BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Tích truyện Pháp Cú
Thiền viện
Viên Chiếu
Nguyên tác:
"Buddhist Legends", Eugene Watson Burlingame
[XXVI-c]
33. Jotika Và
Jatila
Ai ở đời đoạn ái ...
Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài
đang ở Trúc Lâm, liên quan đến Tôn giả Jatila.
Chuyện quá khứ:
33A. Aparàjita,
Tiền Thân Của Jotika
Ngày xưa, ở xứ Ba-la-nại có hai anh em
điền chủ trồng được một ruộng mía thật lớn. Một hôm người em thăm mía, nghĩ
thầm: "Mình sẽ chặt cho anh ấy một cây, còn mình ăn một cây". Chàng
chặt hai cây mía, bịt kín chỗ vừa chặt lại để nước mía khỏi chảy mất rồi cầm về
nhà. Ngay khi người em chặt mía đem về nhà, tại Gandhamàdana có một vị Phật Ðộc Giác xuất định, thầm nghĩ:
"Hôm nay ta sẽ độ ai đây?" Và Ngài quan sát thấy người điền chủ. Biết
rõ chàng có khả năng bố thí, đức Phật Ðộc Giác đắp y mang bát dùng thần thông
hiện đến trước mặt. Người em trông thấy Ngài lòng rất hoan hỉ. Chàng trải áo
khoác lên chỗ đất cao, thưa:
- Bạch Ngài, thỉnh Ngài an tọa.
Và chàng bạch tiếp:
- Xin Ngài đưa bát cho con.
Chàng mở chỗ bịt cây mía, đưa lên cao
và dốc vào bình bát đức Phật, nước mía chảy ra đầy bát. Ngài dùng xong, người em
lại nghĩ: "Thật may mắn cho ta, vị thầy cao quý của ta đã dùng hết bát
mía. Nếu anh mình đòi tiền cây mía của ổng, ta sẽ trả. Còn nếu ổng đòi được
hưởng phần phước đức cúng dường, ta sẽ hồi hướng cho ổng". Thế là chàng
bạch Phật:
- Bạch Ngài, xin Ngài đưa bình bát cho
con lần nữa.
Chàng mở chỗ bịt, dốc cây mía thứ hai,
trút nước vào bình bát Phật. Hình như chàng không hề nghĩ: "Anh mình sẽ
kiếm chặt cây mía khác để ăn".
Vì đã dùng xong một bát rồi, vị Phật
Ðộc Giác muốn chia xẻ nước mía cây thứ hai cho các vị Phật khác. Ngài ngồi
xuống chỗ cũ. Hiểu ý, người em gieo năm vóc sát đát, đảnh lễ Ngài, phát nguyện:
- Bạch Ngài, với công đức cúng dường
này con xin được hưởng lạc thú ở cõi trời và cõi người, và sau cùng, xin cho
con đạt đến chỗ Ngài đã chứng đắc.
Ðức Phật đáp:
- Sẽ được vậy.
Ðể hồi hướng công đức, Ngài đọc hai bài
kệ bắt đầu bằng câu: "Nguyện cho tất cả mong cầu của thí chủ thành tựu
viên mãn".
Xong, Ngài bay lên không trung đến Gandhamàdana và phân chia bát nước mía cho
năm trăm vị Phật Ðộc Giác.
Chứng kiến cảnh vi diệu ấy, người em về
gặp anh, người anh hỏi:
- Nãy giờ chú đi đâu?
- Em ra thăm ruộng mía.
- Chú ra ruộng mía mà không đem cây nào
về ăn?
- Có anh ạ, em mang về hai cây, gặp một
vị Phật Ðộc Giác em đã cúng dường cây của em. Rồi em nghĩ sẽ trả tiền cây mía
thứ hai của anh cho anh, hoặc sẽ hồi hướng phần phước đức cho anh, nên em cúng
luôn Ngài. Nào, anh định lấy tiền hay phước đức?
- Vị Phật ấy đã đáp lại ra sao?
- Ngài dùng bát nước mía cây thứ nhất
và bay lên không mang bát nước cây thứ hai về Gandhamàdana
chia cho năm trăm vị Phật Ðộc Giác khác.
Nghe xong rồi, người anh vô cùng hoan
hỉ. Chàng phát nguyện:
- Với phước đức cúng dường này, con xin
được chứng đắc đạo quả như vị Phật Ðộc Giác ấy.
Trong khi người em nguyện ba điều,
chàng chỉ nguyện một câu được đắc A-la-hán.
Lúc mãn kiếp, hai anh em đều sanh lên
cõi trời và sống suốt thời gian giữa hai vị Phật. Khi họ ở cõi trời, đức Phật
Tỳ-bà-thi xuất hiện ở thế gian. Hết phước cõi trời hai người tái sanh trong một
gia đình Trưởng giả ở Bandhumatì,
cũng làm anh em. Cha mẹ đặt tên cho người anh là Sena, em là Aparàjita.
Ðến tuổi trưởng thành, cả hai người đều
lập gia đình. Một hôm, gia chủ Sena
nghe tin truyền khắp thành Bandhumatì.
- Phật bảo đã xuất hiện ở thế gian,
Pháp bảo đã xuất hiện ở thế gian. Tăng bảo đã xuất hiện ở thế gian. Hãy bố thí
cúng dường và tạo phước. Hãy ăn chay vào các ngày mồng 8, 14 và rằm. Hãy đi
nghe thuyết pháp.
Sena thấy dân chúng kéo nhau đi cúng
dường vật thực trước bữa điểm tâm, và sau bữa điểm tâm, họ lại lũ lượt đi nghe
pháp. Ông hỏi:
- Các vị đi đâu thế?
- Ði nghe đức Thế Tôn thuyết pháp.
- Tôi cũng đi nữa.
Chàng theo chân đám đông đến ngồi vòng
ngoài pháp hội. Ðức Phật biết được tư tưởng ông liền giảng pháp từ thấp đến
cao. Nghe rồi, Sena muốn xuất gia
làm Sa-môn nên thỉnh cầu Phật nhận ông vào Tăng đoàn.
Ðức Phật hỏi:
- Này thiện nam tử, ông có bà con quyến
thuộc gì cần phải xin phép trước không?
- Bạch Thế Tôn, có ạ.
- Vậy ông hãy đến xin phép rồi trở lại
gặp Ta.
Sena về nhà bảo em trai:
- Tất cả gia tài này từ đây thuộc về
chú.
- Ủa, còn anh thì sao?
- Ta định xuất gia làm Sa-môn đệ tử
Phật.
- Thưa huynh trưởng, anh nói gì thế?
Khi mẹ mất, anh là mẹ em. Khi cha mất, anh là cha em. Gia sản chúng ta rất lớn.
Người ta vẫn có thể sống đời cư sĩ và làm việc phước thiện chứ. Xin anh đừng
xuất gia.
- Ta đã nghe đức Thế Tôn giảng pháp, và
ta không thể tu hành đúng pháp nếu còn sống lẫn lộn với người thế tục. Ta đã
nhất quyết xuất gia làm Sa-môn rồi chú ạ. Thôi, chú về đi.
Sena ra lịnh bảo em về nhà rồi, liền
đến tinh xá xin Phật xuất gia. Chàng được thọ cu túc giới và chẳng bao lâu đắc
quả A-la-hán.
Người em suy nghĩ: "Ta sẽ theo lệ
thường cúng dường nhân dịp anh xuất gia". Suốt bảy ngày chàng cúng dường
vật thực cho đức Phật và chư Tăng. Xong, chàng đảnh lễ anh và thưa:
- Bạch Ngài, Ngài đã được ra khỏi sanh
tử luân hồi, con thì còn bị ngũ dục ràng buộc, chưa thể xuất gia làm Sa-môn.
Xin Ngài dạy cho biết, con nên làm việc gì, để được phước đức lớn trong lúc
sống đời cư sĩ như vầy.
- Hay lắm. Chú hãy cất một hương thất
cho đức Thế Tôn.
- Dạ được.
Chàng cho mua đủ các loại gỗ, đẽo gọt
bào chuốt thành cột, kèo, v.v.. để cất thất. Ván gỗ đều khảm vàng, bạc, châu
ngọc, và rồi một hương thất rực rỡ toàn bằng gỗ khảm bảy báu đã hoàn thành. Mái
thất cũng lợp ngói khảm bảy báu.
Trong lúc hương thất đang được thi công
xây dựng, người cháu mang cùng tên với chàng, Aparàjita
đi đến nói:
- Thưa chú, cháu cũng muốn đóng góp
chút đỉnh. Chú hãy cho cháu kiếm phước với nhé.
- Cháu thân mến, chú không thể đáp ứng
yêu cầu của cháu được. Chú định cúng dường một công trình mà phần phước đức
không thể chia sẻ cho ai.
Người cháu cố nài nỉ vẫn không được.
Sau đó, nghĩ rằng trước hương thất cần một chuồng voi, anh ta bèn cất một cái
toàn bằng bảy báu. Trong kiếp hiện tại, người cháu ấy thọ sanh làm quan chưởng
khố Ram ở Mendaka.
Hương thất có ba cửa sổ thật rộng cũng
toàn bằng bảy báu. Bên dưới các cửa sổ, người chú Aparàjita cho xây ba bể trồng hoa sen, bên ngoài bể còn được
tô thêm một lớp vữa Stucco. Bể
xây rồi, chàng cho đổ đầy bốn loại nước thơm và trồng năm màu hoa sen khác
nhau. Chót vót trên đỉnh tháp nhọn hình quả chuông của ngôi hương thất, người
ta đặt một chiếc bát bằng vàng trong đựng đầy phấn hoa để khi đức Phật ngồi bên
trong, gió sẽ mang phấn hoa rải khắp kim thân Ngài. Ðỉnh tháp bằng san hô, dưới
cẩn ngói nạm bảy báu, lộng lẫy uy nghi như một con công đang xòe cánh múa.
Những loại châu ngọc nào trong thất bảo
có thể tán thành bột được, Aparàjita
cho tán hết ra rải khắp hương thất. Còn những loại không tán được, chàng đổ đầy
bên trong và bên ngoài hương thất ngập đến đầu gối.
Hoàn tất mọi việc rồi, chàng đi gặp vị
Sa-môn anh mình, thưa:
- Bạch Ngài, hương thất đã cất xong.
Con muốn thỉnh đức Thế Tôn đến nạp thọ cho con được ân triêm công đức.
Tôn giả vào bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, cư sĩ này đến trình
rằng đã cất xong một hương thất và xin thỉnh Thế Tôn đến nạp thọ.
Ðức Phật đi đến cửa hương thất liền
dừng lại nhìn ngắm đám châu ngọc rải đầy trong thất. Aparàjita bạch:
- Bạch Thế Tôn, thỉnh Ngài vào.
Chàng thưa thỉnh ba lần, đức Phật vẫn đứng
yên lặng. Không biết tính sao, chàng đưa mắt ngó anh.
Tôn giả hiểu ý, bảo em:
- Này em, hãy đứng trước Ngài và thưa
như vầy: "Ðức Thế Tôn là nơi nương tựa duy nhất của con. Xin thỉnh Ngài an
trú tại hương thất này".
Vâng lời, chàng đến gieo năm vóc sát
đất, đảnh lễ Phật và bạch:
- Bạch Thế Tôn, như người sau khi ẩn
trú qua đêm dưới gốc cây, ra đi không chút bận tâm về cây, như người khi qua
sông bỏ lại bè sau lưng không thắc mắc, con thỉnh cầu đức Thế Tôn an trú trong
ngôi nhà này, chẳng phải bận lòng với đám châu báu.
Tại sao đức Phật dừng lại ở cổng? Người
ta nói rằng Ngài nghĩ: "Dân chúng sẽ kéo đến gặp Như Lai trước và sau bữa
điểm tâm. Nếu họ kiếm cách lấy châu ngọc đi, chúng ta không thể ngăn họ. Nhưng
thí chủ này biết đâu lại nghĩ: Thính chúng của Ngài lấy hết của báu trong hương
thất mà Ngài chẳng có ý cản trở. Ông ta sẽ đem lòng oán hận Ta và phải đọa địa
ngục". Thế nên, sau lời tác bạch của Aparàjita,
đức Phật liền tiến vào thất.
Aparàjita cho người gác quanh hương thất
với lịnh:
- Những kẻ nào có ý giấu châu ngọc
trong quần áo hoặc lấy thúng, giỏ đựng, các ông phải ngăn lại. Còn ai hốt nắm
trong tay, hãy cho họ đi.
Chàng loan truyền khắp thành:
- Ta đã rải đầy bảy báu trong hương
thất đức Thế Tôn. Người nào đến nghe pháp có thể lấy một ít. Người nghèo được
hốt đầy hai nắm tay. Người khá giả được hốt một nắm.
Sở dĩ như vậy vì chàng tính:
"Những kẻ có đức tin chỉ đến để nghe pháp. Người chưa tin sẽ do lòng tham
của cải dẫn dụ mà đến, được nghe pháp rồi cũng sẽ thoát khổ". Từ ý định
muốn lợi lạc chúng sanh, chàng cho rao những lời trên.
Người người đi nghe pháp đều lấy châu
báu theo đúng qui định của vị thí chủ. Chàng cho đổ thêm châu ngọc đầy như cũ
một lần, hai lần, roià ba lần. Dưới chân Phật, chàng để một viên ngọc thật lớn,
rất quí giá, với ý nghĩ: "Kẻ nào biết chiêm ngưỡng ánh hào quang chói sáng
từ kim thân Phật sẽ chẳng ưa thích gì ánh sáng viên ngọc quý này". Và quả
thật những ai trông thấy đức Phật rồi chẳng màng nhìn nhõ gì đến viên ngọc nữa.
Một hôm, có người Bà-la-môn tà kiến tự
nghĩ: "Người ta nói có viên ngọc quý đặt ở chân Phật. Ta có thể lấy
nó". Hắn đến hương thất trà trộn vào đám đông đảnh lễ đức Phật. Aparàjita chỉ nhìn cung cách hắn đã biết
hắn có ý chiếm viên ngọc, liền nghĩ: "Ta hy vọng hắn sẽ không lấy".
Người Bà-la-môn sải tay về phía chân
đức Phật, làm bộ như đảnh lễ Ngài, nhón lấy viên ngọc cho vào áo và đi ra.
Vị thí chủ không còn giữ được sự bình
thản đối với người Bà-la-môn. Buổi thuyết pháp vừa xong, chàng đến trước Phật,
thưa:
- Bạch Thế Tôn, đã ba lần con để châu báu
đầy hương thất ngập đến đầu gối. Con chẳng hề có ý tức giận những người lấy
châu báu đi, trái lại con rất hoan hỉ. Nhưng hôm nay con lại nghĩ: "Hy
vọng người Bà-la-môn kia không lấy viên ngọc quí khi hắn vào trong". Ðến
lúc thấy hắn lấy viên ngọc đi thật, con không thể giữ nổi bình tĩnh.
Nghe xong, đức Phật bảo:
- Này thiện nam tử, người không thể
ngăn cản những người khác lấy của cải của ngươi ư?
Và Ngài dạy chàng một cách. Aparàjita vâng lời, đảnh lễ Phật, phát
nguyện:
- Từ nay trở đi, xin cho vua hoặc kẻ
trộm dù đông đảo đến mấy cũng không lấy được gia sản con dù một sợi chỉ. Xin
cho tài sản con không bao giờ bị lửa đốt, hoặc bị nước cuốn trôi.
Ðức Phật nói:
- Sẽ được vậy.
Và Ngài hồi hướng công đức cho thí chủ.
Ðến ngày khánh thành hương thất, Aparàjita cúng dường vật thực và rất nhiều
quà tặng cho sáu triệu tám trăm ngàn vị Tỳ-kheo của tinh xá suốt chín tháng.
Hết kỳ cúng dường chàng cúng thêm mỗi vị Tỳ-kheo ba y, và cúng nhiều khúc vải
may y cho vị Sa-di của Tăng đoàn đáng giá đến một ngàn đồng. Làm việc phước
thiện như vậy đến mãn kiếp, chàng được tái sanh lên cõi trời. Sau nhiều kiếp ở
cõi trời và cõi người, vào thời đức Phật hiện tại, chàng sanh vào nhà một quan
chưởng khố ở Vương Xá, và ở trong thai mẹ chín tháng rưỡi.
Chuyện hiện tại:
33B. Quan Trưởng Khố Jotika
Vào ngày chàng chào đời, tất cả binh
khí trong thành đều xẹt lửa, châu ngọc đeo trên người dân trong thành cũng phát
sáng như muốn bốc cháy, cả thành đều sáng rực. Sơm mai ấy, quan chưởng khố vào
cung chầu vua. Ðức vua hỏi:
- Hôm nay tất cả binh khí đều xẹt lửa,
cả thành đều phát sáng. Khanh biết lý do vì đâu không?
- Muôn tâu, hạ thần biết lý do.
- Gì vậy, quan chưởng khố?
- Dạ hôm nay một thần dân của bệ hạ vừa
chào đời tại nhà hạ thần. Hiện tượng này xảy ra do phước đức của nó.
- Không biết sau này nó có thành tướng
cướp không đây?
- Tâu bệ hạ, không có chuyện ấy. Người
vừa chào đời hôm nay phước rất lớn, do một lời phát nguyện.
- Thế thì chú bé phải được nuôi dưỡng
chu đáo. Ðây là số tiền trẫm cấp cho khanh mua sữa cho nó.
Vua cấp quan chưởng khố mỗi ngày một
ngàn đồng tiền vàng. Ðến ngày đặt tên, chú được gọi là Jotika, kỷ niệm lúc chú chào đời ánh sáng
rực rỡ khắp thành.
Ðến tuổi Jotika lập gia đình, người ta lo dọn đất cất nhà mới, vua Ðế
Thích thấy ngai vàng nóng lên: "Chuyện gì đây?" Ngài quan sát biết
được họ đang sửa soạn cất nhà cho Jotika,
liền nghĩ: "Người thanh niên này sẽ không ở trong ngôi nhà họ cất. Ta có
bổn phận phải đến đây".
Ngài cải trang thành thợ mộc xuống chỗ
bọn người đang làm:
- Các ông làm gì thế?
- Chúng tôi sửa sang đất đai để cất nhà
cho Jotika.
- Thôi, đi đi. Các ông chẳng xây được
nhà cho ông ấy đâu.
Ðế Thích chỉ nhìn mảnh đất rộng đến
mười sáu karìsa một lần, lập tức
nó trở nên bằng phẳng. Ngài nhìn thêm một lần nữa, nghĩ: "Ðấy hãy nứt ra
và mọc lên cho ta một tòa lâu đài bảy tầng toàn bằng bảy báu".
Một tòa lâu đài như vậy hiện ra. Ðế
Thích lại nhìn lần thứ ba, nói thầm: "Hãy mọc cho ta bảy bức tường bao
quanh tòa lâu đài". Các bức tường liền hiện ra. Ðế Thích lại nhìn một lần
nữa: "Các cây như ý hãy mọc lên thành vòng bao quanh các tường". Cây
liền hiện ra. Ðế Thích nhìn một lần nữa: "Hãy hiện cho ta bốn vạc đầy châu
báu tại bốn góc chân tòa lâu đài". Bốn vạc châu báu liền có.
Trong số các vạc châu báu, có vạc rộng
gần năm cây số, có vạc rộng hơn ba cây số, vạc thì hơn hai cây số, và vạc cuối
cùng rộng một cây số. Trường hợp Phật ra đời, các vạc châu báu xuất hiện có
đường kính miệng bằng nhau, còn đường kính ở đáy bằng chu vi quả đất. Ðường
kính các vạc châu báu xuất hiện tại nhà Jotika
không biết rõ được bao nhiêu. Khi chúng hiện ra, châu ngọc đầy ngập giống như
hạt thốt nốt căng đầy cơm khi ta cắt bỏ chỗ vỏ đầu hạt vậy. Ngoài ra, tại bốn
góc tòa lâu đài còn xuất hiện bốn cây mía bằng vàng, mập mạp như những cây thốt
nốt tơ đang độ lớn. Lá mía toàn bằng ngọc quý, thân mía bằng vàng. Người ta cho
rằng những cây mía này biểu hiện phước đức của Jotika
gieo trồng trong kiếp trước. Bảy lớp cửa tòa lâu đài do bảy dọa xoa
canh phòng. Cửa thứ nhất do dạ xoa Jamakolì canh
cùng một ngàn quyến thuộc. Cửa thứ hai do dạ xoa Uppala canh với hai ngàn quyến thuộc. Cửa thứ ba do Vajira và ba ngàn quyến thuộc. Cửa thứ tư
do Vajirabàhu và bốn ngàn quyến
thuộc. Cửa thứ năm do dạ xoa Kasakanda và
năm ngàn quyến thuộc. Cửa thứ sáu do dạ xoa Katattha
và sáu ngàn quyến thuộc. Cửa thứ bảy do dạ xoa Disàpàmukha và bảy ngàn quyến thuộc. Vậy
là tòa lâu đài được canh phòng chặt chẽ cả trong lẫn ngoài. Vua Bình Sa Vương
nghe Jokita làm chủ tòa lâu đài
bảy tầng bằng bảy báu, có bảy lần tường và cửa bao quanh, và bốn vạc châu báu ở
bốn góc, liền ban cho chàng chiếc lọng chưởng khố. Từ đó, người ta gọi chàng là
quan chưởng khố Jotika.
Thuở ấy, có một phụ nữ từng làm việc
phước thiện với quan chưởng khố Jotika,
tái sanh ở Uttarakuru. Chư Thiên
mang cô đến ở trong một căn phòng lộng lẫy chẳng kém cung vua, trong tòa lâu
đài của Jotika. Cô gái chỉ mang
theo làm của hồi môn một nồi gạo chừng nửa lít và ba miếng kính cháy đỏ. Từ
đấy, nồi gạo cung cấp đủ cơm cho gia đình Jotika
ăn đến hết đời. Người ta kể, nếu họ muốn đổ đầy cơm lên một trăm cỗ
xe, nồi gạo vẫn không vơi đi chút nào. Mỗi khi cần nấu, họ chỉ việc lấy gạo cho
vào nồi đặt lên ba miếng kính. Chúng cháy đỏ rực lên, khi cơm chín chúng liền
tắt. Muốn nấu nước xốt hay món cà-ri, họ cũng làm theo cách ấy. Tất cả thức ăn
của gia đình đều chỉ nấu bằng ba tấm kính. Họ sống trong ánh sáng của châu ngọc
quí, không biết đến ánh lửa hay đèn.
Tiếng đồn về sự giàu có vinh hiển của
quan chưởng khố Jotika lan khắp
xứ Diêm-phù-đề. Người người lũ lượt kéo nhau di trên những cỗ xe ngựa và đủ thứ
xe cộ khác để đến xem. Quan chưởng khố cho lấy thứ gạo mang từ Uttarakuru nấu cháo yến mạch thết đãi tất
cả khách khứa ăn uống thỏa thích. Ông còn loan báo:
- Mọi người được phép tự do lấy quần áo
và châu ngọc trên các cây như ý.
Vị thí chủ sai mở vạc châu báu lớn hơn
một cây số, phân phát khắp nơi: "Xin mời bà con cứ lấy đủ số châu báu mình
cần".
Dân chúng Diêm-phù-đề tha hồ hỉ hả
khuân vác vàng ngọc đi rồi, vạc châu báu chẳng vơi một ly nào. Người ta cho đây
là phước báo do Jotika đã rải đầy
châu ngọc trong hương thất Phật. Số người kéo đến lâu đài Jotika để lấy áo quần, châu ngọc, tiền
bạc, đông đảo đến nỗi lúc ấy, vua Bình Sa Vương muốn đến xem tòa lâu đài cũng
đành chịu. Dần dà, chán chê rồi số người xem từ từ giảm bớt. Vua Bình Sa Vương
bèn bảo phụ thân Jotika:
- Trẫm muốn xem lâu đài của con khanh.
- Tâu bệ hạ, xin vâng.
Ông về nhà kêu Jotika:
- Này con, đức vua muốn đến xem lâu đài
của con đấy.
- Dạ, tốt thôi, thưa cha. Mời Ngài cứ
đến.
Vua ngự giá đến cùng đoàn tùy tùng đông
đảo. Ở cổng thứ nhất của tòa lâu đài, một cô nô lệ có nhiệm vụ quét rác. Thấy
vua, cô đưa tay ra đỡ. Lầm tưởng là một bà vợ của quan chưởng khố, vua Bình Sa
Vương khiêm tốn từ chối, không chịu đặt tay lên cánh tay cô. Tại các cổng khác
cũng có những cô nô lệ giống hệt như thế đưa tay đỡ vua, vua cũng lầm tưởng là
vợ quan chưởng khố nên không chịu vịn tay.
Jotika ra lạy chào vua, đứng sau lưng,
thưa:
- Tâu bệ hạ, xin rước bệ hạ vào.
Nhưng vua nhìn xuống mặt đất khảm châu
ngọc và thấy như đó là một các hố đầy vàng ngọc sâu thăm thẳm, sâu bằng số một
trăm người chồng chất lên nhau. Vua nghĩ: "Người nào đào hầm bẫy ta".
Ngài không dám bước chân tới.
Jotika tiến lên, thưa:
- Tâu bệ hạ, đây chẳng có hầm hố gì cả.
Xin bệ hạ bước theo sau hạ thần.
Vua đi lên dấu chân Jotika, rồi từ từ mạnh dạn đi quanh lâu
đài, nhìn ngắm từ tầng thấp đến tầng cao nhất.
