Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Tứ Phần Luật [四分律] »» Bản Việt dịch quyển số 41 »»

Tứ Phần Luật [四分律] »» Bản Việt dịch quyển số 41


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.7 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.9 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luật Tứ Phần

Kinh này có 60 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42 | 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 | 51 | 52 |
Việt dịch: Thích Đỗng Minh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Thích Nguyên Chứng - Thích Đức Thắng
Hiệu chính và chú thích
8. Tăng vật
Lúc bấy giờ, tại nước Xá-vệ có nhiều vị tỳ-kheo nổi tiếng qua đời, nên để lại nhiều Tăng-già-lam và nhiều cây ăn trái, ruộng vườn thuộc Tăng-già-lam; có nhiều phòng riêng và các vật dụng thuộc phòng riêng; có nhiều bình đồng, chậu đồng, búa, đục, giá đèn; có nhiều vật nặng; có nhiều giường dây, giường cây, nệm nằm, nệm ngồi, gối, chứa nhiều y-lê-diên-đà, mạo-la, mạo-mạo-la, cù lâu; có nhiều người giữ Tăng-già-lam, nhiều xe cộ, nhiều bình nước rửa, tích trượng, quạt; nhiều đồ nghề thợ sắt, đồ nghề thợ mộc, đồ nghề thợ gốm, đồ nghề thợ da, đồ nghề đan, dao cạo tóc; nhiều y bát, ni-sư-đàn, ống đựng kim. Các tỳ-kheo không biết làm như thế nào, bèn bạch Phật. Phật dạy:
«Người nổi tiếng nhiều hay không nổi tiếng, tất cả đều thuộc về Tăng.»
Các tỳ-kheo đem cây ăn trái ruộng vườn của Tăng ra chia. Đức Phật dạy:
«Không được chia. Những thứ ấy thuộc về tứ phương Tăng.»
Các tỳ-kheo đem phòng riêng, và các vật thuộc phòng riêng ra chia. Phật dạy:
«Đó là vật của tứ phương Tăng, không được chia.»
Các tỳ-kheo đem bình đồng, chậu đồng, búa, đục và các thứ trọng vật khác ra chia. Phật dạy:
«Đó là vật của tứ phương Tăng, không được chia.»
Các tỳ-kheo đem giường dây, giường cây, nệm ngồi, nệm nằm, gối ra chia. Phật dạy:
«Đó là vật của tứ phương Tăng, không được chia.»
Các tỳ-kheo đem y-lê-diên-đà, mạo-la mạo-mạo- la, cù-lâu ra chia. Phật dạy:
«Không được chia, vì vật của tứ phương Tăng. Từ nay về sau cho phép các tỳ-kheo chỉ có cù-lâu rộng ba khủy tay, dài năm khủy tay, lông dài ba ngón tay thì được chia cho hiện tiền Tăng.»
Các tỳ-kheo đem xe cộ, người giữ Tăng-già-lam ra chia. Phật dạy:
«Không được chia, vì thuộc tứ phương Tăng.»
Các tỳ-kheo đem bình nước, bình nhỏ chứa nước rửa, tích trượng, quạt ra chia. Phật dạy:
«Không được chia, vì vật của tứ phương Tăng.»
Các tỳ-kheo đem đồ nghề sắt, đồ nghề mộc, đồ nghề gốm, đồ nghề da, đồ nghề tre ra chia. Phật dạy:
«Không được chia, vì vật của tứ phương Tăng. Từ nay về sau chỉ cho phép chia dao cạo tóc, y bát, tọa cụ, ống đựng kim.»
Các tỳ-kheo đem đồ câu-dạ-la[57] ra chia. Phật dạy:
«Hiện tiền Tăng nên chia.»
Bấy giờ, có trú xứ nọ, hai bộ Tăng nhận được nhiều y vật có thể chia, mà số lượng Tăng tỳ-kheo thì nhiều, tỳ-kheo-ni ít. Các tỳ-kheo không biết làm như thế nào. Bạch Phật. Phật dạy:
«Nên chia làm hai phần.»
Bấy giờ không có tỳ-kheo-ni, chỉ có thức-xoa-ma; cũng chia làm hai phần. Khi ấy, không có tỳ-kheo-ni, thức-xoa-ma-na cũng không có, chỉ có sa-di-ni. Đức Phật dạy:
«Cũng chia làm hai phần. Nếu không có sa-di-ni thì chia hết cho Tăng (tỳ-kheo).»
Có trú xứ nọ, hai bộ Tăng nhận được nhiều vật. Tỳ-kheo ít, tỳ-kheo-ni nhiều. Bạch Phật. Phật dạy:
«Nên chia làm hai phần. Không có tỳ-kheo chỉ có sa-di, cũng chia làm hai phần. Không có sa-di thì chia hết cho tỳ-kheo-ni.»
Có tỳ-kheo-ni ở tại nước Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, đến nơi thôn không có trú xứ tỳ-kheo. Sau khi đến thì mạng chung. Các tỳ-kheo không biết y bát của vị ấy nên chia cho ai, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nơi đó, nếu có ưu-bà-tắc tin Phật, hoặc người giữ vườn, nên lấy cất, sau đó trong năm chúng xuất gia, người nào đến trước thì trao cho họ. Nếu không có ai đến, thì đem đến trú xứ Tăng-già-lam nào gần đó để giao.»
Thế Tôn ở tại nước Xá-vệ. Có trú xứ có nhiều tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu bà di, Quốc vương Đại thần, và nhiều ngoại đạo, sa-môn, bà-la-môn. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các tỳ-kheo:
«Ta muốn tịnh tọa tư duy ba tháng, đừng cho phép người ngoài vào. Chỉ trừ người mang thức ăn.»
Bấy giờ, các tỳ-kheo tự lập quy chế rằng:
«Đức Thế Tôn dạy như vậy, ‹Ta muốn tịnh tọa tư duy ba tháng, đừng cho phép người ngoài vào. Chỉ trừ người mang thức ăn.› Người nào vào, phải sám ba-dật-đề.
Bấy giờ, có trưởng lão Hòa-tiên Bạt-đàn-đa Tử[58] cùng cả thảy sáu mươi vị tỳ-kheo, tất cả đều sống ở a-lan-nhã, khất thực, trì y phấn tảo, làm pháp dư thực không ăn, nhất tọa thực, nhất đoàn thực, ngồi nơi gò mả, ngồi nơi đất trống, ngồi dưới bóng cây, thường xuyên ngồi, tùy lúc ngồi, thọ trì ba y. Họ từ nước Ba-la đến tịnh xá Kỳ-hoàn, nước Xá-vệ, hỏi các tỳ-kheo:
«Phòng của đức Như Lai ở chỗ nào? Chúng tôi muốn đến thăm.»
Các tỳ-kheo [860a1] nói:
«Như Lai dạy như vầy: ‹Ta muốn tịnh tọa tư duy ba tháng, đừng cho phép người ngoài vào. Chỉ trừ người mang thức ăn.› Nếu người nào vào phải sám ba-dật-đề.»
Hòa Tiên hỏi:
«Thế Tôn có nói như vậy sao?»
Các tỳ-kheo đáp lời:
«Các tỳ-kheo tự lập quy chế rằng: ‹Nếu vị nào vào sẽ phải sám ba-dật-đề.›»
Hòa Tiên nói:
«Tôi không chấp thuận quy chế của các trưởng lão. Tại sao vậy? Vì đức Phật có dạy như vầy: ‹Phật không chế thì không được tự chế. Phật đã chế thì không được trái phạm.› Phải tùy thuộc vào những pháp đã chế mà học tập. Chúng tôi đều là những tỳ-kheo A-lan-nhã, cho đến thọ trì ba y, được tùy ý thăm hỏi đức Thế Tôn.»
Bấy giờ, trưởng lão Hòa Tiên cùng sáu mươi tỳ-kheo đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên. Đức Thế Tôn an ủi và hỏi rằng:
«Nầy Hòa-tiên! Ông có được an lạc không? Ăn uống có bị thiếu thốn không? Trụ chỉ an tịnh không? Ông từ đâu đến đây? Ông không nghe tỳ-kheo nói những gì hay chăng?»
Hòa Tiên thưa:
«Con trụ chỉ được an lạc, không bị chuyện ăn uống làm khổ nhọc. Con cũng có nghe các tỳ-kheo khác nói. Bạch Đại đức! Con cùng cả thảy sáu mươi tỳ-kheo nước Ba-La, đều sống a-lan-nhã, cho đến thọ trì ba y. Chúng con từ nước Câu-tát-la, du hành trong nhân gian đến nước Xá-vệ, hỏi các tỳ-kheo ở tại Kỳ-hoàn, ‹Phòng đức Thế Tôn ở chỗ nào? Chúng tôi muốn đến thăm.› Các tỳ-kheo nói như vầy, ‹Đức Thế Tôn cần tịnh tọa tư duy ba tháng, không cho người ngoài vào, chỉ trừ người mang thức ăn. Nếu vị nào vào thì phải sám ba-dật-đề.› Con liền hỏi, ‹Đức Thế Tôn có bảo sám ba-dật-đề như vậy không?› Các tỳ-kheo nói, ‹Chúng tôi tự lập ra quy chế như vậy.› Con liền nói, ‹Tôi không chấp thuận quy chế ấy. Tại sao vậy? Vì đức Phật có dạy như vầy: Phật không chế không được tự chế. Nếu đã chế không được trái phạm. Phải tùy thuộc vào những pháp đã chế mà học tập. Chúng tôi đều là những người sống a-lan-nhã, cho đến thọ trì ba y, được tùy ý thăm hỏi đức Thế Tôn.›»
Đức Phật dạy:
«Lành thay, lành thay Hòa-tiên! Các ông đều là những người a-lan-nhã thọ trì ba y, được tùy ý thăm hỏi. Nếu có ai như vậy, thì cũng được thăm hỏi đức Thế Tôn, theo ý muốn.»
Lúc bấy giờ, có tỳ-kheo nghe đức Thế Tôn cho phép các vị a-lan-nhã được tùy ý thăm hỏi đức Thế Tôn. Có vị hoặc trở thành tỳ-kheo a-lan-nhã, hoặc có vị không thọ thỉnh mà thường đi khất thực; hoặc có vị xả bỏ y của đàn-việt dâng cúng mà trì y phấn tảo, hoặc có vị xả bỏ y dư mà chỉ trì ba y.
Bấy giờ, các tỳ-kheo xả bỏ y, dồn lại thành một đống lớn. Các tỳ-kheo không biết làm như thế nào, bèn bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên bố thí cho chúng Tăng, hoặc cúng cho Phật, hoặc cúng cho tháp, hoặc cúng cho một người.»
Các tỳ-kheo nghe nói cho một người, bèn mang cho bạch y. Có tỳ-kheo thấy vậy bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được cho bạch y hay ngoại đạo.»
Bấy giờ, các tỳ-kheo e ngại không dám cho tỳ-kheo-ni những thứ như phi y, đãy đựng bát, đựng giày dép, ống đựng kim, dây ngồi thiền, dây lưng, mão, khăn chùi chân, khăn trùm đầu, khăn gói giày guốc. Đức Phật dạy:
«Nên cho tỳ-kheo-ni phi y.»
Các tỳ-kheo nghĩ như vầy: «Có nên chia phần cho những vị đang hành ba-lợi-bà-sa, ma-na-đỏa hay không?». Họ bạch Phật. Phật dạy :
«Nên chia.»
Các tỳ-kheo nghĩ như vầy: «Những vị bị tác yết-ma ha trách, hoặc bị yết-ma tẫn xuất, yết-ma y chỉ, yết-ma ngăn không cho đến nhà bạch y, yết-ma tác cử, những người bị các yết-ma như vậy, có nên chia phần hay không?» Họ bạch Phật. Phật dạy:
«Nên để dưới đất hay sai người đưa.»
Bấy giờ, có các tỳ-kheo nhận được y ngoại đạo, không nhuộm, liền mặc. Bạch Phật. Phật dạy:
«Không được mặc y như vậy. Nên nhuộm rồi sẽ mặc.»
Có các tỳ-kheo sai bạch y làm việc. Bạch y đòi phần y. Họ bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép tính công của họ nhiều hay ít, trả bằng thức ăn hay bằng vật ngang giá.»
Các tỳ-kheo tự nghĩ: «Nên chia đồng phần vải cho người giữ Tăng-già-lam, sa-di, hay không?» Họ bạch Phật. Phật dạy:
«Nếu Tăng hòa hợp thì cho phép chia cho sa-di đồng một phần vải. Nếu không hòa hợp thì nên chia cho phân nửa, hay một phần ba. Nếu Tăng không cho thì không được chia. Người giữ Tăng-già-lam thì chia cho một phần tư. Nếu Tăng không cho thì không được chia. Nếu chia thì sẽ như pháp trị.»
Các tỳ-kheo e ngại không dám đem vải biếu cho cha mẹ, bạch Phật. Đức Phật dạy: «Nên biếu.»
9. Tỳ-lưu-ly
Phật ở tại nước Xá-vệ. Bấy giờ những người họ Thích ở Ca-duy-la xây xong một ngôi nhà mới, chưa có sa-môn hay bà-la-môn nào đến ngồi. Thái tử Tỳ-lưu-ly[59] lại đến ngồi trước, các Thích tử đều giận dữ, mắng:
«Ta mới xây xong ngôi nhà mới. Đức Phật chưa ngồi. Mà con của một nữ tỳ hạ tiện đã ngồi trước rồi.»
Bấy giờ, có kẻ thị tùng bà-la-môn không tin ưa Phật, nói rằng:
«Các Thích tử Xá-di mắng ông là con của một nữ tỳ hạ tiện, mà ông có thể nhịn được chăng?»
Thái tử nói:
«Hiện tại ta không có thế lực nên chưa được tự do. Nếu cha ta qua đời, khi ta lên làm vua, lúc ấy ngươi sẽ nhắc lại ta.»
Sau đó, vua Ba-tư-nặc bị mất ngôi, thái tử Lưu-ly tự lên làm vua. Vị đại thần không tin Phật kia tâu:
«Trước đây các Thích tử đã mắng Vua. Vua có thể nhịn được sao? Nay cần phải chinh phạt họ.»
Vua liền tập hợp bốn binh chủng ra khỏi thành Xá-vệ; kéo đến nước Xá-di. Bấy giờ đức Thế Tôn vì lòng từ mẫn nên đã hiện trước trên đường đi của vua Lưu-ly. Ngài ngồi dưới một bóng cây cằn cỗi bên đường. Khi vua Lưu-ly đến, thấy đức Phật đang ngồi dưới bóng cây cằn cỗi, liền xuống xe đảnh lễ sát chân Ngài, rồi đứng lui qua một bên, bạch đức Thế Tôn rằng:
«Có nhiều cây đại thọ tốt tươi nhiều bóng mát, tại sao Ngài không ngồi, lại ngồi dưới bóng cây cằn cỗi thế này?»
Đức Phật Nói:
«Đại vương! Dưới bóng mát của thân quyến, thật là an lạc.»
Nhà vua nghe câu nói ấy liền nghĩ:
«Đức Thế Tôn vì từ mẫn nước Xá-di nên nói như vậy.» Nhà vua liền kéo quân trở về nước Xá-vệ.
Vị đại thần bà-la-môn không tin Phật, lần thứ hai, lần thứ ba cũng tâu rằng:
«Trước đây các Thích tử mắng nhà vua là con của nữ tỳ hạ tiện. Nay cần phải chinh phạt họ.»
Nhà vua liền tập hợp bốn binh chủng, ra khỏi Xá-vệ, cách nước Ca-duy-la-vệ[60] không xa, nhà vua cho dựng một doanh trại nhỏ để phòng vệ. Bấy giờ các Thích chủng ở Ca-duy-la-vệ đều có khả năng bắn xa không trật. Có người bắn xa một do tuần vẫn trúng đích. Có người bắn xa bảy mươi dặm vẫn trúng đích. Có người bắn sáu mươi dặm, năm mươi dặm, bốn mươi dặm, ba mươi dặm vẫn trúng đích. Bấy giờ có người bắn trúng doanh trại của nhà vua, có người bắn trúng nóc trại, hoặc trúng càng xe hoặc trúng yên ngựa, dàm ngựa, cương ngựa, hoặc trúng ngón tay, hoặc trúng ngọc trai nơi tai, ngọc trai nơi tóc, hạt ngọc trai bị hư nhưng không gây thương tích. Lúc ấy, vua Lưu-ly rất hoảng sợ hỏi:
«Các Thích tử cách đây xa gần?»
Quan hầu cận thưa:
«Cách đây bảy mươi dặm.»
Nhà vua nghe xong càng thêm hoảng sợ bội phần, nói:
«Không lẽ binh chúng của ta sẽ bị hại bởi các Thích tử sao?»
Bấy giờ, đại thần không tin Phật tâu với nhà vua rằng:
«Các Thích tử kia đều thọ trì năm giới, làm người ưu-bà-tắc; chịu chết chứ họ không bao giờ đoạn mạng chúng sanh đâu. Vua cứ tiến quân chớ nên sợ sệt.»
Do vậy, nhà vua tiến quân đến bao vây thành Ca-duy-la-vệ. Các tỳ-kheo đem nhơn duyên này bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nếu ở đó không mở cửa thành thì không thể được. Hiện nay người trong thành tự họ đã không nhất trí. Người thì nói nên giao thành. Người nói không nên giao. Tình thế buộc phải bốc thăm.»
Bấy giờ Thiên ma Ba-tuần đứng về phía người giao thành. Qua bảy lần bốc thăm, số thăm đồng ý giao thành cho vua Lưu-ly nhiều hơn, nên cửa thành được mở để giao. Quân nhân ồ ạt kéo vào thành, và đóng cửa thành lại. Hang cùng ngỏ hẻm đều được đào hầm, bề sâu đến ngang lưng người; chôn [861a1] trai gai lớn nhỏ trong giòng Thích chủng, đặt sát nhau không có khoảng hở; rồi cho voi lớn đạp lên.
Lúc ấy, Thích tử Ma-ha-nam là ông ngoại của Lưu-ly nói với các người họ Thích rằng:
«Các người đừng nghĩ là vua Lưu-ly thả voi đạp chết người, mà nên quan sát nghiệp báo nhơn duyên của các Thích chủng ngày xưa đã tạo. Quả báo của định nghiệp mà nay phải nhận lấy.»
Vua Lưu-ly nghe, bèn hỏi Thích Ma-ha-nam:
«Ông muốn được nguyện gì?»
Ma-ha-nam nói:
«Các người họ Thích đã chết, là điều khổ não hiện nay của ta. Nguyện để làm gì? Nếu muốn ta nguyện, thì để cho ta vào trong hồ nước. Trong khi ta đang lặn dưới nước, thì các người họ Thích được tự do ra khỏi thành, mà không giết họ.»
Vua Lưu-ly nghĩ rằng: «Lặn dưới nước thì không lâu được. Có thể cho Ông như nguyện.»
Ma-ha-nam liền lặn xuống hồ nước, lấy tóc mình cột vào trong gốc cây để chết luôn dưới nước.
Vua Lưu-ly hỏi các đại thần:
«Thích Ma-ha-nam lặn xuống nước sao lâu thế?»
Quan hầu cận đến xem rồi tâu:
«Ma-ha-nam đã chết rồi.»
Nhà vua bảo đem thi hài đến nhà vua xem. Các quan tả, hữu liền đem thi hài đến để vua xem. Vua Lưu-y thấy liền sanh từ tâm, nói:
«Ma-ha-nam vì thân quyến nên không tiếc thân mạng.»
Liền ra lệnh cho người thả các người họ Thích. Các quan liền y lời, phóng thích các Thích chủng.
Các Thích chủng đều đã bị lột hết, nên trần truồng, chạy đến trong Tăng-già-lam. Các tỳ-kheo e ngại nên không dám cho y để họ mặc, vì đức Phật không cho phép cho y đến người bạch y. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho họ mượn y để khỏi trần truồng khi họ đến gặp ta.»
Các tỳ-kheo liền cho họ mượn y.
10. Thân hậu
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất cùng đức Phật du hành đến nước Câu-tát-la, tạm thời ngồi nghĩ một nơi, khi đi quên chiếc y tăng-già-lê. Sau đó đức Phật nhớ lại, bảo A-nan rằng:
«Hãy lấy chiếc y này. Khởi lên ý tưởng thân hữu mà lấy.» Tôn giả A-nan thưa:
«Thế nào là tác ý thân hữu để lấy?»
Đức Phật dạy:
«Tùy thuộc vào thái độ lấy của mình mà khiến cho họ hoan hỷ.»
«Thế nào là tùy thuộc vào thái độ lấy của mình mà khiến cho họ hoan hỷ?»
Đức Phật dạy:
«Có bảy pháp gọi là do thương yêu mà làm lợi ích cho thân hữu: Cho thứ khó cho, làm việc khó làm, nhẫn điều khó nhẫn, việc mật nói cho nhau, không phanh phui việc của nhau, gặp khổ không bỏ nhau, nghèo hèn không khinh. Như vậy, A-nan, bảy pháp này gọi là do thương yêu mà làm lợi ích cho thân hữu, khiến kia hoan hỷ.»
Đức Phật liền nói kệ:
Cho thứ khó cho,
Làm việc khó làm;
Nhẫn điều khó nhẫn,
Là bạn thân tốt.
Việc mật nói nhau,
Bao che cho nhau;
Gặp khổ không bỏ,
Nghèo hèn không khinh.
Bảy pháp như vậy,
Người nào làm được;
Gọi là bạn thân,
Nên gần gũi họ.
Đức Phật dạy: «Nên lấy, với ý thân hữu như vậy.»
Có tỳ-kheo nọ chẳng phải thân hữu mà tác ý thân hữu để lấy. Đức Phật dạy:
«Chẳng phải thân hữu, không được tác ý thân hữu để lấy.»
Có tỳ-kheo nọ, tác ý thân hữu để lấy y ba-lợi-ca-la.[61] Đức Phật dạy:
«Không được tác ý thân hữu để lấy y này. Nếu không đủ thì không được lấy.
Phật ở tại thành Ba-bà.[62] Có một người Ma-la[63] tự là Lâu-diên,[64] là bạn của Tôn giả A-nan khi còn bạch y. Bấy giờ, A-nan khoác y, bưng bát, đến nhà ông ấy, an tọa chỗ ngồi. Lâu-diên đi vắng không có ở nhà, Tôn giả A-nan hỏi người vợ của ông:
«Lâu-diên đâu?»
Vợ Lâu-diên trả lời:
«Đi khỏi.»
A-nan bảo:
«Đưa cho tôi cái sọt y.»[65]
Vợ Lâu-diên liền lấy đem đặt trước A-nan. Tôn giả A-nan lựa lấy vải đại giá[66] đem về trong Tăng-già-lam, làm khăn lau mặt, khăn lau thân cho các Thượng tọa. Khi Lâu-diên Ma-la về, người vợ thuật lại sự việc. Ông liền đến trong Tăng-già-lam, đến chỗ A-nan, hỏi:
«Thầy có đến nhà tôi?»
«Vâng, có.»
«Thầy có lấy thứ gì không?»
«Có lấy.»
«Sao thầy không lấy thứ tốt mà lại lấy thứ xấu?»
«Chính tôi cần vải như vậy.»
Bấy giờ các tỳ-kheo có ý nghĩ: Với thân hữu bạch y, có nên lấy vải như vậy không. Bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên lấy.»
«Thân như thế nào để đáng lấy?»
«Như A-nan với Lâu-diên Ma-la thì nên lấy.»
Các tỳ-kheo thưa:
«Nếu chủ không có ở nhà, có nên lấy hay không?»
Đức Phật dạy:
«Cho phép, nếu là thân hậu, dù ở nhà hay đi vắng, đều được phép lấy.»
11. Di vật của Tỳ-kheo
Bấy giờ, đức Phật ở tại nước Xá-vệ, không đi phó trai. Theo thường pháp của chư Phật, nếu không đi phó trai thì sau đó đi xem xét các phòng. Khi xem xét các phòng, thấy có tỳ-kheo bệnh nằm một mình không ai chăm sóc, cúng dường. Vị ấy nằm chung với vật đại tiểu tiện. Thấy vậy, đức Phật đến chỗ tỳ-kheo bệnh, biết mà vẫn hỏi:
«Sao ông nằm chung với vật đại tiểu tiện? Có ai chăm sóc cơm cháo không?»
Vị tỳ-kheo bệnh thưa:
«Không.»
Đức Phật lại hỏi:
«Sao không có ai chăm sóc?»
Vị tỳ-kheo bệnh thưa:
«Vì khi con mạnh, con không thăm viếng bệnh người khác. Nên nay con bệnh, không có vị nào nuôi nấng cơm cháo.»
Đức Phật dạy:
«Ông không chăm sóc, cúng dường người bệnh, nên thất lợi, không được gì. Các ông là tỳ-kheo, không cùng chăm sóc cho nhau thì ai sẽ chăm sóc bệnh các ông?»
Bấy giờ, đức Thế Tôn liền đỡ tỳ-kheo bệnh dậy, lau đồ bất tịnh nơi thân. Lau xong, rửa sạch. Rửa rồi, giặt y phơi khô. Đức Phật dọn dẹp những cỏ lá hư cũ mục mà vị tỳ-kheo bệnh đã nằm. Lấy nước bùn trét lên trên, rưới nước khiến cho sạch sẽ. Lại trải cỏ mới lên, bên trên trải một chiếc y, để tỳ-kheo bệnh nằm trở lại, lấy một chiếc y đắp lên trên, rồi Như Lai mới ra đi.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thọ thực xong dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng ỳ-kheo, đem sự việc vừa xảy ra, không thỉnh mà nói:
«Sau khi Ta không đi thọ thực, đến xem xét các phòng, thấy có tỳ-kheo bệnh. Ta tự lo liệu mọi việc.»
Ngài kể rõ mọi việc cho các tỳ-kheo nghe, rồi bảo:
«Này các tỳ-kheo, từ nay về sau, nên chăm sóc tỳ-kheo bệnh, không được không chăm sóc. Nên cử người chăm sóc bệnh, không được không cử người chăm sóc bệnh. Nếu muốn cúng dường Ta thì nên cúng dường cho người bệnh. Cho phép các tỳ-kheo cùng Hòa thượng, hoặc đồng Hòa thượng, cùng A-xà-lê, hoặc đồng A-xà-lê, hoặc đệ tử nên chăm sóc lẫn nhau. Nếu vị nào không có người chăm sóc thì chúng Tăng nên cử người chăm sóc. Nếu không ai chịu chăm sóc thì sai theo thứ tự. Nếu theo thứ tự sai mà không chịu thì sẽ như pháp trị.»
Nếu không có tỳ-kheo thì tỳ-kheo-ni tùy theo công việc mà giúp đỡ, nhưng không được đụng chạm đến tỳ-kheo. Nếu không có tỳ-kheo-ni thì thức-xoa-ma-na cũng tùy theo công việc mà chăm sóc, nhưng cũng không được đụng chạm đến tỳ-kheo. Nếu không có thức-xoa-ma-na thì sa-di nên làm. Nếu không có sa-di thì sa-di-ni, cũng tùy theo công việc mà làm, nhưng cũng không được đụng chạm đến tỳ-kheo. Nếu không có sa-di-ni thì ưu-bà-tắc nên làm, nếu không có ưu-bà-tắc thì ưu-bà-di, cũng tùy theo công việc mà làm, nhưng cũng không được xúc chạm đến tỳ-kheo.
Người bệnh có năm việc khó chăm sóc: 1. Thèm ăn những thứ không được ăn, và không chịu uống thuốc. 2. Người nuôi bệnh có chí tâm mà người bệnh không nói như thật. 3. Cần đi lại không đi, cần đứng không chịu đứng. 4. Thân thể có đau nhức thì không thể chịu đựng nỗi. 5. Dù việc nhẹ có thể làm được, nhưng không làm, phải cậy nhờ người làm. Người bệnh có năm việc như vậy thì rất khó chăm sóc.
Người bệnh có năm việc dễ chăm sóc: 1. Không ăn những thứ không được ăn; chịu uống thuốc. 2. Nói như thật cho người nuôi bệnh. 3. Cần đi thì đi, không cần đi thì không đi, cần đứng thì đứng. 4. Thân thể có đau nhức thì có khả năng chịu đựng. 5. Việc nhẹ có thể làm được thì làm. Người bệnh có năm việc như vậy thì dễ chăm sóc.
Người bệnh lại có năm việc khó chăm sóc, ngoài bốn việc như trên, việc thứ năm là không thể trụ tâm tĩnh tọa được. Người bệnh có năm việc này rất khó nuôi.
Người bệnh lại có năm việc dễ chăm sóc, ngoài bốn việc như trên, việc thứ năm là có thể [862a1] trụ tâm tĩnh tọa được. Người bệnh có năm việc như vậy thì dễ chăm sóc.
Lúc bấy giờ, có tỳ-kheo ở tại nước Câu-tát-la, trên đường đi đến một trú xứ nhỏ, thấy có tỳ-kheo bệnh không ai chăm sóc, nằm chung với vật đại tiểu tiện. Vị ấy liền nghĩ như vầy: «Đức Thế Tôn đã dạy, ‹Phải chăm sóc người bệnh, không được không chăm sóc. Phải cử người coi sóc bệnh, không được không cử người coi sóc người bệnh. Nên cúng dường người bệnh, không được không cúng dường người bệnh. Người nào cúng dường người bệnh tức là cúng dường Ta.› Vị kia liền chăm sóc tỳ-kheo bệnh, sau đó người bệnh qua đời. Lúc bấy giờ, tỳ-kheo mang y, bát của người qua đời đến Kỳ-hoàn tinh xá, nước Xá-vệ, qua đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, đem nhơn duyên này bạch lên đức Phật một cách đầy đủ. Đức Phật dạy:
«Lành thay, lành thay, tỳ-kheo! Ông là người có thể chăm sóc tỳ-kheo bệnh. Nên cúng dường người bệnh. Nên cử người chăm sóc tỳ-kheo bệnh. Cúng dường tỳ-kheo bệnh là cúng dường Ta.»
Vị kia đem y, bát, tọa cụ, ống đựng kim của tỳ-kheo qua đời đến, hiện tiền Tăng trú xứ này nên chia.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các tỳ-kheo đem y, bát, tọa cụ, ống đựng kim của tỳ-kheo qua đời cho người nuôi bệnh, nên bạch nhị yết-ma cho. Người nuôi bệnh đến trong Tăng, trống vai bên hữu, cởi bỏ giày dép, kính lễ sát chân Tăng, tác bạch như vầy:
«Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo... tại trú xứ kia đã qua đời. Y, bát, tọa cụ, ống đựng kim, đồ đựng y; hiện tiền Tăng nơi trú xứ này nên chia.»
Lần thứ hai, lần thứ ba cũng như vậy.
Tăng nên sai một vị có khả năng làm yết-ma, hoặc thượng tọa hay thứ tọa, tụng luật hay không tụng luật được, miễn là có thể làm yết-ma, tác bạch như vầy:
«Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo... đã qua đời. Y, bát, tọa cụ, ống đựng kim, đồ đựng y của vị ấy để lại, hiện tiền Tăng nơi trú xứ này nên chia. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận đem cho tỳ-kheo nuôi bệnh tên là... Đây là lời tác bạch.
«Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo... đã qua đời. Y, bát, tọa cụ, ống đựng kim, đồ đựng y của vị ấy để lại, hiện tiền Tăng nơi trú xứ này nên chia. Nay Tăng cho tỳ-kheo nuôi bệnh tên là... Trưởng lão nào đồng ý đem y, bát, tọa cụ, ống đựng kim, đồ đựng y của vị này để lại cho tỳ-kheo nuôi bệnh tên... thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
«Tăng đã chấp thuận đem y, bát, tọa cụ, ống đựng kim, đồ đựng y của vị ấy để lại, cho tỳ-kheo nuôi bệnh tên... rồi, nên im lặng. Việc này được ghi nhận như vậy.»
(Nếu Tăng yết-ma sai một vị chia y vật của vị qua đời, pháp yết-ma đó cùng pháp yết-ma này không khác, chỉ thêm một câu: «Nay Tăng trao y cho tỳ-kheo tên.... Tỳ-kheo tên... sẽ hoàn lại cho Tăng. Đây là lời tác bạch.»).[67]
Lúc bấy giờ, tại nước Xá-vệ có nhiều tỳ-kheo nổi tiếng qua đời, để lại ba y rất nhiều. Các tỳ-kheo không biết nên dùng y nào để cho người nuôi bệnh. Bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép lấy y mà vị qua đời thường dùng để cho. Đức Phật cho phép cho y người nuôi bệnh rồi. Lúc ấy có tỳ-kheo chỉ nuôi sơ sơ; hoặc có vị chỉ đỡ bệnh nhân ngồi dậy, hay nằm xuống; hoặc đưa cây; tăm xỉa răng, hay tách nước, cũng lấy y bát của người qua đời. Đức Phật dạy:
«Không được chỉ nuôi sơ sơ như vậy mà lấy y bát của người bệnh qua đời.»
Có năm việc mà người nuôi không được lấy y vật của người bệnh: 1. Không biết người bệnh nên ăn thứ gì và không được ăn thứ gì; thứ nên ăn thì không cho ăn, thứ không đáng ăn lại cho ăn. 2. Nhờm gớm đại tiểu tiện đàm dải của người bệnh. 3. Không có tâm từ mẫn, chỉ vì y thực. 4. Trong thời gian nuôi bệnh, không thể vì bệnh nhân lo liệu thuốc thang cho đến khi bệnh lành hay qua đời. 5. Không thể nói pháp cho bịnh nhân khiến cho hoan hỷ. Đối với bản thân, có sự tổn giảm thiện pháp.
Người nuôi bệnh có năm việc như vậy không được nhận lấy y vật của bệnh nhân.
Lại cũng có năm pháp, người chăm sóc bệnh nhân đáng được chia: 1. Biết người bệnh ăn thứ gì được, thứ gì không được. Thứ nên ăn thì cho ăn. 2. Không nhờm gớm đại tiểu tiện, đàm dải của bệnh nhân. 3. Có tâm thương yêu, không vì y thực. 4. Trong thời gian nuôi bệnh có lo liệu thuốc thang cho bệnh nhân đến khi lành bệnh hoặc qua đời. 5. Có thể vì bệnh nhân nói pháp khiến cho hoan hỷ. Đối với bản thân, pháp lành được tăng ích. Người có năm việc như vậy thì nên lấy y vật của bệnh nhân.
Nếu bệnh nhân gần trút hơi thở cuối cùng nói: «Các thứ này của tôi. Sau khi tôi chết, dâng cúng cho Phật, Pháp, Tăng, tháp hoặc cho người. Nếu tôi không chết thì trả lại cho tôi.»
Đức Phật dạy:
«Không được di chúc như vậy, mà nên chia hiện tiền Tăng.»
Tỳ-kheo bệnh kia khởi ý nghĩ: «Tôi sẽ thọ trì ba y xấu.» Vì sợ người nuôi bệnh lấy đi.»
Đức Phật dạy:
«Nên thọ trì thứ tốt.»
Bấy giờ, bệnh nhân đem y bát gởi chỗ khác, sợ người nuôi bệnh lấy. Sau bệnh lành, không có để dùng. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được có ý đem y bát gởi chỗ khác, sợ người nuôi bệnh lấy như vậy.»
Lúc bấy giờ, tại nước Xá-vệ có nhiều tỳ-kheo nổi tiếng qua đời, để lại ba y rất nhiều. Các tỳ-kheo không biết đem loại y nào để cho tỳ-kheo nuôi bệnh. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên nhận xét người nuôi bệnh như thế nào? Nếu tỳ-kheo nuôi bệnh tốt nhất thì cho ba y tốt. Nếu nuôi bệnh bực trung thì cho ba y vừa. Nếu nuôi bệnh tồi thì cho ba y xấu.»
Lúc bấy giờ, tại nước Xá-vệ có tỳ-kheo mắc nợ người khác, qua đời. Các tỳ-kheo không biết ai sẽ trả nợ đó, bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép đem trưởng y[68] để trả. Nếu không có thứ gì, thì bán ba y để trả; còn dư thì cho người nuôi bệnh. Người nuôi bệnh nên hỏi tỳ-kheo bệnh, ‹Y nào là ba y? y nào là trưởng y? thầy có mắc nợ ai? có ai nợ thầy không? Thầy có hứa cho ai thứ gì không?› Nếu người nuôi bệnh không hỏi như vậy thì sẽ như pháp trị. »
12. Tạp sự
Bấy giờ, có tỳ-kheo thân hình bị bệnh ghẻ nhọt làm nhớp y và ngọa cụ. Phật dạy:
«Cho phép chứa y che thân.»[69]
Hoặc có y mà lông dính vào mụt ghẻ làm cho đau nhức, Phật cho phép dùng y mịn tốt để phủ bên trong, ngoài mặc niết-bàn-tăng. Nếu đến nhà bạch y thì nên nói rằng: «Tôi bị bệnh ghẻ.» Nếu bạch y nói: «Không sao, cứ ngồi,» thì nên vén niết-bàn-tăng rồi ngồi.
Bấy giờ, có tỳ-kheo bị bệnh lòi trĩ, dùng cây khô để gạt nên bị đau. Phật cho phép dùng lông mịn hoặc kiếp-bối, lông chim, y cũ để chùi. Dùng rồi, treo lên mà không giặt. Các tỳ-kheo thấy nhờm gớm, bạch Phật. Phật dạy:
«Không được dùng rồi treo lên mà không giặt. Phải giặt sạch.»
Có vị giặt rồi, nhưng không vắt nước cho khô, bị hư mục sanh trùng. Phật dạy:
«Nên vắt khô nước rồi phơi cho khô.»
Bấy giờ, có tỳ-kheo bị ghẻ; bẩn y, ngọa cụ. Bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép sắm y che ghẻ.[70] Nếu tự mình không có thì cho phép lấy y ở trong Tăng để dùng.»
Khi lấy dùng, tỳ-kheo kia khi di chuyển không dám mang y che ghẻ từ trú xứ nầy đến trú xứ khác để dùng. Bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép di chuyển.»
Nhưng tỳ-kheo kia sau khi ghẻ lành, không đem về trả lại chỗ cũ. Phật dạy:
«Nếu ghẻ lành rồi, thì phải giặt, nhuộm, xếp ngay thẳng, trả lại chỗ cũ. Nếu không trả lại trú xứ cũ, sẽ như pháp trị.»
Lúc bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo làm màn che. Các bạch y thấy đều cơ hiềm rằng: «Sa-môn thích tử không biết đủ để dừng lại, không biết hổ thẹn. Bên ngoài tự xưng ta biết chánh pháp. Nhưng như vậy có gì là chánh pháp? Giống như quốc vương đại thần không khác!» Các tỳ-kheo [863a1] bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được may màn che.»
Bấy giờ, có tỳ-kheo đại tiểu tiện, lộ hình nơi chỗ trống. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép dùng cỏ hoặc lá cây, nhánh cây, hay y-lê-diên-đà, mạo-la, mạo-mạo-la, hoặc cù-lâu để ngăn che.»
Lúc bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo làm mái che,[71] các bạch y thấy điều cơ hiềm nói: «Sa-môn thích tử không biết đủ để dừng lại, không biết hổ thẹn. Bên ngoài tự xưng ta biết chánh pháp. Nhưng như vậy có gì là chánh pháp? Giống như quốc vương đại thần không khác!» Các tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy:
«Không được làm mái che.»
Bấy giờ, các tỳ-kheo đi đường bị nóng. Bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép dùng cỏ hay lá, hoặc một trong mười thứ y để làm đồ che.»
Bấy giờ chúng Tăng nhận được y kép.[72] Phật dạy:
«Cho phép chứa dùng.»
Bấy giờ có tỳ-kheo không biết thọ trì[73] ba y. Phật dạy:
«Nên thọ trì. Nếu nghi nên xả. Xả rồi thọ lại. Nếu có ba y mà không thọ trì, phạm đột-kiết-la.»
Đức Phật dạy nên thọ trì ba y. Có vị thọ trì các loại tiểu y thay cho ba y, như khăn lau thân, khăn lau mặt, tấm giạ lót nằm. Bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được thọ trì các loại tiểu y như vậy để thay thế ba y.»
Phật dạy cho phép dùng y, bề dài bốn khuỷu tay, rộng hai khuỷu tay làm an-đà-hội; rộng ba khuỷu tay, dài năm khuỷu tay làm uất-đa-la-tăng; tăng-già-lê cũng vậy.
Bấy giờ, các tỳ-kheo y bị rách. Phật dạy:
«Cho phép vá đắp lại.»
Họ không biết vá đắp như thế nào. Phật dạy:
«Đặt một lớp vải lên trên rồi may lại, tùy theo miếng rách lớn hay nhỏ, vuông hay tròn mà vá.
Bấy giờ, các tỳ-kheo không mặc y cắt rọc vào tụ lạc. Bạch y thấy, đều cơ hiềm, nói:
«Sa-môn thích tử không biết đủ để dừng lại, không biết hổ thẹn, giống như ngoại đạo»
Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không nên không mặc y cắt rọc mà vào tụ lạc. Có năm nhơn duyên được lưu y tăng-già-lê lại: Hoặc nghi có sự khủng bố, hoặc có mưa, hoặc nghi có mưa, hoặc tăng-già-lê may chưa xong, hay giặt nhuộm hư rách dày nặng. Năm nhơn duyên như vậy được lưu y tăng-già-lê lại.»
Lúc bấy giờ, có tỳ-kheo lật ngược tăng-già-lê mặc vào tụ lạc. Tỳ-kheo khác thấy, không vui, bèn bạch Phật. Phật dạy:
«Không được lật ngược y mặc vào tụ lạc.»
Có tỳ-kheo e ngại, nên ngay ngoài tụ lạc cũng không dám lật ngược y để mặc, nên bị nắng gió bụi trùng chim làm bẩn. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Ngoài tụ lạc, cho phép lật ngược y để mặc.»
Lúc bấy giờ, có tỳ-kheo nhận được man y,[74] bề rộng bề dài vừa đủ, liền cắt rọc may y, vì thiểu dục muốn may thiếp diệp y bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép may. Tỳ-kheo nhận được man y, bề rộng bề dài đủ, muốn may y năm mảnh.[75] Bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép may.»
Bấy giờ các tỳ-kheo vì y phạm nên xả,[76] bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép xả giữa Tăng, hoặc trước đông người, hoặc trước một người, sau đó tịnh thí. Không được không xả. Khi xả rồi sau mới chỉ định.[77] Không được không xả mà chỉ định. Có tỳ-kheo nọ y không xả mà thọ dụng làm ba y, làm y ba-lợi-ca-la,[78] cố ý để hư hoại, cố ý đem thiêu đốt để dùng làm phi y hay mặc thường xuyên.[79] Phật dạy:
«Nếu không xả không được đem làm ba y thọ dụng, hay làm y ba-lợi-ca-la, cố ý để hư hoại, cố ý đem thiêu đốt, dùng làm phi y, hay mặc luôn luôn.» Các tỳ-kheo nghĩ như vầy: «Ba-lợi-ca-la không hiện hữu trước mặt, có phạm ni-tát-kỳ hay không?» Đức Phật dạy:
«Không phạm ni-tát-kỳ.»
Vị kia y không xả bèn mặc. Bạch Phật. Phật dạy:
«Không được không xả mà mặc.»
Vị kia nghĩ không dám dùng y xả đọa;[80] đem cho người hay làm đồ đắp.[81] Bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép cho người khác làm đồ đắp.»
Bấy giờ, có tỳ-kheo e ngại không dám mặc y bị cháy, y bị cướp, y bị trôi, bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép mặc.»
Bấy giờ, có tỳ-kheo y không xả, bèn cùng người trao đổi. Bạch Phật. Phật dạy:
«Không được không xả y. Nên xả rồi sau mới trao đổi.»
Các tỳ-kheo nghĩ như vầy: ‹Y của chúng Tăng quá mười ngày, phạm xả đọa hay không?› Bạch Phật. Phật dạy:
«Không phạm.»
Tỳ-kheo nào y tịnh thí không trả lại chủ, phạm đột-kiết-la. Vị nào ngăn không cho trả, cũng phạm đột-kiết-la.
Bấy giờ, có các tỳ-kheo y không nhuộm cho hoại sắc mà đem gởi nhà bạch y. Bạch y lấy mặc. Phật dạy:
«Không được không nhuộm cho hoại sắc mà đem gởi nhà bạch y. Nên nhuộm cho hoại sắc làm y sa-môn. Sau đó mới đem gởi nhà bạch y.»
Lúc bấy giờ, có tỳ-kheo được y trên hẹp dưới rộng đem làm tăng-kỳ-chi, bạch Phật. Đức Phật cho phép làm.
Bấy giờ, có trú xứ nọ, hiện tiền Tăng nhận được y vật có thể chia. Nhóm sáu tỳ-kheo đem ra ngoài ranh giới chia nhau. Các tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy:
«Không được ra ngoài giới chia.»
Bấy giờ có Trưởng lão tỳ-kheo, được nhiều người biết tiếng, du hành trong nhân gian, nhận được nhiều y vật mà hiện tiền Tăng nên chia, nhưng khó chia vì e ngại đức Phật không cho phép ra ngoài giới chia y vật. Các tỳ-kheo đem nhơn duyên này bạch Phật. Phật dạy:
«Nên sai người xướng như vầy: ‹Đến tại địa điểm đó để phân chia y vật. Y vật nào đáng chia thì sẽ được chia.›»
Vị kia không biết chia khi nào. Phật dạy:
«Phải làm dấu hiệu. Hoặc dựa theo con bóng qui định thời gian; hoặc un khói; hay thổi ốc; hoặc đánh trống, đánh kiền chùy, công bố đến giờ. Người tự đến hay nhờ người đến cũng nên chia phần.»
Có các tỳ-kheo nọ di chuyển ngọa cụ. Đức Phật dạy:
«Không được di chuyển.»
Trường hợp có phòng nhiều ngọa cụ, có phòng ít ngọa cụ. Đức Phật dạy:
«Từ nay về sau, cho phép vị cựu trú, hoặc ma-ma-đế, hay người tri sự làm việc di chuyển ấy. Người nhận phòng nên hỏi trước, sau đó mới di chuyển.»
Có tỳ-kheo nọ đã di chuyển ngọa cụ, khi đi không trả lại chỗ cũ. Tỳ-kheo khác lại dùng. Phật dạy:
«Phải trả ngọa cụ lại chỗ cũ rồi mới đi, nếu không trả lại sẽ như pháp trị.»
Phòng xá bị hư sập. Các tỳ-kheo e ngại không dám di chuyển ngọa cụ, vì Phật có dạy: «Không nên di chuyển ngọa cụ.» Các tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy:
«Nếu phòng xá bị hư sập thì nên di chuyển ngọa cụ.»
Có vị di chuyển ngọa cụ đến các phòng khác. Các phòng khác không dám nằm nên bị hư hoại. Phật dạy:
«Nên sử dụng.»
Khi đức Phật đã cho phép dùng rồi, các tỳ-kheo không rửa chân, không lau chân (mà sử dụng); hoặc dùng làm y lót thân. Các tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy:
«Không được không rửa chân, không lau chân (mà sử dụng); hoặc dùng làm áo lót.»
Khi đức Phật đã không cho phép làm áo lót, các tỳ-kheo e ngại không dám đụng đến tay chân. Các tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy:
«Không được dùng làm y lót thân, chỉ giới hạn từ nách đến đầu gối mà thôi.»
Bấy giờ, các bạch y cúng y lót thân cho tỳ-kheo, tỳ-kheo e ngại không dám nhận, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Y do đàn-việt dâng cúng nên tùy thuận mà nhận.»
Khi phòng xá bị hư hoại kia đã được sửa sang rồi, nhưng ngọa cụ không được trả lại. Các tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy:
«Nếu phòng xá đã sửa sang rồi thì nên trả ngọa cụ lại. Nếu không trả, sẽ như pháp trị.»
Có các tỳ-kheo nọ di chuyển ngọa cụ của trú xứ này đến trú xứ kia. Phật dạy:
«Không được di chuyển ngọa cụ của trú xứ này đến trú xứ kia.»
Trường hợp nhân dân trong nước phản loạn khủng bố, nên trú xứ đó cũng bị hoại, các vị e ngại không dám di chuyển ngọa cụ, vì đức Phật không cho phép di chuyển ngọa cụ cố định của trú xứ này đến trú xứ kia. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nếu có trường hợp như vậy thì cho phép di chuyển.»
Vị kia, khi di chuyển ngọa cụ, không dám che dấu, sợ chạm phải trong thân,[82] vì đức Thế Tôn không cho phép làm y lót thân. Các tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy:
«Tùy theo đó mà phương [864a1] tiện che dấu khi di chuyển. Nếu người khác đuổi, bảo đứng dậy cũng không được đứng dậy. Cũng không được đuổi người khác đứng dậy. Nếu có tỳ-kheo khác có thể thương yêu che chở thì nên giao cho.»
Khi trong nước ổn định lại, nhân dân an khương, phòng xá sửa rồi, mà ngọa cụ chưa mang trở lại. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nếu không trả ngọa cụ trở lại, sẽ như pháp trị.»
Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất nhận được vải từng đoạn vụn, màu sắc bậc nhất, muốn cắt may y năm mảnh, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép may.»
Bấy giờ, có trú xứ hiện tiền Tăng nhận được nhiều y vật có thể chia. Nhóm sáu tỳ-kheo đều nạnh nhau, không chịu đem cất nên bị mất. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Người nào thấy, phải đem cất.»
Lúc ấy khách tỳ-kheo đến, di chuyển y vật để qua phòng khác; không đảm bảo. Bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép lấy một phòng riêng kết làm kho chứa, bằng pháp bạch nhị yết-ma.»
Xướng tên phòng: Hoặc nhà tắm, nhà tầng, hay nhà kinh hành.[83] Trong chúng nên sai một vị có khả năng yết-ma, hoặc Thượng tọa hay thứ tọa, tụng luật hay không tụng luật được, miễn có thể tác pháp yết-ma, tác bạch như vầy:
«Đại đức Tăng xin lắng nghe, nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận lấy phòng... kết làm kho chứa. Đây là lời tác bạch.
«Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tăng lấy phòng... kết làm kho chứa. Trưởng lão nào chấp thuận Tăng lấy phòng... kết làm kho chứa thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã chấp thuận Tăng lấy phòng... làm kho chứa rồi.
«Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc ấy được ghi nhận như vậy.»
Lúc ấy, kho chứa không có người coi giữ nên không an toàn chắc chắn. Đức Phật cho phép sai người coi giữ vật, bằng pháp bạch nhị yết-ma. Trong chúng sai một vị có khả năng yết-ma, hoặc Thượng tọa hay thứ tọa, tụng luật được hay không, miễn là có khả năng tác pháp yết-ma, tác bạch như vầy:
«Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận sai Tỳ-kheo... làm người coi giữ kho, đây là lời tác bạch.
«Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tăng sai Tỳ-kheo... làm người coi giữ. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng sai Tỳ-kheo... làm người bảo quản thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã chấp thuận sai tỳ-kheo... làm người bảo quản rồi.
«Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc ấy được ghi nhận như vậy.»
«Nếu tỳ-kheo đó không chịu làm người coi giữ thì nên đặc ân cấp cháo. Nếu vẫn không chịu, thì tất cả y thực đã nhận được, nên chia cho hai phần. Nếu vẫn cố không chịu, thì nên như pháp trị.»
Lúc bấy giờ, Tỳ-xá-khư Vô-di-la Mẫu[84] sắm nhiều áo tắm mưa, sai người đem đến tinh xá dâng cúng. Các tỳ-kheo không biết sẽ làm như thế nào. Bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên chia theo thứ tự từ Thượng tọa. Nếu không đủ thì ghi nhận. Rồi sau đó nhận được, tiếp tục chia.»
Bấy giờ nhận được y đại quý giá nên vẫn tiếp tục chia. Phật dạy:
«Không được đem y đại quý giá tiếp tục chia mà phải đổi cho Thượng tọa. Nếu nhận được y vật không bằng nhau thì nên lấy y vật có thể phân chia trong Tăng cho đủ số bằng nhau để phân chia.»
Lúc bấy giờ, Tăng nhận được y ương-già-na-la,[85] bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép tích trử.»
Bấy giờ có tỳ-kheo mặc y phú thân của Tăng [86] đến trong nhà tắm, trong nhà ăn, làm cho cơm canh nhớp, bùn nhơ, khói hun, bụi bám. Phật dạy:
«Không được mặc y phú thân của Tăng vào phòng tắm, nhà ăn.»
Bấy giờ, tháng mùa đông, các tỳ-kheo bị lạnh. Bạch Phật. Phật cho phép mặc (đồ ấm), nhưng phải yêu quý gìn giữ đừng để nhơ nhớp. Lúc ấy có tỳ-kheo mặc vào nhà vệ sinh, nhơ nhớp hôi thúi. Phật dạy:
«Không được mặc vào nhà vệ sinh.»
Bấy giờ có tỳ-kheo phải đem y về phòng, rồi mới đến nhà vệ sinh nên bị cấp bách. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
Nên có cái giá y bên ngoài nhà vệ sinh, hoặc móc long nha hay cái trụ, hoặc nhà, hoặc cây, hoặc cỏ, hay đá; cho phép đem y móc hay để trên đó. Nếu trời mưa, nên để chỗ không mưa. Nếu mưa văng ướt vào chỗ để, tốt nhất đừng cho đụng đến cửa nhà vệ sinh. Khi lên nhà vệ sinh, ngồi xổm cho gọn đừng để nhớp y.
Có tỳ-kheo nọ mặc y đến chỗ đi kinh hành bị vướng cỏ, dính côn trùng, đất bụi bám, mưa thấm ướt, hư hoại Tăng y. Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy:
«Không được mặc Tăng y đến chỗ kinh hành.»
Lúc bấy giờ, có vị Thượng tọa tỳ-kheo bịnh già yếu, từ đường xa nhọc mệt đến. Phật cho phép phủ miếng giạ trên khăn trải nằm. Nên yêu quý giữ gìn mà nằm.
Bấy giờ, tại trú xứ nọ có tỳ-kheo kiết hạ an cư rồi, lại đến trú xứ khác ở, không biết nên nhận vật an cư nơi trú xứ nào. Các tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy:
«Nơi nào ở nhiều ngày nhất thì nhận vật an cư chỗ đó. Nếu hai nơi bằng nhau thì nhận mỗi nơi phân nữa. Có tỳ-kheo nọ đem chia thức ăn của hạ an cư. Đức Phật dạy:
«Không được chia. Tùy theo sự dâng cúng mà thọ thực.»
Khi đức Thế Tôn đã nhận lời thỉnh của bà-la-môn Tỳ-lan-nhã [87] đã qua rồi, bảo Tôn giả A-nan rằng:
«Ông đến nói với bà-la-môn Tỳ-lan-nhã, đức Phật đã nhận lời thỉnh của ông ba tháng hạ an cư xong, nay muốn du hành trong nhân gian.»
Bấy giờ, Tôn giả A-nan vâng lời đức Thế Tôn dạy liền đến chỗ Tỳ-lan-nhã bảo rằng:
«Đức Thế Tôn nói như vầy: Ngài đã nhận lời mời của ông ba tháng hạ an cư xong rồi, nay muốn du hành trong nhân gian.»
Tỳ-lan-nhã nghe Tôn giả nói rồi, mới tự nghĩ rằng: «Mình thỉnh sa-môn Cù-đàm và Tăng tỳ-kheo trong chín mươi ngày rồi mà không cúng dường.» Tỳ-lan-nhã liền đến chỗ đức Thế Tôn, cung kính thăm hỏi rồi lui ngồi qua một bên. Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng vô số phương tiện vì ông mà nói pháp, khiến cho ông được hoan hỷ. Tỳ-lan-nhã nghe đức Phật nói pháp rồi, rất hoan hỷ, liền bạch Phật rằng:
«Cúi xin đức Thế Tôn và các Tăng tỳ-kheo nhận lời thỉnh chín mươi ngày nữa của con.»
Đức Phật trả lời:
«Đã nhận lời thỉnh chín mươi ngày của ông rồi. Nay ta muốn du hành trong nhân gian.»
Tỳ-lan-nhã bạch Phật:
«Cúi xin Ngài và chư Tăng nhận cho con cúng dường một bữa ngọ vào ngày mai.»
Đức Thế Tôn nhận lời bằng sự im lặng. Tỳ-lan-nhã biết được đức Phật nhận lời rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy vui vẻ, nhiễu quanh Phật rồi lui về. Trong đêm đó sắm sửa, đầy đủ các đồ ăn thức uống, sáng ngày đến thỉnh Phật và chư Tăng phó trai.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn cùng năm trăm Tăng tỳ-kheo khoác y, bưng bát, đến nhà Tỳ-lan-nhã, an tọa nơi chỗ ngồi. Tỳ-lan-nhã dâng các thứ đồ ăn thức uống ngon bổ cúng dường Phật và chư Tăng. Các Ngài ăn xong để bát xuống, Tỳ-lan-nhã dùng ba y dâng cúng lên đức Thế Tôn và Tăng tỳ-kheo mỗi vị hai tấm điệp làm y mùa Hạ. Tỳ-kheo không nhận, nói rằng:
Đức Phật chưa cho phép chúng tôi nhận y mùa hạ. Tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy: «Cho phép nhận.»
Lúc bấy giờ, Bạt-nan-đà trong nhóm sáu tỳ-kheo nghe đức Phật cho phép nhận y mùa hạ, nên lúc nào trong ba mùa xuân, hạ và đông, cũng đều tìm cầu y mùa hạ. Hạ an cư chưa xong cũng tìm cầu y, cũng thọ y. Có lúc Bạt-nan-đà Thích tử đang an cư tại một trú xứ này mà nghe trú xứ khác nhận được nhiều y an cư mùa hạ, liền đến trú xứ đó hỏi rằng:
«Các thầy đã chia y mùa hạ chưa?»
Các vị trả lời:
«Chưa chia.»
Bạt-nan-đà bảo:
«Mang ra đây. Tôi cùng các thầy chia.»
Bạt-nan-đà lại đến các trú xứ khác cũng hỏi rằng:
«Các thầy đã chia y mùa hạ chưa?»
Các vị trả lời:
«Chưa chia.»
Bạt-nan-đà bảo:
«Mang ra đây. Tôi cùng các thầy chia.»
Bấy giờ Bạt-nan-đà ở nhiều chỗ chia y nên nhận được nhiều y mang về Kỳ-hoàn. Các tỳ-kheo khác thấy hỏi rằng:
«Đức Thế Tôn cho phép tích trử ba y. Vậy số lượng y nầy là y của ai?»
Bạt-nan-đà nói:
«Nhiều trú xứ chia nên tôi nhận được số lượng y nhiều như vậy.»
Trong các tỳ-kheo, có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu đà, ưa học giới, biết hổ thẹn, hiềm trách Bạt-nan-đà trong nhóm sáu tỳ-kheo rằng: «Đức Thế Tôn cho phép tỳ-kheo nhận y mùa hạ. Sao thầy tìm cầu y mùa hạ vào tất cả thời xuân, hạ, và đông? An cư chưa xong cũng tìm y, cũng [865a1] thọ y? An cư nơi này đã nhận phần y rồi, lại đến nơi khác cũng nhận phần y?»
Các tỳ-kheo đến chỗ đức Thế Tôn đem nhơn duyên này bạch lên đức Thế Tôn một cách đầy đủ. Đức Thế Tôn tập hợp Tăng tỳ-kheo dùng vô số phương tiện quở trách Bạt-nan-đà:
«Ông làm điều sai quấy, chẳng phải pháp sa-môn, chẳng phải hạnh thanh tịnh, chẳng phải hạnh tùy thuận, làm điều không nên làm. Nầy Bạt-nan-đà, Ta cho phép tỳ-kheo tích trử y mùa hạ, tại sao ông lại tìm cầu y mùa hạ trong tất cả các thời xuân hạ và đông? An cư chưa xong cũng tìm cầu y, cũng thọ y? An cư chỗ này đã nhận y rồi, lại đến chỗ khác nhận phần y nữa?»
Dùng vô số phương tiện quở trách Bạt-nan-đà trong nhóm sáu tỳ-kheo rồi, đức Phật bảo các tỳ-kheo:
«Từ nay về sau, không được tìm cầu y mùa hạ trong tất cả các thời xuân, hạ và đông. An cư chưa xong cũng không được tìm cầu y, thọ y. Cũng không được an cư nơi này đã nhận y rồi, lại đến nơi khác nhận y nữa. Nếu nhận như vậy sẽ như pháp trị.»
Lúc bấy giờ, có tỳ-kheo khi đi, y mùa hạ chưa chia. Sau đó các tỳ-kheo chia y mùa hạ. Tỳ-kheo kia trở về hỏi rằng:
«Y mùa hạ chia chưa?»
Tỳ-kheo trả lời:
«Chia rồi.»
Tỳ-kheo kia hỏi:
«Có lấy phần y của tôi không?»
Tỳ-kheo nói:
«Không lấy.»
Khi đó tỳ-kheo kia giận, trách các tỳ-kheo rằng:
«Chưa chia y, tôi đi vắng. Sau đó mới chia y mùa hạ. Tôi an cư tại đây mà sao không lấy phần y của tôi?»
Các tỳ-kheo nghĩ: «Như vậy có thành pháp chia y không?» Các tỳ-kheo đến bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Đã thành chia y rồi, nhưng phải đợi nhau. Hay dặn dò lại người chưa đi nhận dùm phần y mùa Hạ.»
Lúc ấy có tỳ-kheo chưa chia y đã đi. Khi ra đi dặn chung chung lại người chưa đi, là nhận phần y cho tôi với. Sau đó các tỳ-kheo chia y hỏi:
«Vị nào nhận phần y cho tỳ-kheo kia?»
Khi đó không ai nhận cả. Tỳ-kheo kia trở về hỏi:
«Chia y chưa?»
Các tỳ-kheo trả lời:
«Chia rồi.»
Vị kia hỏi tiếp:
«Có ai nhận phần y của tôi không?»
Các tỳ-kheo nói:
«Không ai nhận cả.»
Tỳ-kheo kia giận, trách các tỳ-kheo: «Khi chưa chia y, tôi đi vắng. Tôi dặn quí vị chia y vì tôi mà nhận dùm y. Tôi an cư tại đây. Tại sao khi chia y không vì tôi nhận phần?»
Các tỳ-kheo nghĩ: «Đã thành chia y chưa?» Các tỳ-kheo đến bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Đã thành chia y rồi. Nhưng nên đợi người kia trở về. Hay người kia phải nhờ một vị nào nhận cho rõ ràng, chứ không được dặn chung chung.»
Bấy giờ, có tỳ-kheo khi chưa chia y đã ra đi, có dặn một tỳ-kheo nhận dùm phần y mùa hạ của mình. Khi các tỳ-kheo chia y hỏi:
«Vị nào nhận phần y của tỳ-kheo kia?»
Người được dặn quên không nhận. Các tỳ-kheo chia y xong, tỳ-kheo kia trở về hỏi:
«Y mùa hạ chia chưa?»
Các tỳ-kheo nói:
«Chia rồi.»
Tỳ-kheo kia hỏi:
«Có nhận dùm phần y của tôi không?»
Các tỳ-kheo nói:
«Không nhận.»
Tỳ-kheo kia giận, trách các tỳ-kheo rằng:
«Khi chưa chia y, tôi đi vắng. Sau đó tôi có nhờ một tỳ-kheo nhận phần y của tôi. Tôi an cư tại đây, tại sao không vì tôi mà nhận phần dùm?»
Các tỳ-kheo không biết có thành chia y hay không? Đến bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Thành chia. Người quên có tội.»
Lúc ấy, có tỳ-kheo lưu lại thức ăn của mùa hạ an cư. Đức Phật dạy:
«Không được lưu lại. Tùy theo sự dâng cúng mà thọ dụng.»
Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên vào Niết-bàn, có nhiều y vật có thể chia cho hiện tiền Tăng. Tỳ-kheo nọ để quá mùa an cư. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được lưu lại. Nên chia y này cho hiện tiền Tăng.»
Vào lúc đó, có một đàn-việt muốn dâng cúng cho tháp, dâng cúng cho Tăng, cho phòng xá Tăng-già-lam, dâng cúng áo tắm, lý do là mới sanh con, hoặc mới cạo tóc, hay vì để tóc dài, hoặc về nhà mới, hay vì thân quyến qua đời làm lễ, nên hiện tiền Tăng nhận được nhiều y vật. Các tỳ-kheo lưu lại đến mùa hạ an cư. Tỳ-kheo đến bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được lưu lại. Đây là y phi thời, hiện tiền Tăng nên chia.»
Lúc bấy giờ, có một tỳ-kheo ở tại trú xứ mình, nhận được nhiều y vật của mùa hạ an cư, vị ấy với ý nghĩ như vầy: «Ta nên làm thế nào đây?» Vị ấy bạch với các tỳ-kheo. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nếu có một tỳ-kheo an cư mà nhận được nhiều y vật hạ an cư của Tăng, vị tỳ-kheo kia nên tâm niệm rằng: ‹Đây là vật của tôi.›»
Hoặc thọ hay không thọ. Các tỳ-kheo khác đến không được nhận phần.
Lúc bấy giờ, các tỳ-kheo nhận được số nhiều y vật có thể chia, nhưng Tăng bị phá làm hai bộ. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên chia làm hai phần.»
Chưa nhận được y vật có thể chia, mà Tăng bị phá làm hai bộ. Đức Phật dạy:
«Nên hỏi đàn-việt cúng cho ai. Nếu họ nói cúng cho Thượng tọa có tên như vậy, như vậy... thì nên theo lời của họ mà giao cho Thượng tọa đó. Nếu họ nói không biết, hoặc nói cúng cho tất cả thì nên chia làm hai phần.
Lúc bấy giờ, các tỳ-kheo, có một số y đã nhận được, có một số y chưa nhận được, mà Tăng bị phá làm hai bộ. Số y đã nhận được thì chia làm hai phần. Số y chưa nhận được nên hỏi thí chủ để biết họ cúng cho ai. Nếu họ nói: ‹Cúng cho Thượng tọa có tên như vậy, như vậy›, thì nên theo lời nói của họ mà giao cho Thượng tọa đó. Nếu thí chủ nói: ‹Không biết›, hoặc nói: ‹Cúng cho tất cả› thì nên chia làm hai phần.
Lúc bấy giờ, các tỳ-kheo nhận được y vật có thể chia. Có tỳ-kheo từ bộ này đến bộ kia. (Phật dạy) bộ kia không được trao phần y cho họ.
Hoặc trường hợp chưa nhận được y vật, có tỳ-kheo từ bộ này đến bộ kia. (Phật dạy) không được trao phần y cho họ.
Hay trường hợp được y vật hay chưa được y vật, có tỳ-kheo từ bộ này đến bộ kia. (Phật dạy) không được trao phần y cho họ.
Lúc bấy giờ, có tỳ-kheo từ bộ này đến bộ kia mà đi chưa đến, thì bị chết. Các tỳ-kheo không biết y bát của vị ấy nên trao cho ai, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Giao cho trú xứ vị kia muốn đến.»
Lúc bấy giờ, có tỳ-kheo từ bộ này đến bộ kia, vừa đến nơi thì bị chết. Các tỳ-kheo không biết y bát của vị kia nên trao cho ai, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên giao cho bộ Tăng mà vị ấy đến.»
Bấy giờ, có tỳ-kheo bị cử tội rồi mạng chung. Các tỳ-kheo không biết y bát của vị kia nên giao cho ai, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên giao cho cộng đồng yết-ma Tăng cử.»
Bấy giờ, Tăng nơi trú xứ nọ bị phá làm hai bộ. Có đàn-việt thỉnh hai bộ Tăng nầy thọ thực chung một chỗ, có dâng y và chỉ tơ. Các tỳ-kheo không biết nên chia y cho ai, chia chỉ tơ cho ai, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên hỏi đàn-việt để biết họ cúng tơ cho ai cúng chỉ cho ai. Nếu họ nói cúng cho Thượng tọa có tên như vậy, thì nên theo lời của họ mà giao cho Thượng tọa đó. Nếu họ nói không biết, hay nói cúng cho tất cả, thì nên chia làm hai phần.»
Bấy giờ, chúng Tăng nhận được y an cư mùa hạ, nhưng Tăng bị phá làm hai bộ, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên đếm số người nhiều hay ít để chia.»
Hoặc chưa nhận được y an cư, mà Tăng bị chia làm hai bộ, bạch Phật. Phật dạy:
«Nên đếm số người để chia.»
Hay trường hợp nhận được y mùa hạ, hay chưa nhận được y mùa hạ, Tăng bị phá làm hai bộ (bạch Phật. Phật dạy): Nên đếm số người để chia.
Bấy giờ, có tỳ-kheo nhận được y mùa hạ, rồi đến bộ khác. Bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên trao cho.»
Hoặc chưa nhận được y mùa hạ mà đến bộ khác. Phật dạy:
«Nên trao cho họ.»
Hay chưa nhận được y mùa mùa hạ, hoặc đã nhận được y mùa hạ mà đến bộ khác. Đức Phật dạy:
«Nên trao cho họ.»
Bấy giờ, có một cư sĩ thỉnh chư Tăng các trú xứ về một địa điểm cúng dường và dâng y. Các tỳ-kheo không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy:
Có tám loại dâng y: Dâng cho Tăng tỳ-kheo, dâng cho Tăng tỳ-kheo-ni, dâng cho hai bộ Tăng, dâng cho tứ phương Tăng, dâng cho Tăng trong một cương giới, dâng cho Tăng đồng một yết-ma, dâng cho người có nói rõ tên, [866a1] hay dâng cho một người. Đức Phật dạy tiếp:
Nếu dâng cho Tăng tỳ-kheo thì Tăng tỳ-kheo nên chia... cho đến dâng cho một người thì thuộc về một người.
Lúc bấy giờ, tháng mùa đông các tỳ-kheo bị lạnh. Họ bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép đội mão.»
Hoặc ngồi giữa đất trống bị nhức mỏi. Đức Phật cho phép sắm dây đai thiền[88]. Tỳ-kheo mình bị ghẻ và mồ hôi nhớp, Phật cho phép sắm khăn lau thân. Nơi mặt có mồ hôi, Phật cho phép sắm khăn lau mặt. Mắt bị chảy nước, cho phép sắm khăn lau mắt.
Lúc bấy giờ, Tất-lăng-già-bà-ta nhận được y mỏng đại quý giá, muốn chứa làm y mùa hạ. Phật dạy:
«Cho phép tịnh thí rồi thọ trì.»
Tịnh thí[89] có hai cách: Chơn thật tịnh thí, triển chuyển tịnh thí.
Chơn thật tịnh thí là nói:
«Đại đức nhất tâm niệm! Tôi có y dư (trưởng y) nầy, chưa tác tịnh. Nay vì muốn tịnh nên xả cho Đại đức, để làm chơn thật tịnh thí.»
Triển chuyển tịnh thí là nói:
«Đại đức nhất tâm niệm! Đây là y dư của tôi, chưa tác tịnh. Vì muốn cho tịnh nên xả cho Đại đức, để làm phép triển chuyển tịnh thí.»
Vị nhận làm pháp tịnh thí nên nói như vầy:
«Đại đức nhất tâm niệm! Thầy có dư y chưa tác tịnh, vì muốn tác tịnh nên cho tôi. Nay tôi xin nhận.»
Nhận rồi nên nói:
«Y này thầy muốn chuyển cho ai?»
Vị kia nên nói:
«Tôi chuyển cho tỳ-kheo tên như vậy.»
Vị thọ tịnh nên nói:
«Đại đức nhất tâm niệm! Thầy này có dư y chưa tác tịnh, vì muốn tịnh nên cho tôi, nay tôi nhận. Nhận rồi tôi sẽ cho Tỳ-kheo... Y này thuộc về tỳ-kheo ấy rồi. Thầy đã vì Tỳ-kheo... nên khéo giữ gìn mà mặc, tùy nhơn duyên sử dụng.»
Chơn thật tịnh thí phải nói với chủ rồi sau đó mới lấy dùng. Còn triển chuyển tịnh thí thì nói hay không, tùy ý mặc.
Lúc bấy giờ, có tỳ-kheo nhờ người đem y cho tỳ-kheo kia mượn. Người được nhờ nghĩ là mình thân hậu với tỳ-kheo kia, bèn lấy dùng. Lấy như vậy có được hay không? Đức Phật dạy: «Không được khởi ý thân hậu để lấy.»
Hoặc đến đạo lộ,[90] có nên khởi ý thân hậu để lấy hay không? Đức Phật dạy: «Không được lấy.»
Hoặc đến nơi kia,[91] có nên khởi ý nghĩ thân hậu để lấy hay không? Đức Phật dạy: «Không được lấy.»
Hoặc tác ý thân hậu với người chủ sai mang y rồi lấy dùng;[92] thì có nên lấy hay không? Đức Phật dạy: «Nên lấy.»
Hoặc đến nơi đạo lộ, nên lấy hay không? Đức Phật dạy: «Nên lấy.»
Hoặc đến nơi kia có nên lấy hay không? Đức Phật dạy: «Nên lấy.»
Tỳ-kheo được cho mượn y qua đời. Người được nhờ mang y cho mượn bèn nhận với ý nghĩ là của tỳ-kheo kia đã qua đời. Nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Không nên nhận.»
Hoặc đến nơi đạo lộ, có nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Không nên nhận.»
Hoặc đến nơi kia, có nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Không nên nhận.»
Hoặc người chủ nhờ mang y đi cho mượn ấy qua đời. Người được nhờ mang khởi ý nghĩ là nhận y của tỳ-kheo qua đời; có nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Nên nhận.»
Hoặc đến nơi đạo lộ, có nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Nên nhận.»
Hoặc đến nơi kia, có nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Nên nhận.»
Lúc bấy giờ, có tỳ-kheo nhờ mang y cho tỳ-kheo kia. Người được nhờ khởi ý nghĩ là mình thân tình với người nhờ,[93] nên lấy để dùng; có nên lấy hay không? Đức Phật dạy: «Không nên lấy.»
Hoặc đến nơi đạo lộ, có nên lấy hay không? Đức Phật dạy: «Không nên lấy.»
Hoặc đến nơi kia, có nên lấy hay không? Đức Phật dạy: «Không nên lấy.»
Tỳ-kheo được nhờ kia, khởi ý thân hậu với người được cho[94] y để lấy dùng; có nên lấy hay không? Đức Phật dạy: «Nên lấy.»
Hoặc đến nơi đạo lộ, có nên lấy hay không? Đức Phật dạy: «Nên lấy.»
Hoặc đến nơi kia, có nên lấy hay không? Đức Phật dạy: «Nên lấy.»
Người chủ nhờ mang y đi cho chết. Tỳ-kheo kia khởi ý là nhận y của người qua đời. Có nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Không nên nhận.»
Hoặc đến nơi đạo lộ, có nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Không nên nhận.»
Hoặc đến nơi kia, có nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Không nên nhận.»
Tỳ-kheo được gởi cho y qua đời. Tỳ-kheo được nhờ kia liền nghĩ nhận y của vị qua đời. Có nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Nên nhận.»
Hoặc đến nơi đạo lộ, có nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Nên nhận.»
Hoặc đến nơi kia, có nên nhận hay không? Đức Phật dạy: «Nên nhận.»
Bấy giờ, có cư sĩ đem y đến trong Tăng-già-lam thưa:
«Y này cúng cho Đại đức tỳ-kheo có tên là...»
Tỳ-kheo kia nói:
«Tôi không cần y.»
Cư sĩ liền đem y đến để trước tỳ-kheo rồi đi. Tỳ-kheo kia e ngại, nên không biết làm thế nào? Các tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy:
«Cho phép, vì thí chủ nên lấy cất. Khi cần, cho phép thọ trì.[95]


Chú thích:
[57] Câu-dạ-la 俱夜羅.
[58] Hòa-tiên Bạt-đàn-đa Tử 和先跋檀陀子. Pali: Upasena Vaṅgataputta, em trai của Sāriputta, có tài hùng biện, tu hạnh đầu đà; Vin. iii. 230.
[59] Tỳ-lưu-ly 毘琉璃. Pali: Viḍūḍabha, con trai của Pasenadi (Ba-tư-nặc) với Vāsabhakhattiyā (một nữ tỳ của nhà họ Thích).
[60] Ca-duy-la-vệ quốc 迦維羅衛國; hay Ca-tỳ-la-vệ. Vì Nhà nước theo chế độ thành bang, nên gọi quốc hay gọi thành đều được.
[61] Ba-lợi-ca-la y 波利迦羅衣. Pali: parikara, dây đai, dây nịt; hoặc cái khố.
[62] Ba-bà 波婆. Pali: Pāvā, thị trấn của những người Malla (Lực sĩ). Phật đã ghé lại đây trên đường lên Câu-thi-na nhập Niết-bàn.
[63] Ma-la 摩羅, Pali: Mallā, tên một bộ tộc. Xem cht. 59 trên.
[64] Lâu-diên 樓延. Pali, Vin. 296, Roja.
[65] Y lộc 衣簏. Cái sọt hay cái giỏ để đựng vải hay y. Pali, ibid.: Bấy giờ Roja trao tay cho A-nan một giải bố (khomapilotā).
[66] Đại giá y 大價衣. Có sự nhầm lẫn ở đây. Chi tiết tiếp theo nói, chỉ là thứ vải xấu.
[67] Trong ngoặc, phụ chú nhỏ trong bản Hán.
[68] Trưởng y 長衣; xem Phần I, Ch. iv. ni-tát-kỳ 1.
[69] Phú thân y 覆身衣; xem Phần I, Ch.v. ba-dật-đề 89 về phú sang y: y che ghẻ.
[70] Xem Phần I, Ch. v, ba-dật-đề 89.
[71] Hiến 幰; màn xe. Chưa rõ tiếng Phạn.
[72] Phức y 複衣.
[73] Thọ trì 受持; Pali: adhiṭṭhita, được xử lý, hay được chỉ định như là sở hữu của cá nhân. Đây chỉ cách thức chỉ định, nghĩa là, phải làm thủ tục xả, nhận trước khi sử dụng.
[74] Man y 縵衣. y trơn, không cắt rọc. Cf. Hành sự sao (T40n1804 tr.106c27).
[75] Ngũ nạp y 五納衣: Cf. Hành sự sao (T40n1804 tr.105b26)
[76] Phạm xả, tức phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề; xem Phần I, Ch. iv.
[77] Chỉ định giao y được xả cho người nào.
[78] Ba-lợi-ca-la 波利迦羅: Còn gọi là ba-già-la, là tên gọi chung cho tất cả những y phụ ngoài ba y ra như: Tăng-kỳ-chi (áo che vai), niết-bàn-tăng (Xà rông), phú thân y (y che thân), thức thân căn (khăn lau thân), thức diện cân (khăn lau mặt), Cf. Hành sự sao (T40n1804 tr.109b21): dịch là trợ thân y 助身衣.
[79] Các quy định sử dụng y bị xả. Xem các điều ni-tát-kỳ, mục phạm tướng.
[80] Y xả đọa, tức y phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
[81] Bị y 被衣.
[82] Sợ bị cướp, phải nhét vào người để dấu.
[83] Kết khố tàng 庫藏, nhà kho để cất chứa đồ của Tăng. Pali, Vin.i. 284, bhaṇḍāgāra. Những nơi trong trú xứ Tăng được phép dùng làm nhà kho: aḍḍhayoga, nhà một mái, hay nhà mái bằng; pāsāda, lầu (trùng ốc); hammiya, biệt phòng, hay phòng hai tầng (có gác xép), hoặc hang.
[84] Tỳ-xá-khư Vô-di-la Mẫu 毘舍佉無夷羅母, hay Tỳ-xá-khư Lộc Tử Mẫu; xem Phần I, Ch. iv. ni-tát-kỳ 27 & cht. 91.
[85] Ương-già-na-la 鴦伽那羅衣. Chẳng biết thứ y gì. Hoặc một loại vải được sản xuất bởi người Aṅga.
[86] Tăng phú thân y 僧覆身衣, y phú thân của Tăng, cho dùng riêng; xem cht. 66 & 75 trên.
[87] Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã, xem Phần I, Ch.i, điều 1, duyên khởi.
[88] Thiền đới 禪帶. Cf. Ngũ phần 21 (T22n1421 tr.143c06)
[89] Xem Phần I, Ch.iv. điều 1, cht. 14.
[90] Đã mang ra đường, quyền sử dụng y không còn thuộc về người cho mượn, nên người được nhờ khởi ý thân hậu với người mượn để lấy dùng.
[91] Bầy giờ, quyền sử dụng thuộc về người được cho mượn.
[92] Vì người sai mang đi là chủ y đích thực. Xem trường hợp A-nan với Lâu-diên trên.
[93] Vì là cho thật, không phải cho mượn như trên kia, nên người nhờ mang đi cho này không còn là chủ đích thực của y nữa. Chỉ có thể sử dụng vật khi mà minh có ý nghĩ là thân tình với chủ nhân đích thực của vật đó.
[94] Người được cho bây giờ chủ đích thực của y.
[95] Hết quyển 41.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 60 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Có và Không


Những Đêm Mưa


Đức Phật và chúng đệ tử


Kinh Đại Bát Niết-bàn

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.117.154.220 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập