BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Tích truyện Pháp Cú
Thiền viện
Viên Chiếu
Nguyên tác:
"Buddhist Legends", Eugene Watson Burlingame
II. Phẩm
Không Phóng Dật
1.-
Những Chuyện Luân Hồi Quanh Vua Udena (
hay Udayna)
Không phóng dật, đường sống...
Pháp Cú này do đức Ðạo sư nói tại tinh
xá Ghosita gần Kosambi, liên hệ đến cái chết của bà Sàmàvatì với năm trăm tỳ nữ và bà Màgandiyà cùng năm trăm thân thuộc.
Phần 1: Thời
Niên Thiếu Của Udena
Một thuở nọ, vua Allakappa cai trị vương quốc Allakappa và vua Vethadìpaka cai trị vương quốc Vrthadìpaka. Họ là bạn thân từ thuở bé,
cùng học một thầy. Sau khi phụ hoàng băng hà, họ nối ngôi cai trị vương quốc
rộng hơn mười dặm.
Họ gặp nhau thường xuyên, ăn cùng mâm
ngủ cùng giường. Nhận thấy con người cứ sinh ra rồi lại chết đi, cả hai cùng
kết luận rằng sau khi chết ta chẳng đem theo được gì, kể cả xác thân, vậy thì
có ích lợi gì nếu sống đời tại gia, ta nên xuất gia.
Vì vậy hai vua nhường ngôi cho vợ con
và đi tu, sống đời khổ hạnh trong dãy Hy-mã-lạp-sơn. Rồi họ nghĩ từ bỏ ngai
vàng, sống đời xuất gia cũng chẳng khó khăn gì, nhưng nếu sống chung thì chưa
phải là nếp sống khổ hạnh. Do đó họ sống riêng biệt ở hai ngọn núi, cứ hai tuần
vào ngày phát lồ họ lại gặp nhau. Tuy không thường xuyên liên lạc với nhau, họ
vẫn biết được bạn mình sống hay chết nhờ mỗi người đều đốt ngọn lửa trên núi
cho người kia thấy.
Một thời gian sau, tu sĩ Vethadiipaka
chết, tái sinh làm con trai Phạm thiên có quyền năng phi thường. Hai tuần sau, Allakappa không thấy ngọn lửa trên núi,
biết rằng bạn mình đã chết. Vethadìpaka vừa
được tái sinh liền quan sát, tầng trời của mình, xét lại việc làm đời trứơc,
những sự khổ hạnh từ ngày xuất gia, và muốn đi thăm bạn mình. Ngài bỏ lớp trời,
hoá thành một bộä hành đi đến gặp Allakappa,
đảnh lễ rồi cung kính đứng một bên.
Allakappa hỏi:
- Ông từ đâu đến?
- Tôi là một bộ hành từ xa đến. Nhưng
thưa tôn giả, Ngài ở đây có một mình sao?
- Tôi chỉ có một người bạn.
- Người ấy đâu rồi?
- Ông ta ở trên ngọn núi kia, không
thấy đốt lửa vào ngày phát lồ, tôi biết ông ta đã chết.
- Tôi chính là bạn Ngài, thưa tôn giả.
- Bạn tái sinh ở đâu?
- Ở cõi trời, là con trai Phạm thiên có
quyền năng phi thường. Tôi trở lại đây để thăm Ngài. Ngài sống ở đây có an ổn
không, hay bị quấy rầy?
- Tôi rất bực lũ voi.
- Tôn giả, chúng quấy rầy gì Ngài?
- Tôn vừa quét dọn xong chúng đã đến ị
đầy, rồi lại dậm chân tung bụi mù. Phần hốt phân, phần dọn đất, tôi mệt lử.
- Vậy Ngài có muốn đuổi chúng đi không?
- Muốn!
- Ðược rồi. Tôi sẽ giúp Ngài.
Vethadìpaka cho Allakappa một cây đàn ba dây và chỉ cách đọc ba câu chú để
mê hoặc lũ voi:
- Ðánh dây thứ nhất và đọc thần chú này
lũ voi sẽ bỏ chạy, không dám nhìn Ngài một chút nào. Ðánh dây thứ hai và đọc thần
chú này, chúng cũng sẽ bỏ chạy, mỗi bước mỗi nhìn Ngài. Ðánh dây thứ ba và đọc
thần chú này, voi đầu đàn sẽ chạy đến cho Ngài cưỡi. Ðây, hãy sử dụng theo ý
muốn.
Nói rồi, Vethadìpaka ra đi. Từ đó vị ẩn sĩ sống yên ổn.
Thuở ấy vua xứ Kosambi là Parantapa. Một sáng nọ, vua ngồi phơi nắng sớm với hoàng hậu
đang mang thai. Hoàng hậu khoác chiếc long bào đỏ tía của vua đáng giá một trăm
ngàn đồng tiền, và đang khi trò chuyện bà tháo ngọc ấn nơi ngón tay vua đáng
giá một trăm ngàn đồng vàng, đeo vào tay mình.
Ngay lúc ấy, một quái điểu mỏ lớn như
vòi voi hay liệng trên không, trông thấy hoàng hậu và lầm bà là một miếng thịt
tươi nên dang rộng cánh nhào xuống. Nghe tiếng chim sà xuống, nhà vua bật dậy
lao vào cung. Còn hoàng hậu, vừa có thai, vừa chậm chạp yếu đuối không chạy
nhanh được, bị chim đâm bổ xuống, dùng vuốt quắp lấy rồi bay vút lên không
(Giống chim này mạnh bằng năm con voi, có thể quắp mồi bay đi đến nơi nào tùy ý
rồi ăn thịt). Tuy khiếp hãi hoàng hậu vẫn tỉnh táo. Biết rằng nếu la lên, chim
sợ tiếng người sẽ buông ra ngay, nhưng lại nguy hiểm cho mình và đứa con trong
bụng. Cho nên bà kiên nhẫn chịu đựng, chờ khi chim dđáp xuống sẽ la lớn cho nó
sợ bay đi.
Quái điểu như thường lệ mang hoàng hậu đặt
trên nhánh chĩa ba một cây đa khá lâu năm, có tán che rộng trong dãy
Hy-mã-lạp-sơn, vừa trông chừng dưới đất. (Người ta nói loài chim này có thói
quen trông chừng con đường dẫn đến cây nó đang ở).
Biết đã đến lúc, hoàng hậu đưa tay lên
vỗ, hét lớn đuổi chim đi.
Ðến chiều, trong lúc giông bão nổi lên
bốn phía, bà chuyển dạ, yếu quá, gần ngất đi vì đau đớn, chẳng có ai bên cạnh
để an ủi.
Suốt đêm bà không ngủ. Khi trời sáng
dần, mây tan, đứa trẻ ra đời. Vì sinh giữa cơn bão trên đỉnh núi lúc mặt trời
mọc, bà đặt tên con là Udena.
Cách đó không xa là trú xứ của ẩn sĩ Allakappa.
Vào những ngày mưa ẩn sĩ không vào rừng hái vì sợ lạnh, mà thường đi đến gốc
cây đa nhặt những mẫu xương thừa của chim, gĩa nhỏ và nấu nước xúp uống. Hôm
ấy, Alakappa đi đến gốc cây lượm
xương, nghe tiếng trẻ khóc trên cành và nhìn lên thấy hoàng hậu, Ngài hỏi:
- Ai đó?
- Tôi là một phụ nữ.
- Sao bà ở trên ấy?
- Con quái điểu mang tôi đến.
- Xuống đi!
- Thưa ngài, tôi không dám xuống vì sợ
khác giai cấp.
- Bà thuộc giai cấp nào?
- Giai cấp chiến sĩ.
- Tôi cũng vậy.
- Ngài hãy đọc khẩu lệnh của giai cấp
chiến sĩ.
Ẩn sĩ đọc lên, hoàng hậu đồng ý cho
ngài leo lên cây đem đứa bé xuống. Vâng lệnh hoàng hậu không được chạm đến bà,
Ngài ẵm đứa bé rồi đặt xuống đất, để hoàng hậu tự leo xuống.
Ẩn sĩ dẫn hoàng hậu về túp lều của
mình. Ngài săn sóc và phục vụ bà với mật ong, nấu xúp và cháo với lúa đã trồng,
mà không phạm giới cấm. Thời gian trôi qua, vì lo sợ bị ẩn sĩ bỏ rơi, phần vì
không biết đường đến cả đường về, nên hoàng hậu nảy sinh ý định quyến rũ ẩn sĩ.
Và ẩn sĩ đã phạm giới với bà, từ đó hai người chung sống với nhau.
Một hôm xem thiên văn, ẩn sĩ thấy sao
chiếu mệnh của Parantapa vua xứ Kosambi mờ đi, bèn nói với hoàng hậu:
- Này bà, vua xứ Kosambi đã chết.
- Tôn giả, sao ngươi nói vậy? Sao ngươi
có ác tâm với nhà vua?
- Tôi không có ác tâm. Tôi nói vậy vì
thấy ngôi sao của vua mờ đi.
Hoàng hậu bật khóc. Ẩn sĩ ngạc nhiên
hỏi:
- Sao bà khóc?
Lúc đó hoàng hậu mới cho biết vua Paratapa chính là chồng bà. Ẩn sĩ an ủi:
- Ðừng khóc. Ai sinh ra cũng đều phải
chết.
- Tôi biết.
- Vậy sao bà vẫn khóc?
- Tôi khóc vì buồn cho con tôi, đáng lý
phải được nối ngôi, được che lọng trắng. Giờ đây nó chỉ là thường dân.
- Không sao, bà đừng lo. Nếu bà muốn nó
làm vua, tôi sẽ có cách. Allakappa bèn
cho chú bé cây đàn và dạy các câu chú mê hoặc voi. Ngày thứ nhất, chú bé búng
sợi dây đàn thứ nhất và đọc câu chú đầu tiên, bầy voi đang tụ tập quan gốc cây
đa bỗng chạy hết, không dám nhìn lại một chút nào. Qua ngày hôm sau, chú búng
sợi dây đàn thứ hai và câu chú thứ hai, bầy voi chạy đi mỗi bước mỗi nhìn chú
bé. và trước khi chỉ dạy câu chú thứ ba, ẩn sĩ bảo hoàng hậu dạy chú bé thông
điệp lên ngôi vua: "Con phải nói con là con trai vua Parantapa xứ Kosambi, bị một quái điểu bắt đem đi, rồi con đọc tên tổng
tư lệnh quân đội và các đại tướng. Nếu người ta vẫn chưa tin, con sẽ cho họ xem
chiếc áo choàng này và chiếc nhẫn ngọc ấn này của cha con". Ðến ngày thứ
ba, chú bé theo lời ẩn sĩ ngồi trên nhánh cây đa thấp nhất, búng sợi dây đàn và
đọc câu chú thứ ba, voi đấu đàn chạy đến cho chú cưỡi lên, chú thì thầm bên tai
voi:
- Tôi là con trai vua xứ Kosambi. Hãy mang tôi đến ngai vàng của
cha tôi.
Voi đầu đàn liền rống lên:
- Ngàn voi, tập hợp!
Hàng ngàn voi tụ lại. Voi rống lần thứ
hai:
- Các voi già yếu ở lại!
Các voi già yếu bèn rút lui.
Voi rống lần thứ ba:
- Các voi con ở lại.
Các voi con bèn rút lui.
Như thế, chú bé ra đi giữa hàng ngàn
voi dũng sĩ. Ðến một làng biên giới, chú tuyên bố:
- Ta là con trai của đức vua, ai muốn
ấm no thịnh vượng hãy đến với ta!
Rồi chú tiến lên, tuyển thêm quân, bao
vây thành phố và gởi thông điệp "Hoặc đánh nhau, hoặc trao ngai
vàng". Dân chúng trả lời:
- Cả hai là không. Hoàng hậu của chúng
tôi bị quái điểu bắt mang đi khi đang có thai. Chúng tôi không biết bà còn sống
hay đã chết. Chúng tôi không đánh nhau hay trao ngôi vua cho đến bao giờ được
tin tức hoàng hậu.
Chú bé liền nói:
- Chính ta là con của hoàng hậu.
Rồi chú đọc tên vị tổng tư lệnh, tên
các đại tướng. Thấy dân chúng chưa tin, chú đưa ra áo choàng và chiếc nhẫn. Dân
chúng nhận ra, liền mở cổng thành, tung hô chú bé lên ngôi vua.
Phần 2. Thời
Niên Thiếu Của Ghosaka
Câu chuyện tiền thân - Kotuuhalaka Vứt Con
Một thuở nọ, tại vương quốc Ajita xảy ra nạn đói. Một người tên Kotùhalaka không đủ ăn, định đến Kosambi để kiếm sống. Ông cùng con trai
nhỏ Kapi và vợ Kali ra đi với một ít lương thực. (Cũng có
người nói ông bỏ nhà đi vì dân ở đó đang chết vì bệnh dịch tả).
Họ đi mãi cho đến lúc hết lương thực.
Sau cùng, đói quá họ không bồng nổi đứa con. Người chồng bảo vợ:
- Này bà, nếu chúng ta còn sống thì sẽ
có đứa con khác. Hãy bỏ đứa nhỏ lại để đi tiếp.
Lòng mẹ lúc nào cũng từ ái nên người vợ
trả lời:
- Tôi không bao giờ vứt bỏ đứa con còn
sống.
- Vậy ta phải làm sao?
- Thay phiên nhau ẵm nó.
Phiên bà mẹ bồng thì bà đỡ đứa bé như
nâng một vòng hoa, ôm vào lòng hoặc mang bên hông. Ðến phiên người cha, ông
bồng kiểu nào cũng thấy nặng nhọc, khổ sở còn hơn cả cơn đói. Ông cứ lặp đi lặp
lại mãi điệp khúc: "Này bà, nếu chúng ta còn sống sẽ có đứa con khác, vứt
đứa nhỏ này đi!" Nhưng người mẹ nhứt quyết không chịu. Ðứa bé bị bồng tới
bồng lui tới một lúc thì quá mệt nên ngủ thiếp trên tay người cha. Kotuhalaka bèn chậm chân để người mẹ đi
trước, rồi lén đặt đứa bé trên đệm lá dưới một cây, và lập tức đi tiếp. Ði một
đoạn bà mẹ bỗng quay lại, không thấy đứa bé liền hỏi:
- Ông! Con tôi đâu rồi?
- Bỏ nó dưới bụi cây rồi!
- Trời! Ông đừng có giết tôi Thiếu nó
tôi sống sao nổi. Trả con lại cho tôi!
Thấy bà đấm ngực khóc lóc, ông chồng
phải đi lui tìm đứa bé trao lại cho vợ. (Do một lần vứt con này mà kiếp sau đó,
Kotuhalaka bị cha mẹ vứt bỏ bảy
lần. Ta chớ có xem thường việc ác và bảo rằng chỉ là việc nhỏ).
Tiếp tục cuộc hành trình, họ đến nhà
người chăn nuôi gia súc. Hôm ấy có con bò cái đẻ nên chủ nó làm tiệc ăn mừng. Sau
khi cúng dường vị Bích Chi Phật thường đến khất thực, ông nấu đãi rất nhiều
cháo và xúp. Trông thấy hai người khách lỡ đường và thương xót cho hoàn cảnh
của họ, ông bố thì cháo và nhiều bơ sữa. Bà vợ thì đặt bơ sữa lỏng và bánh sữa
trước mặt, nhường cho chồng ăn uống thỏa thích sau những ngày đói khổ, còn mình
thì ăn chút ít. Ông chồng thì ăn ngốn ăn nghiến vẫn chưa thấy no vì đã nhịn đói
sáu bảy ngày trước. Thấy người chăn bò đang dùng bữa, thỉnh thoảng cho con chó
cái nằm chực dưới ghế vài muỗng cháo, ông chồng lại khởi tâm thèm muốn, bảo con
chó tốt phước được ăn ngon lành và no đủ. Tối đến, ông chồng bị đầy bụng và qua
đời, thác sinh vào bụng con chó cái.
Người vợ chôn cất chồng xong, ở lại làm
thuê cho ấy luôn. Ðược trả công nửa lít gạo, bà nấu cơm để bát cúng dường vị
Bích Chi Phật, hồi hướng phước báo cho con mình. Nghĩ rằng dù có cúng dường hay
không, cũng được đặc ân đảnh lễ và hầu hạ vị Bích Chi Phật mỗi ngày, do đó sẽ
được phước lành an lạc, bà bèn quyết định ở lại đây luôn.
Sáu, bảy tháng sau, con chó cái xinh
một chú chó con. Người chủ nhà dành riêng sữa một con bò cho nó. Chẳng bao lâu
nó lớn thành một con chó to khỏe. Còn vị Bích Chi Phật mỗi khi thọ thực đều
dành cho nó một phần cháo nên nó cứ quấn quýt bên Ngài.
Mỗi ngày người chăn bò đều đến viếng
thăm vị Bích Chi Phật với con chó theo sau. Trên đường đi, đến một hang thú ông
ta thường đập gậy vào bụi cây và dộng gậy xuống đất, kêu lên ba lần
"su,su" cho thú sợ. Ngày kia, ông ta bạch với Phật rằng khi nào không
đến được sẽ gởi con chó đến tìm, và xin Phật hiểu cho là ông đang mong Ngài
đến. Quả nhiên vài ngày sau, ông thấy khó chịu trong mình nên để con chó đến
thỉnh Phật. Nghe lệnh chủ, con chó chạỵ đi. Ngang qua nơi hang thú, chú ta sủa
ba lần rồi mới đi tiếp. Sáng sớm, đi vệ sinh xong chú mới vào lều tranh sủa ba
tiếng ra mắt vị Bích Chi Phật, rồi nằm về một bên. Biết đã đến lúc, Ngài đứng
dạy lên đường. Chú chó chạy phía trước sửa từng chặp. Nhiều lần vị Bích Chi
Phật vờ đi nhầm đường để thử chú, nhưng lần nào chú cũng biết, đứng chận lại
sủa vang, ra dấu cho Phật đi đường khác. Một hôm, chú cũng cản lại khi Phật đi
nhầm đường, nhưng lần này Phật không trở lui, chỉ lấy chân đẩy nó ra rồi đi
tiếp. Chú chó liền cắn tà áo trong của Phật và kéo trở lui cho đến khi Ngài đi
đúng đường. Chú quả là trung thành và nhiệt tình với Phật.
Rồi đến một ngày y Phật rách, người
chăn bò cúng dường vải để may y mới, và Phật phải đi đến chỗ khác để nhờ may
giúp. Ngài bay lên không về hướng Gandhamadana.
Chú chó sủa và chu lên cho đến khi bóng Ngài khuất dần, rồi vỡ tim ngay đó.
(Người ta thường nói loài vật sống chơn chất không biết lừa dối, còn con người
tâm một đường miệng một nẻo. Vì vậy Thế Tôn có dậy một Sa-môn: "Lòng người
khó lường còn loài thú lại đơn giản").
Chú chó chết đi, do lòng ngay thẳng
trung hậu, tái sinh lên cõi trời ba mươi ba với một ngàn thiên nữ tùy tùng,
hưởng phúc lạc vô kể. Vị trời này chỉ cần thì thầm âm thanh đã vang xa mười sáu
dặm. Khi nói năng bình thường khắp cõi trời rộng ngàn dặm đều nghe (Ðó là do
thân chó kiếp trước đã sủa và chu vì thương mến vị Bích Chi Phật).
Ở tầng trời ba mươi ba không còn lâu,
vị này mạng chung (Chư thiên mạng chung do bốn nguyên nhân: mạng tận, phước
tận, thực phẩm tận và sân hận. Nếu nhiều phước, ở tầng trời này đủ hạn kỳ rồi
sanh thiên cao hơn nữa, đó là "mạng tận". Nếu ít phước, giống như
một, hai lít gạo bỏ vào kho chẳng nhằm đâu cả, không bao lâu sẽ chết, gọi là
"phước tận". Trường hợp thứ ba, vị trời ham hưởng lạc, quên cả ăn
uống, sức khoẻ suy sụp và chết, đó là "thực phẩm tận". Thứ tư là do
ganh tỵ với sự sáng chói của vị khác, sân hận mà chết).
Câu chuyện hiện tại - Bảy Lần Ghosaka Bị Vứt Bỏ
Ghosaka, tiền kiếp là chú chó, ở cõi
trời Ba mươi ba thụ hưởng lạc thú quên cả uống nên mạng chung, thác sinh làm
con một kỹ nữ ở Kosambi. Vừa lâm
bồn, cô ta đã hỏi ngay nàng hầu là trai hay gái. Biết là con trai cô ra lệnh bỏ
đứa bé trong cái giỏ cũ, đem vất ngoài đống rác. (Kỹ nữ chỉ nuôi con gái vì sẽ
kế nghiệp họ).Qụa và chó xúm quanh nhưng do phước báo kiếp trước, chẳng con nào
làm hại đứa bé. Lúc đó có người đi đến, thấy chuyện lạ, tiến lại xem, gặp đứa
bé trai liền thương ngay và nhặt lên mang về nuôi.
Hôm đó viên chưởng khố ở Kosambi vào cung vua gặp thầy tế lễ xem
thiên văn cho biết là một bé trai ra đời hôm nay sẽ thành vị chưởng khố trọng
yếu. Lúc bấy giờ vợ viên chưởng khố đang có mang gần ngày sinh, nhưng hôm đó
thì chưa sinh. Viên chưởng khố bèn gọi một bà nô lệ tên Kàkì cho một ngàn đồng tiền, bảo đi lùng
khắp thành tìm đứa bé vừa mới sinh ra hôm nay đem về gấp. Bà nô lệ sục sạo khắp
nơi. Khi đến nhà đứa bé vừa được lượm về, bà liền trả giá, từ một xu rồi tăng
dần đến một ngàn đồng tiền thì xin được đứa bé mang về cho viên chưởng khố. Ông
ta nuôi đứa bé trong nhà, định bụng nếu sau này con mình là gái sẽ cho nó làm
rễ để nối nghiệp chưởng khố, nếu là trai sẽ giết đứa bé đi.
Ít ngày sau vợ ông hạ sinh một bé trai.
Ông bèn bảo Kaalii mang đứa bé nuôi để ngay lối vào chuồng bò vào giờ bò đi ăn,
để chúng giẫm chết nó. và còn dặn thêm xem kỹ nó chết rồi hãy về báo cho ông.
người nô lệ làm y theo lời ông dặn.Ngay khi cửa chuồng vừa mở, con bò đực đầu
đàn xông ra trước tiên, khác với thường lệ là nó đi sau rốt. Ðến chỗ đứa bé, nó
dùng bốn chân che kín lại và đứng yên ở đó. Hàng trăm con bò lần lượt đi ra hai
bên, chạm sát vào sườn nó. Quanh cảnh này không lọt khỏi cặp mắt người chăn bò
đang đứng gần đấy. Ông đi đến gần, ngạc nhiên thấy đứa trẻ nằm ngay chân bò.
Ông thấy thương nó ngay và liền mang về nuôi.
Kaalii thấy hết từ đầu đến cuối, trở về
kể rõ tự sự cho viên chưởng khố. Ông lại bảo Kaalii đi gặp thằng chăn bò, cho
một ngàn đồng tiền để bắt đứa bé lại. Tiếp theo ông ra lệnh cho Kaalii mang đứa
bé đặt nơi bánh xe bò, vì biết rằng sáng mai năm trăm cỗ xe này sẽ lên đường đi
một chuyến buôn xa, mấy con bò không dậm chết nó thì bánh xe cũng nghiến nát
nó. Và ông không quên dặn Kaalii phải xem thằng bé chết ra sao rồi mới về báo
cho ông. Sáng sớm trưởng đoàn buôn đến tròng ách vào cổ bò và thúc chúng bước
đi. Nhưng chúng vùng ra không chịu đi. Mấy lần như thế cũng không được, ông vật
lộn đàn bò cho đến mặt trời mọc. Ông thắc mắc không hiểu tại sao, chợt nhìn
xuống đường thấy đứa bé nằm ờ đó. Ông bế lên, lòng vui mừng vì được một đứa con
trai. Kaalii vẫn theo dõi từ nãy giờ, lúc này mới trở về báo tin cho viên
chưởng khố. Ông lại bảo Kaalii đến gặp trưởng đoàn buôn đưa một ngàn đồng tiền
để chuộc lại thằng bé, rồi quăng nó trong lùm cây nơi bãi thiêu cho chim thú ăn
thịt hay ma quỷ giết nó. Kaalii lại mang đứa bé đi, nhưng chẳng có con thú hay
ma quỷ nào làm hại đứa bé vì qủa báo đời trước đã che chở cho nó. Chợt có một
đàn dê đi qua bãi thiêu. Một chị dê đi len trong lùm bụi ăn lá cỏ, thấy đứa trẻ
liền quỳ xuống cho bú. Người chăn dê gọi mãi chị ta vẫn không chun ra. Cuối
cùng chủ nó phải cầm gậy xông vào và bắt gặp đứa trẻ, hớn hở đem về. Ðến lần
này đứa trẻ vẫn chưa yên vì viên chưởng khố vẫn chưa chịu thua. Kaalii lại được
lệnh chuộc nó từ người chăn dê và leo lên ngọn Dốc Ðá Cướp ném nó xuống sườn
núi, nó sẽ va vào vách đá rồi rớt xuống khe núi tan xác. Nhưng dọc sườn núi lại
có một bụi tre dày và trên chót núi nhiều bụi gunjà
bao phủ. Ðứa bé rơi xuống ngay giữa đám tre như trên một nệm lông dê. Ngày hôm
đó, người trưởng nhóm đánh tre vừa nhận một mối bán tre hời. Và khi ông cùng
con trai lia dao vào bụi tre định chặt thì đứa bé bị tre lay động bật khóc. Ông
ngạc nhiên nghe sao giống tiếng trẻ khóc, vội trèo lên xem thì thấy ngay một
đứa con trai. Ông lại hân hoan mang về nhà. Kaalii lại đi chuộc đứa bé một lần
nữa. Cho đến lần này đứa bé vẫn sống mạnh khỏe đến lớn, tên nó là Ghosaka, nhưng cũng còn là cái gai trước
mắt viên chưởng khố. Ông vẫn tìm mọi cách để giết cậu bé. Lần này ông đích thân
đến gặp người bạn làm nghề gốm, đưa trước một ngàn đồng tiền và dặn dò như sau:
- Tôi có một đứa con tư sinh và sẽ gởi
nó đến cho anh. Cho nó vào một phòng kín lấy búa bén băm nó ra thành từng mảnh
rồi thảy vào lò nung đốt hết. Ðây là một ngàn đồng tiền như đã giao hẹn. Việc
xong tôi sẽ thưởng thêm cho anh xứng đáng.
Thợ gốm đồng ý. Về nhà, viên chưởng khố
gọi Ghosaka sai đến thợ gốm.
- Hôm qua ta có nhờ thợ gốm làm một ít
việc cho ta. Hãy đến bảo ông ấy hoàn tất công việc cha tôi đã giao hôm qua.
- Thưa vâng.
Và Ghosaka
lên đường. Rời khỏi nhà một quãng anh ta gặp con trai viên chưởng
khố đang chơi bắn bi với chúng bạn. Nó chận Ghosaka
lại hỏi.
- Mày đi đâu vậy?
- Tôi mang lời cha đến cho người thợ
gốm.
- Ðể tao đi! Mấy đứa này ăn hết tiền
của tao, mày đánh ăn lại cho tao.
- Tôi sợ cha lắm!
- Ðừng sợ, tao sẽ nói cho. Tao đã thua
nhiều tiền rồi, mày chơi cho đến lúc tao trở về, ráng ăn lại số tiền của tao.
Ghosaka bắn bi rất giỏi nên anh nuôi nó
cứ nài nỉ mãi. Cuối cùng Ghosaka bằng
lòng. Vậy là chính con đẻ của chưởng khố chuyển lời đến thợ gốm, và đúng như
lệnh giao hẹn anh ta giết người đưa tin rồi ném thây vào lò nung.
Ghosaka chơi bi suốt ngày, chiều mới về.
Viên chưởng khố ngạc nhiên hỏi ngay:
- Mày về đó ư?
Ghosaka liền kể lại tự sự. Chưởng khố
tái nhợt như mất hết máu, gầm lên;
- Trời ơi! Khổ tôi chưa!
Rồi ông tức tốc đi đến thợ gốm, vặn vẹo
đôi tay rên rỉ:
- Thợ gốm ơi! Ông giết tôi mất rồi! Tôi
chết mất! Tôi chết mất!
Thợ gốm thấy ông hốt hoảng như vậy vội
trấn tỉnh ông;
- Thưa Ngài, đừng làm ồn. Công việc
xong rồi.
Ðau buồn như một trái núi úp chụp
xuống, viên chưởng khố phải gánh chịu sự đau khổ cùng cực như tất cả những ai
đã làm hại người vô tội.
Vì vậy đức Thế Tôn dạy:
(137) Dùng trượng phạt không trượng,
Làm ác, người không ác.
Trong mười loại khổ đau,
Chịu gấp một loại khổ.
(138) Hoặc khổ thọ khốc liệt,
Thân thể bị thương vong,
Hoặc thọ bệnh kịch liệt,
Hay loạn ý tán tâm
(139) Hoặc tai vạ từ vua,
Hay bị vu trọng tội,
Bà con phải ly tán,
Tài sản bị nát tan.
(140) Hoặc phòng ốc nhà cửa,
Bị hỏa tai thiên đốt.
Khi thân hoại mạnh chung,
Ác tuệ sanh địa ngục.
Viên chưởng khố không thể nào nguôi
ngoai nổi khi thấy mặt Ghosaka, nên
cứ phải tìm cách giết cậu ta. Lần này ông sai cậu mang lá thư đến người quản lý
trăm ngôi làng của ông, trong thư ông dặn giết cậu ta rồi liệng xuống hầm phân.
Lá thư được cột nơi viền áo của Ghosaka.
Cậu ta không biết chữ vì từ khi chào đời đến khôn lớn viên chưởng khố luôn âm
mưu giết cậu, nên cậu không được đi học. Và với lệnh giết mình, cậu xin cha
lương thực để lên đường. Người cha ác nghiệt của cậu bảo rằng trên đường đi, ở
làng đó làng đó có người bạn của ông cũng làm quản khố, và hãy ăn ở đó rồi đi
tiếp.
Ðến làng đó, Ghosaka hỏi nhà người quản khố và gặp được bà vợ. Biết đó là
con trai của bạn mình, bà có cảm tình ngay với chàng trai. Viên quản khố này có
cô con gái chừng mười lăm mười sáu tuổi, xinh đẹp tuyệt vời. Ðể giữ tiếng tốt
và an toàn cho con, hai ông bà cho cô ở trên tầng cao nhất trong toà lâu đài
bảy tầng, cung vi lộng lẫy như trong hoàng cung với một nàng hầu.
Hôm đó, cô gái sai nàng hầu đi chợ.
Giữa đường nàng hầu gặp bà mẹ và được bà nhờ trải chỗ ngồi cho Ghosaka, rửa chân và xức dầu rồi trải
giường cho chàng. Nàng hầu đi chợ về trễ, bị cô chủ rầy, phải kể lại việc hầu
hạ Ghosaka. Nghe đến tên chàng
trai, cô gái thương ngay thấu tận xương tủy tim gan. Cô chính là vợ của Kotùhalaka kiếp trước, nhờ cúng dường vị
Bích Chi Phật được phước báo sanh vào nhà viên quản khố giàu có. Do đó lòng
luyến ái kiếp trước sống lại. Ðức Thế Tôn có dạy;
Do
liên hệ đời trước,
Hay lợi lộc hôm nay,
Lòng mến thương bừng dậy,
Như hoa vươn mặt hồ.
Cô hân hoan hỏi thăm về chàng trai. Khi
được biết chàng trai đang nằm ngủ với lá thư nơi viền áo, cô lén đi xuống gỡ
lấy lá thư mang về phòng, đóng cửa lớn, mở cửa sổ và đocï thư.
Xem xong cô gái buột miệng:
- Ố! Anh chàng ngốc, ra đi với lệnh
giết mình buộc nơi áo. Nếu mình không lén đọc thư trước chắc hẳn anh ta sẽ bị
giết.
Rồi cô xé phăng lá thư, viết một cái
khác, nhại giọng viên chưởng khố: "Ðây là Ghosaka
con tôi. Hãy kiếm lễ vật từ trăm ngôi làng của ta cho nó. Sửa soạn
lễ cưới cho nó với con gái viên quản khố vùng này. Xây một ngôi nhà hai tầng
ngay giữa làng cho hai vợ chồng mới ở, có tường vách bao quanh và người canh
gác bảo vệ cẩn thận. Xong việc, hãy báo tin cho ta rằng đã làm đúng như vậy, ta
sẽ hậu thưởng xứng đáng". Xong, buộc lá thư vào viền áo chàng trai như cũ.
Ngủ nguyên một ngày, Ghosaka thức dậy, ăn uống, lấy lại sức rồi
đi tiếp. Sáng hôm sau chàng đến ngôi làng nơi viên quản lý trăm ngôi làng của
cha nuôi cư ngụ. Chào hỏi xong, chàng trao ngay bức thư của viên chưởng khố.
Viên quản lý xem thư xong reo lên mừng rỡ, và ra lệnh cho gia nhân chở gỗ và các
vật liệu xây dựng khác đến cất một ngôi nhà hai tầng ngay giữa làng như lời dặn
trong thư. Rồi ông mang lễ vật của trăm ngôi làng đến nhà viên quản khố cách đó
không xa để xin làm lễ cưới. Ðồng thời ông cũng báo tin cho viên chưởng khố
thành phố biết là đã làm đúng như vậy.
Viên chưởng khố nhận được tin xây nhà
và cưới vợ cho Ghosaka muốn bật
ngửa, chỉ còn biết than thầm: "Mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên!"
Phần rầu buồn vì con chết, phần đau tức kế mưu sụp đổ, lòng ông lúc nào cũng
như lửa đốt, và còn sinh ra chứng tiêu chảy. Ông vẫn không hạ được cơn tức tối
về Ghosaka: "Bằng mọi giá ta
không để cho thằng khốn nạn này thừa kế gia sản". Và ông sai viên thư lại
phái người đi gọi Ghosaka về.
Cô gái viên quản khố, bây giờ là vợ của
Ghsaka, đã dặn trước đám gia nhân
khi có ai từ viên chưởng khố thành phố đến, hãy báo cho cô ta biết trước khi
nói với Ghosaka. Vì thế khi người
của viên thư lại đến, cô liền chận lại hỏi thăm. Người này thật thà cho biết là
viên chưởng khố bệnh tình chưa trầm trọng, ăn uống cũng còn được, và xin gặp Ghosaka để chuyển lời cha chàng bị bệnh
muốn gặp chàng. Cô vợ không để cho Ghosaka biết, ra lệnh cung cấp cho người này
chỗ ở và tiền công, và bảo y ở lại đi, khi nào cô ta sai y hãy đi.
Viên chưởng khố đợi mãi chẳng thấy
người nhắn tin về, hỏi viên thư lại, cũng không có tin tức gì, bèn phái thêm
người đi nữa. Cô vợ làm y như trước. Khi người thứ ba đến, biết tin rằng viên
chưởng khố bệnh đã nặng, không ăn uống nằm liệt giường, phải đổ bô luôn, cô
liền cho Ghosaka hay và khuyên
chàng mang phẩm vật từ trăm ngôi làng về thăm cha. Nhưng khi phẩm vật được chở
tới quá nhiều, nếu chất hết mọi thứ lên xe cùng đi e chậm trễ, do đó cô gái bảo
chồng nên để lại nhà, chỉ có hai vợ chồng đi, và không quên dặn rằng: "Anh
nhớ đứng đằng chân cha, còn em sẽ đứng bên gối nằm của ông". Và khi vào
nhà cô ra lệnh cho gia nhân của mình đứng canh cả phía trước và phía sau nhà.
Viên chưởng khố đang nằm trên giường
bệnh, có viên thư lại chà xát bàn chân, và báo cho ông là con trai và dâu đã
về. Khi biết rằng Ghosaka đang
đứng dưới chân mình, ông gọi viên thủ quỹ đọc cho ông nghe số tài sản và lợi
tức của mình như sau: "Tiền mặt là bốn trăm triệu đồng. Còn dụng cụ và đồ
giải trí, những ngôi làng, đất ruộng, người hầu, súc vật, xe bò, xe ngựa, tổng
cộng là chừng ấy, chừng ấy..." Viên chưởng khố nghe qua, định nói:
- Tất cả tài sản này ta không cho con
trai ta Ghosaka.
Nhưng lại nói:
- Ta cho.
Cô vợ Ghosaka
nghe xong, nghĩ rằng nếu để ông ta nói lại lần nữa, e sẽ khác đi. Vì
thế cô giả vờ như quá đau buồn, bứt tóc kêu khóc:
- Cha thân yêu, cha nói thật chứ? Dù
vậy chúng con cũng thật là bất hạnh khi nghe những lời của cha.
Rồi với vẻ sầu khổ cùng cực cô ngã lên
người ông, đập đầu vào ngực ông, lại lăn đầu ngay giữa ngực ông khiến ông không
thể nói thêm được nữa. Viên chưởng khố chết trong lúc ấy.
Người ta đi báo tin cho vua Udena biết. Vua tổ chức tang lễ xong liền
hỏi về con cái của viên chưởng khố. Biết ông ta có một người con trai là Ghosaka và đã giao hết tài sản, vua triệu
anh ta đến. Ghosaka vào cung. Vua
nhìn anh qua cửa sổ, thấy anh nhảy qua các vũng nước. Rồi vua an ủi anh và ban
chức chưởng khố thành phố cho anh. Anh cảm tạ vua rồi ra về. Vua lại đứng nhìn
anh rời cung điện. Lần này, anh không nhảy qua vũng nước mà lội qua một cách tề
chỉnh. Vua ngạc nhiên, truyền gọi anh ta lại hỏi;
- Này Ghosaka!
Có đúng là khi đến đây ngươi nhảy qua vũng nước, còn lúc trở về thì nghiêm
chỉnh bước qua?
- Tâu bệ hạ, quả như vậy.
- Tại sao vậy?
- Tâu bệ hạ, khi bước vào hạ thần vẫn còn
là một chú thanh niên ham chơi, nhưng bây giờ đã được bệ hạ ban cho chức tước,
thần phải dẹp bỏ những ưa thích cũ và phải cư xử nhã nhặn, đàng hoàng.
Vua nghe nói, đẹp dạ, liền phong chức
cho anh ta ngay. Anh được thừa hưởng gia sản trước đây của cha nuôi với địa vị
chưởng khố và trăm ngôi làng.
Sau này, một dịp nọ, cô vợ Ghosaka mới tiết lộ cho bà vú Kaalii về
việc tráo lá thư để cứu mạng Ghosaka,
và từ đó mới có được vinh quang như hôm nay. Sẵn dịp đó, vú Kaalii mới khai ra Ghosaka đã bị cha nuôi mưu hại bảy lần như
thế nào. Khi chồng về, cô vợ thuật lại hết câu chuyện, nhưng anh ta không tin
bèn đi hỏi bà vú. Nghe kể lại tự sự, Ghosaka
bàng hoàng cả người và thấy mình quả có phước đức mới thoát khỏi bảy
lần chết khủng khiếp. Do đó anh ta tự hứa với lòng là sẽ không sống đời phóng
dật nữa, mà cố gắng chuyên tâm chánh niệm. Anh không quên bố thí cho người
nghèo khó mù loà một ngàn đồng mỗi ngày, và giao cho người quản lý thuở trước
việc đó.
Phần 3: Thời
Niên Thiếu Của Saamaavatì
Tại thành phố Bhaddavatì có viên chưởng khố tên là Bhaddavatiya, vốn là bạn chưởng khố Ghosaka. Họ chưa hề gặp mặt, chỉ kết bạn
vì nghe thương buôn qua lại giữa hai thành phố ca tụng tuổi tác và tài sản hai
bên, và từ đó họ trao tặng phẩm vật cho nhau.
Về sau, bệnh dịch tả hoành hành trong
nhà Bhaddavatiya. Trước hết là
ruồi, côn trùng chết, rồi lần lượt chuột, gà vịt, heo bò, nô lệ trai và gái,
cuối cùng là người trong gia đình. Bhaddavatiya
cùng vợ và con gái, nhờ phá tường chạy trốn nên thoát chết. Họ nhắm
hướng Kosambi định tìm đến Ghosaka. Dọc đường lương thực khô cạn, họ
kiệt sức vì đói khát và phải phơi mình dưới nắng gió. Vất vả lắm họ mới đến
được Kosambi. Sau khi tắm xong
trong một hồ nước họ thấy dễ chịu, rồi vào nghỉ trong nhà trạm ở cổng thành.
Viên chưởng khố kể cho vợ con biết là bạn của ông, viên chưởng khố tại đây, mỗi
ngày đều phân phát một ngàn đồng tiền cho kẻ nghèo khó mù loà, và ông quyết
định ở lại đây vài ngày, cho con gái đến chỗ bố thí xin thức ăn về, lấy lại sức
rồi mới đi gặp bạn.
Thế là cô gái nhà giàu, hết cả kiêu
hãnh trong cơn hoạn nạn, cố giấu xấu hổ, cầm bát đi với đám dân nghèo xin ăn.
Người ta hỏi cô xin mấy phần. Lúc đầu cô xin ba phần, ngày hôm sau cô xin hai
phần, và hôm sau nữa chỉ còn có một phần. Ngày đầu tiên cha cô được mẹ cô an ủi
và nài nỉ mãi mới chịu ăn của bố thí đó, nhưng vẫn không tiêu nổi, do đó sáng
sớm hôm sau ông qua đời. Rồi hôm sau đến lượt mẹ cô cũng bỏ cô mà đi theo cha.
Còn lại một mình, cô gái nằm lăn khóc lóc than van cho số phận bất hạnh và cảnh
đời bất trắc của mình. Nhưng cơn đói cào cấu ruột gan đã khiến cô ngồi dậy, vừa
khóc vừa đi theo đoàn ăn mày xin cơm.
Người quản lý Mitta nhớ rằng cô gái đã nhận thức ăn ba
ngày liên tiếp, nên nạt đùa:
- Hỏng! Thứ đàn bà tồi! Rốt cuộc hôm
nay mày đã biết cái bụng mày chứa được bao nhiêu chưa?
Vốn con nhà thế phiệt, lại hiền lành
nhút nhát, cô nghe như bị kim châm muối xát. Cô chỉ biết nghẹn ngào hỏi:
- Thưa Ngài, vậy nghĩa là sao?
- Hôm kia mày lấy ba phần, hôm qua lấy
hai, còn hôm nay chỉ lấy một. Vậy là đến hôm nay mày mới biết bụng mày chứa
được bao nhiêu cơm.
- Thưa Ngài, không phải tôi lấy những
phần ấy cho tôi.
- Vậy tại sao mày lấy?
- Hôm kia tôi có ba người, hôm qua có
hai, bây giờ chỉ còn một mình tôi.
- Cô gái kể lại câu chuyện từ đầu đến
cuối. Mitta nghe xong không cầm
được nước mắt. Ông bảo cô gái, lòng đầy trắc ẩn:
- Con thân yêu, trước đây con là con
gái của Bhaddavatiya, nhưng từ
nay trở đi con là con gái của ta.
Một hôm cô nhận thấy chỗ phân phát thức
ăn luôn ồn náo, bèn góp ý với cha nuôi làm lối đi từ hai cổng ra vào đến chỗ
phát thức ăn, có hàng rào bao quanh. Người ta sẽ vào bằng cửa này, lãnh thức ăn
xong ra bằng cửa kia lần lượt theo lối đi, như vậy sẽ trật tự và êm thắm. Cha
cô bằng lòng và cho thi hành. Từ đấy cô gái vốn tên là Sàmà, nay thêm Vatì nghĩa là hàng rào.
Chưởng khố Ghosaka lâu nay đã nghe quen tiếng ồn náo nơi phân phát thức
ăn, và cũng thích thú xem đó là sinh hoạt trong nhà ăn của mình. Hôm nay lại im
lặng, ông ngạc nhiên hỏi quản lý Mitta,
và nhờ đó được biết con gái mồ côi của Bhaddavatiya
bạn mình. Ghosaka liền nhận cô
gái làm con nuôi.
Vào ngày lễ hội trong thành, các tiểu
thư con nhà vọng tộc được phép ra ngoài tắm sông. Và khi Saamaavatii, con gái
nuôi của Ghosaka cùng năm trăm tỳ
nữ đi tắm, ngang qua cung điện, lọt vào mắt vua Udena, nên được lệnh tiến cung. Ban đầu Ghosaka không tuân lệnh vì sợ mang tiếng
là bạc đãi con gái nuôi, nhưng sau bị vua niêm phong hết nhà cửa và chính Sàmàvatì bằng lòng, ông mới vâng lệnh
thánh chỉ. Từ đó nàng trở thành hoàng hậu.
Phần 4: Udena
Ðược Vaasuladattà
Vua Udena
còn có một thứ phi khác là Vàsuladattà
con gái của vua Canda Pajjota xứ Ujjeni. Câu chuyện như sau:
Một hôm, từ hoa viên trở về, vua Canda Pajjota nhìn ngắm vẻ đẹp rực rỡ của
mình rồi hỏi đám cận thần:
- Còn có ai đẹp đẽ rực rỡ như ta chăng?
Họ đáp:
- Vua Udena
xứ Kosambi rực rỡ hơn bội phần.
- Vậy thì hãy bắt ông ta làm tù binh.
- Không bắt hắn được đâu, tâu bệ hạ.
- Sao vậy?
- Vì ông ta biết cách dẫn dụ loài voi.
Có thể đuổi voi đi hay bắt voi lại tuỳ ý bằng cách đọc chú và chơi đàn. Không ai
có nhiều voi cưỡi như Udena.
- Vậy là không thể bắt được ông ta sao?
- Nếu bệ hạ nhất quyết muốn bắt, hãy
làm một con voi bằng gỗ, đưa đến gần vua Udena,
lại tạo thêm tiếng ngựa hí, vua sẽ đi ra xa để xem là voi hay ngựa, và sẽ bị
bao vây, lúc đó Ngài có thể bắt vua.
- Quả là diệu kế!
Rồi vua cho làm một con voi máy bằng
gỗ, bọc vải và sơn thật khéo, xong mang đặt trên bờ hồ gần xứ của kẻ thù mình.
Trong bụng voi có sáu mươi người đi tới lui. Thỉnh thoảng họ xúc những xẻng
phân voi đổ ra ngoài. Một tiều phu trông thấy voi, liền tâu lên vua Udena. Vua và đám tuỳ tùng liền theo tiều
phu đi xem voi. Ðường đi của họ đều bị gián điệp theo dõi và báo tin cho vua Canda Pajjota, và một toán quân được phái
đến sát bên Udena, nhưng không để
cho vua biết. Rồi Udena gảy đàn
và đọc thần chú thâu phục voi, nhưng không kết quả. Voi được những người núp
trong bụng điều khiển, chạy như vũ bão như không hề nghe bùa phép. Vua thúc
ngựa phi nước đại để cố theo kịp voi, nên quân lính bị rớt lại đằng sau xa lắc.
Khi chỉ còn một mình, người của Canda
Pajjota, mai phục sẵn hai bên, ùa ra bắt Udena. Quân lính của Udena
thấy vua mình bị sa vào tay kẻ thù, bèn xây một doanh trại ngay bên ngoài xứ ujjeni và ở lại đó.
Canda Pajjota bắt sống và bắt giam kẻ thù
xong, mở tiệc ăn mừng ba ngày. Udena
nằm trong ngục tối đến ngày thứ ba đánh bạo hỏi người gác ngục.
- Này anh, vua của anh ở đâu?
- Ðang chè chén say sưa thì bắt được kẻ
thù.
- Vua của anh hành động chẳng khác gì
đàn bà. Hắn đã bắt được ta một là tha hai là giết đi, lẽ nào đã làm nhục ta mà
chè chén say sưa nữa!
Gác ngục đi báo và nhà vua liền đến hỏi
Udena:
- Có phải mi đã nói...như thế, như thế?
- Vâng, đại vương.
- Tốt lắm, ta sẽ tha ngươi nếu như
ngươi chịu trao bùa chú cho ta.
- Ðồng ý, nhưng khi Ngài nhận bùa chú,
ngài có chịu lễ kính ta không?
- Lễ kính ngươi à, không!
- Thế thì ta sẽ trao cho Ngài.
- Ta sẽ hành hình ngươi.
- Ta không sợ, vì Ngài chỉ làm chủ thân
xác ta chứ không làm chủ tâm hồn ta.
Nghe Udena
trả lời bướng bỉnh như thế, nhà vua bối rối không biết làm sao để đoạt được phù
phép. Bỗng vua nghĩ ra một kế, liền bảo:
- Người bảo ta sẽ tiết lộ bài chú cho
người nào lễ kính ngươi phải không?
- Vâng đại vương.
- Tốt lắm. Trong nhà ta có một mụ lưng
gù. Bà ta sẽ ngồi sau bức màn đề nghe ngươi dạy thần chú.
- Gù hay què gì cũng được, miễn là lễ
kính ta thì ta dạy thần chú.
Rồi nhà vua đến gặp công chúa Vàsuladattà.
- Con cưng, có một người cùi biết được
câu thần chú linh nghiệm và qúi báu. Con hãy ngồi bên trong bức màn đề hắn dạy
con thần chú. Con nên học với hắn vì cha không muốn ai khác biết, rồi cha sẽ
học lại với con.
Sở dĩ nhà vua phải bịa ra gù lưng và
cùi hủi vì sợ hai người yêu nhau.
Một hôm, đến một câu chú sao đó mà Vàsuladattà không thể đọc lại cho đúng, dù
Udena đã lặp đi lặp lại nhiều
lần. Tức quá Udena la lên:
- Ðồ gù đần độn! Môi dày mo, má chư bự!
Mi đáng nhận mấy cái tát!
Vàsuladattà cũng giận dữ không kém:
- Ðồ hủi hung tợn! Mi nói gì? Dám gọi ta là đồ gù hả?
Udena ngạc nhiên, vén màn lên và hỏi:
- Cô là ai?
- Tôi là công chúa Vàsuladattà.
- Cha cô bảo với tôi cô là người gù
lưng.
- Còn ông, vua nói là bị cùi.
Rồi cả hai đồng nói một lượt:
- Vua nói thế vì sợ chúng ta yêu nhau.
Và quả như thế, tình yêu đến, nên từ đó
trở đi họ hết học hết dạy.
Nhà vua không biết, thỉnh thoảng lại
hỏi con gái:
- Này con, con đang học bài hả?
Công chúa tỉnh bơ đáp:
- Vâng thưa cha.
Ngày kia, Udena bảo với người yêu rằng một người chồng có thể làm được
những việc mà cha, mẹ, anh, chị không làm được, và nếu nàng cứu được Udena thì sẽ được ban năm trăm người tùy
tùng và phong làm hoàng hậu. Công chúa bằng lòng và đến gặp cha xin mở cửa và
một con voi để cưỡi vì cần đi ra ngoài ban đêm, theo sự chỉ dẫn của các tinh
tú, tìm một loài dược thảo dùng trong chú thuật. Vua thuận cho, và họ được phép
đi lúc nào tùy ý. Lúc bấy giờ vua có năm vật chuyên chở: một voi cái tên Bhaddavatì có thể đi năm mươi dặm một
ngày, một nô lệ tên Kàka có thể
đi sáu mươi dặm một ngày, hai ngựa cái Celakanthì
và Munjakesì có thể đi một trăm dặm một ngày và một voi tên Nàlàgiri có thể đi một trăm hai mươi dặm
một ngày.
Chuyện quá khứ - Canda Pajjota Ðược Năm Vật Chuyên chở
Hình như trước khi Phật hiện tại ra đời
nhà vua đã là nô lệ cho một Trưởng giả. Có lần trưởng giả đi ra ngoài thành
tắm, trở về gặp một vị Phật Ðộc Giác khất thực trong thành trở ra, với bình bát
sạch như lau, bèn hỏi:
- Bạch Tôn giả! Ngài có nhận được gì
không?
- Tôi đã đi một vòng và giờ ra khỏi
thành, đạo hữu ạ.
Ngài không trả lời ngay câu hỏi mà nói
ra điều không hỏi, nhưng vẫn có nghĩa là không nhận được thức ăn. Nhìn vào bình
bát, thấy trống không, Trưởng giả thỉnh Ngài đợi một lát rồi vội vã về nhà. Lúc
bấy giờ áp lực xấu ác của Marà
trùm khắp thành, nó còn giả dạng đến hỏi Ngài sao không nhận được thức ăn và
khuyên Ngài trở lui. Nhưng Ngài đã quyết chí không trở lui, vì biết rằng một
lần nữa Marà sẽ dùng quyền lực
sai khiến dân cư reo hò và chọc phá Ngài.
Thấy nhà có thức ăn sẵn, Trưởng giả vội
bảo tên hầu chạy hết sức mình đến gặp Phật và lấy bình bát mang về gấp. Trưởng
giả để thực phẩm đầy bát xong, lại bảo tên hầu tức tốc mang bát giao lại cho
Phật, với lời hứa rằng sẽ nhường cho anh ta công đức này.
Tên hầu đi và về mau như tên bắn, và
khi đưa bát cho Phật đã bạch rằng:
- Bạch Tôn giả, trong thời gian ngắn
con đã đi và về nhanh hết sức mình. Do phước báo của sự nhanh nhẹn này, con
mong rằng sẽ được năm vật chuyên chở có thể đi năm mươi, sáu mươi, một trăm và
một trăm hai mươi dặm một ngày. Thời gian đi và về đó thân con hun nóng dưới
tia nắng mặt trời. Do phước báo việc làm này con mong rằng dù tái sanh ở nơi
nào, con cũng sẽ được quyền lực bằng sức mạnh những tia nắng mặt trời. Chủ con
đã nhường công đức của sự cúng dường này, do phước báo đó con mong được dự phần
vào giáo pháp Ngài đã ngộ.
Phật hứa khả:
- Sẽ được vậy.
Và Ngài nói kệ:
Mong
mọi sở nguyện thí chủ
Ðược thành tựu tốt đẹp
Mong mọi sở nguyện thí chủ
Viên mãn như trăng rằm
Mong mọi sở nguyện thí chủ
Ðược thành tựu tốt đẹp
Mong mọi sở nguyện thí chủ
Viên mãn như ngọc lộ quang
Ðó là việc làm của vua Canda Pajjota trong kiếp trước, và do phước
báo này vua có năm vật chuyên chở
(Hết Chuyện Quá Khứ)
Một hôm nhơn kúc vua Canda Pajjota dạo chơi vườn thượng uyển, Udena bỏ trốn. Ông nhét đầy tiền vàng và
bạc vào nhiếu túi da lớn, xong đặt lên lưng voi cái, rồi đỡ vàsuladattà lên yên và họ ra đi. Quân thị
vệ trông thấy liền phi báo cho vua. Vua sai lính tức tốc đuổi theo. Udena bèn mở túi vàng rải tiền vàng xuống
đường. Quân truy nã dừng lại nhặt vàng rồi mới đuổi tiếp. Ông lại mở túi bạc rải
xuống đất. Quân truy nã vì cứ mãi ngừng lại để nhặt bạc nên chậm trễ, để Udena chạy thoát về doanh trại dựng ngoài
thành. Quân lính của Udena trông
thấy ông nhiệt liệt đón mừng và hộ tống ông về Kosambi.
Sau đó ông tổ chức lễ cưới và tấn phong Vàsuladattà
lên ngôi thứ phi.
Phần 5: Ðức
Phật Từ Chối Màgandiyà
Một thứ phi khác của vua Udena là Migandiyà nguyên là con gái của Bà-la-môn
tên là Màgandiyà, sống ở xứ Kuru. Mẹ cô và cả chú út, em của cha cô,
cũng tên là Màgandiyà. Cô ta đẹp
như thiên nữ nên ông Bà-la-môn khó tính không thấy ai, kể cả những chàng trai
vọng tộc nhất trong xứ đã đến cầu hôn, xứng đáng làm rễ đông sàng.
Ngày kia, sáng sớm đức Ðạo sư quan sát
thế gian, nhận thấy Bà-la-môn Maagandiyaa và vợ ông có đủ duyên lành chứng quả
A-na-hàm. Ngài đắp y ôm bát đến vùng ven phố thị nơi Bà-la-môn đang tế thần
lửa. Ông ta ngắm nhìn thân Như Lai thấy toàn hảo, thầm nghĩ không ai trên thế
gian có thể so bì với người này, ta sẽ gả con gái cho ông để nâng khăn sửa túi.
Ông ta nói với đức Ðạo sư:
- Này, Tỳ-kheo! Tôi có cô con gái độc
nhất và chưa thấy ai xứng với nó trừ ông. Ông phải có một người vợ và nó phải
có một người chồng. Tôi sẽ gả nó cho ông. Hãy đứng đợi tại đây cho đến khi tôi
trở lại.
Ðức Ðạo sư đứng yên, không nói một lời.
Người Bà-la-môn vội vã về nhà, hớn hở bảo với bà vợ: - Bà ơi! tôi đã gặp một người xứng với con gái ta. Mau lên! Mặc
cho nó bộ đẹp đẽ vào!
Rồi ông dẫn vợ con vào gặp đức Ðạo sư.
Cả thành xôn xao:
- Một khi lão này chê bai đủ kiểu người
nào đến cầu hôn con gái lão. Nhưng nghe đồn rằng hôm nay lão ta gặp một người
môn đăng hậu đối rồi. Không biết mặt mũi anh chàng này ra sao mà lão chấm đậu
vậy?
Rồi họ theo ông đi xem anh chàng tốt
số. Trong thời gian đó, đức Ðạo sư thay vì đứng yên chờ đợi, Ngài bỏ đi, để lại
một dầu chân. (Dầu chân Phật chỉ xuất hiện trên chỗ đã bước, không có chỗ nào
khác, và chỉ người nào đủ phước duyên mới thấy được. Dù voi rừng hay thú hoang
có giẫm lên hay mưa bão dữ dội, gió giông gào thét thổi đến, cũng không xóa
được dấu chân của Phật). Ðến nơi cũ, người Bà-la-môn ngạc nhiên không thấy
Phật. Nhìn quanh quất một hồi ông phát hiện dấu chân. Vợ người Bà-la-môn thuộc
lòng ba bộ Vệ-đà, luôn cả những bài thơ liên quan đến tướng số. Bà lẩm bẩm đọc
lại và xem xét tỉ mỉ hình nét dấu chân trước mặt. Cuối cùng bà kết luận:
- Ông ơi! Ðây không phải dầu chân của
người chạy theo ngũ dục.
Rồi bà đọc kệ:
Dấu
chân người tham dục cạn cợt,
của ác nhơn, lún mạnh xuống đường.
Người ngu si, dấu thường lết bết.
Ðây, dấu chân người hết dục tham.
Người Bà-la-môn không tin lời vợ nên
nạt đùa:
- Khéo tưởng tượng! Bà lúc nào cũng
thấy cá sấu trong chậu nước, ăn trộm núp trong nhà! Hãy im đi!
Bà vợ vẫn một mực đoan chắc:
- Ông ưa nói gì thì nói. Nhưng đây
không phải dấu chân người chạy theo ngũ dục.
Người Bà-la-môn vẫn đi lòng vòng tìm
kiếm, chợt thấy đức Ðạo sư liền mừng rỡ reo lên:
- Ông ta đây rồi!
Và ông thưa với Phật:
- Tỳ-kheo! Tôi gả con gái cho ông để
nâng khăn sửa túi.
Ðức Ðạo sư thay vì trả lời ưng thuận
hay không, lại bảo:
- Bà-la-môn! Ta có vài việc để nói với
ông.
Và ông ta lắng nghe đức Ðạo sư kể
chuyện Ma vương đã theo đuổi Ngài như thế nào, từ lúc xuất gia tới khi ngồi
dưới cội Bồ đề, cuối cùng chính Ma vương ngồi dưới cây Bồ đề, thiểu não buồn
rầu vì thấy quyền lực của mình không làm gì Phật được. Con gái Ma vương bèn đến
an ủi cha, rồi biến thành thiếu nữ trẻ và đàn bà đứng tuổi để cố quyến rũ Phật.
Ðức Ðạo sư lúc đó nói rằng:
Ðã
thấy rõ Khát ái, Sầu buồn, Dục lạc
Ta đâu còn ưa hạnh phúc tình yêu
Tấm thân kia, chứa các thứ tiểu, tiêu.
Ta không muốn, dù dùng chân chạm đến.
Ngay khi Phật kết thúc bài kệ, người
Bà-la-môn và vợ chứng A-na-hàm. Còn Màgandiyà
tự nhủ: "Nếu ông này không cần ta, kể cũng đúng, nhưng nói người ta chứa
đầy phần tiểu thì thật quá lắm. Ðược rồi! Với dòng dõi, địa vị xã hội, tài sản
và sức quyến rũ của tuổi thanh xuân sẵn có, ta sẽ được một tấm chồng xứng đáng,
và rồi ta sẽ biết làm gì đối với Sa-môn Cồ-đàm". Từ đó cô nuôi lòng căm
ghét đức Phật (Ðức Phật biết cô căm ghét Ngài, nhưng Ngài vẫn đọc kệ vì lợi ích
cho hai người kia, để họ chứng thánh quả, chớ không quan tâm đến lòng thù hận
trực tiếp chống lại mình)
Cha mẹ cô gởi cô cho chú Culla Màgandiyà biết cháu mình chỉ xứng
đáng làm vợ vua, nên trang điểm cho nàng đủ món trang sức rồi đưa đến Kosambi dâng cho vua Udena. Vua hài lòng, làm lễ đăng quang cho
nàng lên ngôi thứ phi với năm trăm thị nữ.
Vậy là vua Udena có ba bà vợ với một ngàn năm trăm thị nữ.
Phần 6: Cái
Chết Của Sàmàvati và Màgandiyà, Các Chưởng Khố, Các Tỳ Kheo Và Vị Thần Cây.
Có ba vị chưởng khố cùng ở Kosambi là Ghosaka, Kukkuta và
pàvàriya. Mùa mưa gần đến, năm
trăm ẩn sĩ từ Hy-mã-lạp sơn về thành khất thực. Cả ba vị chuởng khố hoan hỷ
cung cấp tọa cụ và cúng dường thức ăn, và còn dâng cúng phòng ốc trong nhà mình
suốt bốn tháng mưa khi các vị ẩn sĩ chịu ở lại. Từ đó, thường thường sau tám
tháng trong Hy-mã-lạp-sơn, các ẩn sĩ về ngụ bốn tháng mưa nơi ba chưởng khố.
Một lần từ Hy-mã-lạp-sơn trở về thành,
các ẩn sĩ ngồi nghỉ dưới gốc một cây đa to trong rừng vắng. Vị già nhất vừa
nghĩ đến xin nước uống nơi vị thần cây - chắc là một vị đại lực thần vương -
thì lập tức họ được nước uống. Nghĩ đến thức ăn thì cũng được thức ăn, rồi muốn
nhìn thấy cây thần cây cũng được nhìn thấy. Thần cây tách khỏi thân cây chui
ra. Các vị ẩn sĩ đến gần ông và hỏi làm thế nào ông được đại thần lực như vậy.
Vị thần khiêm tốn, thấy công đức mình nhỏ nhoi không muốn nói, nhưng vì bị nài
nỉ mãi đành phải kể lại chuyện Quá khứ.
Việc Làm Của Thần Cây
Thần cây xưa là người nghèo, sinh sống
nhờ tìm được việc làm với ông Cấp Cô Ðộc. Vào ngày Bát quan trai, từ tinh xá
trở về nhà, Cấp Cô Ðộc hỏi gia nhân có cho người làm này biết hôm nay là ngày
trai giới không. Họ chưa cho biết. Ông liền bảo nấu cho anh ta phần ăn tối.
Nhưng khi dọn cơm lên, anh ta đã từ chối không ăn, dù đã làm việc cực nhọc suốt
ngày trong rừng. Sở dĩ ông ta nhịn ăn vì được hôm nay là ngày trai giới. Chiều
nay thật là im lìm, khác với mọi chiều tiếng ồn vang dội, nào là cho tôi cơm,
cho tôi nước xúp, càri... Mọi người đều giữ giới không ăn chiều, ngay cả đứa bé
còn ẵm ngữa; sau khi súc miệng họ chỉ ngậm bốn viên kẹo. Một đèn dầu thơm thắp
sáng cả phòng, và già trẻ đều đọc lên ba mươi hai yếu tố của thân. Riêng anh vì
hay tin trễ, mới bắt đầu ngày trai chiều nay nên được hưởng nửa công đức. Ðến
tối anh bắt đầu thấy khó chịu vì quá đói. Anh nịt một sợi dây quanh mình, và
nắm đuôi dây nịt trong tay anh cứ siết thêm mãi. Trưởng giả hay được, cầm đuốc
đến chỗ anh và lấy bốn viên kẹo cho anh, nhưng anh vẫn không ăn vì không muốn
mất luôn nửa công đức ngày trai. Anh kiên trì giữ giới như thế cho đến khi mặt
trời mọc thì lìa đời như một vòng hoa héo, và tái sanh vào cây đa này.
Phần kết:
Chuyện chưởng khố, Tỳ kheo và thần cây.
Rồi thần cây kết luận: "Trưởng giả
đã cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng. Và nhờ ông ta, tôi hưởng
được phước báo nửa ngày trai giới nên mới có đại thần lực này".
Năm trăm ẩn sĩ nghe đến danh hiệu Phật
liền chỗi dậy, dang tay ra trong thái độ tôn kính và khẩn cầu vị thần cây hãy
nói "Phật đà". Họ yêu cầu thần cây nói lên niềm tin của mình bằng
cách lặp lại ba lần "Phật đà" rồi họ trịnh trọng tuyên bố:
- Rất khó mà nghe được danh hiệu này
trên thế gian!
Và kết luận:
- Thần nhân! Ông đã cho chúng tôi nghe
được một âm thanh mà biết bao trăm ngàn kiếp chúng tôi không hề nghe.
Rồi các môn đệ ngỏ ý với thầy họ muốn
đi đến Ðức đạo sư. Và tất cả đều đồng ý là ngày mai, sau khi nhận thức ăn nơi
ba vị chưởng khố, nói cho ba vị ấy biết ý định rồi sẽ lên đường. Cả ba, sau khi
dâng tọa cụ và cúng dường cháo đặc tại nhà mình, được biết đoàn ẩn sĩ sẽ đi
ngay thì không tránh khỏi ngạc nhiên nên hỏi:
- Chư Tôn giả! Không phải các ngài đã
hứa ở lại với chúng tôi bốn tháng mưa sao? Bây giờ các Ngài đi đâu?
- Ðức Phật đã xuất hiện trên thế gian,
Pháp đã ra đời, Tăng đã ra đời. Do đó chúng tôi đi gặp Ðạo sư.
- Nhưng chỉ có các Ngài mới xứng đáng
đi đến đức Ðạo sư sao?
- Không ngăn cấm ai hết, đạo hữu ạ.
- Vậy thì chúng tôi cùng đi.
Vì phải chuẩn bị nên ba vị chưởng khố
để đoàn ẩn sĩ đi trước. Họ đến Thế Tôn, xưng tán, đảnh lễ Ngài và cung kính
ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp tuần tự cho họ, và ngay khi kết thúc
bài pháp, tất cả đều chứng A-la-hán cùng các thứ thần thông. Rồi họ xin gia
nhập Tăng đoàn, Phật bảo: "Hãy đến, các Tỳ-kheo!" Họ liền trở thành
Tỳ-kheo có đầy đủ y bát do thần lực tạo ra.
Phần ba chưởng khố thì sắm những thứ
cúng dường cần thiết gồm y phục, ngọa cụ, bơ, mật, ... chở mỗi thứ năm trăm xe
đi đến Xá vệ. Gặp Phật, họ đảnh lễ, nghe pháp và cuối bài pháp chứng quả Dự
lưu. Họ ở lại với Thế Tôn hai tuần, cúng dường và thỉnh Phật đến Kosambi.
Trở về xứ, chưởng khố Ghosaka xây tinh xá Ghosita, Kukkuta xây tinh xá Kukkuta, Pàvàriya cất tinh xá Pàvàriya. Xong họ thỉnh Phật đến và lần
lượt hầu hạ Ðức Phật ở mỗi tinh xá một ngày và thọ thực tại đó. Cả ba chưởng
khố có người hầu là Sumana làm
vườn, phục vụ họ đã lâu. Anh ta xin cúng dường Phật và được dành cho ngày mai.
Khujjuttarà
Chuyển Hóa Sàmàvatì
Anh làm vườn Sumana vẫn thường bán hoa cho Khujjuttarà, nữ tỳ hoàng hậu Sàmàvatì. Nhưng hôm đó anh không cắt hoa giao cho hoàng cung
mà dành để dâng Phật vì anh đã thỉnh Phật về nhà cúng dường. Ngoài những lời
xin lỗi Khujjuttarà, anh còn mời
nàng ở lại.
- Xin cô đợi tôi hầu Phật và nghe pháp.
Sau đó cô có thể lấy hết số hoa còn lại.
Cô đồng ý.
Khi Phật dẫn đầu Tăng đoàn đến nhà, Sumana đỡ lấy bình bát và được Phật hồi
hướng công đức. Những lời này đã khiến Khujjuttarà
chứng quả Dự lưu.
Từ trước đến giờ, trong số tiền tám
đồng của vua Udena dành cho hoàng
hậu Saamaavaatii mua hoa, cô thường cất riêng bốn đồng cho mình và chỉ mua bốn
đồng hoa. Hoàng hậu ngạc nhiên thấy số hoa gấp đôi mọi ngày, hỏi ra mới biết tự
sự, và lý do nhờ nghe bài thuyết pháp của đấng Giác Ngộ Tối Thượng. Thay vì nổi
giận nhiếc mắng cô tỳ nữ và đòi lại số tiền cô đã bớt xén bà lại sanh tâm hoan
hỷ muốn được uống dòng pháp bất tử đó. Và trước khi trùng tuyên bài pháp của Như
Lai, Khujjuttarà được hoàng hậu
tắm cho với mười sáu bát nước thơm, được mặc vào y phục đẹp bằng vải mịn, từ đồ
lót đến áo khoác vai, và cũng được dọn sẵn một chỗ ngồi. Cô đã thuyết pháp cho
năm trăm cung nữ nghe y như Thế Tôn đã thuyết, ngồi pháp tòa tay cầm chiếc quạt
có hình vẽ. Mọi người nghe xong đều vui mừng bảo cô:
- Này bạn, từ nay trở đi đừng làm việc
tội lỗi. Hãy làm một bà mẹ và một đạo sư của chúng tôi. Hãy đến Thế Tôn nghe đủ
hết pháp đã giảng và về đây trùng tuyên lại cho chúng tôi.
Cô đã thi hành thật trung thực lời dặn
dò đến nỗi sau đó cô thuộc lòng hết Tam tạng, và đức Phật cũng đã xác nhận là
trong hàng cư sĩ nữ, người đã học thuộc thánh điển và có thể giảng giải pháp đệ
nhất là Khujjuttarà.
Năm trăm cung nữ, sau những thời pháp
của Khujjuttarà đều phấn khởi và
mong muốn gặp Thế Tôn. Nhưng với luật lệ cung cấm, cung nữ không thể tự do đi
ra ngoài, vì vậy Khujjuttarà bảo
họ hãy đục lỗ trên tường, mang sẵn hương hoa để đó, khi Thế Tôn đến cửa nhà ba
chưởng khố, từ trong phòng mỗi người nhìn qua lỗ tường sẽ thấy được Ngài để
đảnh lễ và xưng tán.
Màgandiyà Âm
Mưu Chống Lại Sàmàvatì và Ðức Phật
Một hôm, Màgandiyà rời cung điện đi bộ đến dãy phòng cung nữ, và ngạc
nhiên khi thấy những lỗ hổng trên tường, hỏi ra mới biết là vì các cung nữ muốn chiêm ngưỡng và cung tán
Phật. Bà muốn mưu hại Sàmàvatì và
Phật nên tâu với vua Udena là Sàmàvatì và đám cung nữ tùy tùng sẽ phản
bội vua, và trong vài hôm nữa sẽ hại mạng vua. Nhưng vua không tin. Bà cứ tâu tới
tâu lui bên tai nhưng vua vẫn không tin. Bà bèn thỉnh vua đến khu vực của Sàmàvatì chỉ những lỗ hỏng trên tường. Vua
hỏi tại sao và khi hiểu được lý do vua không nói lời nào, chỉ truyền lấp hết lỗ
hổng và cho làm cửa sổ có một khoảng hở ở trên, tại tất cả các phòng. Người ta
nói loại cửa sổ hở bên trên ra đời từ đó. Không bôi nhọ được Sàmàvatì cùng các cung nữ, Màgandiyà quay sang tìm cách lăng nhục đức
Phật. bà xúi giục những tên côn đồ đi sau Phật mắng nhiếc và nhục mạ Ngài với
đủ lời lẽ nặng nề:
- Mi là một tên trộm, đồ ngu ngốc, đồ
điên, đồ lạc đà, bò tót, đồ lừa, đồ ở địa ngục, đồ thú vật, mi không có hy vọng
được giải thoát. Những trừng phạt sẽ đến với mi.
Tôn giả A-nan nghe những lời chửi bới
quá thậm tệ, không chịu nổi, bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Dân ở đây mắng nhiếc và
nhục mạ chúng ta. Chúng ta hãy đi nơi khác!
- Ta sẽ đi đâu A-nan?
- Ðến thành phố khác, thưa Thế Tôn.
- Nêú ở đó người ta cũng chửi mình thì
sẽ đi đâu, A-nan?
- Sẽ đi chỗ khác nữa, thưa Thế Tôn.
- Nêú ở đó người ta cũng chủi mình nữa
thì sao?
- Chúng ta lại đi đến chỗ khác, thưa
Thế Tôn.
- A-nan đừng nói thế. Ở đâu có khó khăn
thì giải quyết ở đó. Ổn thỏa rồi mới được phép đi nơi khác. Nhưng ai chửi ông,
A-nan?
- Bạch Thế Tôn! Mọi người đều mắng
nhiếc chúng ta, bọn côn đồ và cả đám dân kia.
- A-nan, Ta như con voi xông ra trận.
Bổn phận của voi xông trận là hứng chịu những mũi tên từ bốn phía. Ðúng thế,
bổn phận của ta là kham nhẫn những lời nói độc ác.
Rồi Phật thuyết pháp về chính Ngài với
ba pháp cú như sau trong phẩm Voi:
(320) Ta như voi giữa trận,
Hứng chịu cung tên rơi,
Chịu đựng mọi phỉ báng,
Ác giới rất nhiều người.
(321) Voi luyện đưa dự bội,
Ngựa luyện được vua cưỡi.
Người luyện, bậc tối thượng,
Chịu đựng mọi phỉ báng.
(322) Tốt thay con la thuần,
Thuần chủng loài ngựa Sindh [*].
Ðại tượng, voi có ngà,
Tự điều mới tối thượng.
[*]
loài ngựa đẹp ở vùng sông Sindha, Ấn Ðộ
Bài pháp đã đem lại lợi ích cho những
người lúc ấy đang tụ tập chung quanh. Rồi đức Phật khuyên A-nan.
- A-nan, đừng phiền muộn. Những người
này chỉ mắng nhiếc ông trong bảy ngày, đến ngày thứ tám họ sẽ yên lặng. Khó
khăn đến với Phật không kéo dài quá bảy ngày.
Màgandiyà tuy thất bại trong âm mưu đẩy
Phật rời khỏi thành, vẫn không lùi bước. Bà lập kế hại bọn cung nữ kính tín
Phật. Bà dặn chú của bà là thầy Tư tế trong cung mang theo tám con gà sống và
tám con gà chết vào hầu vua, lúc đó đang uống rượu với bà. Người chú vào cung,
đến bậc thềm cao nhất thì đứng ở đó, không muốn vào chốn ngự ẩm. Bà liền bảo
tiểu đồng đến đó lấy tám con gà sống dâng vua và xúi vua ra lệnh cho cung nữ
của Sàmàvatì nấu nướng dâng lên
vua. Vua chuẩn tấu. Tiểu đồng y lệnh ra đi rồi trở về tâu lời của các cung nữ.
- Chúng ta không giết hại sinh vật.
Màgandiyà lại tiếp tục ton hót:
- Ðại vương! Muốn biết họ có thật sự
giết hại sinh vật hay không, xin bệ hạ cứ bảo nấu nướng gửi đến Sa-môn Cồ-đàm.
Vua nghe theo, lại sai tiểu đồng đi đến
các cung nữ lần nữa. Nhưng lần này chú mang tám con gà sống đến thầy Tư tế
trước để đổi lấy tám con gà chết rồi mới giao lệnh vua đến các cung nữ.
- Vua ra lệnh nấu những con gà này dâng
đức Phật.
Lần này họ nhận lời.
- Dĩ nhiên, đây là bổn phận của chúng
tôi.
Tiểu đồng trở về tâu lại đúng như vậy. Màgandiyà không bỏ lỡ dịp gièm pha với
vua.
- Ðại vương thấy chưa! Họ không làm
theo ý Ngài, mà chỉ hướng về người khác.
Nhưng vua vẫn giữ yên lặng, tha thứ cho
họ. Màgandiyà tức tối nhưng không
biết làm gì hơn đành cố nuốt hận chờ dịp khác.
Nhà vua có thói quen đến với mỗi hoàng
hậu bảy ngày. Biết rằng ngày hôm sau vua sẽ đến cung của Sàmàvatì, Màgandiyà nhắn người chú gởi cho
bà một con rắn đã tẩm thuốc độc vào răng. Ði đâu vua Udena vẫn mang theo cây đàn dùng chú thuật lũ voi, trong bao
đàn có thủng một lỗ, và bà đã bỏ con rắn vào đó song bít lại với một bó hoa.
Khi vua sắp đi đến cung Sàmàvatìi, bà bèn kể cơn mộng dữ và xin
can vua đừng đến đó. Vua không nghe. Bà lại đòi đi theo, dù nhà vua không đồng
ý lắm. Ðược Sàmàvatì và cung nữ
hầu cận mặc y phục, xông ướp hương hoa và trang sức xong, vua ăn uống thân mật
và lên giường, để đàn bên gối. Màgandiyà
giả vờ đi tới lui, thừa lúc không ai để y rút bó hoa trong cây đàn ra. Con rắn
đã bị bỏ đói trước đó mấy ngày, trườn ngay khỏi lỗ thủng, ngóc đầu và rít lên,
cuốn mình trên đầu giường. Màgandiyà
làm như bất ngờ thấy con rắn hoảng hốt la lên:
- Ồ! Ðại vương, con rắn kìa!
Và bà càm ràm, trách móc:
- Ông vua dại dột, xui xẻo này chẳng
chịu nghe ta nói gì cả. Những tên vô lại này thật không biết hổ thẹn, chúng làm
như không nhận được ân huệ gì của vua mà còn muốn vua chết để sống sung sướng.
Nhưng khi nào vua còn sống thì chúng sẽ còn chật vật. Ðại vương, thiếp đã báo động
về cơn ác mộng và đã can Ngài đừng đến cung Sàmàvatì,
mà Ngài nào có nghe đâu!
Nhà vua thấy rắn sợ chết khiếp, lửa
giận phừng phừng, ông gầm lên:
- Chúng đã cả gan làm việc tày trời như
vậy! Thật là tội lỗi! Ta đã không nghe Màgandiyà
khi nàng kể ra nết xấu tật hư của chúng, nào là đục lỗ trên tường
nhà để ngồi nhìn ở đó, bảo nấu gà cho ta thì chúng trả lại và hôm nay bỏ rắn
lên giường ta.
Trong khi đó Sàmàvatì hết lời khuyên giải năm trăm cung nữ của nàng.
- Các bạn, chúng ta không còn nơi nương
tựa nào khác. Hãy thật tình yêu mến vua và hoàng hậu như thương chính mình.
Ðừng giận dữ bất cứ ai.
Rồi nhà vua ra lệnh mang chiếc cung của
mình, một cây cung khổng lồ phải một ngàn người mới khiêng nổi. Ðể Sàmàvatì đứng trước còn tất cả cung nữ
đứng nhắm ngay ngực Saamaavatii, nhưng nhờ thần lực xuất phát từ lòng từ bi của
bà, mũi tên quay ngược lại theo con đường đã đến, nhắm ngay tim nhà vua.
Vua thầm nghĩ: "Mũi tên này có thể
xuyên qua cả tảng đá và không có vật gì trong trời đất này khiến nó quay mũi
lại. Giờ đây nó đã quay trở lại khi gặp Sàmàvatì.
Tuy vô tri giác và không có sự sống, nó vẫn biết Săamàvatì là con người hiền thiện, thế mà một vị vua, một
con người như ta, lại không biết được". Vua ném cung đi, quỳ xuống trước Sàmàvatì, hai tay dang ra, cung kính nói
kệ:
Ta
quá sức hoang mang bối rối
Bốn phương trời đảo lộn trong tâm
Sàmàvatì hỡi, xin nàng che chở
Hãy làm nơi nương tựa cho ta.
Sàmàvatì, đệ tử của đấng Ðại Giác cũng
đáp lại bằng bài kệ:
Ðừng
tìm nương tựa nơi tôi,
Hãy tìm nương tựa ở nơi Phật-đà
Ðấng Vô Thượng; Ngài chính là
Người tâm tôi hướng tới mà náu nương.
Ðại vương nương đấng pháp vương
Tôi xin nương tựa đại vương một lòng.
Nhưng nỗi sợ hãi của vua cứ gia tăng
khiến vua phải lặp lại kệ xin nương tựa nơi Sàmàvatì.
Bà cương quyết từ chối. Cuối cùng vua bằng lòng.
- Vậy thì, ta xin nương tựa nơi nàng và
nơi đức Ðạo sư, ta sẽ ban ơn cho nàng.
Bà hoan hỷ;
- Tôi xin nhận.
Nhà vua đến chỗ Phật xin quy y và thỉnh
Phật nhận cúng dường rộng rãi trong bảy ngày. Rồi quay sang Sàmàvatì, vua bảo;
- Hãy đứng lên và chọn gì tuỳ ý.
- Ðại vương, tôi không cần vàng bạc,
nhưng chúng tôi xin đặc ân này. Xin Ngài sắp xếp sao cho Thế Tôn có thể đến đây
mỗi ngày cùng với năm trăm Tỳ-kheo để tôi được nghe pháp.
Nhà vua quay lại đảnh lễ Phật và cung
thỉnh Phật cùng với năm trăm Tỳ-kheo. Vì Phật không thể đến hoài một chỗ trong
khi nhiều nơi cần, nên Ngài gởi Trưởng lão A-nan đến hoàng cung mỗi ngày.
Hôm đó, như thường lệ, họ dâng thức ăn
và lắng nghe Trưởng lão thuyết pháp. Lòng tràn đầy an lạc, họ dâng lên Trưởng
lão năm trăm bộ y vàng đang khoác trên vai, mỗi bộ trị giá năm trăm đồng tiền.
Khi nhà vua không thấy họ khoác y vàng, hỏi ra biết đã dâng cúng, liền đến
Trưởng lão hỏi tiếp;
- Bạch Tôn giả! Ngài làm gì với số y
nhiều thế?
- Tôi sẽ giữ đủ số y cần thiết, số còn
lại sẽ trao cho những vị đã rách y.
- Những vị đó làm gì với y rách?
- Với những y rách nát đó họ sẽ làm gì?
- Làm khăn trải giường.
- Còn khăn trải giường cũ?
- Làm thảm chùi chân.
- Còn tấm thảm cũ?
- Sẽ làm khăn lau chân.
- Rồi khăn lau chân cũ?
- Sẽ được cắt ra từng mảnh nhỏ trộn với
hồ để trét vách.
- Như vậy, bạch Tôn gỉả, dù tất cả y
đều dâng lên Tôn giả, nhưng không phung phí.
- Hoàn toàn đúng vậy, thưa đại vương.
Nhà vua hài lòng đến nỗi truyền đem
thêm năm trăm y đặt dưới chân Trưởng lão. (Tục truyền rằng Trưởng lão đã từng
nhận một ngàn chiếc y trị giá năm trăm đồng tiền đến một trăm ngàn lần, một
ngàn chiếc y trị giá một ngàn đồng tiền đến một ngàn lần, một ngàn chiếc y trị
giá một ngàn đồng tiền đến một trăm lần. Với số y lẻ tẻ, từ một, hai...đến mười
thì Ngài nhận không kể nổi. Ðến khi đức Phật nhập diệt, trưởng lão A-nan du
hành khắp xứ Diêm-phù-đề, và Ngài đã tặng Tỳ-kheo trong các tinh xá y bát của
chính Ngài)
Sàmàvatì Bị
Thiêu Và Màgandiyà Bị Trừng Phạt
Màgandiyà thấy rằng bất cứ mưu tính nào
đưa ra hậu quả đều ngược với sự mong đợi của bà. Lần này bà cho tiến hành một
kế hoạch khác. Bà ra lệnh cho người chú đến cung điện của sàmàvatì, mở cửa kho lấy vải nhúng dầu rồi
nhúng vào cột nhà. Tập hợp tất cả các cung nữ vào trong nhà, đóng cửa lại không
chờ một ai, rồi lấy đuốt châm lửa đốt, xong tụt xuống đi về.
Sàmàvatì thấy người chú bao quanh cột
với vải nhúng dầu ngạc nhiên hỏi và được biết là để cho chắc cột. Và ông ta bắt
họ vào phòng, châm lửa đốt. Trong đám lửa đang cháy lan thật nhanh, Sàmàvatì khuyên nhắc các tỳ nữ.
- Dù với trí tuệ của Phật cũng khó xác
định được trong vòng luân hồi từ vô thủy, thân xác chúng ta đã bị thiêu đốt bao
nhiêu lần. vậy, các ngươi hãy chánh niệm.
Trong khi lửa đang cháy thật nhanh, Sàmàvatì và các cung nữ chuyên tâm thiền
định về đề mục "sự đau đớn" và họ đã chứng các quả Thánh.
Thế Tôn, khi nghe các Tỳ kheo kể chuyện
Sàmàvatì và năm trăm cung nữ bị
mất mạng, để giải đáp câu hỏi về số phận của họ trong kiếp sau, đã cho biết là
có người chứng Sơ quả, có người chứng Nhị quả, có người chứng Tam quả do phước
báo của việc làm quá khứ và Ngài nói kệ:
Với
xiềng xích vô minh vọng tưởng
Thấy thế gian như đẹp như bền
Do vô minh, nhân duyên ràng buộc
Kẻ ngu cho thế giới trường tồn
Người khôn nghe thấy như thật biết
Chẳng có gì ra thoát diệt sanh
Rồi Phật thuyết pháp:
- Này các Tỳ-kheo! Trong vòng luân hồi,
chúng sanh không phải lúc nào cũng chuyên niệm nhất tâm, đôi khi họ đã phạm ác
hạnh, do đó họ kinh qua cả hai lạc và khổ
Lúc bấy giờ nhà vua đang ở vườn giải
trí. Nghe tiếng la cung của Sàmàvatì
bị cháy, ông vội đến đó, nhưng tất cả đã bị cháy rụi. Ông ngồi xuống bậc thềm
triều thần vây quanh, vô cùng thương tiếc Saamaavatii khi nhớ lại đức hạnh của
nàng. Ông thắc mắc không biết ai có thể gây ra việc đau thương này và nghĩ ngay
đến Màgandiyà. Ông muốn dùng mẹo
dò hỏi bà ta nên nói với những người tùy tùng:
- Thế cũng xong! Bây giờ ta hết bị lôi
kéo hay bận rộn nữa. Sàmàvatì
luôn luôn tìm cớ giết ta khiến ta sợ hãi và ngờ vực. Nhưng giờ đây tâm ta sẽ
yên ổn và ta có thể nằm ngủ yên lành.
- Ai đã làm việc này, đại vương?
- Người mà thật sự yêu ta nhất đã làm.
Màgandiyà tình cờ đứng gần đó nghe thế
liền hãnh diện nhận ngay mình là thủ phạm cùng với người chú. Vua vẫn bình tĩnh
khen rằng không ai thật sự yêu vua bằng bà và sẽ ban cho bà cùng với quyến
thuộc một ân huệ. Bà nhắn tin thân quyến gần xa đến hoàng cung, ngay cả những
kẻ không họ hàng nghe chuyện cũng đút lót để được làm bà con. Khi đã tập trung
họ, vua ra lệnh đào hố sâu đến thắt lưng, bỏ họ xuống trải rơm lên trên rồi đốt
rơm. Khi lửa đốt da thịt họ đến giòn rụm, vua cho cày sắt cày lấp thân thể họ
đập vụn ra. Ðối với Màgandiyà,
vua cho dùng dao nhọn xẻ những chỗ thịt rắn chắc trên người bà ra từng mảnh, bỏ
vào thùng dầu đặt trên lò than, chiên như bánh và bắt bà ăn.
Trong Pháp đường, đức Phật nghe các
Tỳ-kheo thắc mắc bàn tán về cái chết của Sàmàvatì
với năm trăm cung nữ, nên kể:
Chuyện quá khứ - Sàmàvati Âm Mưu Ðốt Một Vị Bích Chi
Phật
Ngày xưa, khi vua Phạm-ma-đạt cai trị Ba-la-nại,
có tám vị Bích Chi Phật thường được cúng dường thức ăn trong hoàng cung với
trăm cung nữ hầu hạ. Bảy vị trở về Hy-mã-lạp-sơn, còn lại một vị ngồi nhập định
trên bờ sông nơi đám cỏ rối.
Một dịp theo vua đi tắm chơi, các cung
nữ đã nô đùa suốt ngày trong nước, bây giờ lên bờ và run lên vì lạnh. Họ tìm
chỗ đốt lửa để sưởi ấm. Thấy đám cỏ họ chẳng buồn ngó trước xem sau vội châm
lửa và xúm xít quanh. Khi cỏ cháy xẹp xuống, họ phát giác vị Bích Chi Phật,
hoảng hốt không biết tính sao. Cuối cùng vì sợ nhà vua truy ra bắt tội, họ muốn
phi tang hẳn xác của Phật nên đem củi đến từ mọi ngả, chất đóng thành một giàn
thiêu lớn, đổ dầu và châm lửa. Xong họ bỏ đi.
Hành động đầu tiên của các cung nữ thì
vô tâm. Nhưng sau đó họ phạm lỗi nặng vì có tính toán kỹ, do đó bị quả báo đau
khổ. Riêng vị Bích Chi Phật đang đắm mình trong thiền định thì dù có một trăm
ngàn xe củi với dầu đốt lên, Ngài cũng không thấy nóng. Vì vậy, vào ngày thứ
bảy Phật xuất định và đi đến nơi Ngài thích.
Những cung nữ này, không những bị nung
nấu nhiều trăm ngàn năm trong địa ngục, mà nhà họ còn bị đốt và họ chết cháy
trong nhà mình suốt một trăm kiếp liên tiếp.
Ðức Phật kể xong chuyện thì các Tỳ-kheo
hỏi tiếp:
- Nhưng bạch Thế Tôn! Tại sao Khujjuttà trở thành một người gù? Sao cô
ta lại thông minh thế? Sao cô ta chứng quả Dự lưu và sao lại thành một tỳ nữ?
Ðức Phật kể tiếp:
Chuyện quá khứ: Những Việc Làm Kiếp Trước Của
Khujjuttarà
Này các Tỳ-kheo, cũng trong triều đại
của vị vua Phạm-ma-đạt trị vì Ba-la-nại, có một Phật Ðộc Giác hơi gù. Một tỳ nữ
trông thấy Ngài bèn quấn một cái mền trên vai và tay ôm một bình bằng vàng,
lưng còng xuống y như một người gù, rồi chậm rãi vừa bước đi vừa nói:
- Ông Phật Ðộc Giác đi như thế này đây!
Vì cô nhại tướng đi của Ngài nên cô ta
thành gù lưng.
Tuy nhiên, ngày đầu tiên cô đã dâng lên
các vị Phật Ðộc Giác chỗ ngồi trong hoàng cung, lấy bình bát múc đầy cháo đặc
cúng dường. Phật nhận lãnh, nhưng vì cháo quá nóng nên phải chuyền bình bát từ
tay này sang tay khác. Cô thấy vậy bèn dâng tám vòng tay bằng ngà lót dưới bình
bát. Xong Phật nhìn cô, lập tức cô thưa:
- Chư Tôn giả! Chúng tôi không dùng
những vòng này nữa, xin các Ngài nhận cho, xem như một món quà của chúng tôi
dâng cúng trước khi lên đường.
Các vị Phật Ðộc Giác mang những chiếc
vòng này về hang núi Nandamùla,
và đến ngày nay vẫn còn nguyên vẹn. Nhờ phước báo của việc làm này, cô thuộc
lòng Tam tạng kinh điển và trí huệ uyên bác, và cũng do đó cô chứng quả Dự lưu.
Ðó là việc làm của cô trong thời kỳ giữa hai vị Phật.
Thời Phật Ca-diếp, có cô con gái viên
chưởng khố ở Ba-la-nại, một hôm khi bóng chiều đổ xuống, lấy gương ra soi và
trang điểm. Một ni cô bạn thân của cô, người đã dứt hết dục lạc, đến thăm.
(Thường những ni cô đã dứt hết dục lạc, hay đến thăm gia chủ ủng hộ mình vào xế
chiều). Lúc đó các nàng hầu của cô vắng mặt nên cô bảo vị ni lấy giùm giỏ trang
điểm. Nếu không làm theo ý cô, có thể cô nổi sân và như thế sẽ tái sanh vào địa
ngục, nhưng nếu nghe lời cô sai bảo thì cô sẽ làm người hầu ở kiếp sau. Làm
người hầu dù sao cũng không khổ bằng ở địa ngục, nên vị ni lấy giỏ trang điểm
đưa cho cô. Do đó cô trở thành nàng hầu.
Lại một hôm các Tỳ-kheo bàn cãi trong
Pháp đường:
- Sàmàvatì
và năm trăm cung nữ bị thiêu ngay trong nhà mình. Còn Màgandiyà và quyến thuộc thân bị lửa rơm
đốt, bị cày sắt cày nát nhừ, riêng Màgandiyà
bị nấu trong dầu sôi. Như vậy ai sống và ai chết?
Ðức Phật nghe qua, đáp rằng:
- Này các Tỳ-kheo, những người phóng
dật buông lung dù sống một trăm năm cũng như chết. Những người sống chú tâm
chuyên niệm, dù chết hay sống vẫn là đang sống. Này các Tỳ-khep, có chú tâm
chánh niệm thì không bao giờ chết cả.
Rồi đức Phật đọc Pháp Cú sau:
(21) Không phóng dật, đường sống,
Phóng dật là đường chết.
Không phóng dật, không chết,
Phóng dật như chết rồi.
(22) Biết rõ sai biệt ấy,
Người trí không phóng dật,
Hoan hỷ, không phóng dật,
An vui hạnh bậc Thánh.
(23) Người hằng tu thiền định,
Thường kiên trì tinh tấn,
Bậc trí hưởng Niết-bàn,
Ắt thanh tịnh vô thượng.
(xem tiếp Phần
2b)
--ooOoo--
Ðầu trang | Mục lục
| 01a | 01b | 01c | 01d | 02a | 02b | 03 | 04a
| 04b | 05a | 05b | 06 | 07
| 08 | 09 |
10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15
| 16 | 17 | 18 | 19 | 20
| 21 | 22 | 23 | 24 | 25
| 26a | 26b | 26c
[Trở về trang Thư Mục]
updated: 12-03-2002