hoặc có đại nhơn thân tình; dựa thế vua, hoặc đại thần; người ấy nghĩ: «Nếu có bắt ta, vua và đại thần sẽ giúp ta.» Hoặc đến phương xa làm giặc rồi trở về. Đó là năm. Cũng vậy, tỳ-kheo phá giới có năm pháp suốt đời tạo ra nhiều tội, không sớm bị người cử tội: Hoặc trụ chỗ vô định, có bạn đãng. Hoặc đa văn. Hoặc nghe có thể nhớ giữ; có đa văn như vậy, lời nói khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối, đều thiện, có văn có nghĩa, nói đầy đủ tịnh hạnh; ở trong pháp như vậy có thể nhớ giữ, có thể thiện tâm tư duy thâm nhập chánh kiến. Hoặc có thể đặng y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men; tỳ-kheo ấy nghĩ: «Nếu có cử tội ta, ta sẽ cho vật dụng.» Hoặc có đại nhơn là chỗ thân tình, Thượng tọa hay thứ tọa; tỳ-kheo ấy nghĩ: «Nếu có cử tội ta, thượng tọa thứ tọa sẽ giúp ta.» Hoặc trụ nơi hoang vắng mà đến đại gia cầu xin lợi dưỡng. Đó là năm pháp, mà Tỳ-kheo phá giới suốt đời tạo ra nhiều tội lỗi, nhưng không sớm bị người cử tội.
201. Có năm sự ngăn thuyết giới phi pháp: ngăn bằng ba-la-di vô căn, tăng-già-bà-thi-sa vô căn, ba-dật-đề vô căn, ba-la-đề-đề-xá-ni vô căn, đột-kiết-la vô căn. Đó là năm.
202. Có năm như pháp ngăn thuyết giới (ngược với câu trên).
203. Có năm sự rút thăm phi pháp: không rõ đoán sự mà nhận thẻ, không đồng ý mà nhận thẻ, không có thiện tỳ-kheo mà nhận thẻ, phi pháp biệt chúng nhận thẻ. Đó là năm.
204. Có năm như pháp rút thăm (ngược với câu trên).
205. Có năm sự im lặng phi pháp, có năm sự im lặng như pháp, có năm sự hòa hợp như pháp (như trong «Kiền độ linh tinh» đã nói).[180]
Có năm pháp xả khí (như trong «Kiền độ Câu-thiểm-di» nói).[181]
206. Bấy giờ đức Phật bảo Ưu-ba-ly:
«Các ngươi chớ nên lúc nào cũng cử tội tỳ-kheo khác. Tại sao vậy? Người cử tội tỳ-kheo khác, thân oai nghi không thanh tịnh mà cử tội người thì khiến người ấy nói rằng: «Thưa Trưởng lão, trước tiên nên tự làm cho bản thân thanh tịnh đã. Ưu-ba-ly, nếu thân oai nghi thanh tịnh mà cử tội người thì không khiến người ấy nói như vậy.»
Lời nói không thanh tịnh, mạng không thanh tịnh cũng như vậy.
«Lại nữa, Ưu-ba-ly, nếu kẻ ít nghe, không biết Tu-đa-la mà cử tội người khác, thì khiến người ấy nói rằng: «Thưa Trưởng lão, việc này thế nào? Điều này có nghĩa gì?» Người cử tội không thể phân biệt để trả lời thì khiến vị kia liền nói: «Thưa Trưởng lão, trước hết nên tụng Tu-đa-la đã, sau đó sẽ biết.» Ưu-ba-ly, nếu tỳ-kheo đa văn tụng Tu-đa-la thì không khiến người ấy nói như vậy.»
«Lại nữa, Ưu-ba-ly, tỳ-kheo ít nghe, không tụng tỳ-ni mà cử tội vị kia, thì khiến người ấy nói rằng: «Thưa Trưởng lão, đây là nói về cái gì? Nhơn đâu mà phát khởi?» Nếu không thể nói chỗ phát khởi, thì khiến vị kia liền nói: «Thưa Trưởng lão, trước hết nên tụng tập tỳ-ni.» Ưu-ba-ly, nếu tỳ-kheo đa văn, tụng tập tỳ-ni mà cử tội người, không khiến người ấy nói như vậy.»
«Ưu-ba-ly, tỳ-kheo có năm pháp như vậy, nên đúng thời như pháp cử tội vị kia.»
Khi ấy Ưu-ba-ly tin ưa hoan hỷ thọ trì.
207. Đức Thế Tôn ở trong rừng Nhuy-la, nước Ca-lăng-già. Bấy giời Trưởng lão Ba-ma-na đến chỗ đức Thế Tôn đầu mặt đảnh lễ sát chân rồi ngồi qua một bên, bạch đức Thế Tôn:
«Kính bạch Đại đức, do nhơn duyên gì sau khi đức Như Lai diệt độ, chánh pháp nhanh chóng diệt, không tồn tại lâu dài? Lại do nhơn duyên gì chánh pháp không diệt mà được tồn tại lâu dài?»
Đức Phật bảo Ba-ma-na:
«Sau khi Như Lai diệt độ, tỳ-kheo không tôn kính Phật, Pháp, Tăng và giới định. Do nhơn duyên này mà chánh pháp nhanh chóng diệt độ, không tồn tại lâu dài. Ba-ma-na, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có tỳ-kheo tôn kính Phật, Pháp, Tăng và giới định, thì do nhơn duyên này chánh pháp không diệt, đặng tồn tại lâu dài.»
Đức Thế Tôn ở trong vườn của Vua, nước Kim-tỳ-la. Bấy giờ Trưởng lão Kim-tỳ-la đến chỗ đức Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ sát chân, ngồi qua một bên, bạch đức Thế Tôn:
«Do nhơn duyên gì sau khi Như Lai diệt độ chánh pháp nhanh chóng diệt, không tồn tại lâu dài? (hỏi đáp đều như trước không khác).
208. Bấy giờ, có tỳ-kheo nọ đến chỗ đức Phật đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:
«Bạch Đại đức, vì nhơn duyên gì chánh pháp nhanh chóng diệt mà không tồn tại lâu dài?»
Đức Phật bảo tỳ-kheo:
«Nếu tỳ-kheo xuất gia trong pháp luật, không chí tâm vì người nói pháp; cũng không chí tâm nghe pháp nhớ giữ; giả sử có kiên trì mà không thể tư duy nghĩa thú; vị kia không biết nghĩa, không thể như pháp tu hành; không thể tự lợi, cũng không lợi người.»
[1008a1] Đức Phật bảo tỳ-kheo:
Vì những nhơn duyên như vậy khiến cho chánh pháp nhanh chóng diệt, mà không tồn tại lâu dài.
«Bạch Đại đức, lại nữa, do nhơn duyên gì khiến chánh pháp tồn tại lâu dài, mà không nhanh chóng tiêu diệt? (ngược với câu trên).
209. Khi ấy, có tỳ-kheo khác đến chỗ đức Thế Tôn, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, thưa:
«Lành thay, Đại đức, vì con lược nói pháp. Con sẽ ở riêng một chỗ, siêng năng tinh tấn tu hành, không phóng dật.»
Đức Phật bảo tỳ-kheo:
«Nếu ngươi biết thế pháp không thể xuất ly, hoặc biết có ái không thể vượt qua, hoặc biết có dục không được vô dục, hoặc biết có kết không thể vô kết, hoặc biết thân cận sanh tử không được không thân cận. Ngươi tỳ-kheo quyết định nên biết, đây là phi pháp phi tỳ-ni, phi lời Phật dạy.
«Này tỳ-kheo, ngươi biết pháp này là xuất ly, chẳng phải thế pháp, là vượt qua chẳng phải pháp ái, là ly dục chẳng phải có dục, là vô kết chẳng phải có kết, là không thân cận sanh tử chẳng phải thân cận.
«Này tỳ-kheo, ngươi nên quyết định biết pháp này là pháp, là tỳ-ni, là lời Phật dạy.»
Tỳ-kheo kia nghe đức Thế Tôn lược nói lời giáo thọ, liền ở riêng một chỗ khuất, siêng năng tinh tấn, không phóng dật. Đầu đêm cuối đêm tỉnh ý tư duy nhất tâm tu tập đạo phẩm, do lòng tin ưa xuất gia hành đạo, không bao lâu, hiện thế chứng đắc A-la-hán, «sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc cần đã làm xong, không còn tái sanh nữa.» Tỳ-kheo kia tự biết đắc A-la-hán.
Đức Phật nói pháp như vậy. Các tỳ-kheo sau khi nghe, tin ưa hoan hỷ thọ trì.
210. Bấy giờ, có tỳ-kheo nọ đến chỗ đức Thế Tôn, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:
«Lành thay, Đại đức, vì con lược nói pháp. Con sẽ ở một mình nơi chỗ khuất, siêng năng tinh tấn tu tập, không phóng dật.»
Đức Phật bảo tỳ-kheo:
«Nếu ngươi biết có pháp khiến nhiều dục, không khiến ít dục, khiến vô yểm không tri túc, khiến khó bảo hộ, không dễ bảo hộ, khiến khó nuôi dưỡng, không dễ nuôi dưỡng, khiến ngu si không trí tuệ. Này tỳ-kheo, ngươi nên biết pháp như vậy là phi pháp, phi tỳ-ni, chẳng phải là lời dạy của đức Phật.
«Nếu tỳ-kheo biết có pháp khiến thiểu dục không đa dục, khiến tri túc không vô yểm, khiến dễ bảo hộ không khó bảo hộ, khiến dễ nuôi dưỡng không khó nuôi dưỡng, khiến có trí tuệ không ngu si. Này tỳ-kheo, ngươi nên quyết định và biết pháp này là tỳ-ni, là lời Phật dạy.»
Tỳ-kheo kia sau khi nghe đức Phật lược nói rồi, liền ở riêng chỗ khuất tư duy như trên đã nói.[182]


Chú thích:
[133] Thập tụng 49 (T23n1435 tr.356b20): thế gian có ba đại tăc. 1. Thủ lãnh cướp, cầm đầu 100 cho đến 500 lâu la, cướp bóc làng xóm. 2. Tỳ-kheo lấy vật tứ phương Tăng đi bán để nuôi sống. 3. Tỳ-kheo trống rỗng mà tự xưng đắc pháp thượng nhơn.
[134] Kiến 見, văn 聞, xúc 觸, tri 知. Trường A-hàm 8 (kinh Chúng tập, T0n1 tr.50b27), bốn phi Thánh ngữ, và Thánh ngữ: kiến, văn, giác 覺, tri. Pali, Vin. v. 124: cattāro anariyavohārā, adiṭṭhe diṭṭhavāditā, assute sutavāditā, amute mutavāditā, aviññe viññātavāditā.
[135] Chi tiết, xem mục «một pháp» các hạng mục 1, 2.
[136] Chi tiết, xem mục «hai pháp» hạng mục 127.
[137] Chi tiết, xem mục «hai pháp» hạng mục 127.
[138] Không đủ tư cách làm Hoà thượng. Xem phần iii. chương i «Thọ giới.» đoạn viii.
[139] Tăng tịnh hạnh, hay tăng thượng phạm hạnh. Đọc đúng là «căn bản phạm hành.» Hán đọc ādi-brahmacariya, thành adhi-brahmacariya.
[140] Không thể chăm sóc đệ tử bệnh Xem phần iii, ch. i, dẫn trên.
[141] Năm trong số 13 già nạn. Xem phần iii, chương i «Thọ giới.»
[142] Năm trong số 13 già nạn. Xem phần iii, dẫn trên.
[143] Sanh, hình tàn, thạch, biến, bán nguyệt 生形殘妒變半月. Xem giải thích nơi phần iii, chương i «Thọ giới.» Các thuật ngữ khác ở đây: sanh XE "huỳnh môn do bẩm sinh" , kiền XE "huỳnh môn do thiến" , đố XE "huỳnh môn do ghen" , biến XE "huỳnh môn do đổi" , bán nguyệt XE "huỳnh môn nửa tháng" .
[144] Trượng phu 丈夫, dịch từ Skt. (Pali): nara: nghĩa đen là «đàn ông» (không phải là đàn bà) chẳng liên hệ gì đến nghĩa đại trương phu hay tiẻu trượng phu mà các bản dịch Việt thường nhầm lẫn tai hại.
[145] Xem cht. 136 trên.
[146] Tham chiếu Pali, Vin. v. 130, người trì luật có đủ 5 điều để được gọi là ngu si; không biết tránh sự (adhikaraṇa), không biết gốc rễ của tránh sự (adhikaraṇasa mūla), không biết sự tập khởi của tránh sự, không biết sự dập tắt tránh sự (adhikaraṇa-nirodha), không biết con đường dẫn đến sự dập tắt tránh sự (adhikaraṇanirodhagāmini).
[147] Bị đuổi ra ngoài trú xứ.
[148] Ra khỏi đồng trú xứ với thầy y chỉ có ý định không trở lại.
[149] Thầy y chỉ dứt y chỉ.
[150] Dứt y chỉ.
[151] Thập tụng luật 49 (T23n1435 tr.359b17), «Phật nói, tỳ-kheo có năm chỗ không nên lai vãng: phụ nữ chưa chồng, đàn bà goá, phụ nữ có chồng, dâm nữ, tỳ-kheo-ni.» Lại có 5 chỗ: nhà giặc cướp, nhà chiên-đà-la (thịt chó), nhà đồ tể, nhà dâm nữ, nhà bán rượu.
[152] Đã có chồng.
[153] Chỉ chung những người làm chài lưới.
[154] Người nhận dục bỗng biến đổi giới tính.
[155] Vì đã qua ngày khác.
153 Sự, chỉ cơ sở (để trả lời trong vấn đáp nghĩa tỳ-ni).
[157] Tham chiếu Pali, Vin. v. 130, trì luật ngu si với 5 pháp: không biết nhân duyên (nidānaṃ, nguyên nhân Phật chế giới Hán dịch là tự 序), không biết chế (paññttiṃ), không biết tùy chế (anupaññattiṃ, quy định phụ; Hán dịch là trùng chế 重制), không biết ngữ pháp thích đáng (anusandhivacanaṃ).
[158] Hán: quyết định thủ 決定取, khủng khiếp thủ 恐怯取, ký vật thủ 寄物取 (lấy bằng cách gởi nơi vật khác, tức lấy bằng cách che dấu), kiến tiện thủ 見便取 (có lễ như Pali: pasayha, áp chế, được đọc là pasaya: thấy), ỷ thác thủ 倚託取 (có lẻ chỉ sự rút thăm). Tham chiếu Pali (Vin. v. 129), năm sự tước đoạt (pañca avahārā): đoạt bằng cách trộn lấy (theyya-), bằng cưỡng bức (pasayha-), bằng mưu mô (parikappa-), bằng cất dấu (paṭicchanna-), bằng rút thăm (kusa-). Xem Thập tụng 50 (T23n1435 tr.363b19), năm hình thức lấy vật của người khác: kiếp thủ 劫取, đạo thủ 盜取, trá thủ 詐取, để mạn thủ 詆謾取 (bịp mà lấy), pháp thủ 法取 (lấy hợp pháp).
[159] Pali (Vin.v. 128, 91): pañca āpattiyo.
[160] Năm tụ phạm, hay năm tụ tội, hay năm thiên tội, đồng nghĩa. Pali: pañca āpattikkhadā. Vin. v. 91.
[161] Chỉ các tội đột-kiết-la và ác thuyết.
[162] Các tội ba-dật-đề, và ba-la-đề-đề-xá-ni.
[163] Thâu-lan-già và tăng-già-bà-thi-sa.
[164] Phạm ba-la-di.
[165] Trong bản Hán, Phần iii, Ch.viii. Bản Việt, Phần iii, Ch.xi.
[166] Xem phần iii, chương xi «Khiển trách.» Các cht. 28-30.
[167] Xem cht. 30, phần iii, chương xi.
[168] Sự, đây chỉ lý lịch bản thân, hay nhân thân của một cá nhân.
[169] Xem, tỳ-kheo, ba-dật-đề 9.
[170] Xem phần iii, chương vii «Thuốc», cht. 1.
[171] Xem phần iii, chương vii «Thuốc», cht. 31, 32.
[172] Năm loại tịnh quả: hỏa tịnh, đao tịnh, san tịnh, điểu tịnh, bất nhiệm chủng tịnh. 五種淨果火淨刀淨瘡淨鳥淨不任種淨. Xem phần iii, chương vii «Thuốc», cht. 108-110.
[173] Nguyên Hán: thất thủ ma la.
[174] Bản Hán, phân iv, kiền-độ i. Bản Việt, phần iv, ch. i, đoạn 18.
[175] Có thể có nhầm lẫn trong bản Hán. Nên hiểu, «Không thọ công đức y không được năm sự.»
[176] Tức bận rộn nhiều chuyện đời.
[177] Bản Hán, phần iii, kiền-độ iii. Bản Việt, phần iii, chương vi, đoạn 11 «Di vật của tỳ-kheo.»
[178] Xem thêm mục «Bốn pháp», hạng mục 23.
[179] Xem đoạn trên. Trên kia, được kể là 5 già nạn. Ở đây được kể là không nên lễ bái người như vậy.
[180] Bản Hán, phần iv, kiền-độ ii «Tạp kiền-độ.» Bản Việt, phần iv, chương ii «Tạp sự.»
[181] Bản Hán, phần iii, kiền-độ sáu. Bản Việt, phần iii, chương ix «Câu-thiểm-di.»
[182] Hết quyển 59.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 60 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.222.184.0 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập