Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Tứ Phần Luật [四分律] »» Bản Việt dịch quyển số 40 »»

Tứ Phần Luật [四分律] »» Bản Việt dịch quyển số 40

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.69 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.87 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luật Tứ Phần

Kinh này có 60 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42 | 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 | 51 |
Việt dịch: Thích Đỗng Minh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Thích Nguyên Chứng - Thích Đức Thắng
Hiệu chính và chú thích
2. Lúc bấy giờ, Vua Bình-sa mắc phải chứng bệnh xuất huyết nơi đường đại tiểu tiện. Các thị nữ thấy đều cười bảo rằng:
«Hiện Đại vương cũng mắc phải bệnh như bọn phụ nữ chúng ta.»
Vua Bình-sa, nghe qua hổ thẹn, liền kêu Vô Úy Vương tử bảo rằng:
«Hiện cha mắc chứng bệnh như vậy, con có thể vì cha tìm thầy thuốc chữa gấp được không?»
Vô Úy thưa:
«Có Kỳ-bà Đồng tử rành về nghề thuốc, có thể chữa trị bệnh cho phụ vương được.»
Nhà Vua bảo kêu đến. Vô Úy vương tử kêu Kỳ-bà Đồng tử đến hỏi rằng:
«Con có thể chữa bịnh cho phụ vương của ta được không?»
Kỳ-bà Đồng tử thưa:
«Có thể chữa được.»
Vô Úy bảo:
«Nếu được, thì ngươi đến chữa gấp.»
Kỳ-bà Đồng tử đến chỗ Vua Bình-sa, kính lễ sát chân Vua xong, đứng lui qua một bên, rồi hỏi Vua rằng:
«Đại vương bị bệnh khổ thế nào?»
Nhà Vua trả lời:
«Bị bệnh như vậy, như vậy.»
Kỳ-bà Đồng tử hỏi:
«Bệnh phát khởi từ đâu?»
Vua trả lời:
«Bệnh bắt đầu như vậy, như vậy.»
Kỳ-bà Đồng tử hỏi tiếp:
«Bệnh phát bao lâu rồi?»
Nhà Vua nói:
«Bệnh phát từ lúc đó.»
Hỏi xong, Kỳ-bà Đồng tử thưa:
«Có thể chữa trị được.»
Kỳ-bà Đồng tử liền lấy cái máng bằng sắt, đựng đầy nước ấm, bảo Vua Bình-sa vào trong máng nước. Vua liền vào. Bảo Vua ngồi trong nước; Vua liền ngồi. Bảo Vua nằm trong nước, Vua liền nằm. Khi ấy, Kỳ-bà Đồng tử dùng nước rưới lên Vua mà chú thuật; Vua liền ngủ. Kỳ-bà Đồng tử nhanh nhẹn bước vào trong nước, dùng dao bén mổ ngay chỗ ung nhọt của Vua; rửa sạch, dùng thuốc thoa. Thoa xong, bệnh lành. Nơi mụt nhọt mọc lông lại, giống như chỗ không bệnh. Đâu đó xong, Kỳ-bà Đồng tử liền thay máng nước đầy, dùng nước rưới Vua, chú thuật. Vua tỉnh dậy hỏi:
«Chữa cho ta đi!»
Kỳ-bà Đồng tử thưa:
«Tôi đã trị xong.»
Nhà Vua nói:
«Chữa khỏi không?»
Kỳ-bà Đồng tử thưa:
«Đã khỏi rồi.»
Nhà Vua liền dùng tay sờ, mà không biết mụt nhọt ở chỗ nào.»
Vua hỏi:
«Nhà ngươi chữa trị bằng cách nào, đến nỗi không còn dấu mụt nhọt nữa?»
Kỳ-bà Đồng tử thưa:
«Tôi chữa bệnh há có thể còn lại dấu mụt nhọt ư?»
Bấy giờ Vua tập hợp các thị nữ mà nói rằng:
«Kỳ-bà Đồng tử, người thầy thuốc này đại lợi ích. Ta nghĩ rằng, ta phải ban thưởng của cải rất nhiều mới được.»
Các thị nữ liền lấy các loại anh lạc, vòng xuyến đeo nơi tay chân, kể cả các vật quý báu dùng để che kín thân người nữ và tiền vàng, ma ni, chơn châu, lưu ly, bối ngọc, pha lê, gom thành một đống lớn.
Bấy giờ, nhà Vua kêu Kỳ-bà Đồng tử đến nói rằng:
«Nhà ngươi chữa bệnh cho ta lành, ta dùng những vật này để trả ơn ngươi.»
Kỳ-bà Đồng tử thưa với đại vương:
«Thôi, tâu Đại vương, như vậy đã là ban cho tôi rồi. Tôi vì Vương tử Vô Úy mà chữa bệnh cho Đại vương.»
Khi ấy, Vua ra lệnh rằng:
«Nhà ngươi không được chữa bệnh người khác.[16] Chỉ chữa bệnh cho ta, cho Phật, cho Tăng tỳ-kheo và người trong cung mà thôi.»
Đây là con bệnh thứ hai mà Kỳ-bà Đồng tử đã chữa trị.
3. Lúc bấy giờ, tại thành Vương-xá có ông trưởng giả thường bị đau đầu, không có thầy thuốc nào chữa trị được. Bấy giờ, có vị thầy thuốc nói với ông trưởng giả là sau bảy năm ông trưởng giả sẽ chết. Có ông lại nói, sau sáu năm, sau năm năm, cho đến sau một năm sẽ chết. Có ông lại nói sau bảy tháng sẽ chết, hoặc sáu tháng, cho đến một tháng sẽ chết. Có ông lại nói sau bảy ngày sẽ chết.
Bấy giờ, ông trưởng giả tự mình đến nhà Kỳ-bà Đồng tử nói rằng:
«Ông chữa bệnh cho tôi. Tôi sẽ đền ơn ông một trăm ngàn lượng vàng. »
Kỳ-bà Đồng tử nói:
«Không thể được.»
Ông trưởng giả lại nói:
«Tôi sẽ trả ơn ông hai trăm ngàn. Ba trăm ngàn. Bốn trăm ngàn lượng vàng.»
Kỳ-bà Đồng tử nói:
«Không thể được.»
Bệnh nhân nói:
«Tôi sẽ làm tôi tớ và tất cả gia nghiệp của tôi sẽ thuộc về ông.»
Kỳ-bà Đồng tử nói rằng:
«Không phải tôi vì tiền bạc ít mà nói là không thể chữa được bịnh cho ông. Nhưng vì trước đây Vua Bình-sa có ra lệnh cho tôi rằng: ‹Khanh chỉ chữa bệnh cho ta, cho Phật, cho Tăng tỳ-kheo và người trong cung mà thôi, chứ không được chữa cho người khác.› Cho nên tôi nói không thể được. Nay nếu ông đến xin phép Vua thì tôi mới dám chữa.»
Ông trưởng giả liền đến tâu với Vua:
«Nay tôi có bệnh ngoặt nghèo. Xin Vua cho phép Kỳ-bà Đồng tử trị bệnh cho tôi.»
Vua liền kêu Kỳ-bà Đồng tử đến nói rằng:
«Trong thành Vương-xá có ông trưởng giả bị bệnh, ông có thể trị được không?»
Kỳ-bà Đồng tử trả lời: «Được.»
Nhà Vua nói:
«Nếu trị được thì đến trị.»
Lúc ấy, Kỳ-bà Đồng tử liền đến nhà ông trưởng giả, và hỏi rằng:
«Chứng bệnh của ông thế nào?»
Trưởng giả trả lời:
«Chứng bệnh tôi như vậy, như vậy.»
Kỳ-bà Đồng tử lại hỏi:
«Bệnh phát khởi từ đâu?»
Bệnh nhân nói:
«Bệnh từ như vậy, như vậy khởi phát.»
Kỳ-bà Đồng tử hỏi tiếp:
«Thời gian bệnh lâu mau rồi?»
Trưởng giả nói:
«Thời gia bệnh là, chừng ấy.»
Hỏi xong, Kỳ-bà Đồng tử nói:
«Bệnh này tôi chữa được.»
Khi ấy, Kỳ-bà Đồng tử liền cho uống nước muối, khiến bệnh nhân bị khát; rồi cho uống rượu đến say. Kế đó, buộc bệnh nhân vào giường, tập hợp thân nhân đến xung quanh. Kỳ-bà Đồng tử dùng dao bén mổ đầu, banh xương sọ ra, chỉ cho thân quyến thấy trùng đầy trong đầu của bệnh nhân. Đây là căn nguyên của chứng bệnh. Kỳ-bà Đồng tử nói với mọi người:
«Như lời thầy thuốc trước đây đã nói, sau bảy năm bệnh nhân sẽ chết. Ý là sau bảy năm cái não hết nên phải chết. Nói như vậy là vì không khéo thấy. Hoặc có những vị nói sau sáu, năm, bốn, ba, hai và một năm sẽ chết, vì nghĩ rằng, sau khi hết não sẽ chết. Tất cả cũng không thấy rõ. Hoặc nói sau bảy tháng cho đến một tháng sẽ chết, cũng không thấy rõ. Còn vị thầy thuốc nói bảy ngày sẽ chết. Nói như vậy là vì nghĩ, trong vòng bảy hôm, não của bệnh nhân sẽ hết nên phải chết. Chính vị thầy thuốc này mới là người khéo thấy. Nếu nay không chữa trị, qua bảy ngày, não hết, sẽ phải chết.»
Bấy giờ, Kỳ-bà Đồng tử trừ sạch bịnh trong đầu xong, đổ váng sữa, mật vào đầy trong đầu, sau ghép xương sọ rồi may lại, dùng thuốc tốt bôi. Tức thì, bệnh khỏi, thịt đầy lại như cũ, tóc mọc lại, như chỗ không bị mổ không khác.
Kỳ-bà Đồng tử hỏi ông trưởng giả:
«Ông nhớ lời hứa trước đây không?»
Ông trưởng giả trả lời:
«Tôi nhớ trước đây có nói, ‹Nếu thầy chữa bệnh tôi lành, tôi sẽ làm tôi tớ và tất cả gia nghiệp của tôi sẽ giao cho thầy›».
Kỳ-bà Đồng tử nói:
«Thôi, Trưởng giả, như thế là đã cho tôi rồi. Chỉ nên dùng lời nói trước.»
Khi ấy, ông trưởng giả liền đem bốn mươi vạn lượng vàng, để tạ ơn. Kỳ-bà Đồng tử dùng một trăm ngàn lượng dâng lên Vua, một trăm ngàn lượng cung phụng thân phụ, hai trăm ngàn lượng tự mình sử dụng. Đây là bệnh nhân thứ ba, mà Kỳ-bà Đồng tử chữa trị.
4. Lúc bấy giờ, tại nước Câu-thiểm-di có con ông trưởng giả vì ham đùa trên cái bánh xe,[17] nên ruột bên trong bị thắt lại, ăn uống không tiêu, không bài tiết được, nhưng tại nước đó không ai chữa trị được. Ông nghe nước Ma-kiệt có vị thầy thuốc rất giỏi, có thể chữa được bệnh này, liền sai sứ đến tâu với Vua:
«Con ông trưởng giả nước Câu-thiểm-di bệnh. Kỳ-bà Đồng tử có thể chữa được. Cúi xin Vua cho phép đến.»
Vua Bình-sa cho gọi Kỳ-bà Đồng tử đến hỏi rằng:
«Có con ông trưởng giả nước Câu-thiểm-di bị bệnh, ngươi có thể chữa được không?»
Kỳ-bà Đồng tử trả lời là được.
Nhà Vua nói:
«Nếu chữa được, thì đi chữa cho họ.»
Bấy giờ, Kỳ-bà Đồng tử đi xe đến nước Câu-thiểm-di. Kỳ-bà Đồng tử vừa mới đến nơi thì con ông trưởng giả đã chết, nghe tiếng kỹ nhạc đưa ma. Kỳ-bà Đồng tử liền hỏi rằng:
«Ở đây có việc gì mà có tiếng kỹ nhạc, tiếng trống kèn vậy?»
Người bên cạnh trả lời:
«Con ông trưởng giả bị bệnh mà ông đến chữa đó, đã chết rồi. Đó là tiếng kèn trống đưa đi chôn.»
Cậu Kỳ-bà Đồng tử có tài giỏi phân biệt tất cả các loại âm thanh, nên bảo khiêng trở lại, và nói:
«Người này chưa chết.»
Kỳ-bà Đồng tử nói như vậy, họ liền khiêng trở lại.
Kỳ-bà Đồng tử xuống xe, lấy dao bén mổ ngay bụng, vạch chỗ ruột bị thắt, chỉ cho cha mẹ và thân nhân của bệnh nhân xem và nói rằng:
«Đây là vì đùa trên bánh xe nên khiến cho ruột bị thắt lại như vầy. Do đó ăn uống không [853a1] tiêu, chứ không phải là chết.»
Kỳ-bà Đồng tử liền giải thông ruột ra, sắp lại như cũ, rồi may ngoài da, dùng thuốc tốt thoa nó. Sau đó vết mổ lành, lông mọc trở lại giống như chỗ không mổ.»
Con ông trưởng giả trả ơn cho Kỳ-bà Đồng tử bốn mươi vạn lượng vàng. Vợ của con ông cũng đem bốn mươi vạn lượng vàng để đền ơn người đã cứu chồng mình sống lại. Cha mẹ của bệnh nhân mỗi người cũng đem bốn mươi vạn lượng vàng để hậu tạ cho Kỳ-bà Đồng tử. Đây là bệnh thứ tư mà Kỳ-bà Đồng tử đã cứu chữa.
5. Lúc bấy giờ, quốc vương Úy-thiền[18] là Vua Ba-la-thù-đề,[19] ròng rã mười hai năm bị bệnh đau đầu, không có thầy thuốc nào chữa được. Vua nghe Vua Bình-sa có vị thầy thuốc đại tài, có thể chữa trị chứng bệnh của mình được, liền sai sứ đến tâu với Vua Bình-sa rằng:
«Ba-la-thù-đề mắc bệnh, Kỳ-bà Đồng tử có thể chữa trị được. Xin Vua cho phép Kỳ-bà Đồng tử được đến chữa.»
Vua liền gọi Kỳ-bà Đồng tử đến hỏi:
«Ngươi có thể chữa bệnh cho Ba-la-thù-đề không?»
Kỳ-bà Đồng tử trải lời:
«Có thể được.»
Nhà Vua nói:
«Nếu chữa được thì đi chữa.»
Vua nói tiếp:
«Vua ấy từ bọ cạp mà ra. Khanh khéo giữ mình, chớ để mất mạng.»
Kỳ-bà Đồng tử thưa:
«Xin vâng.»
Bấy giờ, Kỳ-bà Đồng tử đến nước Úy-thiền, chỗ của Ba-la-thù-đề, kính lễ sát chân, rồi đứng qua một bên, hỏi Vua rằng:
«Bệnh trạng thế nào?»
Nhà Vua trả lời:
«Bệnh trạng như vậy, như vậy. »
Kỳ-bà Đồng tử hỏi:
«Bệnh bắt đầu từ đâu?»
Nhà Vua nói:
«Bệnh bắt đầu như vậy, như vậy.»
Kỳ-bà Đồng tử hỏi tiếp:
«Từ khi phát bệnh đến nay, bao lâu rồi?»
Bệnh nhân nói:
«Thời gian bệnh là chừng ấy.»
Theo thứ tự hỏi xong, Kỳ-bà Đồng tử nói:
«Bệnh này tôi có thể chữa được.»
Nhà Vua nói:
«Nếu dùng váng sữa hay thuốc trộn váng sữa, ta không uống được. Nếu cho ta uống thuốc trộn váng sữa, ta sẽ giết ngươi.»
Chứng bệnh này các thứ thuốc khác không trị được. Chỉ có váng sữa trị được mà thôi.
Kỳ-bà Đồng bèn bày chước, tâu với Vua:
«Y pháp trị bệnh của tôi, mai, trưa, chiều, tối xin được phép tự do ra vào.»
Nhà Vua nói với Kỳ-bà Đồng tử:
«Tùy ý ngươi cứ ra vào.»
Kỳ-bà Đồng tử lại tâu tiếp.
«Nếu cần vị thuốc quý giá, phải cởi ngựa để đi cho nhanh, xin Vua cho phép.»
Vua liền cấp cho con lạc đà đi năm mươi do tuần ngày. Kỳ-bà Đồng tử liền dùng thức ăn rất mặn cho Vua ăn. Rồi ở chỗ kín đáo, nấu váng sữa làm thuốc. Làm cho nó thành màu nước, vị nước. Kỳ-bà Đồng tử đưa thuốc cho mẹ của Vua và dặn:
«Khi nào Vua thức dậy, khát nước, đòi uống nước, thì đưa thứ thuốc này cho Vua dùng.»
Kỳ-bà Đồng tử đưa thuốc cho mẹ của Vua rồi, liền cỡi con lạc đà có sức chạy năm mươi do tuần ngày mà đi.
Vua thức dậy khát nước, đòi uống. Bà mẹ đưa thứ thuốc nước đó cho Vua uống. Khi thuốc tiêu hóa, cảm thấy có mùi váng sữa, Vua nói:
«Kỳ-bà cho ta uống váng sữa, là oan gia của ta, làm sao chữa bệnh ta được. Hãy cấp tốc kiếm, đưa đến đây.»
Sứ giả liền đến chỗ Kỳ-bà Đồng tử ở, tìm không có. Hỏi người giữ cửa rằng:
«Kỳ-bà Đồng tử ở đâu?»
Người giữ cửa nói:
«Kỳ-bà Đồng tử, cởi con lạc đà đi năm mươi do tuần ngày, đã đi rồi.»
Vua càng thêm lo sợ, nói:
«Cho ta uống váng sữa là oan gia của ta, làm sao chữa trị cho ta được!»
Lúc ấy, nhà Vua có một người đi bộ giỏi, tên là Ô, một ngày có thể đi sáu mươi do tuần. Nhà Vua liền kêu đến bảo:
«Ngươi có thể truy đuổi Kỳ-bà Đồng tử được chăng?»
Người ấy thưa:
«Có thể.»
Nhà Vua nói:
«Ngươi đến gọi về đây!»
Nhà Vua dặn:
«Kỳ-bà Đồng tử có kỹ thuật cao, ngươi chớ nên ăn những thức ăn gì do Kỳ-bà Đồng tử đưa. Có thể ngươi bị thuốc độc đó.»
Ô thưa:
«Vâng.»
Và theo lời dạy của Vua.
Kỳ-bà Đồng tử đi đến nửa đường, khỏi phải lo sợ nữa, ngừng lại làm thức ăn, nên Ô, người chạy nhanh đuổi theo kịp. Nói với Kỳ-bà Đồng tử:
«Vua Ba-la-thù-đề sai gọi ông.»
Đáp, sẽ đi liền.
Kỳ-bà Đồng tử mời Ô ăn. Ô không chịu ăn. Kỳ-bà Đồng tử tự mình ăn nửa trái a-ma-lặc,[20] để lại nửa trái, uống nước cũng để lại nửa ly. Dưới móng tay Kỳ-bà Đồng tử đã phục sẵn thuốc độc, thuốc ấy ngấm vào nửa trái và nửa ly nước còn lại. Kỳ-bà Đồng tử nói với ông Ô rằng:
«Tôi đã ăn nửa trái và uống nửa ly nước rồi, còn lại mỗi thứ phân nửa đây, ông có thể dùng đi.»
Ô liền nghĩ: «Kỳ-bà Đồng tử đã tự mình ăn nửa trái và uống nửa ly nước rồi, số còn lại bảo ta ăn, chắc không có độc.» Nghĩ như vậy rồi, Ô liền ăn nửa trái A-ma-lặc và uống nửa ly nước còn lại. Liền bị ói,[21] không thể đi được nữa. Kỳ-bà Đồng tử đem thuốc để trước Ô và nói rằng:
«Giờ đó, giờ đó, ông uống thuốc này sẽ khỏi bệnh.»
Kỳ-bà Đồng tử liền cởi con lạc đà đi năm mươi do tuần ngày đó tiếp tục đi.
Sau đó, Vua cùng Ô đều lành bệnh. Vua Ba-la-thù-đề sai sứ gọi Kỳ-bà Đồng tử, nói rằng:
«Nhà ngươi đã trị lành bệnh cho ta. Ta xin tạ ơn nhà ngươi gấp bội lần so với phẩm vật mà nhà ngươi đã thu được nhiều hay ít nơi nước kia.»
Kỳ-bà Đồng tử nói:
«Thôi, tâu Đại vương, như thế là đã ban cho tôi rồi. Tôi vì Vua Bình-sa nên trị bệnh cho Vua mà thôi.»
Bấy giờ, Vua Ba-la-thù-đề cho đưa đến một chiếc y quý giá, trị giá bằng phân nửa nước để tạ ơn.
Nhà Vua nói với Kỳ-bà Đồng tử:
«Nhà ngươi không thuận ý, nay ta xin biếu chiếc y này để gọi là báo ân.» Đây là con bệnh thứ năm mà Kỳ-bà Đồng tử đã chữa trị.
7. Bấy giờ, đức Thế Tôn bị bệnh dư nước,[22] nói với Tôn giả A-nan:
«Ta bị bệnh dư nước. Cần được chữa trị.»[23]
Tôn giả A-nan nghe đức Thế Tôn dạy như vậy, đến chỗ Kỳ-bà Đồng tử nơi thành Vương-xá, nói rằng:
«Đức Như Lai bị chứng dư nước, cần được chữa trị»
Kỳ-bà Đồng tử cùng A-nan đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên, bạch Phật:
«Đức Như Lai bị chứng dư nước phải không?»
Đức Phật dạy:
«Đúng như vậy, Kỳ-bà Đồng tử. Như lai muốn chữa trị.»
Kỳ-bà Đồng tử bạch Phật:
«Như Lai muốn xổ bao nhiêu lần?»
Phật dạy:
«Cần ba mươi lần.»
Bấy giờ, Kỳ-bà Đồng tử cùng A-nan đến thành Vương-xá lấy ba bó hoa ưu-bát[24] đem về nhà. Kỳ-bà Đồng tử lấy một bó xông thuốc và chú thuật dặn đưa đức Như Lai ngửi, sẽ xổ được mười lần. Lấy bó thứ hai, xông với thuốc và chú thuật, dặn đưa đức Như Lai ngửi, sẽ xổ được mười lần nữa. Sau lấy bó thứ ba xông với thuốc và chú thuật, dặn đưa đức Như Lai ngửi, thì sẽ xổ được chín lần. Kế đó uống một bụm nước nóng,[25] sẽ xổ được một lần nữa. Theo đó Kỳ-bà Đồng tử lấy ba bó hoa đặt trên tay Tôn giả A-nan. Tôn giả A-nan đem hoa ra khỏi thành Vương-xá, đến chỗ đức Thế Tôn, lấy một bó hoa dâng lên đức Thế Tôn. Ngài ngửi, liền xổ được mười lần. A-nan dâng bó hoa thứ hai, lại xổ được mười lần tiếp. Bó thứ ba, xổ được chín lần. Kỳ-bà Đồng tử quên dặn Tôn giả A-nan dâng nước nóng lên đức Phật. Nhưng đức Thế Tôn biết rõ tâm niệm Kỳ-bà Đồng tử, liền kêu A-nan bảo lấy nước nóng đem đến. A-nan nghe Phật dạy liền lấy nước nóng đem đến dâng lên đức Phật. Đức Phật liền uống một bụm nước nóng. Chứng dư nước liền khỏi. Phong khí cũng theo đó mà điều hoà.
8. Bấy giờ, Vua Bình-sa nghe Đức Phật bị bệnh, cùng tám vạn bốn ngàn người hộ giá đi đến chỗ đức Thế Tôn; kính lễ hỏi thăm Ngài, rồi ngồi lui qua một bên.
Lúc ấy, Vua Ưu-điền nghe Đức Thế Tôn bệnh, cũng dẫn bảy vạn người đến thăm. Vua Ba-la-thù-đề cùng với sáu vạn người đến thăm. Vua Phạm Thí cùng với năm vạn người. Mạt-lợi Phu nhân, Lê-sư-đạt-đa, Phú-la-na.
Bốn Đại thiên vương và các thuộc hạ tuỳ tùng. Thích Đề-hoàn Nhơn cùng Đao lợi chư thiên. Diệm thiên tử cùng với Diệm thiên. Đâu-suất thiên vương cùng Đâu-suất chư thiên. Hóa lạc thiên vương cùng Hóa lạc chư thiên. Tha hóa tự tại thiên vương cùng Tha hóa tự tại thiên. Phạm thiên vương cùng với chúng Phạm thiên. Ma-hê-thủ-la thiên vương cùng với Ma-hê-thủ-la chư thiên. Tất cả đều đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân Ngài, rồi đứng qua một bên.
Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất cũng cùng với năm trăm tỳ-kheo đến chỗ đức Thế Tôn đảnh lễ sát chân, lui đứng qua một bên.
Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề nghe đức Thế Tôn bệnh, cũng cùng năm trăm tỳ-kheo-ni; A-nan Tân-đề cùng năm trăm ưu-bà-tắc; Tỳ-xá-khư Mẫu cùng năm trăm ưu-bà-di, đến chỗ đức Thế Tôn, [855a1] đầu mặt kính lễ thăm hỏi Ngài.
Bấy giờ, Đề-bạt-đạt-đa nghe đức Thế Tôn bị bệnh cũng đến chỗ đức Thế Tôn, đầu mặt lễ sát chân, ngồi qua một bên. Lúc ấy, Đề-bạt-đạt-đa thấy trước đức Thế Tôn bốn bộ chúng nhóm hợp, liền khởi ý nghĩ như vầy: «Nay ta có thể uống thuốc như Phật, khiến bốn bộ chúng đến thăm hỏi ta.» Nghĩ xong, liền đến chỗ Kỳ-bà Đồng tử nói rằng:
«Tôi muốn uống thứ thuốc như Phật uống. Ông có thể cho tôi uống được không?»
Kỳ-bà Đồng tử nói:
«Thứ thuốc đức Thế Tôn dùng tên là Na-la-diên,[26] thứ thuốc này chẳng phải ai cũng dùng được. Chỉ có Chuyển luân vương, bậc đã thành tựu Bồ-tát, đức Như Lai mới có thể dùng được.»
Đề Bà nói:
«Nếu không cho tôi dùng tôi sẽ hại ông.»
Bấy giờ, Kỳ-bà Đồng tử sợ bị hại mạng nên liền đưa thuốc cho Đề-bà-đạt-đa. Do uống thuốc này mà Đề-bà-đạt-đa bị bệnh nặng, thân tâm đều đau khổ, cô đơn một mình, không ai tới lui thăm viếng, cũng không có bà con chăm sóc. Đề-bà-đạt-đa tự nghĩ: «Như ta hiện nay, không ai cứu giúp. Chỉ có đức Như Lai.»
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết tâm nghĩ Đề-bà-đạt-đa như vậy, liền từ núi Kỳ-xà-quật, thân phóng ra ánh sáng «thi dược»[27] chiếu đến Đề-bà-đạt-đa, khiến tất cả bệnh khổ liền được chấm dứt. Sau khi Đề-bà-đạt-đa được lành bệnh không lâu, đến các ngã đường trong thành Vương-xá xướng lên rằng:
«Thái tử Tất-đạt-đa xả bỏ ngôi vị Chuyển luân vương xuất gia làm đạo. Nay làm nghề thầy thuốc để nuôi sống. Tại sao biết như vậy? Chính tôi vừa được chữa lành đây, nên tôi biết.»
Các tỳ-kheo nghe biết; trong đó có vị thiểu dục tri túc sống khổ hạnh, ưa học giới, biết hổ thẹn, hiềm trách Đề-bà-đạt-đa: «Đức Như Lai dũ lòng thương đối với ông, sao ông không biết đền đáp?»
Bấy giờ, các tỳ-kheo đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, bạch Phật:
«Thật chưa từng có! Thế Tôn đã dũ lòng thương đối với Đề-bà-đạt-đa. Nhưng Đề-bà-đạt-đa lại không trả ơn.»
Đức Phật bảo các tỳ-kheo:
«Không phải chỉ đến hôm nay ta dũ lòng thương đối với Đề-bà-đạt-đa mà không được trả ơn đâu. Vào đời quá khứ, có nhà Vua tên là Nhất Thiết Thí,[28] làm Vua cõi Diêm-phù-đề. Khi ấy cõi đất Diêm-phù-đề rộng và bằng phẳng, nhân dân đông đúc, no đủ vui sướng vô cùng. Hồi ấy Diêm-phù-đề có tám vạn bốn ngàn thành, năm ngàn ức tụ lạc, sáu vạn biên thành. Bấy giờ, có bệnh nhân đến chỗ Vua Nhất Thiết Thí, thưa với Vua rằng:
«Tôi nay không ai cứu giúp. Chỉ có Vua thôi.»
Bấy giờ, nhà Vua tập hợp các danh y trong cõi Diêm-phù-đề, chỉ cho thấy bệnh nhân này và hỏi các lương y rằng:
«Bệnh nhân này cần dùng thứ thuốc gì?»
Các lương y khám bệnh rồi thưa:
«Theo bệnh của người này, người thường không thể cho thuốc được. Chỉ có các bậc thành tựu Bồ-tát mới có thể cho phương thuốc được.»
Nhà Vua hỏi:
«Cần thứ thuốc gì?»
Lương y nói:
«Bệnh nhân này nếu có được thịt máu sống do Bồ-tát từ tâm để ăn trong hai mươi chín ngày thì mới lành được.»
Vua Nhất Thế Thí khởi tâm nghĩ rằng: «Sanh tử miên viễn, luân chuyển không bờ, chịu các khổ não; hoặc đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh bị chặt chân tay, xẻo tai, xẻ mũi, móc mắt, bổ đầu, cuối cùng đâu có ích gì» Vua liền giao việc nước cho quần thần, vào trong chỗ vắng, tư duy bốn hạnh vô lượng. Bấy giờ, Vua Nhất Thế Thí dùng dao bén cắt thịt nơi đùi vế, sai người đem đến cho bệnh nhân ăn, trải qua hai mươi chín ngày như vậy, sau đó Vua hỏi sứ giả rằng:
«Bệnh nhân thế nào?»
Sứ giả tâu với nhà Vua:
«Bệnh nhân đã lành.»
Nhà Vua bảo, dẫn đến ta xem.
Sứ giả liền tắm rửa người bệnh, mặc áo mới dẫn đến chỗ Vua. Vua hỏi?
«Bệnh của ngươi thế nào?»
Người bệnh nói:
«Đã lành.»
Nhà Vua nói:
«Thôi, nhà ngươi tuỳ ý mà lui.»
Khi người kia ra khỏi cửa, chân bên hữu vấp phải đá chảy máu. Người khác thấy vậy hỏi:
«Nầy nam tử! Tại sao chân của ngươi bị chảy máu?»
Người kia liền nói:
«Ông Vua phi pháp này! Vua tệ ác này! Vua dâm dục phi pháp này! Vua ham mê tà kiến nầy! Tôi vấp phải then cửa trong nhà của ông ấy, nên chân bị thương chảy máu như vậy.»
Mọi người nói:
«Chưa từng có hạng người nào vô ân như thế này. Vua Nhất Thế Thí trong vòng hai mươi chín ngày tự lấy thịt và máu thân mình, để chữa trị bệnh cho được lành, mà đối với Vua không có sự trả ơn, lại còn thêm tiếng oán!»
Đức Phật bảo các tỳ-kheo:
«Vua Nhất Thiết Thí lúc bấy giờ chính là bản thân ta vậy. Bệnh nhân lúc ấy chính là Đề-bà-đạt-đa hiện nay. Đời trước ta tỏ lòng từ mẫn đối với Đề-bà-đạt-đa, nhưng đã không được trả ơn. Hiện nay cũng như vậy, không hề trả ơn.»
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì Đề-bà-đạt-đa nói kệ này rằng:
Tất cả núi và biển,
Ta không cho là nặng.
Người không trả ơn kia,
Ta cho đó là nặng.
Người không đền đáp ơn,
Như bệnh hủi xấu ác;
Hoặc là bệnh hủi trắng,
Không trả ơn cũng vậy.
«Vậy các tỳ-kheo luôn luôn cần nghĩ đến việc trả ơn. Hãy học như vây.»
Lúc bấy giờ, Kỳ-bà Đồng tử chăm sóc bệnh đức Thế Tôn và dùng thang tiêu xổ, cùng thịt loài chim đồng nội, chữa lành căn bệnh. Đây là bệnh nhân thứ sáu được Kỳ-bà Đồng tử chữa lành.
III. ĐÀN VIỆT THÍ Y
1. Kỳ-bà thỉnh nguyện

Một hôm, Kỳ-bà Đồng tử mang chiếc y quý giá[29] đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên, bạch đức Thế Tôn:
«Con trị bệnh cho Quốc vương, trị bệnh cho Đại thần, hoặc được một quốc độ, hoặc được một tụ lạc. Cúi xin đức Thế Tôn cho một ước nguyện.»
Đức Phật dạy:
«Ta không hề cho ai ước nguyện mà vượt quá điều nguyện.»[30]
Kỳ-bà Đồng tử lại thưa:
«Con xin một ước nguyện thanh tịnh.»[31]
Đức Phật dạy:
«Nguyện thanh tịnh ấy là gì?»
Kỳ-bà Đồng tử thưa:
«Chiếc y quý giá này, con nhận được từ Vua Ba-la-thù-đề, giá trị bằng phân nửa nước. Cúi xin đức Thế Tôn ai mẫn, vì con nạp thọ. Từ nay về sau, nguyện đức Thế Tôn cho phép các tỳ-kheo nào muốn khoác y của đàn-việt cúng, hay y phấn tảo, thì tùy ý được mặc.»
Bấy giờ, đức Thế Tôn chấp thuận bằng cách im lặng. Kỳ-bà Đồng tử được đức Thế Tôn chấp thuận, liền đem bình nước rửa bằng vàng rửa tay đức Phật, rồi đem chiếc y rất quý giá dâng lên Ngài. Đức Phật vì lòng từ mẫn nên vì ông mà nhận. Kỳ-bà Đồng tử đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì Kỳ-bà Đồng tử nói các bài pháp, khiến sanh hoan hỷ, rồi Kỳ-bà Đồng tử lễ Phật cáo lui.
Bấy giờ, đức Thế Tôn vì nhơn duyên này tập hợp các Tăng tỳ-kheo, vì các tỳ-kheo, mà tùy thuận nói pháp, ngài dùng vô số phương tiện khen ngợi hạnh đầu đà, nhiếp trì oai nghi, thiểu dục tri túc, có trí tuệ, ưa nếp sống xuất ly. Đức Phật bảo các tỳ-kheo:
«Tất cả các loại y quý giá, y nầy là bậc nhất. Như bò cho ra sữa, trong sữa cho ra lạc, trong lạc cho ra tô, trong tô cho ra thục tô, trong thục tô cho ra đề hồ là tinh chất đệ nhất. Y nầy cũng như vậy, trong tất cả các loại y nó là đệ nhất. Từ nay về sau, cho phép các tỳ-kheo tùy ý khoác y của đàn-việt dâng cúng, hay y phấn tảo.»
2. Các loại y quý
Bấy giờ, Vua Bình-sa nghe đức Phật cho phép các tỳ-kheo chứa y đàn-việt cúng, liền đem y khâm-bà-la quý giá đang mặc dâng cúng cho tỳ-kheo. Các tỳ-kheo không nhận nói:
«Đức Phật chưa cho phép chúng tôi chứa loại y quý giá. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Từ nay về sau cho phép chứa y quý giá khâm-bà-la.»
Sau đó, Vua lại sai người đem y quý giá cù-lâu[32] đến. Các tỳ-kheo không dám nhận, vì đức Phật chưa cho phép chứa y quý giá cù-lâu. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Từ nay về sau cho phép chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo chứa cù-lâu bằng lông vừa rộng vừa dài. Các tỳ-kheo đem việc này bạch Phật. Đức Phật dạy:
[855a1]«Không được chứa.»
Đức Phật dạy tiếp:
«Từ nay về sau cho phép các tỳ-kheo chứa cù-lâu rộng ba khủy tay, dài năm khủy tay, lông dài ba ngón tay, tịnh thí rồi mới chứa.»
Bấy giờ Kỳ-bà Đồng tử nghe đức Phật cho phép các tỳ-kheo chứa y của đàn-việt cúng, liền sai người đem cù-lâu bằng lông ngắn, nhà Vua mặc, đến cúng các tỳ-kheo. Các tỳ-kheo không dám nhận, và nói vì đức Phật chưa cho phép chúng tôi chứa loại cù-lâu bằng lông ngắn này. Các tỳ-kheo đem việc này bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Từ nay về sau cho phép chứa.»
3. Nhận và chia
Bấy giờ, nơi thành Vương-xá có các ưu-bà-tắc nghe đức Phật cho phép các tỳ-kheo chứa y đàn-việt cúng, liền sai người đem rất nhiều loại y tốt cúng cho các tỳ-kheo. Các tỳ-kheo không biết nên làm như thế nào, liền đến bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép nhận và chia.»
Các tỳ-kheo không biết nên chia như thế nào. Đức Phật dạy:
«Nên đếm số người nhiều hay ít. Như mười người thì chia làm mười phần. Cho đến trăm người thì chia làm trăm phần. Khi chia y, số y vừa có thứ tốt, vừa có thứ xấu, người chia y vội lấy phần mình. Đức Phật dạy:
«Không được như vậy, mà nên sai người khác chia, khiến người khác lấy phần.»
Người kia tự lấy phần của mình. Đức Phật dạy:
«Không được tự lấy phần, mà nên rút thăm để chia.»
Vị tỳ-kheo kia tự rút thăm. Đức Phật dạy:
«Không được tự mình rút thăm khi chia. Khi rút thăm, không được để cho thấy.»
Bấy giờ, có vải y quý giá thứ Vua mặc, không thể chia được. Đức Phật cho phép cắt ra để chia. Từ nay về sau, cho phép dùng dao để cắt rọc vải.
Bấy giờ, có tỳ-kheo nhận được vải chưa giặt. Đức Phật cho phép tự mình giặt, hoặc sai người giặt. Lúc ấy, cần chậu để giặt. Đức Phật cho phép dùng chậu để giặt. Hoặc không có ván để giặt, đức Phật cho phép sắm ván để giặt. Hay cần kéo để cắt, đức Phật cho phép sắm kéo để dùng.
4. Y cát triệt
Khi đức Thế Tôn từ thành Vương-xá du hành trong nhân gian đến phương nam. Trên đường đi, thấy cánh đồng ruộng, người ta đắp bờ xung quanh những thửa ruộng rất khéo. Thấy vậy, đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
«Ông có thấy những thửa ruộng này không?»
Tôn giả thưa:
«Có thấy, bạch đức Thế Tôn.»
Đức Phật hỏi ông A-nan:
«Ông có thể vì các tỳ-kheo mà chế pháp y như vậy được không?»
Tôn giả thưa:
«Bạch đức Thế Tôn, con có thể chế được.»
Đức Phật bảo Tôn giả:
«Ông nên trở về dạy các tỳ-kheo.»
Bấy giờ, Tôn giả A-nan trở về lại thành Vương-xá dạy các tỳ-kheo may y cắt rọc như vầy: Đây là điều dài, đây là điều[33] ngắn, đây là lá,[34] đây là đường may thứ nhất, đây là đường may thứ hai, đây là đường may giữa, đây là lá điều hướng hai bên.[35]
Bấy giờ, tại thành Vương-xá có số đông tỳ-kheo đã khoác y cắt rọc.[36] Sau khi đức Thế Tôn du hành trong nhân gian từ phương nam trở về thành Vương-xá, thấy các tỳ-kheo số đông đã khoác y cắt rọc nên nói rằng:
«A-nan là người thông minh, đại trí tuệ. Ta chỉ nói sơ qua mà có thể giải nghĩa rộng rãi. Đệ tử các đức Như Lai, Vô sở trước, đời quá khứ, đã mặc pháp y như vậy; như Ta hiện nay. Đệ tử của các đức Như Lai, Vô sở trước, Đẳng chánh giác, đời vị lai, cũng sẽ mặc pháp y như vậy; như ta hiện nay. Vì y của sa-môn, dùng dao cắt rọc may thành, nên không bị oán tặc cướp đoạt. Từ nay về sau, cho phép các tỳ-kheo cắt rọc may thành y an-đà-hội, y uất-đà-la-tăng, y tăng-già-lê.
Bấy giờ, các tỳ-kheo cắt rọc may thành y an-đà-hội, mặc sát thân, lá y ngoài đường biên mau hư, bụi đất vào trong lá, từ đó về sau cho phép may y an-đà-hội không cắt rọc. Các tỳ-kheo khoác y uất-đà-la-tăng, tăng-già-lê cắt rọc, lá y ngoài đường biên cũng mau bị hư, bụi đất vào bên trong ẩm ướt. Đức Phật dạy:
«Từ nay về sau cho phép khoác y uất-đa-la-tăng, tăng-già-lê cắt rọc, nhưng lá y ngoài đường biên may thành chân chim, hoặc lá y ngoài đường biên may thành cái lề, hoặc may thành răng con ngựa.»
Các tỳ-kheo không biết may bao nhiêu điều. Đức Phật dạy:
«Nên may năm điều, không được may sáu điều. Nên may bảy điều, không được may tám điều. Nên may chín điều, không được may mười điều. Cho đến mười chín điều, không được may hai mươi điều. Nếu quá số điều này, không được chứa.»
Bấy giờ, có tỳ-kheo vận xếp ngược niết-bàn-tăng[37] vào nhà bạch y, bị bung nên lộ hình. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được như vậy. Cho phép làm cái dây để cột.»
Bầy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo chứa và xử dụng cái dây cột có màu sắc đẹp. Đức Phật dạy:
«Không được tích chứa và xử dụng cái dây có màu sắc đẹp như vậy.»
Các tỳ-kheo dùng gấm để làm. Đức Phật dạy:
«Không được làm bằng gấm.»
Các tỳ-kheo chứa và xử dụng cái dây màu trắng. Đức Phật dạy:
«Không được dùng màu trắng để làm. Cho phép nhuộm màu ca-sa để chứa dùng.»
Nhóm sáu tỳ-kheo may dây thắt lưng vừa rộng, vừa dài. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được may như vậy. Cho phép may bề rộng bảy ngón tay, vòng quanh lưng ba bận. Nếu nhận được cái đã may rồi, nên làm hai lớp, ba lớp, bốn lớp. Nếu ba, bốn lớp bị rối loạn thì cho phép may dính lại. Nếu ngắn thì cho phép làm dây nối thêm. Nếu mỏng manh, mà thường cột sợ mau đứt thì nên làm cái khâu hay cái móc.»
Các tỳ-kheo dùng vật báu làm (khâu và móc). Đức Phật dạy:
«Không được dùng những vật quý báu để làm. Nên dùng xương, ngà, sừng, thiết, đồng, bạch lạp, chì, kẽm, chỉ, cây, hồ giao để làm.»
Các tỳ-kheo không biết đặt cái móc thế nào. Đức Phật dạy:
«Dùng chỉ khâu hoặc xâu lỗ rồi buộc vào.»
Bấy giờ, các tỳ-kheo buộc nhưng bị hư đứt hoài. Đức Phật cho sửa chữa. Nhưng lại không biết sửa thế nào? Phật bảo hoặc xếp lại rồi dùng chỉ khâu, hoặc trên đầu dây sờn hư thì lấy chỉ khâu nối lại, hoặc vá lại.
Lúc bấy giờ, có tỳ-kheo vào tụ lạc không chịu cột tăng-kỳ-chi.[38] Khi đi y bị rơi, lộ hình. Đức Phật dạy:
«Không được không buộc y mà vào tụ lạc. Cho phép buộc dây hay khâu lại.»
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất vào nhà bạch y, bị gió thổi, y cắt rọc bị tuột khỏi vai. Các tỳ-kheo bạch Phật, đức Phật dạy
«Cho phép trên đầu vai đặt cái khâu hay cái móc.»
Thế Tôn ở tại thành Vương-xá, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi tỳ-kheo du hành trong nhân gian. Bấy giờ, phần đông tỳ-kheo cầm y, hoặc đội y trên đầu, hoặc choàng nơi vai, hoặc quấn nơi thắt lưng. Bấy giờ, có tỳ-kheo tự là Già-phạm-bà-đề,[39] đến bên sông Hằng, chỗ đức Phật muốn lội qua, dùng thần lực vẹt nước để Phật lội qua. Khi Phật lội qua sông rồi, thấy các tỳ-kheo phần nhiều cầm y, hoặc đội y trên đầu, hoặc choàng nơi vai, hay quấn nơi thắt lưng. Thấy vậy, Ngài nghĩ: «Các tỳ-kheo này cầm nhiều y như vầy. Ta nên vì các tỳ-kheo quy định số lượng y hoặc nhiều hoặc ít như thế nào cho có giới hạn. Nếu quá thì không được chứa.»
5. Kỹ nữ thành Tỳ-da-li
Thế Tôn từ nước Bà-xà, du hành nhân gian đến Tỳ-xá-ly. Bấy giờ Am-bà-la-bà-đề nghe đức Phật cùng một ngàn hai trăm năm mươi tỳ-kheo du hành nhân gian đến Tỳ-xá-ly, liền đi xe đến chỗ đức Thế Tôn. Từ xa nhìn thấy đức Thế Tôn, tướng hảo đoan nghiêm, sanh tâm cung kính hoan hỷ, liền xuống xe đi bộ đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi lui qua đứng một bên. Bấy giờ, đức Phật nói pháp khuyến hóa khiến sanh hoan hỷ. Nghe đức Phật nói pháp rồi, Am-bà-la-bà-đề vui mừng hớn hở bạch Phật:
«Cúi xin đức Thế Tôn và các Tăng tỳ-kheo, sáng mai con thỉnh thọ thực và nghỉ lại tại vườn con một đêm.»[40]
Đức Thế Tôn hứa khả bằng cách im lặng. Am-bà-la-bà-đề biết đức Phật hứa khả rồi, đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh đức Phật rồi cáo lui.
Thế Tôn đang ở trong vườn của Am-bà-la tại Tỳ-xá-ly.
Các Lê-xa[41] nghe đức Phật cùng một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử du hành nhân gian, đang đến nơi Tỳ-xá-ly, liền mặc đủ loại y phục, trang sức bằng anh lạc, đi các loại xe đến nghinh đón đức Thế Tôn. Các Lê-xa hoặc có người khoác y phục anh lạc màu thiên thanh, thắng xe màu thiên thanh, ngựa màu thiên thanh, thị tùng cũng mặc màu thiên thanh, đao, mâu, phan, cái cũng màu thiên thanh. Hạt châu, lông, phất trần màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, ngựa xe thị tùng trang sức cũng như vậy. Có năm trăm Lê-xa như vậy đến chỗ đức Phật. Khi Am-bà-la-bà-đề nghinh đón đức Phật trở về, giữa đường gặp các Lê-xa, không bên nào chịu tránh nhường đường, nên nóc xe [856a1] đụng nhau. Trong số Lê-xa có một vị kỳ lão hỏi Am-bà-la-bà-đề rằng:
«Vì lý do gì nhà ngươi không tránh đường, ép sát nhau khiến nóc xe đụng nhau?»
Bà-đề trả lời:
«Sở dĩ như vầy là vì tôi thỉnh đức Phật và chư Tăng về nghỉ nơi vườn tôi. Tất cả tâm tôi đều hướng về đức Phật, nên không để ý các việc khác.»
Lê-xa nói:
«Tôi trao cho nhà ngươi một trăm ngàn lượng vàng, nhà ngươi nhường cho tôi được thỉnh Phật cúng dường có được không?»[42]
Bà-đề nói:
«Tôi đã thỉnh Phật và Tăng nghỉ đêm nơi vườn tôi, làm sao thay đổi được.»
Lê-xa nói:
«Tôi sẽ trao cho nhà ngươi hai trăm ngàn lượng vàng. Cho đến, mười sáu trăm ngàn, để được thỉnh đức Thế Tôn về cúng dường một ngọ trai.»
Am-bà-la-bà-đề đều trả lời:
«Không thể được.»
Lê-xa lại nói:
«Đem tài sản phân nửa nước đưa cho nhà ngươi. Nhà ngươi để tôi được thỉnh Phật thọ thực, có được không?»
Am-bà-la-bà-đề nói:
«Dầu ông cho tôi toàn bộ nước Tỳ-xá-ly, tôi cũng không thể thay đổi được.»
«Tại sao vậy?»
«Vì tôi đã nguyện được thỉnh Phật và Tăng đến nơi vườn để cúng dường.»
Bấy giờ, năm trăm Lê-xa nổi sân hận đưa tay lên, nói
«Am-bà-la-bà-đề đã bỏ qua chúng ta rồi.»
Nói xong, họ liền cho xe đến vườn Am-bà-la.
Thế Tôn ở tại vườn kia, đang nói pháp cho vô số chúng vây quanh. Từ xa thấy năm trăm Lê-xa đến, Ngài bảo các tỳ-kheo:
«Tỳ-kheo nào chưa thấy chư thiên Đao-lợi xuất du, thì nên xem các Lê-xa này. Khi chư thiên Đạo-lợi muốn xuất du thì cũng giống như các Lê-xa này không khác.»
Đức Phật bảo các tỳ-kheo:
«Các ngươi hãy cẩn thận tâm niệm, nhiếp trì oai nghi. Đây là lời dạy của ta.
Tỳ-kheo, thế nào là các ngươi hãy cẩn thận tâm niệm?
«Tỳ-kheo quán thân trên nội thân, an trụ chánh niệm[43]; tinh cần, nhiếp trì niệm không tán loạn, điều phục xan tham, tật đố, ưu não thế gian. Quán thân trên ngoại thân, an trụ chánh niệm; tinh cần, nhiếp trì niệm, không tán loạn, điều phục xan tham, tật đố, ưu não thế gian. Quán thân trên nội ngoại thân, quán thọ, ý và pháp cũng như vậy. Tỳ-kheo như vậy được chánh tâm.
«Tỳ-kheo, thế nào gọi là nhiếp trì oai nghi?
«Tỳ-kheo hoặc ra hoặc vào, co duỗi, cúi ngước, chấp trì y bát, hoặc ăn, hoặc uống, hoặc uống thuốc, đại tiểu tiện lợi, hoặc ngủ, hoặc thức, hoặc đi, hoặc lại, hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc nói năng hay im lặng, tâm thường chuyên nhất. Đó gọi là tỳ-kheo nhiếp trì oai nghi.»
Bấy giờ, năm trăm Lê-xa ở Tỳ-xá-li đến chỗ đậu xe, xuống xe, đi bộ đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên. Khi năm trăm Lê-xa ở bên đức Phật thì oai thần của họ không còn nữa. Chỉ có ánh sáng oai đức tối thắng của đức Phật Thế Tôn ở giữa đại chúng không có gì sánh kịp. Như mặt trời đi trong bầu trời mùa thu không chút mây che, oai thần rực rỡ không gì sánh bằng. Cũng vậy, Đức Thế Tôn ở giữa năm trăm Lê-xa với thần đức danh xưng, tướng mạo đoan chánh không gì sánh kịp. Lúc ấy, trong chúng có bà-la-môn tự là Tân-kỳ-dương-nâu.[44] Bà-la-môn này từ chỗ ngồi đứng dậy, trống vai bên hữu, đầu gối bên hữu chấm đất, bạch Phật:
«Con có điều muốn nói.»
Đức Phật dạy: «Ông cứ nói.»
Bà-la-môn này liền đối trước Phật nói kệ khen ngợi đức Như Lai:
Vua Ma-kiệt được thiện lợi,
Vua Ương già cầm giáp ngọc;
Phật xuất hiện nơi nước này,
Tiếng chấn động như núi Tuyết.
Như hương sen tinh khiết,
Khi nở thơm ngào ngạt.
Nay xem ánh sáng Phật,
Như mặt trời mới mọc;
Như mặt trăng trên không,
Không có mây che khuất.
Thế Tôn cũng như vậy,
Sáng chói trong thế gian.
Xem trí tuệ của Phật,
Như đuốc sáng ban đêm;
Cho đời con mắt sáng,
Giải quyết các nghi hoặc.
Các Lê-xa nói với bà-la-môn:
«Yêu cầu ông nói lại bài kệ này.»
Người bà-la-môn nói lại bài kệ này ba lần. Các Lê-xa cho đây là bài kệ rất hay, tặng thưởng năm trăm chiếc y. Người bà-la-môn nhận được số y này rồi, liền đem dâng lên đức Phật, nguyện cầu đức Phật dũ lòng thương vì họ mà nhận cho.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Lê-xa:
«Thế gian có năm thứ quý báu khó được. 1. Phật Thế Tôn ra đời trong thế gian là điều quý báu khó có được. 2. Đức Phật ra đời trong thế gian, nghe được lời thuyết giảng của Ngài là điều quý báu khó có được. 3. Đức Phật ra đời trong thế gian, nghe Ngài thuyết pháp mà tin và hiểu là điều quý báu khó có được. 4. Đức Phật ra đời trong thế gian, nghe Ngài thuyết pháp mà thật hành như pháp là điều quý báu khó có được. 5. Đạt được chánh tín và ưa thích là điều quý báu khó có được.»
Bấy giờ, năm trăm Lê-xa nghe Phật dùng mọi phương tiện nói pháp khai hóa rất vui mừng, bạch Phật:
«Chúng con xin phép được mời Ngài và các Tăng tỳ-kheo ngày mai thọ thực.»
Đức Phật Nói:
«Ta đã nhận lời mời của Am-bà-la-bà-đề rồi.»
Bấy giờ năm trăm Lê-xa đưa tay lên nói:
«Am-bà-la-bà-đề đã hơn chúng con!»
Nói xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước đức Phật kính lễ sát chân, nhiễu quanh rồi cáo lui.
Bấy giờ, Am-bà-la-bà-đề về nhà, sắm sửa đầy đủ các loại đồ ăn thức uống ngon bổ, sáng hôm sau đúng giờ đến thỉnh đức Thế Tôn phú trai. Đức Thế Tôn khoác y bưng bát cùng một ngàn hai trăm năm mươi Tăng tỳ-kheo đến nhà Am-bà-la-bà-đề, an toạ nơi chỗ ngồi.
Bấy giờ, Am-bà-la-bà-đề dâng cơm lên đức Phật và Tăng tỳ-kheo với tất cả các loại đồ ăn thức uống ngon bổ. Khi đức Phật thọ thực xong, thì Am-bà-la-bà-đề rước bình bát của Ngài để xuống đất và đem bình nước rửa bằng vàng đến rửa tay Ngài, rồi đến trước đức Phật bạch:
«Nước Tỳ-xá-ly này thì có nhiều khu vườn, nhưng quang cảnh vườn ở đây là đẹp nhất. Nay con xin dâng cúng đức Thế Tôn làm chỗ nghỉ ngơi. Cúi xin Thế Tôn nhận cho.»
Đức Phật dạy:
«Nhà ngươi nên dâng cúng Phật và tứ phương Tăng. Tại sao vậy? Vì nếu vườn của Phật, và vật trong vườn hoặc phòng xá, và vật trong phòng xá hay bình bát, y, tọa cụ, ống đựng kim, cũng như tháp miếu của Phật thì tất cả thế gian chư thiên, long thần, phạm thiên, sa-môn, bà-la-môn, chư thiên và người không thể xử dụng được.»
Am-bà-la-bà-đề thưa:
«Như vậy con xin dâng cúng Phật và tứ phương Tăng. Cúi xin Ngài nhận cho.»
Đức Phật dũ lòng thương nhận và chú nguyện cho:
Nếu xây cất chùa miễu,
Trồng vườn cây ăn trái,
Làm cầu đò người qua,
Đồng hoang cho nước trái,
Cho luôn nơi trú ngụ;
Những hạng người như vậy,
Ngày đêm phước thêm lớn.
Thường như pháp trì giới,
Người ấy hướng đường lành.
Bấy giờ, Am-bà-la-bà-đề lấy chiếc ghế nhỏ ngồi qua một bên, đức Thế Tôn nói các bài pháp, khiến Am-bà-la-bà-đề rất hoan hỷ, từ chỗ ngồi, liền được tiêu trừ các trần cấu, đặng con mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc pháp, đã thành tựu chứng quả, bạch Phật:
«Từ nay con xin quy y Phật, Pháp, Tăng, làm người ưu-bà-tư, trọn đời không sát sanh, cho đến không uống rượu.»
Am-bà-la-bà-đề được nghe đức Phật dùng mọi phương tiện nói pháp, lòng rất vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy kính lễ sát chân Ngài, rồi cáo lui.
6. Ba y
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở nơi tịnh xứ tư duy, tâm tự nghĩ: «Các tỳ-kheo trên đường đi quảy theo nhiều y. Có vị đội y trên đầu. Có vị vắt nơi vai. Hoặc có vị quấn nơi thắt lưng.» Sau khi thấy, suy nghĩ như vầy: «Ta hãy chế định cho các tỳ-kheo số lượng y nhiều ít thế nào, chứ không được chứa nhiều quá.»
Hôm đó, đức Thế Tôn ngồi nơi đất trống. Đầu đêm khoác một chiếc y, đến nửa đêm cảm thấy lạnh. Khoác chiếc [857a1] y thứ hai, đến cuối đêm vẫn cảm thấy lạnh, mặc chiếc y thứ ba. Bấy giờ, đức Thế Tôn mới nghĩ như vầy: «Đời sau, người thiện nam không chịu đựng được sức lạnh, thì nên cho phép chứa đầy đủ ba y. Ta nên cho phép các tỳ-kheo chứa ba y, không được quá.»
Sáng hôm sau, nhân việc này đức Thế Tôn tập hợp Tăng tỳ-kheo, bảo:
«Ở nơi chỗ yên tĩnh, Ta suy nghĩ: Tỳ-kheo trên đường đi quảy theo nhiều y. Có vị đội y trên đầu. Có vị vắt nơi vai. Hoặc có vị quấn nơi thắt lưng. Sau khi thấy, suy nghĩ như vầy: Ta hãy chế định cho các tỳ-kheo số lượng y nhiều ít thế nào, chứ không được chứa nhiều quá. Chính ta ngồi nơi đất trống, đầu đêm khoác một chiếc y, đến nửa đêm cảm thấy lạnh. Khoác chiếc y thứ hai, đến cuối đêm vẫn cảm thấy lạnh, mặc chiếc y thứ ba. Nên Ta khởi ý nghĩ: Đời sau, người thiện nam sẽ không thể chịu đựng được sức lạnh, nên cho phép chứa đầy đủ ba y. Ta qui định cho các tỳ-kheo chứa ba y, không được quá. Từ nay về sau, cho phép các tỳ-kheo chứa ba y, nếu quá, không được chứa.»
Bấy giờ, có một trú xứ nọ, Tăng bốn phương nhận được tăng-già-lê quý giá, đem may ngọa cụ. Các tỳ-kheo không biết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên đem đổi vật khác rồi tùy chỗ dùng.»
Các tỳ-kheo không biết sai ai đi đổi, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép tỳ-kheo đem đổi. Hoặc sai người giúp việc Tăng-già-lam. Hoặc sa-di, ưu-bà-tắc đem đổi. Hoặc thí chủ tự đổi. Rồi tùy chỗ sử dụng.»
Thế Tôn ở tại nước Bạt-đề. Có tỳ-kheo nhận được y sô-ma, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép dùng.»
Có tỳ-kheo nhận được y la-hầu-đa,[45] bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép dùng.»
Có tỳ-kheo nhận được y a-đa-hầu-đa,[46] bạch Phật, Phật cho phép chứa dùng.
Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo chứa y có màu sắc rực rỡ, Phật dạy:
«Không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo lại chứa y bằng gấm có màu sắc rực rỡ. Đức Phật dạy:
«Không được chứa y bằng gấm. Y trắng nên nhuộm màu ca-sa rồi chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo lại khoác y có tua không cắt rọc.[47] Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Có nhóm sáu tỳ-kheo lại dùng gấm làm tua y, Phật không ‹cho phép chứa dùng.›
Nhóm sáu tỳ-kheo lại chứa y phả-na-đà-thi,[48] Phật dạy:
«Không được chứa. Những người ngu si này! Ta chế cái này; các ngươi lại làm cái khác!»
Thế Tôn ở tại nước Ba-la-nại. Có đàn-việt mời cơm. Theo thường pháp của các đức Phật, nếu không đến phú trai thì ở nhà đi xem xét các phòng ốc. Khi xem xét các phòng ốc, Ngài thấy có tỳ-kheo trải tăng-già-lê dưới đất, muốn ráp tấm vải mạng vào. Thấy vậy, đức Phật đến chỗ tỳ-kheo hỏi:
«Sao ngươi trải y dưới đất?»
Tỳ-kheo thưa:
«Con muốn khi mặc, mặt trong lộn ra ngoài thì tấm mạng này hiện ra.»
Đức Phật dạy:
«Lành thay! Lành thay! Tỳ-kheo, việc thầy làm là phải.»
Khi các tỳ-kheo thọ thực xong trở về, đức Thế Tôn dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo nói:
«Sau khi các tỳ-kheo đi thọ thực, Ta đi xem xét các phòng ốc, thấy có tỳ-kheo bung y dưới đất, muốn ráp tấm vải mạng vào. Thấy vậy ta đến chỗ tỳ-kheo hỏi tại sao thầy bung y dưới đất? Tỳ-kheo thưa, ‹Con muốn khi mặc, mặt trong lộn ra ngoài thì tấm mạng này hiện ra.› Ta liền kheo ngợi: ‹Lành thay! Lành thay! Việc thầy làm là phải.›
«Từ nay về sau cho phép các tỳ-kheo may y mới, an-đà-hội một lớp, uất-đa-la-tăng một lớp, tăng-già-lê hai lớp. Nếu y cũ thì cho phép an-đà-hội hai lớp, uất-đa-la-tăng hai lớp, tăng-già-lê bốn lớp. Nếu y phấn tảo thì lớp nhiều ít tùy ý.»
Thế Tôn ở nước Khoáng dã. Chúng Tăng nhận được y khéo được thể hiện,[49] đức Phật cho phép chứa dùng. Nhận được y gấm, Phật không cho phép dùng. Các tỳ-kheo nhận được cái mùng (màn), đức Phật cho phép dùng.
Một thời đức Thế Tôn ở tại nước Bạt-kỳ, du hành trong nhân gian, đến núi Thất-thủ-ma-la, rừng Khủng úy, trụ trong vườn Nai. Khi ấy, có Bồ-đề Vương tử làm ngôi điện đường mới, nhưng chưa có sa-môn, bà-la-môn nào đến cả. Mọi người đang chờ đợi. Một hôm, Vương tử nghe đức Phật từ nước Bạt-kỳ du hành trong nhân gian, đến núi Thất-thủ-ma-la, rừng Khủng úy, trụ trong vườn Nai, liền sai người kêu Tát-xà, con trai của người bà-la-môn, nói rằng:
«Ngươi nhơn danh ta đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân, thăm hỏi đức Thế Tôn đi đứng có được nhẹ nhàng không? Ít bệnh ít não không? Trụ chỉ có an lạc không? Rồi bạch như vầy: Thỉnh Phật và tăng nhận lời mời thọ thực của ta, và bạch Phật rằng: Ta vừa xây ngôi điện đường mới, chưa có sa-môn, bà-la-môn nào đến cả. Tất cả nhân dân đều đang mong chờ, cúi xin thỉnh đức Phật đến an toạ trước, sau đó, Bồ-đề vương tử ngồi mới được phước vô lượng.» Khi ấy, Tát-xà, con trai của người bà-la-môn, kính lễ sát chân Vương tử, rồi đến chỗ đức Thế Tôn, thành kính thăm hỏi, rồi lui ngồi qua một bên, bạch đức Thế Tôn rằng:
«Bồ-đề vương tử cúi đầu dưới chân đức Thế Tôn, vấn an Thế Tôn, đi đứng có được nhẹ nhàng không? Ít bệnh ít não không? Trụ chỉ có an lạc không? Bồ-đề vương tử xin được phép thỉnh Phật và Tăng nhận lời mời thọ thực. Bồ-đề vương tử vừa mới xây xong ngôi điện đường, nhưng chưa có sa-môn, bà-la-môn nào đến cả. Tất cả nhân dân đang mong chờ, xin thỉnh Phật đến an toạ trước, sau đó Vương tử sẽ ngồi mới được phước vô lượng.»
Đức Thế Tôn hứa khả bằng cách im lặng. Tát-xà, con trai của người bà-la-môn, biết đức Phật hứa khả rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu Phật cáo lui, về lại chỗ Vương tử thưa như vầy:
«Sa môn Cù-đàm đã nhận lời thỉnh thọ thực bằng cách im lặng rồi. Bây giờ là lúc thích hợp»
Vương tử chuẩn bị cho sắm sửa các thứ đồ ăn thức uống ngon bổ. Đêm vừa qua, sáng đến cho lau quét điện đường, dùng vải mới tốt trải từ tam cấp vào đến điện.
Đến giờ, sai người thỉnh Phật thọ thực. Đức Thế Tôn khoác y bưng bát cùng một ngàn hai trăm năm mươi Tăng tỳ-kheo đến nhà Bồ-đề Vương tử. Bấy giờ, Vương tử ra ngoài cửa cung nghinh Ngài. Từ xa thấy đức Phật đến, liền đến trước Ngài đảnh lễ sát chân, rồi theo hầu Ngài đi vào, như người đệ tử biết vâng lời. Đức Thế Tôn vào trước nhà Vương tử, đứng im lặng.
Vương tử thưa:
«Cung kính thỉnh Thê tôn bước lên vải để đi lên điện, khiến cho con được phước an lạc.»
Lần thứ hai, lần thứ ba Vương tử cũng thưa đức Thế Tôn như vậy.
Đức Thế Tôn vẫn im lặng, quay lại nhìn Tôn giả A-nan. Tôn giả A-nan biết đức Phật không muốn bước lên trên vải mới để đi, là vì lợi ích sau này cho chúng sanh.
Tôn giả A-nan nói với Vương tử rằng:
«Xếp vải này lại. Như Lai không muốn bước lên trên để đi, là vì lợi ích sau này cho chúng sanh vậy.»
Vương tử vội vàng cho xếp vải lại và thỉnh Phật lên điện để cho con được phước. Lúc ấy, đức Phật mới lên điện, ngồi an nơi chỗ ngồi. Bấy giờ, Vương tử bắt đầu dâng cơm lên Phật và Tăng với tất cả đồ ăn thức uống ngon bổ. Đức Phật thọ thực và rửa bát xong, Vương tử lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi một bên. Đức Thế Tôn dùng mọi phương tiện vì Vương tử nói pháp rồi, từ chỗ ngồi trở về trú xứ, dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo nói:
«Vải quý trải dưới đất, không được đi lên trên, nếu đi thì sẽ như pháp trị.»
Bấy giờ, phòng xá của tỳ-kheo nhiều bụi đất, Phật cho phép rưới nước quét, rưới nước quét rồi lại có bụi, Phật cho phép dùng nước trộn bùn để trét. Nếu vẫn có bụi, đức Phật cho phép dùng các loại thảm y-lê-diên-đà, mạo-la, mạo-mạo-la, cù lâu, và một trong mười loại vải, trải trên đất.
Thế Tôn ở tại nước Xá-vệ. Bấy giơ bà mẹ ghẻ của Vua Ba-tư-nặc có tín tâm nơi Phật pháp, đem vải gấm quý giá thứ Vua mặc dâng cúng cho tứ phương Tăng sau đó mạng chung. Bấy giờ các tỳ-kheo đem trải trên đất. Có những đại thần không tin ưa Phật pháp, có việc đến Tăng-già-lam, thấy các tỳ-kheo đem vải gấm đại quý giá thứ Vua mặc [858a1] làm đồ trải đất, họ cơ hiềm nói:
«Sa môn thích tử không biết nhàm chán, không biết đủ, có nhiều tham cầu, chứa dư thừa, tự nói là biết chánh pháp, mà đem vải gấm đại quý giá thứ Vua mặc trải dưới đất. Như vậy có gì là chánh pháp? Đàn-việt tuy dâng cúng, nhưng người thọ nhận phải biết đủ chứ?»
Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được dùng vải quý giá thứ Vua mặc trải dưới đất. Từ nay về sau cho phép làm nệm ngồi, nệm nằm, gối, màn che ở trên.»
Bấy giờ, có tỳ-kheo quấn đầu, đến chỗ đức Phật thưa:
«Bạch Đại đức! Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, cúi xin đức Phật chấp thuận.»
Đức Phật dạy:
«Tỳ-kheo không được quấn đầu như pháp của bạch y. Nếu quấn đầu thì sẽ như pháp trị.»
Bấy giờ, các tỳ-kheo đầu bị lạnh, bạch Phật. Phật cho phép dùng lông mịn kết lại để quấn hay làm mão để đội.
Tỳ-kheo Đãn-đà-lư-đa-lê[50] khoác y đến chỗ Phật thưa:
«Đây là pháp trang nghiêm của hạnh đầu đà, cúi xin chấp thuận.»
Đức Phật dạy:
«Không được khoác y như vậy, trừ trong Tăng-già-lam. Đây là pháp của bạch y. Nếu mặc như vậy sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo khoác một y đến chỗ Phật, bạch:
«Đây là pháp trang nghiêm của hạnh đầu đà, cúi xin chấp thuận.»
Đức Phật dạy:
«Không được mặc một y, trừ nơi đại tiểu tiện. Đây là pháp của bạch y. Nếu khoác sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo khoác y chui đầu,[51] đến chỗ Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, cúi xin chấp thuận.»
Đức Phật dạy:
«Không được khoác. Đây là pháp của bạch y. Nếu khoác sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo khoác y ngắn đến chỗ đức Thế Tôn thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, cúi xin chấp thuận.»
Đức Phật dạy:
«Không được khoác. Đây là pháp của bạch y. Nếu khoác sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo khoác y bằng da, đến chỗ Phật bạch:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, cúi xin Ngài chấp thuận.»
Đức Phật dạy:
«Không được khoác. Đây là pháp của bạch y. Nếu khoác sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo mặc áo kép đến chỗ đức Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin chấp thuận.»
Đức Phật dạy:
«Không được khoác. Đây là pháp của bạch y. Nếu khoác sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo mặc khố đến chỗ Phật, bạch:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin chấp thuận.»
Đức Phật dạy:
«Không được khoác. Đây là pháp của bạch y. Nếu khoác sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo quấn chân đi đến chỗ Phật, thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin chấp thuận.»
Đức Phật dạy:
«Không được quấn như vậy. Đây là pháp của bạch y. Nếu quấn sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo quấn chân bằng cỏ bồ đến chỗ Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin Thế Tôn cho phép.»
Đức Phật dạy:
«Không được quấn như vậy. Đây là pháp của bạch y, nếu quấn sẽ như pháp trị.»
Đức Phật nói các tỳ-kheo tiếp:
«Các ông là những người ngu si, tránh những điều ta cấm chế, lại tạo ra những việc khác. Tất cả các pháp của bạch y như vậy, không được mặc.»
Bấy giờ. Các tỳ-kheo giả bện tóc thành búi tó, đến chỗ Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin Thế Tôn cho phép.»
Đức Phật dạy:
«Không được làm như vậy. Đây là pháp của ngoại đạo, nếu làm như vậy sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo thọ trì bát bằng cây, đến chỗ Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin hứa khả.»
Đức Phật dạy:
«Không được thọ trì bát như vậy. Đây là pháp của ngoại đạo không được chứa, nếu chứa sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo thọ trì lầu đựng bát[52] đến chỗ Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin hứa khả.»
Đức Phật dạy:
«Đây là pháp của ngoại đạo. Không được thọ trì. Nếu chứa sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo khoác mang khăn tay thêu[53] đến chỗ đức Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin cho phép.»
Đức Phật dạy:
«Đây là pháp của ngoại đạo, không được mang. Nếu mang sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo mặc áo cỏ đến chỗ đức Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin cho phép.»
Đức Phật dạy:
«Không được mặc, đây là pháp của ngoại đạo, nếu mặc sẽ như pháp trị.» Các loại y như vầy: «hoặc bằng cỏ, bằng cỏ bà-sa, bằng vỏ cây, bằng lá cây, bằng châu anh lạc, tất cả những loại y như vậy, đều không được chứa dùng, nếu chứa dùng sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo khoác y bằng da của ngoại đạo, đến chỗ Phật, thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin thuận cho.»
Đức Phật dạy:
«Không được chứa, nếu chứa sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo mặc lông chim kên kên đến chỗ đức Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin chấp thuận.»
Đức Phật dạy:
«Đây là pháp của ngoại đạo, không được dùng. Nếu dùng sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo khoác y khâm-bà-la bằng tóc người đến chỗ Đức Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin chấp thuận.»
Đức Phật dạy:
«Đây là pháp của ngoại đạo, không được mặc, nếu mặc mắc thâu-lan-giá.»
Có tỳ-kheo khoác y khâm-bà-la bằng đuôi ngựa, đuôi trâu nước, đến chỗ Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin cho phép dùng.»
Đức Phật dạy:
«Đây là pháp của ngoại đạo, không được mặc, nếu mặc sẽ như pháp trị.»
Có tỳ-kheo loã thể đến chỗ Phật thưa:
«Đây là pháp đoan nghiêm của hạnh đầu đà, xin hứa khả.»
Đức Phật dạy:
«Không được làm như vậy, đây là pháp của ngoại đạo. Nếu lộ thân thì phạm thâu-lan-giá.»
Đức Phật dạy tiếp:
«Các ngươi là những người ngu si. Tránh những điều ta đã ngăn cấm, lại tạo ra bao nhiêu cái khác. Tất cả các pháp của ngoại đạo như vậy không được làm.»
7. Pháp thức phân vật
Bấy giờ, có tỳ-kheo nơi trú xứ nọ, hiện tiền Tăng nhận được nhiều y vật có thể chia. Các tỳ-kheo không biết nên làm như thế nào, đến bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép phân chia.»
Các tỳ-kheo không biết cách chia.
Đức Phật dạy:
«Nên đếm số người nhiều hay ít, hoặc mười vị, hoặc hai mươi vị, cho đến trăm vị, thì chia trăm phần. Nếu có hai thứ tốt xấu, cho phép trộn lộn với nhau để chia.»
Vị chia tự lấy phần mình trước. Phật dạy:
«Không được tự lấy phần mình trước, mà nên bốc thăm để chia.»
Vị chia tự bốc xăm. Đức Phật dạy:
«Không được tự mình bốc thăm. Khi bốc thăm, không nên để cho thấy.»
Khi bốc thăm chia vật có khách tỳ-kheo đến. Đức Phật dạy:
«Nên chia phần cho họ.»
Hoặc khi vừa chia phần xong, hoặc lúc chưa bốc xăm, hay lúc đang bốc xăm mà có khách tỳ-kheo đến, thì tất cả đều chia phần cho họ. Chỉ trừ khi bốc xăm rồi, có khách tỳ-kheo đến thì không được chia phần, hay khi đã vui vẻ nhận phần rồi, dù có khách tỳ-kheo đến cũng không được chia phần, hay chia còn dư đem chia trở lại, đã xong mà có khách tỳ-kheo đến cũng không được chia phần, hoặc đã cho sa-di, hay sai người chia rồi, dù có khách tỳ-kheo đến cũng không được chia phần.
Trường hợp, khi tỳ-kheo đang chia y, mà khách tỳ-kheo đến quá nhiều, nên việc chia y bị vất vả phiền phức, có thể sai một người đứng ra chia, bằng pháp bạch yết-ma. Trong chúng nên sai một người có khả năng yết-ma hoặc Thượng tọa hay thứ tọa, tụng luật được hay không tụng luật được, miễn có thể tác pháp yết-ma, tác bạch như sau:
«Đại đức Tăng xin lắng nghe! Y hoặc phi y của trú xứ này nhận được, nên chia cho hiện tiền Tăng. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận sai Tỳ-kheo... làm người chia y. Đây là lời tác bạch.
«Đại đức Tăng xin lắng nghe! Trú xứ này nhận được y hoặc phi y, nên chia cho hiện tiền Tăng. Nay Tăng sai Tỳ-kheo... làm người chia. Các trưởng lão nào chấp thuận trú xứ này, y hoặc phi y nhận được, nên chia cho hiện tiền Tăng, Tăng sai Tỳ-kheo... làm người chia, thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
«Tăng đã chấp thuận sai Tỳ-kheo... làm người phân chia rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc này được ghi nhận như vậy.»
Bấy giờ, tỳ-kheo nhận được y bà-thâu-già,[54] bạch Phật, đức Phật cho phép chứa dùng.
Các tỳ-kheo bị lạnh, bạch Phật. Phật [859a1] cho phép khoác y có độn bông.
Có trú xứ nọ, chỉ có một Tỳ-kheo, hiện tiền Tăng nhận được nhiều y, Tăng có thể chia. Các tỳ-kheo không biết làm sao, bạch Phật. Phật dạy:
«Nếu tại một trú xứ nào, chỉ có một tỳ-kheo ở, mà hiện tiền Tăng nhận được nhiều y. Tăng có thể chia.»
Nhưng các tỳ-kheo không biết thế nào, bạch Phật, Phật dạy:
«Nếu trú xứ nọ, có một tỳ-kheo ở, mà nhận được y, hiện tiền Tăng có thể chia. Nếu có khách tỳ-kheo đến từ bốn người hoặc hơn bốn người thì nên đem y trao cho một Tỳ-kheo, khiến bạch nhị yết-ma rồi chia. Nếu có ba người nên cùng nhau nói ba lời để thọ. Nếu có hai người cũng cùng nhau nói ba lời để thọ. Nếu chỉ có một người thì tâm niệm miệng nói: «Đây là phần của tôi.»
Có trú xứ nọ, có Tỳ-kheo, tưởng có Tỳ-kheo, muốn chia y theo biệt bộ.[55] Các tỳ-kheo không biết thành chia hay không thành chia. Bạch Phật, Phật dạy:
«Không thành chia, mắc đột-kiết-la.»
Có trú xứ nọ, nghi có Tỳ-kheo, chia y theo biệt bộ. Các tỳ-kheo không biết thành chia hay không thành chia. Bạch Phật, Phật dạy:
«Không thành chia, mắc đột-kiết-la. »
Có trú xứ nọ, có tỳ-kheo, khởi tưởng không tỳ-kheo, chia y biệt bộ. Tỳ-kheo không biết thành chia hay không thành chia. Bạch Phật, Phật dạy:
«Không thành chia, không phạm.»
Có trú xứ nọ, không tỳ-kheo, tưởng có tỳ-kheo nên chia y. Các tỳ-kheo không biết thành chia hay không thành chia. Bạch Phật, Phật dạy:
«Thành chia, mắc đột-kiết-la.»
Có trú xứ nọ, nghi là không tỳ-kheo, chia y. Không biết thành chia hay không thành chia. Bạch Phật, Phật dạy:
«Thành chia, mắc đột-kiết-la.»
Có trú xứ nọ, không tỳ-kheo tưởng là không tỳ-kheo, chia y. Các tỳ-kheo không biết thành chia hay không thành chia. Bạch Phật, Phật dạy:
«Thành chia, không phạm.»
Bấy giờ, có trú xứ nọ có tỳ-kheo, tưởng có tỳ-kheo, thọ y biệt bộ. Các tỳ-kheo không biết thành thọ y hay không. Bạch Phật, Phật dạy:
«Không thành thọ y, mắc đột-kiết-la.»
Có trú xứ nọ, nghi có tỳ-kheo, thọ y biệt bộ. Các tỳ-kheo bạch Phật, Phật dạy:
«Không thành thọ, mắc tội đột-kiết-la.»
Có trú xứ nọ, có tỳ-kheo, tưởng không tỳ-kheo, thọ y biệt bộ. Các tỳ-kheo không biết thành thọ hay không, bạch Phật. Phật dạy:
«Không thành thọ, không phạm.»
Có trú xứ nọ, không tỳ-kheo, tưởng có tỳ-kheo thọ y. Các tỳ-kheo không biết thành thọ hay không. Bạch Phật, Phật dạy:
«Thành thọ, mắc đột-kiết-la.»
Có trú xứ nọ, nghi là không tỳ-kheo thọ y. Các tỳ-kheo không biết thành thọ hay không. Bạch Phật, Phật dạy:
«Thành thọ, mắc đột-kiết-la.»
Có trú xứ nọ, không tỳ-kheo, tưởng không tỳ-kheo thọ y. Các tỳ-kheo không biết thành thọ hay không, bạch Phật. Phật dạy: «Thành thọ, không phạm.»[56]


Chú thích:
[16] Trong truyện kể Pali, Kỳ-bà không nhận tiền, mà xin chức thái y. Vua chấp nhận, và bảo kiêm luôn việc chữa bịnh cho Phật và các tỳ-kheo.
[17] Chơi trò nhào lộn, dộng ngược đầu xuống đất, rồi di chuyển như bánh xe lăn. Pali (Vin.i. 275): mokkhacikāya kīlantassa.
[18] Úy-thiền 尉禪. Pali: Ujjenī, thủ phủ của nước Avantī (A-bàn-đề)
[19] Ba-la-thù-đề 波羅殊提. Pali: Pajjota (Caṇḍa-Pajjota).
[20] A-ma-lặc 阿摩勒. Hán thường dịch là dư cam tử. Pali: āmalaka.
[21] Nguyên Hán: tiệp 啑; không có nghĩa gì ở đây. Pali: nicchāresi, tiêu chảy (hạ lỵ).
[22] Hán: hoạn thuỷ 患水. Pali: kāyo dosābhisanno, rối loạn dịch trong cơ thể (theo bản dịch Anh, B.D.iv. 394, n.1).
[23] Pali (Vin.i. 279): icchati tathāgato virecanaṃ pātun ti, «Như lai muốn uống thuốc xổ (hạ tể).»
[24] Ưu-bát 優缽; hay ưu-bát-la, hoa sen xanh. Pali: uppala (Skt. utpala).
[25] Nhất chưởng noãn thuỷ 一掌煖水. Pali, ibid., xổ xong lần thứ 29, Thế Tôn sẽ tắm (bhagavā viritto nahāyissati), sau đó sẽ xổ thêm một lần nữa.
[26] Na-la-diên 那羅延. Sjt. nārāyaṇa, lực sĩ của trời; biệt danh của thần Víṣṇu.
[27] Thi dược quang minh 施藥光明. Tống-Nguyên-Minh: thi lạc...施樂. Cf. Skt. (Bodhisattva-bhūmi) bhaiṣjya-da(-raśmi).
[28] Pali: Sabbadatta, nhưng nội dung truyện kể không đồng. Xem Jataka, truyện 460.
[29] Pali: y Siveyyaka, vải được sản xuất tại nước Sivi, cao giá nhất.
[30] Câu văn chuẩn khi Phật chấp thuận một ước nguyện. Nhưng văn Hán tối nghĩa. Xem Phần I, Ch.iv ni-tát-ky 27 & cht. 94. Tham chiếu Pali, Vin. i. 280: atikkantavarā kho tathāgatā, Như lai không bao giờ cho những ước nguyện vượt quá giới hạn.»
[31] Thanh tịnh, ở đây nên hiểu là «hợp thức.» Tham chiếu, Pali, ibid., yañca kappati, yañca anavajanti, ước nguyện ấy đúng pháp và không lỗi.
[32] Cù-lâu 氍氀. Pali: kojava (?), y hay chăn làm bằng lông sơn dương.
[33] Điều 條, rẻo vải hẹp mà dài, tượng trưng bờ ruộng.
[34] Diệp 葉, rẻo vải, như chiếc lá, chỉ khâu một biên dính vào y.
[35] Tham chiếu Ngũ phần 20 (T22n1421 tr.137a27): lá điều nửa bên trái để hở đường biên trái. Lá điều phải, hở biên phải. Lá điều giữa, hở cả hai phía.
[36] Cát tiệt y 割截衣. Pali: chinnaka, vải được cắt thành từng miếng vuông như thửa ruộng, rồi may lại thành. Thường gọi là phước điền y.
[37] Niết-bàn-tăng 涅槃僧; Pali: nivāsana, hạ y, nội y.
38 Xem cht. 161, Ch.i (phần iii).
[39] Già-phạm-bà-đề 伽梵婆提; hay Kiều-phạm-ba-đề; Pali: Gavampati, con trai phú hộ ở Ba-la-nại, một trong bốn người bạn của Da-xá.
[40] Xem Trường A-hàm 2 (T01, tr.13b20), kinh số 2 «Du hành»
[41] Lê-xa 梨奢. Pali: Licchavī, một bộ tộc rất hùng mạnh thời Phật, là chủ nhân của thành Vesāli (Tỳ-xá-li).
[42] Truyện kể bị nhảy sót nên thiếu mạch lạc.
[43] Ý chỉ 意止, tức niệm xứ. Cf. Trường A-hàm. đã dẫn, đoạn này, Phật giảng bốn niệm xứ cho các tỳ-kheo để cảnh giác khi Am-ba-bà-lị đến. Vì sợ các tỳ-kheo trẻ sẽ bị mê hoặc bởi sắc đẹp của cô. Trong Bản Hán trên, mạch lạc bị đảo lộn.
[44] Tân-kỳ-dương-nâu 賓耆羊菟. Ngũ phần 20 (T22n1421 tr.135c19): Ma-nạp Tân-kỳ-da 摩納名賓祇耶.
[45] La-hầu-đa y 羅睺多衣. Có lẽ chỉ một loại vải mỏng, Pali (=Skt.): lahuta (?).
[46] A-đa-hầu-đa y 阿哆睺多衣. Không rõ loại vải gì.
[47] Ngũ phần 20 (T22n1421 tr.137a17): Tỳ-kheo được y kiếp-bối, không cắt tua (râu) ở đầu.
[48] Phả-na-đà-thi 頗那陀施. Cf. Ngũ phần 20 (T22n1421 tr.138b01): có tỳ-kheo xin Phật cho dùng y chui đầu (quán đầu y 貫頭衣) rồi khoác y bạt-na 跋那 lên. Phật không cho. Có lẽ phả-na-đà-thi và bạt-na là một, nhưng không rõ phiên từ Skt. gì.
[49] Thiện hiển hiện y 善顯現衣.
[50] Đãn-đà-lư-đa-lê 誕陀盧多梨.
[51] Quán đầu y 串頭衣. Loại y có cổ; khi khoác chui đầu qua.
[52] Bát lâu 缽樓, với lời chua trong bản Hán: «Ba cây gậy chống xuống đất, đặt bát vào trong; bên trên, xỏ ngang các vật, rồi gánh trên vai mà đi. Vì thế gọi là lầu đựng bát.»
[53] Tú thủ y 繡手衣.
[54] Bà-thâu-già y 婆輸伽.
[55] Biệt bộ, chia theo nhiều nhóm riêng rẻ, trong cùng một trú xứ.
[56] Hết quyển 40

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 60 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Vầng sáng từ phương Đông


Sống và chết theo quan niệm Phật giáo


Lược sử Phật giáo


Tự lực và tha lực trong Phật giáo

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.12.34.150 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập