BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Tích truyện Pháp Cú
Thiền viện
Viên Chiếu
Nguyên tác:
"Buddhist Legends", Eugene Watson Burlingame
[V-b]
14. Ðạo Sĩ Lõa Thể Jambuka
Tháng tháng với ngọn cỏ...
Phật dạy như thế tại Trúc Lâm liên quan
đến đạo sĩ lõa thể Jambuka.
Chuyện quá khứ
11A. Vị Tăng Ganh Tỵ
Xa xưa, thời Phật Ca Diếp, một cư sĩ
tại làng nọ cất thất cho một trưởng lão tu và cung cấp tứ vật dụng suốt thời gian
này, Trưởng lão đều đặn đến thọ thực tại nhà cư sĩ. Bấy giờ có một Tỳ-kheo đã
dứt hết dục lậu, đi khất thực dừng trước nhà cư sĩ. Anh ta vui mừng mời vào, và
cung kính dâng Ngài thức ăn hảo hạng và một chiếc y rộng:
- Thưa Tôn giả, xin Ngài nhuộm y này và
đắp làm hạ y.
Rồi nói thêm:
- Tóc Ngài mọc dài, con sẽ tìm thợ cắt
tóc cho Ngài, lúc trở về sẽ mua cho Ngài một cái giường.
Vị khách tăng trước thấy cư sĩ niềm nở
đón tiếp vị mới đến, lòng bất mãn, ganh ghét. Không chịu nổi sự ưu ái của vị cư
sĩ đối với vị mới, buổi chiều, ông lại ngay chổ Trưởng lão nằm trên giường,
nhiếc móc và lăng mạ bốn điều:
- Này khách huynh! Huynh nên ăn phân
hơn là phần cơm trong nhà cư sĩ này. Huynh nên nhổ tóc mình với cái lược bằng
cây thốt nốt hơn là để thợ cạo do cư sĩ mời về. Huynh đừng mặc quần áo thì tốt
hơn là đắp hạ y do cư sĩ cúng. Huynh nằm dưới đất tốt hơn là nằm trên giường
của cư sĩ cúng.
Trưởng lão không để ý đến lời lăng mạ,
thầm mong người bạn ngu si này không bị tổn hại, và Ngài dậy sáng sớm đi nơi
khác tùy thích.
Vị tăng đến trước cũng dậy sáng sớm,
dọn dẹp thất như thường lệ rồi đi khất thực. Nghĩ rằng Trưởng lão vẫn còn ngủ,
ông đánh thức bằng cách gõ chuông bằng móng tay, rồi đi vào làng.
Cư sĩ chuẩn bị xong thức ăn đợi hai vị
tăng đến. Chỉ thấy vị trước, anh ta hỏi:
- Thưa Tôn giả, Trưởng lão đến đâu rồi?
Vị tăng cũng ngạc nhiên hỏi lại:
- Ðạo hữu hỏi chi lạ? Trưởng lão đến
nhà anh hôm qua đó, ngay khi về thất đã vào phòng trong nằm ngủ. Dù tôi dậy rất
sớm, ông ta cũng chẳng nghe thấy chổi quét, tiếng súc rửa bình nước uống và
tiếng gõ chuông của tôi.
Cư sĩ không thể tin một vị Trưởng lão
khả kính, thái độ trang nghiêm lại có thể ngủ đến giờ này, nghĩ rằng chắc vị
tăng trước thấy mình quan tâm đến vi Trưởng lão nên đã nói gì với Ngài rồi. Cư
sĩ, rất khôn khéo, vẫn một mực cung kính phục vụ vị tăng, dâng thức ăn. Xong
bữa anh cẩn thận rửa bát rồi đựng đầy thức ăn ngon với nước súp thượng vị, nhờ
vị tăng chuyển cúng dường giùm Trưởng lão nếu có gặp Ngài. Vị tăng nhận bình
bát nghĩ rằng Trưỡng lão dùng thức ăn ngon như thế sẽ thích ở đây luôn, nên dọc
đường ông ta ném bỏ thức ăn hết. Ông ta cũng đến chỗ ngủ Trưởng lão nhưng không
thấy Ngài.
Vì phạm hành động xấu, định lực tu tập
suốt hai mươi ngàn năm mất hiệu quả bảo vệ, nên ông mạng chung bị đọa xuống
ngục A-tỳ, chịu đau khổ cùng cực trong thời kỳ giữa hai đức Phật. Vào thời Phật
hiện tại, ông tái sanh tại Vương Xá trong một gia đình thức ăn uống sung túc.
Chuyện hiện tại
11B. Ðạo Sĩ Lõa Thể Jambuka
Từ khi biết cậu bé không chịu nằm
giường, không ăn thức ăn mà chỉ ăn phân của mình, cha mẹ cậu nghĩ rằng chắc còn
nhỏ quá nên không biết gì. Nhưmg lớn lên, cậu cũng không chịu mặc quần áo, nằm
dưới đất và ăn phân của mình. Cha mẹ biết cậu không quen sống trong nhà, có lẽ
hợp với các đạo sĩ lõa thể Ajivakas,
nên mang cậu đến xin họ thu nhận vào giáo đoàn. Họ đồng ý, đặt cậu xuống một
cái hố lút sâu tận cổ, kê ván qua xương đòn gánh của cậu rồi ngồi trên đó nhổ
tóc cậu với lược thốt nốt.
Hôm sau, theo lời mời của cha mẹ cậu,
các đạo sĩ Ajìvakas vào làng bảo
cậu đi theo, nhưng cậu từ chối. Năm lần bảy lượt thúc giục, cậu vẫn từ chối.
Các đạo sĩ gởi thức ăn về, cậu cũng từ chối không ăn. Ngày qua ngày cậu vẫn
không nghe lời họ. Một hôm, khi các đạo sĩ vào làng, hai đạo sĩ trong nhóm giả
vờ đi theo rồi quay lại núp rình và bắt gặp cậu xuống hố xí lượm phân nặn từng
cục bốc ăn. Các đạo sĩ nghe kể lại kinh quá bảo nhau:
- Trời đất việc làm của hắn quả là sĩ
nhục! Nếu đệ tử của Sa-môn Cồ-đàm biết được, sẽ đồn xấu là các đạo sĩ Ajìvakas tu tập bằng cách ăn phân. Người
này không thể ở với chúng ta được.
Rồi họ đuổi Jambuka khỏi giáo đoàn. Ban dêm cậu đến hố xí công cộng, chỗ
lõm của một tảng đá phẳng, ăn phân. Dân chúng đi cầu thấy cậu đứng lò cò trên
tảng đá, co một chân đặt trên đầu gối, mở miệng rộng, mặt xoay về hướng gió,
ngạc nhiên hỏi. Cậu đáp:
- Ta là người hớp gió không ăn gì hết.
- Nhưng sao Ngài lại đứng một chân?
- Ta nghiêm trì khổ hạnh, nếu đứng hai
chân mặt đất sẽ rúng động. Ta đứng một chân co một chân đặt trên đầu gối cả
đời, không bao giờ nằm.
Hầu như ai cũng tin lời cậu. Dân hai
nước Anga và Magadha rất cảm động và thán phục, họ mang
vô số thức ăn đến cho cậu, nhưng cậu không muốn nhận bất cứ thứ gì, và bảo họ:
Ta chỉ ăn gió, không ăn món khác. Nếu
không, khổ hạnh của ta sẽ chấm dứt.
Dân làng một mực khẩn khoản cậu nhận,
nhiều lần từ chối không được, cậu phải để vào đầu lưỡi một chút ngọn cỏ Kusa chấm với mật, bơ. mật mía, rồi đuổi
họ đi:
- Rồi đó, các người hãy đi đi! Các
người đã được hạnh phúc và cứu độ theo đúng nguyện vọng.
Cứ thế Jambuka
sống năm mươi lăm năm, lõa thể, ăn phân, nhổ tóc và nằm dưới đất.
Phật quan sát thế gian thấy Jambuka đủ duyên lành chứng A-la-hán cùng
các thần thông, tám mươi tư ngàn chúng sanh sẽ dược Pháp nhãn thanh tịnh và số
đông khác sẽ được cứu độ. Do đó hôm sau Phật vào Vương Xá khất thực và chiều
đến thăm Jambuka. Các vị trời
biết được, dùng thần lực làm mưa xuống rửa sạch nơi Jambuka đang ở. Tất cả năm trận mưa khác nhau rơi trên tảng
đá ấy.
Ðến nơi Phật gây một tiếng động nhẹ và
gọi:
- Jambuka!
Ðạo sĩ cứ nghĩ một tên xấu ác nào gọi
mình nên hỏi lại cộc lốc:
- Ai đó?
Phật đáp:
- Một Tỳ-kheo.
- Ngài muốn gì, Ðại Sa-môn?
- Cho ta ở lại đây chỉ một đêm.
- Ðây không chỗ nào ở được, Ðại Sa-môn!
- Jambuka,
đừng nói thế. Cho Ta ở chỉ một đêm thôi! - Sa-môn tìm đoàn thể Sa-môn, người
tìm đoàn thể người, thú vật tìm đoàn thể thú vật.
- Nhưng Ngài là một Sa-môn?
- Vậy thì bình đựng nước, muỗng gỗ,
pháp cụ của Ngài đâu?
- Mọi thứ này Ta đều thường dùng, nhưng
vì cồng kềnh khó đem theo từ chỗ này đến chỗ nọ, nên Ta sẽ lấy tại đây và đem
theo khi rời nơi đây.
Jambuka bực dọc, hỏi gằn lại:
- Vậy khi rời đây, Ngài định đem theo
à?
- Ðừng lo, Jambuka! Hãy chỉ cho Ta chỗ nào ở được.
Jambuka vẫn một mực:
- Dạ không chỗ nào ở được, Ðại Sa-môn!
Thấy một hang núi rất gần, Phật hướng
về đó hỏi:
- Có ai ở trong đó không?
- Thưa không, Ðại Sa-môn.
- Vậy Ta ở đó.
- Dạ hợp với Ngài, Ðại Sa-môn.
Và Phật soạn tòa nằm trong hang núi và
nằm nghỉ. Canh một Tứ Thiên Vương đến hầu hạ Phật, chiếu ánh sáng rực rỡ tứ
phía. Jambuka trông thấy ngạc nhiên
không hiểu ánh sáng gì. Canh hai vua trời Ðế Thích phục vụ Thế Tôn. Jambuka thắc mắc không biết là ai. Canh ba
và canh cuối là đại phạm thiên, với một ngón tay chiếu sáng một Cakkavàla, hai ngón tay chiếu sáng hai Cakkavàla, và mười ngón tay chiếu sáng
toàn thể khu rừng. Jambuka không
biết là ai.
Sáng sớm hôm sau, cậu đến gặp Phật,
chào thân thiện, cung kính đứng một bên và hỏi về những vị đã trông thấy khi
đêm. Ðược biết đó là những vị trời đến hầu hạ Phật, và Phật là bậc tối thượng
hơn họ, Jambuka bèn thốt lên:
- Ngài là một bậc tuyệt diệu, Ðại
Sa-môn! Tôi ở đây suốt năm mươi lăm năm mà không một ai đến hầu hạ tôi, thời
gian này tôi sống nhờ gió, đứng ròng rã mà không ai đến phục vụ mình.
Thế Tôn bảo:
- Jambuka,
ngươi đã liên tiếp lừa dối đám đông ngu ngốc ở thế gian này, và bây giờ cố lừa
dối Ta. Trong năm mươi lăm năm, thật sự có phải ngươi ăn phân, lõa thể, ngủ
dưới đất và nhổ tóc với lược thốt nốt không? Nhưng ngươi đã gạt gẫm thế gian
bảo rằng hớp gió, đứng một chân, không ngồi, không nằm. Bây giờ lại đang láo
khoét với Ta. Ðó là vì tư kiến thấp hèn, sai lầm mà ngươi đã chấp nhặt trong
tiền kiếp, khiến mấy chục năm ngươi đã ăn phân, nằm dưới đất, lõa thể, nhổ tóc
với cây lược thốt nốt. Chính đến bây giờ ngươi cũng còn chấp vào tư kiến thấp
hèn sai lầm.
- Nhưng, Ðại Sa-môn, tôi đã làm gì
trong tiền kiếp?
Trong khi Thế Tôn kể lại chuyện xấu ác
kiếp trước, Jambuka rất xúc động
và lòng cảm thấy khiêm hạ, sợ hãi tội lỗi to tát, cậu phủ phục trên đất. Thế
Tôn ném một lá y để cho cậu khoát vào mình. Cậu chào Thế Tôn và kính cẩn ngồi
một bên. Kể xong chuyện tiền kiếp, Phật thuyết pháp, và cuối bài pháp cậu chứng
A-la-hán cùng với thần thông. Cậu rời chỗ ngồi, đảnh lễ Thế Tôn và xin được
nhận vào Tăng đoàn.
Trước đây do nhục mạ một Trưởng lão đã
chứng A-la-hán với bốn điều, Jambuka bị
đọa địa ngục A-tỳ, đau khổ cùng tột, cho đến khi đại địa nâng cao một dặm ba
phần tư. Nhưng quả báo của hành vi xấu ác chưa hết nên phải sống tủi nhục suốt
năm mươi lăm năm. Bây giờ quả báo ác chấm dứt thì phước báo do công phu thiền
định suốt hai mươi ngàn năm phục hồi, do đó Phật đã dang tay về phía Jambuka nói:
- Hãy đến, Tỳ-kheo! Hãy sống đời phạm
hạnh!
Ngay đó tánh tướng một cư sĩ biến mất,
ông đường đường là một Trưởng lão sau mươi tuổi, đầy đủ tám món cần dùng.
Ngày đó dân chúng hai nước Anga và Magadha đến cúng dường Trưởng lão Jambuka nhiều phẩm vật. Thấy Thế Tôn họ so
sánh với Jambuka, và thắc mắc
không biết ai lớn hơn. Phật đoán biết ý nghĩ của họ liền bảo Jambuka giải nghĩa giùm. Trưởng lão thưa:
- Bạch Thế Tôn! Ðây là việc con cần làm
nhất.
Lập tức ông nhập Tứ thiền rồi xuất. Bay
trên không cao bằng một cây thốt nốt, ông la lên:
- Bạch Thế Tôn, đấng Vô Thượng là Ðạo
sư của con, con là đệ tử của Ngài.
Rồi ông xuống đất đảnh lễ Thế Tôn, xong
lại bay lên cao bằng hai cây thốt nốt, bằng ba cây, cho đến bảy cây thốt nốt,
xác nhận mình là đệ tử của Thế Tôn rồi đáp xuống.
Ðám đông thấy thế hết sức ca ngợi thần
lực của chư Phật. Thế Tôn bảo họ rằng:
- Hàng chục năm ẩn sĩ này đã sống ở
đây, để trên đầu lưỡi mút ngọn cỏ Kusa
với thức ăn do các người mang đến, bảo rằng mình đã làm tròn bổn phận một ẩn sĩ
khổ hạnh. Nhưng dù cho bây giờ ông kiêng ăn để tỏ lòng ăn năn hối hận, công phu
khổ hạnh này không bằng một phần mười sáu ý tưởng đáng khen đã thúc đẩy ông ăn
kiêng.
Vài Ngài đọc Pháp Cú:
(70) Tháng tháng với ngọn cỏ,
Người ngu có ăn uống,
Không bằng phần mười sáu,
Người hiểu pháp hữu vi.
12. Quỷ Rắn Và Quỷ Quạ
Nghiệp ác đã được làm..
Thế Tôn dạy câu trên tại Trúc Lâm về
chuyện một quỷ rắn.
Một ngày nọ, giữa hàng ngàn ẩn sĩ bện tóc,
Tôn giả Trưởng lão Lakkhana và
Tôn giả Trưởng lão Ðại Mục-kiền-liên từ đỉnh núi Linh Thứu xuống thành Vương Xá
định khất thực. Thấy một con quỷ rắn, Trưởng lão Mục-kiền-liên mỉm cười. Trưởng
lão Lakkhana ngạc nhiên hỏi, và
được Ngài đáp chờ đến trước Thế Tôn sẽ trả lời. Ðến lúc đó Ngài mới cho biết là
thấy một con quỷ rắn, đầu giống đầu người, khúc dưới giống rắn, nên gọi là quỷ
rắn. Thân nó dài hai mươi lăm dặm. Lửa bốc từ đầu đến đuôi, từ đuôi đến đầu.
Lửa từ đầu đốt hai bên thân, lửa từ hai bên thân đốt cả người. Nguời ta nói có
hai con quỷ thân dài hai mươi lăm dặm, còn các quỷ khác thân chỉ dài ba phần tư
dặm. Hai con quỷ này Tôn giả Mục-kiền-liên đều thấy.
Một lần khác, Ngài Mục-kiền-liên thấy
con quỷ quạ chịu khổ sở trên đỉnh ngọn Linh Thứu, Ngài hỏi hành động quá khứ
của nó:
Lưỡi
mi dài năm dặm,
Ðầu chín, thân hai lăm.
Mi đã làm những gì,
Ðể chịu khổ dường ấy?
Quỷ đáp:
Tôn
giả Mục-kiền-liên,
Tôi luôn luôn chực sẵn,
Trong thời Phật-Ca-diếp,
Ðoạt thức ăn chúng Tăng.
Chuyện quá khứ
12A. Con Quỷ Quạ
Thưa Tôn giả, thời Phật-Ca-diếp, dân
làng thấy một nhóm Tỳ-kheo vào làng khất thực, đón tiếp ân cần, dâng chỗ ngồi
trong nhà nghỉ, cúng cháo, thức ăn cứng, rửa chân và xức dầu cho các Tỳ-kheo.
Trong khi chờ đến giờ sớt bát, họ ngồi nghe pháp. Hết thời pháp, họ sớt nhiều
thức ăn ngon từ nhiều nhà đem đến, trao lại cho chúng Tăng.
Lúc đó, tôi là một con quạ đậu trên đòn
dông nhà nghỉ, thấy thế, tôi ngậm ba miếng thức ăn trong bình bát của một dân
làng và ăn hết. Thức ăn đó không thuộc về chúng Tăng, không cúng và trao đến
chúng Tăng, chỉ đơn thuần là phần chúng Tăng ăn còn dư mà dân làng mang về nhà
để ăn. Ðó là tội lỗi của tôi ở kiếp trước. Quả báo là khi mạng chung tôi bị đọa
vào địa ngục A-tỳ, và sau đó vì quả báo chưa hết, tôi tái sanh lên đỉnh Linh
Thứu làm quỷ quạ.
(Hết Chuyện Quỷ Quạ)
Trưởng lão lặp lại:
- Tôi mỉm cười vì thấy con quỷ rắn.
Ðức Phật liền rời tòa đứng lên xác nhận
lời của Trưởng lão Mục-kiền-liên là đúng. Chính Phật cũng gặp con quỷ ấy vào
ngày Thành Ðạo, nhưng vì lòng từ bi đối với người khác, Phật không nói ra bởi
lẽ không tin lời Phật họ sẽ bị bất lợi. Các Tỳ-kheo nghe thế, xin Phật kể lại
chuyện của quỷ ở kiếp trước.
Chuyện quá khứ
12B. Quỷ Rắn
Xa xưa, dân chúng dựng một lều cỏ bên
bờ sông Ba-la-nại cho vị Phật Ðộc Giác. Ngài thường vào thành khất thực, và dân
trong thành thì sáng và chiều mang hương hoa đến hầu Ngài. Họ hay giẫm lên đám
ruộng của một nông dân. Anh ta cố ngăn cản họ, nhiều lần không được, và nghĩ
rằng chỉ tại vì có lều của Phật Ðộc Giác, nên anh ta đập bể vò đựng thức ăn,
nước uống, xong nổi lửa đốt lều cỏ, khi Ngài đã vào thành khất thực.
Trở về thấy lều ra tro, Ngài ra đi tùy
thích. Dân trong thành mang hương hoa đến cúng như thường lệ, thấy lều đã cháy,
thắc mắc không biết tôn sư của họ đi đâu. Anh nông dân, cũng đứng trong đám
đông, thú nhận là mình đã đốt lều cỏ. Ðám đông la lên bắt anh ta. Tất cả chỉ vì
tên ác ôn này mà họ mất đi đặc ân được gặp một vị Phật Ðộc Giác. Do đó họ lấy
gậy đánh đập anh, lượm đá ném anh đến chết và anh bị đọa vào địa ngục A tỳ. Ðến
khi đại địa nâng cao một dặm, anh ra khỏi ngục, nhưng vì ác báo chưa hết, anh
sanh làm quỷ rắn ở đỉnh Linh Thứu.
(Hết Chuyện Quỷ Rắn)
Từ chuyện đó, Thế Tôn dạy:
- Này các Tỳ-kheo, hành động xấu ác
giống như sữa. Sữa không thể đông ngay khi vừa mới chảy ra, thì hành động xấu
ác cũng không thể chín muồi ngay lập tức. Nhưng một khi đã chín muồi thì khổ
đau như thế đấy.
Và Ngài đọc Pháp Cú:
(71) Nghiệp ác đã được làm,
Như sữa, không đông ngay,
Cháy ngầm theo kẻ ngu,
Như lửa tro che đậy.
13. Quỷ Búa Tạ
Tự nó chịu bất hạnh...
Nhân chuyện quỷ búa tạ, Thế Tôn đã dạy
câu trên tại Trúc Lâm.
Giống như truyện trước, Trưởng lão
Mục-kiền-liên, từ đỉnh núi Linh Thứu xuống, sau khi đã đến chào Thế Tôn và cung
kính ngồi một bên, mới cho Trưởng lão Lakkhana
biết tại sao Ngài mỉm cười:
- Này huynh, tôi thấy một con quỷ cao
ba phần tư dặm. Có sáu mươi ngàn búa tạ cháy đỏ nóng rực vung lên và giáng
xuống liên tục trên đỉnh đầu nó. Chặt xong đầu này thì mọc đầu khác. Tôi mỉm
cười vì trong kiếp này chưa hề thấy một chúng sanh như thế.
Trong Petavatthu
có một bài kệ, cùng với các bài kệ khác, nói về con quỷ này:
Sáu
mươi ngàn búa tạ,
Khắp mọi phương mọi nơi,
Nhắm ngay đầu ngươi chặt,
Lìa cổ, đầu liền rơi.
Thế Tôn nghe chuyện, bảo:
- Các Tỳ-kheo! Ta cũng thấy chúng sanh
đó khi ngồi trên tòa Chánh Giác, nhưng vì lòng từ bi đối với người khác, Ta
không nói ra, bởi lẽ không tin lời Ta họ sẽ bị bất lợi.
Các Tỳ-kheo nghe thế, xin Phật kể
chuyện làm của quỷ ở kiếp trước.
Chuyện quá khứ
Người Ném Ðá Và Ðệ Tử
Ngày xưa, có một người què thạo nghề ném
đá sống ở Ba-la-nại. Ông thường ngồi trước cổng thành dưới gốc cây đa, ném đá
vào lá cây cắt thành nhiều hình ngộ nghĩnh. Trẻ con trong thành thích ông làm
cho chúng voi, ngựa. Bù lại chúng thưởng cho ông thức ăn cứng và mềm. Một hôm
nhà vua đi đến vườn giải trí, ngang qua cây đa. Bọn trẻ bỏ chạy hết, để một
mình ông què giữa đám chồi cây. Vua dừng chân lúc mặt trời đứng bóng và bước đi
giữa đám rễ cây, mình vua phủ đầy bóng râm từng lằn sọc dọc sọc ngang. Vua ngạc
nhiên, nhìn lên, thấy lá cây đa bị cắt theo hình voi, ngựa. Ðược biết đó là
công trình của ông què, vua gọi ông đến bảo:
- Ta có một viên Tư tế ba hoa quá
chừng. Chuyện không có gì hắn cũng bô lô ba la thật mệt. Ngươi có thể ném một
hũ phân dê vào mồm hắn không?
Ông què thưa:
- Tôi làm được, đại vương! Xin cho phân
dê, còn đại vương thì ngồi trước màn với ông Tư tế. Tôi ngồi sau và biết phải
làm thế nào.
Nhà vua làm theo ý ông: dùng mũi dao
khoét lỗ trên bức màn, và bất cứ lúc nào vị Tư tế mở miệng, ông đều ném vào một
viên phân dê xuyên qua lỗ khoét. Hết hũ phân dê, ông què lay màn ra hiệu cho
vua. Vị Tư tế Bà-la-môn được vua khuyến cáo là đã nuốt hết nguyên hũ phân dê,
nên từ đó về sau không dám mở miệng nói với vua. Nhờ tài khéo mà ông què được
vua ban cho tám món quà và bốn ngôi làng to đẹp ở Ðông, Tây, Nam, Bắc thành.
Quan đại thần của vua, cố vấn về triều chính và thần thánh cho vua, biết được
bèn làm kệ:
Khéo
léo, tuyệt diệu thật!
Nhưng tốt hay là xấu,
Hãy xem, người què ném
Ðược làng ở bốn bên.
Quan đại thần lúc đó chính là Thế Tôn.
Thấy người què thành công và thịnh
vượng như thế, một tên kia đến xin học nghề. Ban đầu ông què từ chối. Tên kia
vẫn quyết tâm theo đuổi, nên chịu khó lau rửa chân tay cho người què thời gian
lâu để lấy lòng. Quả vậy, người què truyền nghề cho hắn. Dạy xong ông hỏi hắn
định làm gì. Hắn thành thật cho biết sẽ đánh một con bò hay một người nào đó
rồi giết đi. Ông què lưu ý hắn về tiền phạt, một trăm tiền đối với con bò và
một ngàn tiền đối với mạng người. Và ông khuyên hắn nên tìm ai không có cha mẹ
để khỏi nộp phạt.
Hắn vâng lời, lên đường với túm đá
trong nếp áo. Thấy một con bò cái, biết là nó có chồng nên hắn không bắn. Thấy
một người, hiểu anh ta có cha mẹ nên cũng bỏ qua. Rồi hắn gặp một vị Phật Ðộc
Giác tên Sunetta đang đi vào
thành khất thực và biết rằng người này không cha không mẹ, hắn thử tài khéo của
mình bằng cách bắn vào tai của vị Phật Ðộc Giác. Hòn đá xuyên qua tai trái
khiến Ngài đau nhức không thể đi khất thực tiếp tục. Do đó Ngài bay lên trời
trở về lều cỏ gần thành và nhập Niết-bàn. Dân làng không thấy Ngài liền đến lều
cỏ và than khóc trước nhục thân của Ngài. Tên ném đá cũng nhập bọn với dân
làng, thấy thế liền thú nhận là chính mình đã bắn Ngài. Dân làng hô lên bắt tên
ác nhân và đánh hắn chết ngay tại đó. Hắn bị đọa vào địa ngục A tỳ cho đến khi
đại đia dâng cao một dặm. Vì nghiệp xấu ác chưa hết nên sau đó hắn tái sanh làm
quỷ búa tạ trên đỉnh Linh Thứu.
Thế Tôn kể chuyện xong liền dạy:
- Này các Tỳ-kheo! Nếu một người ngu có
tài khéo hay quyền lực sẽ rất tai hại, vì chính hắn làm khổ hắn.
Và Phật đọc Pháp Cú:
(72) Tự nó chịu bất hạnh,
Khi danh đền kẻ ngu.
Vận may bị tổn hại,
Ðầu nó bị nát tan.
14. Citta Và
Sudhamma
Ưa danh không tương xứng...
Ở Kỳ Viên, Thế Tôn đã dạy câu trên liên
quan đến Trưởng lão Sudhamma.
Truyện bắt đầu từ Macchikàsanda và
kết thúc tại Xá-vệ.
Trưởng giả Citta ở thành Macchikàsanda,
hài lòng vì cung cách của Trưởng lão Mahànàma
trong nhóm năm vị Tỳ-kheo đang đi khất thực, nên nhận bình bát và
mời Ngài vào nhà dâng cúng thức ăn. Cuối bữa ăn ông nghe pháp và chứng quả Dự
lưu. Có niềm tin vững chắc, ông xối nước vào tay phải của vị Trưởng lão, dâng
cúng cả khu rừng Ambatàka với
vườn giải trí trong đó, làm tinh xá cho Tăng đoàn. Ngay khi ông nói "Giáo
đoàn của Phật được thành lập vững chắc", đại địa chấn động đến mé biển.
Sau đó tinh xá mới được xây dựng thật nguy nga, mở rộng cửa đón tiếp các
Tỳ-kheo từ bốn phương.
Hai Ðại đệ tử của Phật nghe đồn đức
tính của Citta nên đến Macchikàsanda để tỏ lòng quý trọng ông. Citta nghe tin liền đi nửa dặm đường chào
đón, đưa hai Ngài về tinh xá, mời vào, làm tròn bổn phận với khách, và xin vị
"Thống soái của niềm tin" cho ông nghe pháp. Tuy hành trình mệt nhọc,
Ngài cũng nhận thuyết bài kinh ngắn, và Citta
chứng Nhị quả. Ông đảnh lễ hai vị Ðại đệ tử và mời ngày hôm sau đến
nhà thọ thực với một ngàn Tỳ-kheo đi theo. Xong ông đến mời vị tăng thường trú
tại Macchikàsanda là Trưởng lão Sudhamma. Bất bình vì bị mời sau, Trưởng
lão từ chối dù Citta cố nài nỉ.
Sáng sớm hôm sau, trong lúc gia chủ Citta chuẩn
bị phẩm vật tốt lành thì Trưởng Lão cũng khoát y ôm bát đến, không phải làm
thực khách mà để xem gia chủ cúng dường ra sao. Dù gia chủ hết lòng mời ngồi,
Trưởng lão vẫn đứng yên, bảo sắp sửa đi khất thực. Quan sát hết phẩm vật chuẩn
bị cho hai Ðại đệ tử, Trưởng lão tìm cách quấy rối gia chủ, nói rằng:
- Này gia chủ, món ăn của ông tuyệt
diệu đấy, nhưng còn thiếu một món.
- Món gì, thưa Tôn giả?
- Bánh mè!
Gia chủ nổi nóng khiển trách khiến
Trưởng lão cũng nổi giận:
- Ðây là chỗ ở của ông, tôi sẽ đi.
Ba lần gia chủ cố thuyết phục ông ở
lại, nhưng Trưởng lão quyết tâm ra đi, và đến Thế Tôn thuật lại lời lẽ của Citta và của ông.
Phật bảo:
- Ông là người thấp hèn, đã lăng mạ một
thiện tín.
Thế Tôn chỉ quy lỗi về phía Trưởng lão và
bắt ông đến gia chủ xin lỗi. Ông vâng lời, trở lại nhà gia chủ xin lỗi, nhung
gia chủ không chịu tha thứ. Bất mãn vì thất bại, Trưởng lão trở về chỗ Thế Tôn.
Phật biết rằng thế nào gia chủ cũng tha thứ, nhưng vì hiểu tính Trưởng lão rất
bướng bỉnh và kiêu căng, nên Ngài không nói ra, cứ để ông đi ba mươi dặm mà xin
lỗi. Trưởng lão trở về, lòng kiêu căng giảm xuống. Rồi Phật mới cho một Tỳ-kheo
cùng đi xin lỗi gia chủ, dạy rằng:
- Người tu không nên nhượng bộ tính
kiêu căng và tật xấu của mình, khi cho rằng "Chỗ ở này của ta, tu viện này
của ta, cư sĩ nam này của ta, cư sĩ nữ này của ta". Nếu nghĩ thế, tật xấu,
tính kiêu mạn và tham dục khác sẽ tăng trưởng.
Và Phật đọc Pháp Cú:
(73) Ưa danh không tương xứng,
Muốn ngồi trước Tỳ-kheo,
Ưa quyền tại tinh xá,
Muốn mọi người lễ kính.
(74) "Mong cả hai tăng tục,
Nghĩ rằng chính ta làm,
Trong mọi việc lớn nhỏ,
Phải theo mệnh lệnh ta".
Người ngu nghĩ như vậy,
Dục và mạn tăng trưởng.
Nghe Phật quở, Trưởng lão Sudhamma cúi lạy Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng
lên, đi nhiễu bên phải, và cùng đi tới vị Tăng đồng hành đến nhà gia chủ. Gia
chủ Citta tha thứ cho ông và đến
lượt mình xin tha thứ. Trưởng lão miên mật tuân giữ lời khiển trách của Phật,
và chỉ trong vài ngày chứng A-la-hán cùng các thần thông.
Cư sĩ Citta
nghĩ rằng chưa gặp Thế Tôn đã chứng quả Dự lưu, rồi Nhị quả, vì vậy ông muốn
đến gặp Thế Tôn. Ông ra lệnh thắng yên cương năm trăm xe bò chất đầy mè, gạo,
mật, đường, y phục, ngọa cụ và những phẩm vật khác. Ðồng thời nhắn với Tăng
chúng. Ni chúng, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, ai muốn gặp Phật hãy đến, sẽ không thiếu
thứ chi cho mọi người, dù thức ăn hay bất cứ món gì. Tăng, ni và nam nữ cư sĩ,
mỗi nhóm năm trăm người. Họ và đoàn tùy tùng của riêng ông có ba ngàn người tất
cả, không ai thiếu nước xúp, gạo hay thứ gì khác suốt cuộc hành trình ba mươi
dặm, vì Citta chuẩn bị lương thực
dư giả. Các vị trời biết ông lên đường, đặt tại mỗi dặm đường trạm phục vụ đại
chúng, có cháo, thức ăn cứng, nước uống và những nhu cầu khác, không thiếu bất
cứ món gì. Ði với tốc độ một dặm một ngày, được chư thiên phục vụ, Citta và đoàn đến Xá-vệ trong một tháng.
Với năm trăm xe bò đầy ắp như đã kể, chư thiên và người đều mang quà tặng đến,
và ông chia sẻ.
Thế Tôn biết trước nên bảo A-nan:
- A-nan, khi bóng chiều ngã xuống,
Trưởng giả Citta sẽ đến với năm
trăm xe bò và đảnh lễ Ta.
- Bạch Thế Tôn, có phép mầu nào xảy ra
không?
- Hoa trời sẽ rơi xuống như mưa, liên
tục cho đến khi phủ ngập đến gối một vùng đất rộng tám karìsas.
Dân chúng trong thành truyền miệng nhau
tin này. Họ dành chỗ đứng ở hai bên đường để không mất đặt ân được thấy công
đức của Citta.
Gần đến tinh xá, năm trăm Tỳ-kheo, đi
trước dẫn đường. Riêng các nữ cư sĩ tiếng tăm được Trưởng giả mới đi phía sau,
còn ông với năm trăm cư sĩ nam đi trước. Trưởng giả Citta đi vào con đường của chư Phật, nhìn nơi nào thì nơi đó
rúng động. Dân chúng xì xào chắc đó là Trưởng giả Citta. Ông lọt vào vùng hào quang sáu màu của Phật, đến
gần, gieo mình xuống sát mắt cá chân Phật và đảnh lễ Ngài. Ngay lúc đó, một
trận mưa hoa rơi xuống đúng theo dự đoán của Thế Tôn, giữa muôn ngàn tiếng hoan
hô vang dội.
Citta ở lại với Thế Tôn một tháng.
Ông dâng chỗ ngồi cho Tăng chúng trong tinh xá và nhiều tặng phẩm, lo chỗ ở và
chăm sóc những vị đã cùng đi với ông. Không có một ngày nào ông đụng đến những
thứ trong xe bò của mình, vì mọi thứ cúng dường đều lấy từ quà của trời, người
mang đến. Cuối cùng ông phải thưa chuyện với Thế Tôn làm sao trút hết tặng phẩm
trong xe bò ra để ông trở về nhà lấy phẩm vật của mình dâng cúng. Phật bảo
A-nan dọn chỗ trống giao cho ông. Thế là ông hớn hở trở về nhà với năm trăm xe
bò không, cùng ba ngàn người đi theo, trời người đứng lên đồng thanh cất tiếng:
- Tôn ông lại lên đường với xe không!
Nhưng dứt câu họ liền chất đầy bảy báu
lên xe. Như vậy khi Citta trở về,
ông lo cho mọi người cũng chỉ với tặng phẩm trời người dành cho ông.
Trưởng lão A-nan thắc mắc hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn! Trưởng giả Citta đi suốt một tháng trường từ nhà đến
tinh xá, ở lại tinh xá một tháng, trong thời gian đó mọi thời cúng dường chỉ
dùng phẩm vật trời người dành cho ông. Nay lên đường về nhà với xe không, trời
người lại chất đầy quả, và ông lo cho mọi người cũng chỉ với tặng phẩm đó. Như
vậy có phải chỉ vì ông đến viếng Thế Tôn mà ông được tôn trọng như thế? Hay bất
cứ nơi nào khác cũng thế?
Phật đáp:
- Này A-nan! Dù đến viếng Ta hay nơi
nào khác ông đều nhận được như thế. Vì cư sĩ này đủ niềm tin và giới hạnh, nên
ở đâu cũng được quý trọng.
Và Ngài nói kệ sau, trong phẩm Tạp Lục:
(303) Tín tâm, sống giới hạnh
Ðủ danh xưng, tài sản,
Chỗ nào người ấy đến,
Chỗ ấy được cung kính.
Chuyện quá khứ
14A. Việc Làm Của Citta Ở Kiếp Trước.
Và Phật kể tiếp:
Citta đã từng phát nguyện dưới chân
đức Phật Padumuttara. Trải qua
một trăm ngàn kiếp luân hồi giữa trời và người, ông tái sanh làm thợ săn thời
đức Phật-Ca-diếp. Một ngày mưa, khi đã lớn khôn, ông đi săn trong rừng với ngọn
giáo. Thấy một Tỳ-kheo ngồi trong hang với thượng y kéo trùm đầu, nghĩ rằng
Ngài đang hành thiền và cần thức ăn, ông chạy về nhà lấy cơm dâng cúng. Gặp vài
Tỳ-kheo khác đang khất thực, ông cũng sớt bát. Trên đường trở lại hang, ông hái
thêm nhiều loại hoa chất vào giỏ mang đến vị Tỳ-kheo đang ngồi, thưa:
- Bạch Tôn giả! Xin ban ơn cho con!
Ông lấy bình bát, sớt đầy thức ăn rồi
đặt vào tay Ngài, xong dâng hoa lễ kính và phát nguyện:
- Với thức ăn chọn lọc và hoa thơm này,
lòng con rất đỗi vui mừng. Xin cho con cũng được vui mừng như vậy bất cứ chỗ
nào tái sanh sau này, với nhiều quà tặng và mưa năm thứ hoa trên đầu.
Ông đã làm nhiều việc công đức trong
đời, sau khi chết sanh lên cõi trời, chỗ của ông hoa trời mưa xuống ngập đỉnh
gối. Kiếp hiện tại, ngày ông sanh ra và ngày ông đến đây, mưa hoa rơi xuống ông
với nhiều tặng phẩm, bảy báu thì chất đầy xe. Ðó là do phước báo việc làm trong
tiền kiếp.
15. Sa Di Bảy Tuổi Ðược Lòng Mọi Người
Khác thay duyên thế lợi ...
Thế Tôn đã dạy như thế ở Kỳ Viên do
chuyện Trưởng lão Vanavàsi Tissa.
Chuyện quá khứ
15A. Bà-La-Môn Nghèo
Chuyện bắt đầu tại Vương Xá, nơi sinh
sống của Bà-la-môn Mahàsena, bạn
của Bà-la-môn Vangata (cha của
Ngài Xá-lợi-phất). Trưởng lão Xá-lợi-phất một hôm đi khất thực, thương hại Mahàsena nên dừng chân trước cửa nhà ông.
Ông biết Ngài đến khất thực, nhưng vì nghèo túng, không có gì để cho, ông lánh
mặt. Ngày khác, Trưởng lão lại đến, ông cũng trốn, chỉ mong có được món chi
cúng cho Ngài. Chẳng bao lâu ông được toại nguyện.
Số là, trong một buổi tụng đọc, ông
nhận được một bát cháo và một mảnh vải nhỏ. Nhớ đến Trưởng lão, ông muốn cúng
cho Ngài. Trưởng lão đang thiền định, xả thiền và thấy Bà-la-môn, bèn khoác y
ôm bát, đến nhà thì thấy ông đang đứng đó. Ông Bà-la-môn hài lòng, tiến đến
đảnh lễ, chào mừng thân mật, mời vào trong nhà rồi lấy bát cháo của mình trút
vào bát của Trưởng lão. Ngài chỉ nhận phân nửa cháo và lấy tay che bát lại.
Nhưng ông khẩn khoản:
- Tôn giả! Ðây là một chút cháo, hãy
ban cho tôi phước lại đời sau chớ không phải đời này. Tôi muốn cúng hết, không
chừa lại.
Trưởng lão nhận hết cháo, ăn ngay tại
chỗ. Ðợi Ngài dùng xong, Bà-la-môn dâng miếng vải nói:
- Tôn giả! Tôi cũng xin đạt được chân
pháp như Ngài.
Trưởng lão hứa khả:
- Sẽ được vậy, Bà-la-môn!
Rồi Ngài đứng lên, trở về Kỳ Viên.
Trường hợp người Bà-la-môn đúng y như câu "Cúng dường dù đang nghèo túng
đều làm tâm người an vui vượt bậc". Sau đó ông cảm thấy rất đỗi hoan hỷ,
đầy ân tình với Trưởng lão.
Chuyện hiện tại
15B. Sa-Di Tissa
Chỉ vì cảm tình với Trưởng lão, chết đi
ông Bà-la-môn đầu thai vào bụng vợ một thí chủ của Trưởng lão sống ở Xá-vệ.
Ngày khi biết mình mang thai, bà vợ cho chồng biết, và được săn sóc chu đáo,
tránh những thức ăn quá nóng, quá lạnh hay quá chua. Bà ước được mời đến nhà
năm trăm Tỳ-kheo do Trưởng lão Xá-lợi-phất dẫn đầu, dâng chỗ ngồi, cúng cháo
sữa và cơm liên tục; ngoài ra chính bà sẽ được khoác y vàng, ôm bát vàng, ngồi
vòng ngoài hội chúng, và được chia ăn phần cơm dư thừa của số đông Tỳ-kheo như
thế. (Ðó là dấu hiệu con bà sinh ra sẽ thành Tỳ-kheo trong Tăng đoàn dưới sự
lãnh đạo của Phật).
Bà được như ý. Sau mười tháng bà sinh
một bé trai. Trước và sau khi sanh, thỉnh thoảng bà lại chiêu đãi năm trăm
Tỳ-kheo do ngài Xá-lợi-phất dẫn đầu với cháo mật, sữa và cơm. (Có lẽ vì kiếp
trước đứa bé là Bà-la-môn cúng dường cháo).
Buổi chiêu đãi vào ngày sanh nhật đứa
bé, gia đình mặc cho nó y phục đẹp đẽ sau khi tắm nó từ sáng sớm, đặt nó vào
giường thật lộng lẫy và đắp lên mình chiếc mền trị giá một trăm ngàn đồng.
Thấy Trưởng lão, đứa bé bảo là thầy
mình, nhờ thầy mà được vinh dự như thế này. Và khi người ta ẵm nó lên đi thọ
giới, nó lôi theo chiếc mền, ý muốn dâng cúng Trưởng lão. Mọi người không hiểu,
kéo tay nó ra, nó khóc thét, họ đành để yên. Khi cúi lạy Trưởng lão nó mới chịu
buông tay cho mền rớt xuống chân Ngài. Gia đình hiểu ý thưa:
- Tôn giả! Xin nhận quà dâng của đứa bé
và truyền giới cho tôi tớ Ngài, kẻ đã lễ kính Ngài với chiếc mền đáng giá một
trăm ngàn đồng.
Trưởng lão hỏi:
- Ðứa bé tên gì?
- Xin lấy phần sau tên của Ngài.
- Vậy nó tên Tissa.
Upatissa chính là tên của Trưởng lão thuở
xưa còn ở nhà.
Mẹ cậu bé quyết định không xen vào ước
nguyện của con. Vào những ngày lễ tiếp theo, như ngày chia phần ăn, xỏ lỗ tai, nhận
y phục và cạo tóc, mẹ cậu vẫn tiếp tục chiêu đãi năm trăm Tỳ-kheo do
Xá-lợi-phất cầm đầu, với cháo mật, sữa và gạo.
Ðược bảy tuổi, cậu bé bảo mẹ muốn đi tu
với Trưởng lão. Bà mẹ hoan hỷ, mời Ngài đến nhà thưa ý định của cậu bé và xin
phép dẫn cậu bé đến tinh xá chiều hôm đó. Và bà đã đến tinh xá với nhiều phẩm
vật dâng cúng, rồi giao con trai cho Trưởng lão. Ngài dạy câu:
- Tissa,
đời tu sĩ là một đời gian nan, muốn ấm thì bị lạnh, muốn mát thì bị nóng, ai đi
tu cũng phải nhọc nhằn, còn con thì mảnh khảnh.
- Bạch Tôn giả! Con có thể làm bất cứ
việc gì Ngài sai bảo.
- Tốt lắm!
Ngài dạy cậu thiền quán về năm yếu tố
đầu của thân, chú tâm vào sự bất tịnh của thân, và cho cậu xuất gia.
(Nguyên pháp thiền quán gồm sự tự học
thuộc ba mươi hai yếu tố của thân, ai không thuộc nổi thì học năm yếu tố đầu.
Chư Phật hành trì đủ pháp quán không thay đổi, nhưng có rất nhiều Tỳ-kheo, ni
và cư sĩ nam, cư sĩ nữ đã chứng A-la-hán khi chỉ thiền quán về tóc và các phần
tử khác. Những Tỳ-kheo chưa có kinh nghiệm thường làm cho các vị thú hướng
A-la-hán không đắc được quả vị A-la-hán. Vì lý do đó Trưởng lão chỉ dạy cậu bé
một phần của pháp thiền quán trước khi thu nhận vào tăng đoàn, và sau đó truyền
mười giới cho cậu).
Ðể mừng con được kết nạp vào Tăng đoàn,
cha mẹ Tissa ở lại tinh xá bảy
ngày và dâng cúng tăng chúng chỉ cháo mật, sữa và gạo, không món nào khác. Các
Tỳ-kheo xầm xì không thể nào ăn hoài mỗi thứ cháo mật, sữa và gạo. Chiều thứ
bảy cha mẹ Tissa ra về, và ngày
thứ tám cậu tân Sa-di đi theo các Tỳ-kheo khất thực.
Dân trong thành Xá-vệ biết tin, chờ
Sa-di để dâng cúng. Họ lấy năm trăm miếng vải may nệm lót bát và sớt năm trăm
bát cúng dường khi gặp Sa-di trên đường. Ngày hôm sau họ đến khuôn viên tinh xá
cũng cúng dường giống như thế. Vậy là Sa-di nhận một ngàn bình bát với nệm lót,
chú dâng tất cả lên Tăng chúng. (Ðây là phước báo do kiếp trước chú Bà-la-môn
cúng mảnh vải). Vì vậy các Tỳ-kheo gọi chú là Pindapàtadàyaka
Tissa, tức thí chủ của Tissa.
Lại một hôm, trời lạnh, chú đi quanh
tinh xá, thấy các Tỳ-kheo đang sưởi ấm chỗ này, chỗ nọ, cả trong phòng giữ lửa.
Chú ngạc nhiên hỏi thăm sao không quấn mền mà phải sưởi như thế. Các Tỳ-kheo
cho biết Tissa nhiều công đức có
thể kiếm ra mền, còn họ thì không. Chú bèn cho loan tin khắp tinh xá ai cần mền
thì đi theo chú để nhận, cũng chẳng cần suy nghĩ lấy mền ở đâu ra cho các
Tỳ-kheo. Một ngàn vị đã theo chú đi từng nhà ngoại thành, và nhận được năm trăm
mền. Vào thành người ta mang mền vải cho chú từ bốn phía. Một chủ tiệm có năm
trăm mền trải trước mặt, một người đi ngang thấy bèn khuyên ông giấu đi. Chủ
tiệm hỏi kỹ lại:
- Chú Sa-di nhận mền ra sao? Như quà
tặng hay thế nào?
- Như quà tặng.
- Nếu thế thì tôi muốn cho thì cho, còn
không thì thôi. Anh đi đi.
Người kia đi rồi, chủ tiệm vẫn không
hết băn khoăn: "Có của để ngay tầm mắt người, nếu không cho cũng đáng hổ
thẹn, nhưng nếu cất đi chắc cũng không bị trách móc. Trong năm trăm mền này có
hai cái trị giá một trăm ngàn đồng đáng cho ta giấu cất". Thế là chủ tiệm
xếp giấu cất. Chú Sa-di dẫn một ngàn Tỳ-kheo đến ngay tiệm. Ông chủ thấy chú
sanh lòng quý mến, thầm nhủ "Ta cho cả trái tim ta còn được, huống hồ mấy
cái mền". Thế là ông lôi luôn hai cái mền tốt để hết dưới chân chú, đảnh
lễ và thưa:
- Tôn giả! Xin cho tôi được chia phần
chân pháp mà Ngài đã thấy.
Sa-di Tissa
hứa khả cho ông.
Vậy là chú nhận tất cả một ngàn chiếc
mền và giao hết cho Tăng đoàn. Do đó các Tỳ-kheo gọi chú là Kambaladàyaka Tissa, người tặng mền.
(Ngày đặt tên, chú bé tặng Trưởng lão
một cái mền, lên bảy tuổi thành Sa-di nhận được một ngàn cái. Chỉ có Tăng đoàn
của Phật mới từ một món cúng dường nhỏ đưa đến quả phúc lớn như thế).
Ở Kỳ Viên họ hàng của Tissa thường đến thăm hỏi. Chú thấy mình
khó tu, nên đảnh lễ Thế Tôn xin đề tài thiền quán, rồi lấy y bát rời tinh xá,
đi xa khoảng hai mươi dặm.
Dọc đường Tissa gặp một ông lão tại cổng làng, nhờ ông chỉ đường, chú
đến trú tại một tu viện dành cho tăng sĩ ẩn cư trong rừng. Ông lão, vì mến mộ
chú, dặn ngày mai vào làng khất thực, rồi quay về báo cho dân làng biết, họ gọi
chú là Vanavàsika Tissa, tức
người ở rừng. Tissa vào làng được
dân chúng mang phẩm vật tới cúng dường và đảnh lễ, ai cũng đứng lại mãi ngắm
chú không muốn về. Họ cúi lạy dưới chân chú thỉnh cầu ở lại trong ba tháng, họ
sẽ quy y Tam bảo, giữ năm giới và thực hành bổn phận Tám ngày chay. Chú nhận
lời, chúc họ hạnh phúc và hết phiền não. Chú đều đặn đến đó khất thực, qua hai
tháng chú chứng A-la-hán cùng các thần thông.
Bây giờ Giới sư của chú là Trưởng lão
Xá-lợi-phất sau mùa nhập hạ vừa làm lễ Tự tứ xong, đảnh lễ Thế Tôn và xin đi
thăm Tissa. Phật chuẩn y. Tôn giả
cho Trưởng lão Mục-kiền-liên hay. Thế là cả hai, mỗi vị dẫn đầu năm trăm
Tỳ-kheo cùng lên đường. Tất cả các vị Ðại đệ tử khác như Ðại Ca-diếp,
A-na-luật, Ưu-ba-li, Phú-lâu-na.., mỗi vị dẫn năm trăm Tỳ-kheo cùng đi theo,
tổng cộng tất cả là bốn mươi ngàn Tỳ-kheo.
Họ đến ngay ngôi làng đó, hỏi thăm. Một
cư sĩ nhìn ra tám mươi vị Ðại đệ tử, đầu tiên là vị "Thống soái của niềm
tin" là Ngài Xá-lợi-phất. Họ vui mừng bảo nhau mang nào giường, ghế, ngọa
cụ, đèn và dầu. Rồi xếp hàng sau các Trưởng lão, họ cùng vào tu viện ẩn cư.
Sa-di Tissa nhận ra Tăng đoàn, đỡ
lấy y bát của vài vị Ðại trưởng lão và làm bổn phận thường lệ với các Ngài.
Xếp đặt chỗ cho các Trưởng lão và cất y
bát xong thì trời tối. Xá-lợi-phất bảo các cư sĩ về nghỉ. Họ xin được nghe pháp
vì từ lâu không nghe. Trưởng lão bảo Tissa
thuyết. Họ đồng thanh bảo Tissa
không biết nói gì trừ hai câu cầu "Cầu quý vị được hạnh phúc! Cầu quý vị
hết phiền não!" Trưởng lão bèn hỏi lại chú:
- Sa-di! Làm thế nào người ta có thể
được hạnh phúc? Có thể hết phiền não? Hãy giải thích.
Chú thưa:
- Dạ, vâng!
Rồi càm quạt đủ màu, chú lên pháp tòa
thuyết giảng nghĩa lý kinh điển từ cạn đến sâu, là con đường đưa đến mức tối
cao là quả vị A-la-hán, như cơn mưa rào rơi xuống không ngớt trên bốn châu,
giảng rõ ý nghĩa của các bài kinh trong năm bộ A Hàm, và phân tích những thuộc
tánh của con người như đức Phật đã trình bày, đó là Năm uẩn, Tứ đại, Căn và
Trần. Chú nói tiếp:
- Chư Tôn giả! Hành như thế sẽ trở
thành A-la-hán được hạnh phúc! Hành như thế sẽ trở thành A-la-hán hết phiền
não. Ai không thoát khỏi phiền não sẽ hệ lụy với những thứ khác, đau khổ ở địa
ngục và ở chỗ khác.
Trưởng lão khen ngợi:
- Tốt lắm, Sa-di! Ông đã giải thích
kinh điển rất hay, giờ hãy ca ngâm!
Sa-di vâng lời.
Bình minh hôm sau, các thí chủ của
Sa-di chia ra hai nhóm. Kẻ thì chê bai:
- Thật chưa thấy ai xử tệ như ông này.
Làm sao mà ông ta thuyết pháp được như thế, khi ở tu viện đây đã lâu như ở với
cha mẹ mà chẳng đọc một câu pháp nào cho thính chúng có mặt nơi đây.
Người thì khen tặng:
- Chúng ta quả có phước, tuy chưa biết
phân biệt giữa thiện và ác, nhưng biết phục vụ một vị thánh thiện như thế, để
bây giờ nghe được pháp từ kim khẩu của Ngài.
Thế Tôn quan sát thế gian thấy thí chủ
của Trưởng lão Vanavàsì Tissa
chia thành hai nhóm bực bội và hoan hỷ như thế, người bực bội sẽ bị đọa địa
ngục, nên Ngài muốn đến đó để họ hòa thuận với đệ tử của Phật, và như thế sẽ
thoát khỏi phiền não.
Dân làng trước đó đã dựng một lều,
chuẩn bị xúp, gạo.., xếp chỗ ngồi và chờ Tăng chúng nơi Tissa đến khất thực.
Ðến giờ đi khất thực, chư Tỳ-kheo hỏi Tissa có đi cùng không. Tissa xin đi sau, khi đến giờ thích hợp.
Ðoàn Tỳ-kheo liền đắp y, mang bát lên đường vào làng. Ðức Thế Tôn đắp y tại Kỳ
Viên và trong chớp mắt xuất hiện, dẫn đầu trước Tăng chúng. Dân làng mừng rỡ
reo lớn khi thấy đức Phật xuất hiện. Họ sung sướng dâng tòa ngồi cho Tăng chúng
với Phật ngồi ở trước và cúng dường xúp với thức ăn cứng. Sa-di vào làng trước
khi Phật cùng Tăng đoàn dùng bữa xong. Họ cung kính dâng thức ăn. Sa-di lấy đủ
phần cần dùng rồi đến Thế Tôn dâng bình bát, Phật nhận bình bát đưa qua Trưởng
lão Xá-lợi-phất, bảo:
- Hãy xem, Xá-lợi-phất, đây là bình bát
của Sa-di ông.
Trưởng lão nhận bình bát, trao trả
Sa-di bảo:
- Hãy ngồi vào chỗ thường lệ và thọ thực
đi!
Dân làng hầu hạ Phật với Tăng chúng
xong, Phật hồi hướng theo lời họ thỉnh cầu:
- Phước may cho các ngươi, vì Sa-di đến
nhà mà các ngươi được đặc ân gặp Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ca-diếp.. tám mươi
Ðại đệ tử. Cũng chỉ vì Sa-di này mà Ta đến đây. Các ngươi thật đại phước đã
trông thấy Phật!
Dân làng cũng nhận thấy họ thật may mắn
được hân hạnh thấy một Sa-di được chư Phật và chúng Tăng chiếu cố đến thế, được
cúng dường vị Sa-di ấy như thế. Do đó, những người trước đây bực bội liền sanh
tâm hoan hỷ, những người đã hoan hỷ thì càng hoan hỷ hơn. Cuối lời hồi hướng
nhiều người chứng quả Dự lưu, Nhị quả và Tam quả. Rồi Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng
lên, ra về. Dân làng tiễn Phật một đoạn đường.
Dọc đường, đi bên cạnh Sa-di, Thế Tôn
hỏi tên những nơi trước đây ông già cư sĩ chỉ cho chú. Sau cùng, mọi người đến
chỗ chú đã ở. Phật leo lên đỉnh một ngọn núi và nhìn thấy đại dương, liền hỏi
chú:
- Tissa!
Khi chú đứng trên đỉnh núi và nhìn theo hướng này, chú thấy gì?
- Bạch Thế Tôn, con thấy đại dương.
- Chú nghĩ gì khi nhìn đại dương?
- Bạch Thế Tôn con nghĩ rằng, nước mắt
con đã khóc vì phiền muộn còn nhiều hơn nước bốn đại dương.
- Khéo nói lắm, Tissa! Ðúng thế, nước mắt chú đã khóc khi
phiền muộn còn nhiều hơn nước bốn đại dương.
Nói xong Thế Tôn đọc kệ:
Nước
bốn biển vẫn còn ít ỏi,
So lệ người muôn thuở đổ tuôn,
Vì buồn rầu, đau khổ điên cuồng,
Sao thế bạn, buông lung chi mãi?
Và Ngài hỏi tiếp:
- Tissa, chú ở đâu?
- Trong hang núi này, bạch Thế Tôn.
- Chú nghĩ gì khi ở đây?
- Bạch Thế Tôn, con nghĩ rằng, không biết
bao nhiêu lần con đã chết và xác nằm trên đất này.
- Hay lắm! Hay lắm! Tissa, đúng vậy. Không có chỗ nào mà không
có chúng sanh nằm xuống và chết đi.
Rồi Thế Tôn đọc chuyện Bổn Sanh Upasalhaka, trong quyển hai như sau:
Mười
bốn ngàn xác thiêu ở đây,
Của thổ dân Upasàlhakas,
Không chỗ nào, không có người chết.
Ở đâu có đạo pháp chánh chơn,
Thì chúng sanh không bị não hại,
Người người tự tri túc, điều phục,
Chỗ thánh nhân vui sống an nhàn,
Cõi bất tử, vắng mặt thần chết.
(Thường tình ai cũng chết. Vì chỗ nào
cũng có người chết, nên không ai chết rồi mà nằm chỗ chưa có người đã chết cả.
Chỉ có Trưởng lão A-nan là trường hợp đặc biệt. Khi Ngài được một trăm hai mươi
tuổi, quan sát thọ mạng của mình, thấy giờ xả thân sắp đến, Ngài tuyên bố:
"Bảy ngày nữa ta sẽ chết". Dân cư hai bờ sông Rohinì, người bờ bên này, kẻ bờ bên kia
đều giành bờ của mình cho Trưởng lão tịch. Muốn tránh sự gây gổ giữa hai bên vì
mình, Ngài xác nhận dân hai bờ đều là ân nhân của Ngài. Ðúng ngày, Ngài ngồi
kiết già khoảng giữa sông, cao hơn mặt nước bảy cây thốt nốt, thuyết pháp cho
dân hai bên bờ nghe xong bảo họ rằng thân Ngài sẽ tách ra làm hai, một nửa rơi
trên bờ này, nửa kia rơi trên bờ kia. Rồi Ngài nhận định trên yếu tố lửa. Lập
tức những ngọn lửa từ thân Ngài bùng cháy, tách thân ra làm hai mỗi nửa rơi một
bên bờ. Tiếng khóc than của dân chúng như đại địa nứt ra. Họ đau xót còn hơn
lúc Phật nhập diệt. Suốt bốn tháng họ than tiếc: "Chừng nào vị từng mang y
bát đức Ðạo sư hãy còn, ta tưởng chừng như đức Ðạo sư cũng còn. Nhưng nay Ngài
đã ra đi!" ).
Phật lại hỏi sa-di tiếp:
- Tissa,
nghe tiếng cọp beo hay dã thú khác, chú có sợ không?
- Con không sợ, bạch Thế Tôn! Trái lại,
nghe tiếng dã thú, tình yêu núi rừng trỗi dậy trong con.
Và chú đọc sáu mươi bài kệ về rừng.
Thế Tôn sắp đi, hỏi chú muốn đi theo
hay quay lại. Chú trả lời tùy theo ý thầy của chú. Ngài Xá-lợi-phất hiểu ý đệ
tử, bảo chú hãy ở lại nếu muốn. Sa-di bèn đảnh lễ Thế Tôn, Tăng đoàn và quay
gót. Thế Tôn trở về Kỳ Viên.
Tại Pháp đường có tiếng bàn tán về
Sa-di Tissa, từ khi sanh ra,
chiêu đãi cúng dường, đi tu rồi nhận thức ăn, bát với nệm lót, mền. Ở đây nhiều
lợi dưỡng, nhưng chú từ bỏ hết, vào rừng, chẳng đem theo bất cứ món ăn nào được
mang đến. Tissa thật đã làm một
điều khó khăn! Thế Tôn đến, nghe thế bèn dạy:
- Ðúng vậy, các Tỳ-kheo! Có một con
đường dẫn đến lợi dưỡng, một con đường dẫn đến Niết-bàn. Có bốn hình phạt mở
cửa cho Tỳ-kheo nào sống trong rừng và hành những phạm hạnh khác cốt để được
lợi dưỡng. Những Tỳ-kheo nào đi trên đường dẫn đến Niết-bàn, bỏ hết danh tiếng
và lợi dưỡng có được, vào rừng phấn đấu, tu tập sẽ chứng quả A-la-hán.
Và Phật đọc Pháp Cú:
(75) Khác thay duyên thế lợi,
Khác thay đường Niết bàn.
Tỳ-kheo, đệ tử Phật,
Hãy như vậy thắng tri.
Chớ ưa thích cung kính,
Hãy tu hạnh viễn ly.
--ooOoo--
Ðầu trang | Mục lục
| 01a | 01b | 01c | 01d | 02a | 02b | 03 | 04a | 04b
| 05a | 05b | 06 | 07 | 08 | 09
|
10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15
| 16 | 17 | 18 | 19 | 20
| 21 | 22 | 23 | 24 | 25
| 26a | 26b | 26c
[Trở về trang Thư Mục]
updated: 12-03-2002