Lúc ấy, Thái tử A-xà-thế cũng nắm tay
cha đi xem. Thái tử nghĩ thầm: "Phụ vương quả thật quá ngốc. Tên Jotika này tuy chỉ là một gia chủ bình
thường cũng có được tòa lâu đài bảy báu để ở. Còn phụ vương làm vua lại chỉ có
một ngôi nhà gỗ. Ta sẽ lên làm vua ngay, và chẳng để cho gia chủ này ở trong
lâu đài một giây nào nữa đâu".
Vua lên đến tầng chót đã gần đến giờ ăn
sáng, liền bảo:
- Này quan đại thần, chúng ta hãy dùng
bữa ở đây.
- Tâu vâng, hạ thần cũng sắp xếp như
thế. Ðồ ngư thiện đã được chuẩn bị sẵn sàng để dâng bệ hạ.
Vua tắm bằng mười sáu bình nước thơm.
Xong, Ngài ngồi trên chiếc sập riêng của Jotika,
dưới mái đình cẩn ngọc. Người hầy dâng vua nước rửa tay và dọn món cháo yến
mạch đặc trong chiếc đĩa vàng đáng giá đến một ngàn đồng, để trước mặt vua.
Tưởng đó là món chính, vua định ăn. Quan chưởng khố vội tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, đây chưa phải món ăn,
chỉ là cháo yến mạch đặc.
Người hầu lúc ấy dâng tiếp món ăn chính
đựng trong chiếc đĩa vàng khác, đặt lên đĩa cháo yến mạch. Người ta cho rằng
làm như thế, món ăn sau có hương vị tuyệt hảo. Nhà vua dùng rất ngon miệng, đến
nỗi đủ rồi mà vẫn cứ ăn.
Quan chưởng khố sụp lạy, chấp tay cung
kính thưa:
- Tậu bệ hạ, chứng ấy là đủ. Cúi xin bệ
hạ dừng lại. Nếu không, bệ hạ sẽ không tiêu nổi.
Vua hỏi:
- Này gia chủ, tại sao khanh chê trách
thức ăn mình?
- Muôn tâu, hạ thần chẳng dám có ý chê
trách. Tất cả đoàn tùy tùng của bệ hạ đều được hạ thần đãi cùng món yến mạch và
cà-ri này. Nhưng hạ thần lo cho bệ hạ.
- Sao?
- Nếu lỡ gặp lúc bệ hạ không được khỏe,
người ta sẽ nói: "Hôm qua vua ngự thiện ở nhà quan chưởng khố. Chắc quan
cho làm món ăn sao đó mới ra nông nỗi". Muôn tâu, hạ thần sợ những lời ấy
lắm.
- Thôi được. Dẹp thức ăn đi và đem nước
cho trẫm.
Nhà vua dùng bữa xong thì đoàn tùy tùng
mới được thết đãi, cũng những món ấy.
Trong khi vui vẻ trò chuyện với quan
chưởng khố, vua hỏi:
- Này khanh, không có bà vợ nào của
khanh sống tại lâu đài này ư?
- Muôn tâu, có ạ.
- Phu nhân đâu?
- Muôn tâu, bà ấy đang nghỉ trong phòng,
không hay có bệ hạ đến.
(Mặc dù vua và đoàn tùy tùng tới chơi
từ sáng sớm, phu nhân quan chưởng khố không hề hay biết)
Quan chưởng khố nghĩ: "Rõ ràng đức
vua muốn gặp phu nhân".
Ông đến phòng vợ, bảo:
- Ðức vua đã đến Chẳng phải bà có bổn
phận đi chào đức vua sao?
Phu nhân vẫn nằm yên không nhúc nhích,
chỉ hỏi:
- Ông à, người ông kêu là vua ấy là ai?
- Là quốc vương của chúng ta.
Phu nhân có ý bất mãn:
- Chúng ta còn có vị quốc vương đầy đủ
uy quyền đối với chúng ta, nghĩa là việc phước thiện chúng ta đã làm có phần
nào lỗi lầm trong ấy. Chắc chúng ta đã thiếu lòng tin, nên vinh hiển như vầy
vẫn phải làm thần dân người khác. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta đã cúng
dường thiếu lòng tin, và đây là quả báo.
Trút xong sự bất bình, phu nhân hỏi
tiếp:
- Ông à, giờ tôi phải làm gì?
- Bà cầm quạt thốt nốt này đến quạt hầu
đức vua.
Trong lúc đứng quạt, mùi nước hoa từ
long bào vua bay vào mắt làm phu nhân chảy hai dòng lệ. Vua thấy, bảo quan
chưởng khố:
- Này khanh, đàn bà thật kém thông
minh. Chắc phu nhân đang nghĩ: "Nhà vua sẽ đoạt hết của cải chồng ta"
nên sợ mà khóc đấy. Khanh hãy bảo bà ấy yên tâm. Trẫm chẳng hề khao khát của
cải nhà khanh.
- Muôn tâu, không phải bà ấy khóc ạ.
- Vậy thì sao?
- Dạ, chỉ vì mùi nước hoa trên long bào
bệ hạ nồng quá làm bà ấy chảy nước mắt thôi. Thật sự, bà ấy chưa bao giờ gần
ánh đèn hoặc gần lửa. Khi ăn, khi ngồi, khi nghỉ ngơi cũng chỉ dưới ánh sáng
châu ngọc. Muôn tâu, chắc bệ hạ vẫn sử dụng ánh đèn?
- Ðúng vậy.
- Tâu bệ hạ, từ hôm nay xin mời bệ hạ
thử sử dụng ánh sáng châu ngọc.
Quan chưởng khố dâng vua một hòn ngọc
cực lớn. Vua ngắm nhìn ngôi nhà hồi lâu, tự nghĩ: "Jotika quả giàu thật".
Rồi Ngài từ giã.
Chuyện hiện tại:
33C. Tôn Giả Jatila
Bây giờ nói đến chuyện Jatila.
Thuở ấy, tại xứ Ba-la-nại có quan
chưởng khố sinh được cô con gái vô cùng diễm lệ. Khi nàng chừng mười lăm, mười
sáu tuổi, cha mẹ buộc phải ở trên tầng cao nhất của tòa lâu đài bảy tầng, trong
một căn phòng đẹp không kém cung vua, và chỉ để cô tớ gái ở cùng, canh chừng
nàng. Một hôm, mỹ nhân vừa ngước mắt nhìn ra cửa sổ, thần Vijjàdhara bay ngang trông thấy liền say
mê nàng. Thần bay qua cửa sổ vào phòng, cùng nàng chung chăn gối. Chẳng bao
lâu, nàng thọ thai. Cô tớ gái biết, hỏi:
- Thưa tiểu chủ, thế này là sao?
- Ôi, em đừng nói với ai!
Cô sợ, bèn giữ êm. Mười tháng sau cô
chủ sanh một đứa bé trai. Nàng sai mua một chiếc thùng mới đặt đứa nhỏ vào phủ
tràng hoa lên trên, biểu cô tớ gái:
- Em hãy đội thùng ra sông Hằng và thả
trôi giùm ta.
Nàng dặn thêm:
- Nếu có ai hỏi thùng đựng gì, cứ nói
đồ tạ lễ của ta dâng cúng!
Cô tớ gái làm y theo lời chủ.
Dưới hạ lưu sông Hằng, hai phụ nữ đang
tắm. Trông thấy chiếc thùng mới bị dòng nước cuốn phăng phăng, một bà kêu lên:
- Cái thùng ấy của tôi đa nghen.
Bà kia la tiếp:
- Trong thùng có cái gì là của tôi đó.
Thùng trôi đến chỗ hai bà. Họ vớt lên
và mở ra, thấy chú bé. Bà thứ nhất nói:
- Thằng bé này của tôi. Tôi có nói
chiếc thùng ấy của tôi.
Bà kia cãi:
- Nó là của tôi chứ. Tôi đã nói trong
thùng có cái gì thì thuộc về tôi mà.
Hai bà tranh cãi mãi, sau bèn kéo nhau
ra tòa. Các vị quan tòa cũng bất lực, không dàn xếp nổi nên đưa lên triều đình.
Vua lắng nghe hai bà cãi lý rồi phán:
- Bà này lấy đứa nhỏ. Bà kia lấy chiếc
thùng.
Người phụ nữ được đứa bé lại là một thí
chủ của Tôn giả Mahà Kaccàna. Bà
nuôi chú bé với ý định: Ta sẽ cho thằng bé gia nhập Tăng đoàn của Tôn giả.
Ngày lễ sinh nhật đến, cậu được đem tắm
cho thật sạch những vết do sanh sản, tóc cậu bỗng biến thành bím, do đó cậu
được đặt tên Jatila. Khi cậu bé
bắt đầu biết đi, Tôn giả đến nhà khất thực. Bà Phật tử đem ghế mời Tôn giả
ngồi, cúng dường thức ăn. Thấy chú bé, Tôn giả hỏi:
- Này thiện tín, bà có con trai sao?
- Vâng, bạch Ðại Ðức. Con nuôi với ý
định xin cho nó gia nhập Tăng đoàn Tôn giả. Xin Tôn giả rủ lòng thương nhận nó.
- Ðược.
Và Tôn giả dắt chú bé về.
Vừa đi Tôn giả vừa nghĩ: "Chẳng
biết nó đủ phước làm một gia chủ giàu có không đây". Ngay đó, Tôn giả biết
được cậu có phước báo rất lớn, sau sẽ giàu sang tột bực. Nhưng giờ cậu còn bé
quá, chưa hiểu biết chín chắn. Tôn giả bèn dẫn cậu đến thành Hoa Thị, vào nhà
một thí chủ quen. Gia chủ đảnh lễ Tôn giả, thấy cậu bé, liền hỏi:
- Bạch Ðại đức, cậu bé này theo Ngài?
- Phải, đạo hữu ạ. Cậu bé sẽ vào Tăng
đoàn. Mà cậu còn bé quá. Ông hãy cho cậu ở đây ít lâu.
- Thưa vâng.
Vị thí chủ thương yêu chăm sóc cậu như
con. Nhà ông tích trữ hàng hóa cả mười hai năm rồi. Một hôm, có việc đi qua
làng bên, ông đem hết số hàng hóa tồn trữ chất trong một cửa tiệm, bảo cậu ở đó
và dặn dò giá tiền của mỗi món hàng.
- Món này giá chừng ấy chừng ấy, món
kia giá như vậy, như vậy. Nếu con nghe người ta trả giá ấy, nhớ bán nhé.
Xong, ông ra đi.
Chư Thiên bảo hộ thành đưa hết khách
hàng đến tiệm cậu, cả những người cần mua hạt tiêu hoặc hạt thì là. Kết quả:
Chỉ một ngày cậu bán sạch số hàng tích trữ mười hai năm. Gia chủ về thấy cửa
tiệm trống trơn, hỏi:
- Con ơi, hàng mất hết rồi sao?
- Dạ, đâu có mất. Ngài để lại món gì
con đều bán hết theo lời Ngài dạy. Ðây là tiền bán.
Gia chủ vô cùng hân hoan.
- Cậu bé này đúng là quí nhân. Cậu có
thể sống bất cứ đâu cũng no đủ.
Cô con gái ông đã đến tuổi kén chồng.
Ông kêu người cất nhà và gả con cho cậu. Nhà xây xong, ông giục con rể:
- Con về nhà riêng ở đi.
Jatila vừa đặt chân lên ngưỡng cửa ngôi
nhà chàng, đất sau nhà bỗng nứt ra và một núi vàng cao bốn chục mét vọt lên.
Vua nghe tin có núi vàng từ dưới đất hiện lên sau nhà Jatila liền ban cho chàng chiếc lọng quan
chưởng khố. Và chàng được gọi là chưởng khố Jatila.
Quan chưởng khố có ba con trai. Khi
chúng trưởng thành, ông muốn xuất gia làm Sa-môn. Ông thầm tính: "Nếu có
vị chưởng khố nào gia thế giàu có như ta, họ mới cho ta xuất gia. Và ông quyết
tìm cho ra. Ông cho đúc một viên gạch, một chiếc roi, một dây thừng bằng vàng,
trao cho gia nhân bảo:
- Các ông mang những thứ này đi khắp xứ
Diêm-phù-đề, giả bộ như không có mục đích gì, ngầm kiếm cho ta một quan chưởng
khố cũng giàu có ngang bằng ta. Kiếm được rồi thì về đây.
Ðám gia nhân đi từ vùng này đến xứ nọ,
cho đến một hôm họ đặt chân đến thành Bhaddiya.
Quan chưởng khố Ram, Mendaka đang ở tại thành, trông thấy
đám gia nhân của Jatila, hỏi:
- Này các bạn, các bạn đi đây đi đó có
mục đích gì không?
- Chúng tôi chẳng có mục đích gì cả.
Quan chưởng khố thầm nghĩ: "Không
thể có chuyện mấy người này đi đây đi đó tay cầm mấy vật kia, lại không có mục
đích. Rõ ràng họ đang đi xem xét khắp vùng". Ông nói thêm với đám gia
nhân:
- Mời các bạn vào xem vườn nhà chúng
tôi.
Ðám người kéo nhau vào, thấy trên một
khu đất thật rộng có những con cừu vàng to bằng con voi, hoặc bằng con ngựa,
hoặc bằng bò tót, đang nhảy nhót lung tung, đập lưng vào nhau, cày đất nứt nẻ
lên từng đường. Ði quanh nhìn ngắm đám cừu hồi lâu, họ rời sân. Quan chưởng khố
Ram hỏi:
- Sao, các bạn gặp thứ muốn tìm rồi
chứ?
- Bẩm vâng, thưa đại quan, chúng con đã
tìm được.
- Vậy thì xin chào.
Ông ra dấu từ giã. Bọn gia nhân đi thẳng
về nhà chủ mình. Quan chưởng khố Jatila
hỏi:
- Các bạn kiếm được quan chưởng khố nào
giàu bằng nhà ta không?
- Thưa chủ nhân, Ngài giàu chưa thấm
tháp vào đâu. Quan chưởng khố Ram
ở thành Bhaddiya giàu tới mức vầy
nè.
Họ kể lại chuyện.
Nghe xong, quan chưởng khố rất hoan hỉ,
nghĩ thầm: "Ta kiếm được một người rồi. Chẳng biết còn ai nữa
không?".
Ông đưa cho gia nhân một tấm chăn đáng
giá một trăm ngàn đồng tiền vàng, bảo:
- Các bạn hãy đi kiếm xem có nhà quan
chưởng khố nào như vậy nữa không.
Chuyến này họ đến thành Vương Xá, chất
một đống củi gần nhà quan chưởng khố Jotika
và châm lửa đốt. Người ta hỏi lý do, họ đáp:
- Chúng tôi mang theo một tấm chăn rất
quí, định bán mà chưa kiếm được người mua. Sợ mang theo bị cướp, chúng tôi tính
đốt mới tiếp tục cuộc hành trình được.
Quan chưởng khố Jotika thấy họ, hỏi gia nhân:
- Mấy người kia làm gì thế?
Sau khi nghe chuyện, ông cho gọi họ
đến, bảo:
- Tấm chăn giá bao nhiêu?
- Thưa, một trăm ngàn đồng.
Jotika kêu đưa cho họ một trăm ngàn
đồng, rồi nói:
- Các ông đem giùm tấm chăn này cho cô
tớ gái đang quét rác ở cổng lâu đài ta. Cô kia nhận tấm chăn òa lên khóc, vào
gặp quan, nói:
- Thưa chủ nhân, nếu con có lỗi lầm gì
sao Ngài không đánh đập con? Ngài lại cho con tấm chăn thô xấu thế này. Con làm
sao may quần áo, may áo choàng?
- Ta cho cô tấm chăn chẳng phải để cô
may đồ. Cô có thể cuộn nó lại để ở chân giường, sau khi rửa chân bằng nước
thơm, cô dùng nó lau chân. Ðược chưa?
- Bẩm vâng, thế thì được ạ.
Lúc ấy, cô gái mới chịu ôm tấm chăn đi
ra.
Ðám gia nhân Jatila chứng kiến sự việc ấy, về nhà nghe chủ hỏi:
- Các bạn kiếm được ai giàu bằng nhà ta
chưa?
Họ vội đáp:
- Thưa chủ nhân, Ngài giàu thực chẳng
thấm vào đâu. Quan chưởng khố Jotika
thành Vương Xá giàu tới vậy nè.
Họ miêu tả cảnh giàu sang trong lâu đài
Jotika, rồi kể câu chuyện tấm
chăn. Nghe xong, ông càng vui vẻ, nói:
- Bây giờ ta có thể xin xuất gia làm
Sa-môn được rồi.
Ông vào hoàng cung tâu vua:
- Tâu bệ hạ, thần muốn xuất gia làm
Sa-môn.
- Ðược thôi, khanh cứ làm theo ý muốn.
Jatila về nhà gọi hết các con đến, trao
cho con trai trưởng chiếc xẻng bằng vàng, bảo:
- Con đi ra núi vàng phía sau nhà lấy
cho ta một cục vàng.
Người con cầm xẻng xúc vào núi vàng,
anh cảm thấy như xúc vào đá cứng. Jatila
lấy xẻng trong tay con trai trưởng, trao cho con trai thứ, bảo làm y như trước.
Người con này cũng như anh, xúc vào vàng chỉ cảm thấy như xúc vào đá tảng. Jatila trao xẻng cho con út. Anh này cầm
xẻng xúc thì vàng rời ra như đất mềm. Quan chưởng khố bảo:
- Thôi, đủ rồi con.
Ông bảo hai đứa con lớn:
- Núi vàng này không phải của các con.
Nó chỉ thuộc về ta và thằng út. Các con hãy cùng nó chung hưởng giàu sang.
Tại sao núi vàng chỉ thuộc về người cha
và đứa con út? Tại sao quan chưởng khố bị bỏ trôi sông từ lúc còn sơ sanh? Ðây
là quả báo của những việc làm trong một kiếp trước.
Chuyện quá khứ:
33D. Ông Thợ Vàng Và Ba Người Con.
Một kiếp xa xưa, khi ngôi tháp thờ đức
Phật Ca-diếp đang được xây cất. Có một vị A-la-hán đi đến hỏi các thợ xây:
- Các bạn, tại sao mặt tháp phía Bắc
xây nửa chừng thế này?
- Dạ, vì không đủ vàng.
- Tôi sẽ vào làng kêu gọi mọi người
cúng dường. Các ông hãy gắng hết lòng lo công việc.
Ngài vào thành kêu gọi:
- Hỡi thiện nam, tín nữ. Hiện không có
đủ vàng xây mặt tháp phía Bắc. Xin các thí chủ đóng góp.
Sau đó, Ngài đến nhà ông thợ vàng. Gặp
đúng lúc ông đang cãi nhau với vợ. Tôn giả nói:
- Vâng không đủ xây mặt Bắc ngôi tháp
ông nhận lãnh làm. Việc này ông cần phải biết rõ. Ðang tức giận bà vợ, ông đáp:
- Ông hãy liệng đức Thế Tôn của ông
xuống sông rồi đi cho khuất mắt.
Bà vợ trách chồng:
- Ông đã phạm tội đại ác. Ông giận tôi
thì cứ đánh mắng tôi, sao lại sân hận với chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai?
Người thợ vàng lúc ấy mới thấy hối
tiếc. Ông sụp lạy vị A-la-hán thưa:
- Xin Ðại đức hỷ xả cho con.
- Ông đâu có nói gì ta. Hãy sám hối đức
Thế Tôn.
- Bạch Ðại đức, con phải làm gì để được
Phật xá tội?
- Này thiện hữu, ông hãy làm ba bình
bông bằng vàng đặt lên hòm đựng xá-lợi Phật, rồi nhúng ướt tóc và quần áo ông
để đến sám hối đức Thế Tôn.
- Thưa vâng, bạch Ðại đức.
Trong lúc làm những bông hoa vàng, ông
gọi người con trai trưởng lên bảo:
- Con ạ, cha đã nói lời thô ác về đức
Thế Tôn. Sau khi làm xong những hoa này cha sẽ đặt lên hòm xá-lợi Phật và sám
hối. Con đi theo cha nhé.
Người con không muốn đi, đáp:
- Ðâu phải vì con mà cha nói lời thô ác
ấy. Cha đi một mình vậy.
Ông kêu người con thứ. Y cũng không
muốn đi nên trả lời như anh. Ðến người con út, cậu thưa:
- Bổn phận con cái là phải làm những gì
cần làm.
Cậu hứa đi cùng cha đến tháp Phật và
phụ giúp ông làm các bông hoa vàng. Xong ba bình bông, ông nhắm bề rộng của cái
hòm đựng xá-lợi Phật, đặt chúng lên, nhúng ướt tóc và quần áo rồi đến sám hối
Phật.
Chuyện hiện tại:
33E. Phần Kết.
Vì nguyên nhân trên, liên tiếp trong
bảy kiếp Jatila vừa chào đời đã
bị bỏ xuống sông, kiếp này là kiếp cuối cùng. Cũng do vì không phụ giúp cha nên
hai người con lớn chẳng có phần được hưởng núi vàng, chỉ có người cha và con út
được.
Quan chưởng khố sau khi dặn bảo các con
liền xuất gia làm Sa-môn đệ tử Phật. Chỉ vài ngày sau, ông đắc quả A-la-hán.
Một hôm đức Phật và năm trăm thầy
Tỳ-kheo đi khất thực đến nhà các con của Jatila,
họ cúng dường vật thực cho Phật và chư Tăng suốt nửa tháng. Tối lại, các thầy
Tỳ-kheo vào Pháp đường bàn tán:
- Này huynh Jatila, bây giờ huynh có tiếc nhớ núi vàng khổng lồ và các
con của huynh không?
- Thưa chư huynh, tôi chẳng tiếc nhớ
chúng, cũng không hãnh diện vì chúng.
Các thầy bảo nhau:
- Tôn giả Jatila nói dối, phạm tội vọng ngữ.
Ðức Thế Tôn nghe các thầy nói, liền
dạy:
- Này các Tỳ-kheo, đúng là ông ấy chẳng
tiếc nhớ hoặc hãnh diện.
Ngài nói kệ:
(416) Ai ở đời đoạn ái,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Ái hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
34. Vua A Xà Thế Ðánh Chiếm Lâu Ðài Jotika
Ai ở đời đoạn ái ...
Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài
đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến Tôn giả Jotika.
Sau khi âm mưu với Ðề-bà-đạt-đa giết
cha là vua Bình Sa Vương để lên ngôi, vua A-xà-thế tự nghĩ: "Bây giờ ta sẽ
chiếm tòa lâu đài quan chưởng khố". Vua nai nịt, chuẩn bị khí giới như lúc
ra trận, kéo quân đi. Nhưng vừa thấy bóng mình và đoàn quân phản chiếu trên các
bức tường chạm châu ngọc, vua nghĩ: "Chủ nhân đã sẵn sàng khí giới để
chiến đấu, đang cùng gia nhân tiến ra" nên không dám tiến lại gần.
Hôm ấy ngẫu nhiên đúng vào ngày quan
chưởng khố quyết định bắt đầu ăn chay. Từ sáng sớm sau bữa điểm tâm, ông đến
tinh xá ngồi nghe Phật giảng pháp. Thần dạ xoa Yamakoli
gác cổng thứ nhất tòa lâu đài thấy vua A-xà-thế, bèn la:
- Ngươi đi đâu vậy?
Thần đánh cho đoàn binh vua thua liểng
xiểng, tháo chạy tán loạn, và còn rượt theo đánh nữa. Vua A-xà-thế chạy trốn
vào chính ngôi tinh xá quan chưởng khố đang ngồi nghe pháp. Thấy vua ông đứng
dậy:
- Tâu bệ hạ, có việc gì không?
- Này khanh, làm sao mà vừa điều khiển
gia nhân đánh với trẫm xong, khanh lại có thể ngồi đây giả vờ nghe pháp?
- Muôn tâu, bệ hạ đã đến đánh chiếm nhà
hạ thần sao?
- Ðúng vậy.
- Tâu bệ hạ, một ngàn ông vua cũng
không đoạt được nhà hạ thần.
Vua nổi giận:
- Người định chiếm ngôi chăng?
- Tâu không, hạ thần chẳng có ý định
làm vua. Nhưng vua hoặc giặc cướp đều không thể cưỡng đoạt của cải nhà hạ thần,
dù một sợi chỉ.
- Vậy ngươi có đồng ý để ta lấy tòa lâu
đài không?
- Tâu bệ hạ, trên tay hạ thần đây đang
đeo hai mươi chiếc nhẫn. Hạ thần không cho bệ hạ. Bệ hạ thử lấy xem.
Vua ngồi thu mình lấy đà, nhảy lên
không trung tới chín thước. Sau đó vua đứng dậy, phóng lên cao bốn mươi thước.
Dù sức mạnh vô song, vua vặn vẹo cách nào cũng chẳng lôi được một chiếc nhẫn ra
khỏi tay quan chưởng khố. Sau cùng, quan chưởng khố nói:
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ trải áo choàng
ra.
Vua vừa trải áo, quan chưởng khố duỗi
hai bàn tay, hai mươi chiếc nhẫn rơi xuống.
- Muôn tâu, bệ hạ thấy đó. Không ai có
thể cưỡng đoạt của cải hạ thần được.
Hành vi của vua làm quan chưởng khố rất
ngao ngán. Ông thưa:
- Tâu bệ hạ, xin cho phép hạ thần được
xuất gia làm Sa-môn.
Vua nghĩ thầm: "Quan chưởng khố mà
làm Sa-môn, ta sẽ chiếm đoạt tòa lâu đài dễ dàng".
Vua bèn bảo:
- Khanh cứ xuất gia.
Jotika xuất gia làm Sa-môn đệ tử Phật,
chẳng bao lâu đã đắc quả A-la-hán, được mọi người biết đến dưới tên Tôn giả Jotika. Ông vừa đắc quả, tất cả của cải
châu ngọc, phú quí thế gian của ông đều biến mất hết, và chư thiên đưa cô vợ Satulakàyi của ông về xứ Uttarakuru.
Một hôm, các thầy Tỳ-kheo hỏi Tôn giả Jotika:
- Này huynh Jotika, huynh có nhớ tiếc tòa lâu đài hoặc vợ huynh không?
- Thưa chư huynh, không.
Các thầy đến bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, thầy Tỳ-kheo này nói
dối, phạm tội vọng ngữ.
Ðức Phật dạy:
- Này các Tỳ-kheo, đúng là ông ấy chẳng
tiếc nhớ gì những thứ ấy.
Ngài nói kệ:
(416) Ai ở đời đoạn ái,
Bỏ nhà, sống xuất gia,
Ái hữu được đoạn tận,
Ta gọi Bà-la-môn.
35. Người Diễn Kịch Câm Xuất Gia Làm Sa Môn
Bỏ trói buộc loài người ...
Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài
đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến một thầy Tỳ-kheo trước khi xuất gia, là diễn
viên kịch câm.
Có một diễn viên kịch câm đi trình diễn
lang thang đây đó. Một hôm nghe Phật thuyết pháp xong, ông xin xuất gia làm
Sa-môn và đắc quả A-la-hán. Khi đến làng kia khất thực, đức Phật và chư Tăng
trông thấy một diễn viên kịch câm khác đang biểu diễn. Các thầy hỏi thầy
Tỳ-kheo cựu diễn viên:
- Này huynh, ở đàng kia có một diễn
viên kịch câm đang diễn trò như huynh hồi ấy. Huynh có nhớ tiếc cuộc sống cũ
không?
- Thưa chư huynh, không.
Các thầy bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, thầy Tỳ-kheo này nói
dối, phạm tội vọng ngữ.
Ðức Phật dạy:
- Này các Tỳ-kheo, ông ấy đã thoát được
mọi buộc ràng.
Và Ngài nói kệ:
(417) Bỏ trói buộc loài người,
Vượt trói buộc cõi trời,
Giải thoát mọi buộc ràng,
Ta gọi Bà-la-môn.
36. Người Diễn Kịch Câm Xuất Gia Làm Sa Môn
Bỏ điều ưa, điều ghét ...
Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài
đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến một thầy Tỳ-kheo trước khi xuất gia là một
diễn viên kịch câm.
Câu chuyện cũng giống như chuyện trước,
chỉ khác trong trường hợp này, đức Phật dạy:
- Này các Tỳ-kheo, ông ấy đã bỏ điều ưa,
điều ghét.
Ngài nói kệ:
(418) Bỏ điều ưa, điều ghét,
Mát lạnh, diệt sanh y,
Bậc anh hùng chiến thắng,
Nhiếp phục mọi thế giới,
Ta gọi Bà-la-môn.
37. Người Gõ Ðầu Lâu
Ai hiểu rõ hoàn toàn ...
Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài
đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Vangìsa.
Thuở ấy, tại thành Vương Xá có một
người Bà-la-môn tên Vangìsa, có
tài biết được người chết sanh về đâu. Ông cứ việc gõ lên chiếc đầu lâu, rồi
nói:
- Người có chiếc đầu lâu này đã bị đọa
địa ngục. Người kia đã hóa kiếp làm súc sanh, người này vào đường ngạ quỷ, đầu
lâu kia là của một người đã sanh trở lại cõi người.
Một nhóm người Bà-la-môn suy tính:
"Chúng ta có thể dùng người này để chinh phục lòng tin mọi người". Họ
khoác lên mình Vangìsa hai chiếc
áo rộng màu đỏ, đưa ông đi khắp vùng và loan báo:
- Người Bà-la-môn Vangìsa này có thể gõ vào đầu lâu người
chết và biết người chết đã sanh ở cõi nào. Các bạn mau mau đến hỏi xem người
thân của mình chết rồi đi đâu.
Người ta kéo nhau đến, người đưa mười
đồng, kẻ hai mươi đồng, hoặc cả trăm đồng tùy túi tiền, rồi hỏi về số phận của
những người thân đã chết của họ.
Lang thang khắp nơi, một hôm đến thành
Xá-vệ, họ ở lại gần tinh xá Kỳ Viên. Sau bữa ăn sáng, thấy người người lũ lượt
cầm hương hoa các thứ đi nghe giảng pháp, những người Bà-la-môn liền hỏi:
- Các ông các bà đi đâu vậy?
- Ðến tinh xá nghe pháp.
- Nghe pháp thì được gì? Không có ai
hơn ông bạn Vangìsa của chúng tôi
đâu. Ông ấy mà gõ lên đầu lâu người chết là biết được người ấy tái sanh về đâu.
Các ông bà đến hỏi thăm về người thân của mình đi.
Nhóm Phật tử đáp:
- Cái ông Vangìsa ấy biết gì? Ðâu có ai bằng được đức Thế Tôn.
Bọn Bà-la-môn cãi:
- Không ai bằng Vangìsa.
Hai bên tranh luận om sòm. Cuối cùng,
nhóm Phật tử bảo:
- Chúng ta hãy cùng nhau đi xem thử ông
Vangìsa của các ông hay đức Thế
Tôn của chúng tôi ai hơn nhé!
Họ kéo nhau đến tinh xá.
Ðức Phật biết hết chuyện nên cho lấy
năm chiếc sọ đặt thành một hàng, sọ thứ nhất của một người đã bị đọa địa ngục,
sọ thứ hai bị đọa làm súc sanh, sọ thứ ba vào cõi người, sọ thứ tư sanh về cõi
trời và sọ thứ năm của một vị đã đắc A-la-hán. Khi mọi người đến nơi, Phật hỏi Vangìsa:
- Người ta nói ông có thể gõ vào sọ
người chết và nói được người đó đã đi về cõi nào phải không?
- Vâng.
- Vậy sọ này của ai?
- Ðây là sọ một người đã bị đọa địa
ngục.
- Hay thay!
Ðức Phật tán thán xong hỏi về ba chiếc
sọ kế tiếp. Y đều trả lời đúng. Sau mỗi câu trả lời đúng, đức Phật lại tán
thán. Cuối cùng, Ngài hỏi về chiếc sọ thứ năm:
- Sọ này của ai?
Vangìsa gõ lên đầu lâu, rồi thú thật
không biết người ấy đã sanh về đâu. Ðức Phật nói:
- Vangìisa,
ông không biết ư?
- Thưa không, con không biết.
- Ta biết.
Vangìsa thỉnh cầu:
- Xin Ngài hãy dạy cho con thuật này.
- Ta không thể dạy cho một người không
phải Sa-môn.
Ông Bà-la-môn nghĩ: "Giá ta biết
được huyễn thuật này, ta sẽ là người số một trên toàn cõi Ấn Ðộ". Y bảo
những người Bà-la-môn đồng bọn:
- Các bạn hãy tìm chỗ ở lại đâu đó vài
ngày. Tôi định xuất gia làm Sa-môn.
Y xin xuất gia làm Sa-môn đệ tử Phật,
và được gia nhập Tăng đoàn. Các thầy Tỳ-kheo gọi là Tôn giả Vangìsa. Ðức Phật trao cho thầy Tỳ-kheo đề
mục thiền quán là ba mươi hai thứ cấu tạo nên thân.
- Ông phải lặp đi lặp lại cho thuộc
những thứ này mới học huyễn thuật kia được.
Thầy y theo lời Phật dặn. Các người
Bà-la-môn thỉnh thoảng đến thăm chừng, hỏi:
- Ông học được huyễn thuật chưa?
- Xin các bạn đợi ít lâu. Tôi đang học
đây.
Vài ngày sau, thầy đắc A-la-hán. Khi
những người Bà-la-môn đến nữa, thầy nói:
- Này các huynh đệ, bây giờ tôi không
thể học nó.
Các thầy Tỳ-kheo nghe vậy, bèn đến bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn, thầy Tỳ-kheo này nói
dối, phạm tội vọng ngữ.
Ðức Phật bảo:
- Này các Tỳ-kheo, chớ nói thế. Ông ấy
giờ đây biết hết đường sanh tử của chúng sanh.
Ngài nói kệ:
(419) Ai hiểu rõ hoàn toàn,
Sanh tử các chúng sanh,
Không nhiễm, khéo vượt qua,
Sáng suốt châu giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
(420) Với ai, loài trời, người,
Cùng với Càn-thát-bà,
Không biết chỗ thọ sanh,
Lậu tận bậc La-hán,
Ta gọi Bà-la-môn.
38. Ông Bà Visàkha
Người không sở hữu gì ...
Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài
đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến Tỳ-kheo ni Dhammadinnà.
Khi Tỳ-kheo ni Dhammadinnà chưa xuất gia, chồng bà tên Visàkha là một Phật tử thuần thành. Một
hôm, nghe Phật giảng pháp liền đắc A-na-hàm. Sau đó ông nghĩ thầm: "Bây
giờ, ta nên giao hết tài sản của cải cho Dhammadinnà".
Trước đây, theo lệ thường mỗi khi về nhà, vừa thoáng thấy Dhammadinnà nhìn ra cửa sổ, ông đã mỉm
cười với bà. Nhưng hôm ấy, bà đang đứng ngay tại cửa sổ, ông đi ngang chẳng hề
ngó ngàng đến. Bà suy nghĩ: "Vậy là sao đây? Thôi được, đến bữa ăn mình sẽ
biết chuyện gì". Tới trưa, bà dọn cơm cho ông như mọi ngày. Thay vì nói
câu thường lệ: "Nàng hãy như mọi ngày. Thay vì nói câu thường lệ:
"Nàng hãy ngồi xuống cùng ăn với tôi nào". Hôm nay ông ăn trong yên
lặng, chẳng hé môi thốt một lời. Bà nghĩ tiếp: "Chắc ổng giận gì rồi
đa".
Xong bữa cơm, Visàkha kiếm chỗ ngồi thoải mái rồi gọi Dhammadinnà đến bên bảo:
- Dhammadinnà,
tất cả của cải trong nhà này từ nay thuộc về nàng. Hãy nhận lấy!
Bà nghĩ: "Nếu giận, chẳng ai lại
trao tặng của cải, mời nhận. Không biết chuyện gì nữa đây kìa?" Yên lặng
một lúc, bà mời hỏi:
- Nhưng còn chàng thì sao?
- Kể từ hôm nay, tôi không dính dáng gì
đến chuyện thế tục nữa.
- Ai mà đi hốt đàm dãi ông nhổ ra? Ông
hãy cho phép tôi xuất gia làm Tỳ-kheo ni luôn.
- Tốt lắm!
Visàkha chấp nhận ngay. Ông đưa bà đến
tinh xá của các Tỳ-kheo ni với nhiều tặng phẩm quí giá, xin cho bà được gia
nhập Tăng đoàn chư Ni. Thọ giới cụ túc xong, bà được mọi người kêu Tỳ-kheo ni Dhammadinnà.
Bà thích cuộc sống độc cư nên theo các
Tỳ-kheo ni về miền quê. Sau một thời gian, bà đắc A-la-hán và cả thần thông. Bà
nghĩ: "Bây giờ, những người thân của ta sẽ vì ta mà làm việc phước
thiện". Bà quay về Vương Xá. Cư sĩ Visàkha
nghe tin bà về, thầm nghĩ: "Bà ấy trở về vì cớ gì nhỉ?". Ông đến tinh
xá các Tỳ-kheo ni, gặp vị Tỳ-kheo ni vợ cũ của mình, ông đảnh lễ và cung kính
ngồi qua một bên.
Ông lại thầm tính: "Nếu bây giờ
mình hỏi: Bạch sư cô, xin hỏi có phải sư cô đã chán việc tu hành không? thì
thực chẳng tiện chút nào. Thôi mình sẽ hỏi như thế này". Ông hỏi bà một
câu về quả vị Tu-đà-hoàn, bà lập tức trả lời rất chính xác. Cư sĩ tiếp tục hỏi
về các quả vị cao hơn, và cuối cùng, hỏi đến A-la-hán. Bà tán thán:
- Lành thay, huynh Visàkha! Nếu huynh muốn biết về quả vị
A-la-hán, xin đến yết kiến đức Thế Tôn và tham vấn Ngài.
Visàkha lại đảnh lễ bà, rồi đến gặp
Phật kể Ngài nghe câu chuyện của họ. Ðức Thế Tôn bảo:
- Ðệ tử ta, Dhammadinnà, thật khéo nói. Còn về câu hỏi ông hãy lắng
nghe.
Phật giảng pháp xong, nói bài kệ:
(421) Ai quá, hiện, vị lai,
Không một sở hữu gì,
Không sở hữu, không nắm,
Ta gọi Bà-la-môn.
39. Angulimàla,
Vô Não
Bậc trâu chúa, thù thắng ...
Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài
đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Angulimàla.
Câu chuyện này đã được kể trong phần
chú giải bài kệ bắt đầu bằng câu: "Keo
kiết không sanh thiên...".
Các thầy Tỳ-kheo hỏi Angulimàla:
- Này huynh Angulimàla, khi huynh thấy con voi độc cầm lọng đứng trước
mặt, huynh không sợ sao?
- Không, thưa chư huynh, tôi chẳng sợ.
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, Angulimàla nói dối.
Ðức Phật dạy:
- Này các Tỳ-kheo, Angulimàla không còn sợ hãi. Bởi vì, trong
số những bậc đại sĩ đã xa lìa tham ái, những Tỳ-kheo như Angulimàla là tôn quí nhất, và không sợ
hãi nữa.
Ngài nói kệ:
(422) Bậc trâu chúa, thù thắng,
Bậc anh hùng, đại sĩ,
Bậc chiến thắng, không nhiễm,
Bậc tẩy sạch, giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn.
40. Phạm Hạnh Của Thí Chủ Quyết Ðịnh Phước Báu
Cúng Dường
Ai biết được đời trước ...
Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài
đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến câu hỏi của ông Bà-la-môn Devahita.
Một hôm, đức Thế Tôn bị chứng khó chịu
trong người, liền bảo Tôn giả Upavàna
đến nhà người Bà-la-môn tên Devahita
xin nước nóng. Tôn giả đến, nói rõ chứng bệnh của đức Phật và xin ông Bà-la-môn
nước nóng. Ông nghe vậy vô cùng hoan hỉ:
- Thật may mắn cho tôi quá, được dịp
cúng nước nóng cho bậc Giác ngộ Vô thượng.
Ông lấy nước nóng và một bình mật mía
đưa Tôn giả, ra lệnh cho một gia nhân mang phụ nước nóng đi.
Tôn giả thỉnh Phật tắm nước nóng, và
pha mật bằng nước ấm cho Ngài dùng. Ngay sau đó cơn đau của Ngài dịu xuống.
Ông Bà-la-môn thầm nghĩ: "Người ta
nên cúng dường ai để được phước lớn? Ta sẽ hỏi đức Thế Tôn".
Ông đến gặp Phật và đọc một bài kệ:
Bố
thí ai phước lớn?
Ai nên được cúng dường?
Thí chủ phải thế nào?
Mới được phước vô lượng?
Ðức Phật dạy:
- Một người Bà-la-môn như sau, cúng
dường sẽ được phước báo rất lớn.
Ngài nói kệ:
(423) Ai biết được đời trước,
Thấy thiên giới, đọa xứ,
Ðạt được sanh diệt tận,
Thắng trí, tự viên thành,
Bậc mâu-ni đạo sĩ,
Viên mãn mọi thành tựu,
Ta gọi Bà-la-môn.
--ooOoo--
Phần Kết
Ðấng Pháp Vương Vô Thượng chánh đẳng
chánh giác đã đạt đến Niết-bàn tối thượng. Những bài kệ Pháp Cú này được thốt
ra từ kim khẩu của bậc Thánh Trí Ðại hùng Ðại lực ấy.
Ngài đã dạy Tứ Ðế bằng 423 bài kệ. Và
có đến 299 câu chuyện ra đời.
Ðược sống trong ngôi tu viện do triều
đình xây cất tại khuôn viên hoàng cung đức vua Sirikùta,
lòng tôi tràn ngập sự biết ơn.
Tôi biên soạn nên tập chú giải đúng đắn
này về các bài kệ ấy, gồm 72 phần, để dễ bề đọc tụng, hoặc kể.
Phù hợp với ý và lời của các bài kệ,
đặt cơ sở trên chánh pháp độ sanh của bậc Ðạo sư trời và người.
Với công đức cúng dường này, xin nguyện
cho tất cả ước vọng chính đáng của hết thảy chúng sanh được thành tựu, đơm kết
thành hoa ngọt trái lành.
Xin chúc chư vị được thịnh vượng, an
lạc và thân thể khang kiện!
--ooOoo--
- Hết -
Ðầu trang | Mục lục
| 01a | 01b | 01c | 01d | 02a | 02b | 03 | 04a | 04b
| 05a | 05b | 06 | 07 | 08
| 09 |
10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15
| 16 | 17 | 18 | 19 | 20
| 21 | 22 | 23 | 24 | 25
| 26a | 26b | 26c
[Trở về trang Thư Mục]
updated: 12-03-2002