BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Tích truyện Pháp Cú
Thiền viện
Viên Chiếu
Nguyên tác:
"Buddhist Legends", Eugene Watson Burlingame
[II-b]
2.
Tiếng Nói Của Một Người Giàu
Nỗ lực, giữ chánh niệm...
Giáo lý này được đức Phật nói khi Ngài
ngụ tại Veluvana, liên quan đến Kumbhaghosaka.
Ngày xưa, một trận dịch hạch hoành hành
tại Vương Xá, ngay trong ngôi nhà của vị chưởng khố. Thú vật, ruồi rồi đến gia
súc chết đầu tiên, tiếp theo là đám gia nhân và vợ chồng quản gai. Cuối cùng
bệnh dịch tấn công viên chưởng khố và vợ ông ta. Biết rằng đã mắc bệnh, hai ông
bà nhìn đứa con trai đang đứng gần, mắt đẫm lệ bảo nó hãy đạp đổ bức tường và
trốn đi, đừng quan tâm đến cha mẹ mà hãy cứu mạng mình, rồi sau đó trở về nhà
đào kho tàng bốn tỷ tại nơi đó, nơi đó... để sinh sống. Người con trai nghe nói
vậy khóc sướt mướt, giã biệt cha mẹ, đạp đổ bức tường và trốn đi. Anh vào rừng
tìm nơi ẩn náu, ở đó suốt mười hai năm rồi về nhà.
Khi ra đi anh chỉ là một đứa bé, giờ
trở về tóc và râu mọc dài, không ai nhận ra anh. Anh tìm được kho tàng và thấy
còn nguyên, nhưng anh không dám lấy ra xài sợ làng xóm nghi kỵ quấy nhiễu hoặc
bắt bớ mình. Vì vậy anh tìm chỗ làm thuê để kiếm sống. Anh ăn mặc rách rưới đến
khu những người lao dộng và hỏi thăm xem có ai cần người làm không. Họ trả lời
anh:
- Nếu anh làm một phần việc của chúng
tôi, chúng tôi sẽ trả gạo cho anh.
- Làm việc gì thế các bạn ?
- Ra lệnh và điều khiển công việc của
chúng tôi. Anh phải dậy thật sớm, đi quanh những người làm và ra lệnh cho họ:
"Các ông, thức dậy đi, đem xe ra, thắng ách vào bò, đã đến giờ cho voi
ngựa đi ăn cỏ! Các bà ơi, dậy đi, lo nấu cơm, nấu nước!".
- Hay quá !
Và anh nhà giàu nhận việc. Họ cho anh
nhà ở và anh làm việc đều đặn thật hết lòng.
Một hôm vua Bình-sa-Vương, người có thể
nhận dạng mọi người qua tiếng nói, nghe tiếng của anh ông nói ngay:
- Ðây là tiếng nói của một người giàu
có.
Một tỳ nữ đứng gần vua nghe thế nghĩ
rằng không thể xảy ra một chuyện như vậy được, và cô ta muốn điều tra nên phái
người đi dò hỏi, biết đó là một người nghèo làm việc cho những người hầu. Nhà
vua nghe báo cáo không nói gì thêm, nhưng mấy ngày sau nghe tiếng anh cất lên
vẫn đoan chắc là giọng nói của một nhà giàu. Năm lần bảy lượt hỏi tới hỏi lui,
dò xét đủ kiểu, cô tỳ nữ tâu với vua anh chàng đó là một người nghèo, vua vẫn
không tin. Cô nghĩ chắc là vua nói đúng nên cô thấy mình có bổn phận phải tìm
hiểu sự thật. Cô xin vua cho một ngàn đồng, sẽ đem con gái mình đến gặp người
đàn ông này, và hứa sẽ đem kho tàng về hoàng cung.
Rồi hai mẹ con ăn mặc rách rưới đến khu
lao động xin tá túc vài ngày trước khi đi xa. Những người tại đó chỉ nhà của Kumbhaghosaka, Ban đầu anh ta không chịu
cho ở, sau hai mẹ con cứ nằn nì mãi anh buộc lòng phải chấp nhận. Cô tỳ nữ làm
đủ cách để lấy lòng anh ta, nào là nấu cơm hảo hạng theo hoàng gia với nước sốt
và cà-ri ... Cuối cùng cô ta cắt dây giường nệm, mỗi ngày một ít trong ba ngày
liên tiếp. Kumbhaghosaka cáu kỉnh
trách móc thì cô ta cứ trả lời là không thể ngăn tụi nhóc nhảy tưng tưng lên
đó. Rồi đến một hôm toàn bộ tấm nệm rơi xuống đất vì đã đứt hết dây. Lần này
anh không kiềm chế, nổi giận đùng đùng vì không còn giường để nằm nữa. Anh ta
rên rỉ:
- Trời! Tôi biết đi đâu bây giờ đây?
Cô tỳ nữ không bỏ lỡ dịp, đáp ngay:
- Anh bạn! Tôi biết làm sao, tôi không
thể đuổi bọn trẻ hàng xóm cứ đến chơi giỡn và nhảy tưng lên giường. Xin đừng
phiền, xem nào, tôi có thể làm gì được cho anh, à được rồi!
Rồi quay sang cô con gái, bà mẹ ngọt
ngào bảo:
- Con gái cưng, dọn chỗ cho anh con
nằm.
Cô con gái vâng lời, nằm lăn qua một
bên và anh ta qua nằm kế. Ðêm đó họ thành thân với nhau. Hôm sau cô con gái
khóc kể tự sự với mẹ. Bà mẹ an ủi con:
- Ồ, có sao đâu! Con rồi cũng phải có
chồng, anh ta phải có vợ.
Rồi bà nhận anh ta làm rể. Bà tiếp tục
kế hoạch của mình bằng cách cho người về tâu với vua xin ra lệnh cho nghỉ việc
tại khu lao động, ai bất tuân sẽ bị xử phạt. Vua chuẩn y. Bà mẹ vợ bối rối bàn
với chàng rể phải làm sao vì nghỉ làm sẽ không có lương, mà lệnh vua thì không
dám cãi. Cuối cùng bà xúi chàng rể đi vay nợ để ăn vào ngày nghỉ đó. Anh ta
không còn cách nào khác. Ðành phải trở về nơi chôn dấu kho tàng lấy đúng một
đồng cho mẹ vợ. Bà nhận tiền nhưng đem gởi cho vua và lấy tiền riêng của mình
chi tiêu trong nhà.
Sau đó vài ngày, bà lại xin vua truyền
lệnh như thế một lần nữa. Anh ta phải trở lại kho tàng lấy thêm ba đồng nữa đem
về.
Phần chót kế hoạch của bà là xin vua
cho mời Kumbhaghosaka về triều.
Anh ta không chịu đi nên bị quân lính áp đảo, nắm tay chân lôi đi. Bà trấn an
anh ta, bảo cứ đi; khi gặp vua bà sẽ tâu với vua để xử phạt những kẻ đã dám bắt
lôi rể bà. Rồi bà cùng cô con gái đi trước. Ðến hoàng cung, bà cởi bỏ lớp rách
rưới, mặc y phục sang trọng với đầy đồ trang sức lấp lánh, đứng một bên vua.
Rồi Kumbhaghosaka bị điệu đến
trước bệ rồng để đối đáp những lời chất vấn của vua:
- Ngươi là Kumbhaghosaka
- Tâu vâng.
- Tại sao ngươi dối trá khi tiêu pha
tài sản kếch sù của mình?
- Tài sản của tôi? Ở đâu, đại vương?
Tôi sống bằng sự làm thuê.
- Không phải thế. Sao ngươi lừa dối ta?
- Tâu đại vương, tôi không dối Ngài.
Tôi không có tài sản.
Vua chỉ những đồng tiền do mẹ vợ anh
gởi đến và hỏi anh:
- Thế những đồng tiền này của ai?
Kumbhaghosaka nhận ra đồng tiền của mình, sợ
hãi đến chết cứng. Anh nhìn về phía vua, thấy hai người đàn bà kia trang điểm
lộng lẫy mới vỡ lẽ tại sao đồng tiền của mình lại lọt vào tay vua. Thì ra đây
là một âm mưu đã được chuẩn bị kỹ lưỡng và kín đáo, và hai người đàn bà này đã
bị nhà vua mua chuộc. Anh sững sờ, đứng chết lặng, không biết phải ăn nói ra
sao. Nhà vua đoán biết hỏi dồn anh:
- Nói đi! Tại sao anh làm thế?
Anh run rẩy trả lời:
- Tôi không có người bảo vệ, đại vương!
- Không ai bảo vệ anh bằng ta.
- Tâu đại vương, tôi rất sung sướng
được đại vương bảo vệ.
- Ta bảo vệ anh. Tài sản của anh lớn
lao đến mức nào?
- Bốn trăm triệu đồng tiền, tâu đại
vương.
- Ðược rồi, ta sẽ cho chở tài sản của
anh đến đây. Nhưng bằng cách nào?
- Dạ, bằng xe, tâu đại vương.
Khi cả gia tài của Kumgbaghosaka chất đống trước hoàng cung,
vua tập hợp dân chúng trong thành Vương Xá hỏi có ai trong thành có được tài
sản nhiều như thế này không? Không ai đáp được, và mọi người đồng thỉnh cầu vua
ban cho anh ta chức vị. Vua đồng ý và bổ nhiệm cho anh ta làm chưởng khố rồi gả
công chúa cho anh. Sau đó vua dẫn anh đến đảnh lễ đức Phật đồng thời ca ngợi
hạnh tốt của anh, không ỷ lại tài sản lớn lao để hưởng thụ, chịu khó làm người
nghèo sống bằng sức lao động của mình.
Phật nghe xong hoan hỷ dạy rằng:
- Một người sống như thế, này đại
vương, là một người sống chân chánh. Trộm cắp và những hành vi xấu ác khác sẽ
đè bẹp chúng ta không những ở đời này mà còn gây đau khổ cho kiếp sau. Ngược
lại, một người như thế nỗ lực hết sức mình, luôn luôn chánh niệm, thân khẩu ý
đều thanh tịnh, biết dè dặt từng cử chỉ hành động, biết chế ngự thân hành, khẩu
hành và ý hành, sống chân chánh, sống chân chánh, không bao giờ buông mông
lung, người như thế càng ngày càng dũng mãnh.
Và kết thúc bằng Pháp Cú:
(24) Nỗ lực, giữ chánh niệm,
Tịnh hạnh, hành thận trọng,
Tự điều, sống theo pháp,
Ai sống không phóng dật,
Tiếng lành ngày tăng trưởng.
3.- Châu-Lợi-Bàn-Ðặc
Nỗ lực, không phóng dật...
Giáo pháp này được Phật nói tại Veluvana, liên quan đến Trưởng lão
Châu-lợi-bàn-đặc.
3A. Châu-Lợi-Bàn-Ðặc Ra Ðời
Một thương gia giàu có ở Vương Xá có cô
con gái đến tuổi dậy thì. Hai ông bà cho cô ở tầng lầu cao nhất của tòa lâu đài
bảy tầng và được gìn giữ chu đáo. Nhưng dù vậy, cô không kiềm chế được nhiệt
tình của tuổi thanh xuân nên đã lầm lỡ với người nô lệ của mình, có thể bị cha mẹ
cho xé xác mình, cô gái bảo anh nô lệ cùng nhau trốn đi.
Họ lấy theo vài món cần thiết và ra đi
bằng cửa chính, và từ đó chung sống với nhau. Khi đứa con trong bụng đã lớn, lo
sợ khi phải sanh con ở nơi xa xôi không bà con thân thuộc, cô vợ khuyên anh chồng
nên trở về nhà cha mẹ. Nhưng anh chồng vẫn còn e ngại ông bà chủ có thể giết
mình nên cứ hẹn lần hẹn lữa, hết mai rồi mốt. Cô vợ chờ mãi sốt ruột và cũng
biết anh chồng ngốc của mình nhận biết tội lỗi của hai người sợ không dám về,
nên một hôm cô gác lại việc bếp núc, báo cho hàng xóm biết là trở về nhà cha
mẹ, xong lên đường. Anh chồng về nhà thấy vắng vẻ, hỏi thăm hàng xóm rồi tức
tốc rượt theo và bắt kịp giữa đường, ngay lúc cô ta lâm bồn. Anh chàng hối hả
hỏi vợ:
- Gì thế em?
- Một đứa con trai, anh ạ.
- Chúng ta phải làm gì bây giờ?
- Sở dĩ tôi muốn trở về nhà cha mẹ là
vì cậu con, nay hắn đã ra đời giữa đường, vậy chúng ta không cần đi nữa, hãy
trở về nhà mình.
Vì đứa con sanh ra giữa đường nên được đặt
tên là Bàn-đặc. Rồi đến đứa con thứ hai cũng lại diễn tiến như trước và mang
tên Châu-lợi Bàn-đặc, còn đứa lớn là Ðại Bàn-đặc.
Lớn lên, Ðại-Bàn-đặc nghe bè bạn kháo
với nhau về chú bác ông bà của mình, bèn hỏi mẹ xem nhà mình có bà con họ hàng
không. Và khi được biết ông ngoại là một thương gia giàu có đang ở tại Vương
Xá, thân bằng quyến thuộc cũng ở cả đó, Ðại-Bàn-đặc đòi đến thăm. Bà mẹ bối rồi
hỏi ý kiến chồng, cả hai khổ sở không biết tính sao vì họ vẫn còn sợ sệt, cuối
cùng họ chiều ý đứa nhỏ đi đến Vương Xá, trọ tại một nhà gần cổng thành rồi
nhắn tin về nhà. Hai ông bà thương gia trong nhiều kiếp luân hồi đã không có
con trai con gái, nên vui mừng nhận cháu ngoại, còn hai vợ chồng thì được cho
tiền để đi nơi khác sinh sống.
Châu-lợi-bàn-đặc lúc đó còn nhỏ,
Ðại-Bàn-đặc đã lớn khôn nên thường đi theo ông ngoại nghe Phật thuyết pháp, và
lòng chàng muốn từ bỏ thế gian. Ông thương gia nghe cháu nhỏ trình hày ý định
như vậy, vô cùng hoan hỷ và dẫn chàng đến Ðức Phật.
3B- Châu-Lợi-Bàn-Ðặc Thành Tỳ Kheo
Ðức Phật chấp nhận cho Ðại-Bàn-đặc xuất
gia, nhập Tăng đoàn, giao chàng cho một Trưởng lão. Chàng nhận từ Trưởng lão đề
mục thiên quán về "Năm yếu tố đầu tiền cấu tạo thân". Thuộc lòng hết
Phật ngôn, an cư suốt mùa mưa, miên mật tu hành, và do chuyên cần tinh tấn hành
thiền của chàng đắc A-la-hán, được hưởng nguồn hỷ lạc của thiên định, cũng như
niềm an lạc của Thánh quả. Ðại-Bàn-đặc nghĩ rằng em mình cũng có khả năng chứng
nhiệm được pháp lạc này, nên trở về nhà ông ngoại xin cho Châu-lợi-bàn-đặc đi
tu. Ông ngoại cũng rất tin vào Tam Bảo và cảm thấy hổ thẹn khi ai hỏi về hai
đứa cháu ngoại, con của cô gái bỏ nhà trốn đi, vì hai lý do đó ông rất vui mừng
cho phép chúng đi tu.
Châu-lợi-bàn-đặc được gia nhập Tăng
đoàn và thọ giới. Nhưng anh chàng quả là đần độn, bốn tháng trời trôi qua cũng
không thuộc nỗi bài kệ:
Như
hoa sen thắm đượm,
Tròn nở sáng tinh sương,
Ngào ngạt trinh nguyên hương,
Kìa, xin mời chiêm ngưỡng,
Ðấng Thế Tôn chói lọi,
Như mặt trời lừng không.
Vào thời Phật Ca-diếp, Châu-lợi-bàn-đặc
rất thông minh, nhưng khi vào Tăng chúng, ông đã chế nhạo và đùa cợt một
Tỳ-kheo kém trí. Vị này vì bị làm trò cười nên không học thuộc, thậm chí không
lặp lại được lời kinh. Do quả báo này ông tái sanh thành người đần độn. Vừa học
xong một câu sau thì câu trước đã quên mất. Bốn tháng trôi qua, ông vẫn không
thuộc nổi bài kệ. Ðại-Bàn-đặc thấy em mình như vậy, nghĩ rằng không thể đạt cứu
cánh tối thượng của Ðạo, nên đuổi em ra khỏi Tăng đoàn. Nhưng Châu-lợi-bàn-đặc
rất tha thiết với giáo lý Phật-đà. Rời khỏi Tăng đoàn trở về đời sống thế tục
là điều ông không muốn nhất trong cõi đời.
Lúc bấy giờ Jìvaka Komaràbhacca mang thật nhiều hương hoa đến vườn xoài
của mình cúng dường Phật, nghe Pháp xong, ông đảnh lễ đức Thế Tôn, rồi tiến đến
vị quản chúng là Ðại-Bàn-đặc xin thỉnh chúng Tỳ-kheo đến thọ thực tại nhà.
Trưởng lão Ðại-Bàn-đặc nhận lời mời cả chúng Tỳ-kheo trừ vị Tỳ-kheo đần độn
không thuộc kinh kệ. Châu-lợi-bàn-đặc thấy anh mình quả không đoái hoài đến em
một chút nào, không ích lợi gì mà kéo dài đời tu sĩ, nên quyết định rời Tăng
đoàn, về nhà hành hạnh bố thí và các công đức khác. Sáng hôm sau ông rời tinh
xá rất sớm. Cũng sáng sớm đó, Thế Tôn quan sát thế gian, thấy rõ việc này, đến
trước cổng chờ Châu-lợi-bàn-đặc.
Khi ông đến, thấy Phật bèn đảnh lễ.
Ðược Phật hỏi ông đi đâu vào giờ này, ông kể tự sự, Phật bảo ông:
- Chính Ta thu nhận ông vào Tăng đoàn.
Nay anh ông đuổi đi, tại sao ông không đến Ta? Ðến đây! Ông hoàn tục thì làm
được gì? Hãy ở lại với Ta.
Phật xoa đầu ông, với lòng bàn tay mang
đường chỉ bánh xe Pháp, và dẫn ông đến ngồi cạnh hương thất. Xong Ngài dùng
thần lực tạo ra một miếng vải thật sạch đưa cho ông, bảo:
- Châu-lợi-bàn-đặc, ông hãy ngồi tại
đây, quay mặt về hướng đông, vừa lau khăn này vừa nói: "Tẩy sạch dơ bẩn,
tẩy sạch dơ bẩn!"
Ðúng lúc ấy giờ thọ thực được báo. Ðức
Phật hướng dẫn Tăng chúng đến nhà Jìvaka
và ngồi xuống chỗ đã dành sẵn.
Về phần Châu-lợi-bàn-đặc, ông vâng lời
Thế Tôn, vừa lau tay vào miếng vãi vừa bảo: "Tẩy sạch dơ bẩn, tầy sạch dơ
bẩn!". Chiếc khăn ban đầu sạch, bây giờ nhớp nhúa. Từ đó ông nhận ra, vì
thân này mà khăn đã mất hết sự sạch sẽ tinh khiết ban đầu và trở thành nhiễm ô
cáu bẩn, nên thốt lên: "Các pháp là vô thường". Và chuyên chú vào
kiến giải sinh diệt này, ông khai mở tuệ giác. Ðấng đạo sư biết ông đã khai mở
tuệ giác liền bảo: "Châu-lợi-bàn-đặc, đừng nghĩ rằng chỉ mảnh vãi ấy trở
thành cáu bẩn mà ngay trong tâm ông tham ái, bất tịnh và những cấu uế khác cũng
đầy rẫy; ông hãy tẩy sạch chúng". Rồi Ngài phóng hào quang hiện thân đến
ngồi trước mặt ông đọc Pháp Cú:
Tham
ô nhiễm, chẳng phải là bụi bẩn.
Ô nhiễm chính dùng để chỉ lòng tham.
Các Tỳ-kheo, hãy tẩy sạch tham lam.
Và sống đúng giáo pháp bậc vô nhiễm
Sân ô nhiễm, chẳng phải là bụi bẩn.
Ô nhiễm chính để dùng chỉ bận sân.
Các Tỳ-kheo, hãy tẩy sạch lòng sân.
Và sống đúng giáp pháp bậc vô hận.
Si ô nhiễm, chẳng phải là bụi bẩn.
Ô nhiễm chính dùng để chỉ ám si.
Các Tỳ-kheo, hãy tẩy sạch si đi,
Giáo pháp bậc không si, nên theo đúng.
Dứt bài kệ, Châu-lợi-bàn-đặc chứng
A-la-hán và các thứ thần thông, và cùng với thần thông, ông thông suốt cả ba
tạng kinh điển.
Trong một kiếp trước, Châu-lợi-bàn-đặc
là một vị vua. Có lần trong một buổi lễ đi diễn quanh thành, mồ hôi tươm ướt
trán, ông lau trán với một chiếc khăn sạch và sau đó khăn thành lem luốt. Ông
nhận ra thân thể nhơ bẩn của mình đã khiến chiếc khăn trước sạch sau dơ, và sau
đó biết các pháp là vô thường. Hiểu rõ tính vô thường nên ở kiếp sau tẩy sạch ô
nhiễm đã giúp ông giải thoát.
(Trong buổi trai Tăng tại nhà)
Jìvaka
Komàrabhacca dâng
nước lên đấng Thập Lực. Ngài lấy tay đậy bình bát và hỏi:
- Jìvaka,
không còn Tỳ-kheo nào ở tinh xá sao?
Ðại-Bàn-đặc đáp:
- Bạch Thế Tôn, không còn Tỳ-kheo nào
trong tinh xá.
Phật bảo:
- Này Jìvaka,
có đấy!
Jìvaka thưa:
- Dạ được.
Rồi ông cho người đến tinh xá xem còn vị
Tỳ-kheo nào không.
Do thần thông, Châu-lợi-bàn-đặc nghe
anh mình trả lời như thế bèn hiển lộng thần thông biến ra hằng ngàn tỳ-kheo
đông dày trong vườn xoài, người may y, kẻ nhuộm y, người khác đang tụng đọc
kinh, chẳng người nào giống người nào. Khi gia nhân của Jìvaka thấy các Tỳ-kheo, ông liền quay về,
nói:
- Thưa gia chủ, các thầy Tỳ-kheo ở vườn
xoài rất đông.
Tại vườn xoài, Trưởng lão Bàn-đặc:
Hóa
thân ngàn vị xong thì
Vườn xoài tịnh tọa đến khi được mời.
Ðức Phật bảo gia nhân trở lại tinh xá
nói Thế Tôn cho đòi Châu-lợi-bàn-đặc. Nhưng khi ông nói đến câu ấy, cả ngàn
miệng các Tỳ-kheo đồng thanh la lên "Ta là Châu-lợi-bàn-đặc". Ông ta
ra về thưa lại, đức Phật bảo hãy trở về tinh xá lần nữa và nắm tay người đầu
tiên nói "Ta là Châu-lợi-bàn-đặc" mời đi, những người còn lại sẽ biến
mất tức khắc. Sự việc xảy ra như vậy, và ông ta trở về với Châu-lợi-bàn-đặc.
Cuối buổi thọ thực, đức Phật dạy Jìvaka giữ bình bát của Châu-lợi-bàn-đặc
hồi hướng công đức cúng dường. Châu-lợi-bàn-đặc khi ấy như một con sư tử con
rống tiếng rống của loài sư tử, hồi hướng công đức xuyên suốt Tam tạng kinh
điển. Rồi Phật từ chỗ ngồi đứng lên, với Tăng chúng vây quanh cùng trở về tinh
xá. Sau khi được các Tỳ-kheo chăm sóc như thường lệ, Phật trở về hương thất,
ban cho các Tỳ-kheo lời khuyên dạy của một đấng An Lạc, cho đề mục thiên quán
và giải tán Tăng chúng. Thế Tôn vào nghỉ trong hương thất, nằm xuống, nghiêng
mình bên phải như sư tử.
Chiều đến, các Tỳ-kheo từ bốn phía tụ
đến, giống như những tấm màn đỏ thắm di động, ngồi xuống trong Pháp đường, tán
thán công hạnh của đức Ðạo sư, đấng Toàn Giác, Pháp Vương Tối Hậu, chỉ trong
khoảng bữa ăn đã độ cho một người đần độn, bốn tháng trời không thuộc nổi một
câu kệ, chứng A-la-hán cùng các thần thông và thông suốt luôn cả ba tạng kinh điển.
Ðức Phật biết các Tỳ-kheo đang thảo luận như thế bèn rời tòa báu, đắp thượng và
hạ y nhuộm màu rực rỡ hào quang, thắt lưng nhẹ như chớp hiện, và khoác trên vai
chiếc đại y, giống như chiếc mền đỏ thắm của bậc An Lạc, rời hương thất. Ra
khỏi chiếc thất tỏa mùi hương quý, Phật bước đi như voi chúa, dáng trang nghiêm
khó sánh của một vị Phật, đến Pháp đường. Ngài bước lên Pháp tòa uy nghi lộng
lẫy, từ thân phóng hòa quang sáu màu như vầng thái dương vừa mọc trên đỉnh núi Yugandhara làm rung động tận đáy biển sâu,
và ngồi xuống ngay giữa.
Lúc Thế Tôn đến, cả hội chúng ngừng
chuyện lặng im. Ngài nhìn khắp hội chúng với lòng trìu mến, tự nghĩ: "Hội
chúng này làm Ta mãn nguyện vô cùng. Ðâu yên đó, không một bàn tay, một bàn
chân lộn xộn, không một tiếng ho hen, không một tiếng hắt hơi. Toàn chúng
Tỳ-kheo này tôn kính Ta với lòng tôn kính rất mực dành cho một vị Phật, thuần
thục Ta vì sự oai nghiêm của Như Lai. Dù ta có ngồi đây im lặng suốt một kiếp
thì họ cũng sẽ làm thinh không dám cất tiếng trước, ngay cả hé môi cũng không.
Chỉ có Ta mới quyết định khi nào nói đúng thời. Vì vậy Ta sẽ nói trước
tiên."
Và với giọng nói ngọt ngào của Ðại Phạm
thiên, Ngài hỏi:
- Này các Tỳ-kheo, các ông tụ hội ở đây
bàn luận việc gì? Các ông đang nói gì mà ngưng ngang ?
Nghe các Tỳ-kheo kể xong, Ngài dạy
rằng:
- Các Tỳ-kheo, đây không phải lần đầu
tiên Châu-lợi-bàn-đặc tỏ ra đần độn và cũng đã nương tựa vào Ta, trong một kiếp
trước ông đã là một người đần độn và cũng đã nương tựa Ta. Nhưng ở kiếp đó Ta
khiến ông ấy làm chủ tài sản thế gian, còn bây giờ Ta độ ông ấy làm chủ tài sản
xuất thế gian.
Các Tỳ-kheo muốn nghe chuyện này, Phật
kể.
Chuyện quá khứ
3C - Vị Thầy Lỗi Lạc
Chàng Trẻ Tuổi Và Vua Ba La Nại
Ngày xưa, một chàng trẻ tuổi ở
Ba-la-nại đi đến Takkasilà (thành
Hoa Thị) để học nghề với một vị thầy rất lỗi lạc có năm trăm học trò dưới tay.
Anh làm hết mọi việc lặt vặt, đỡ đần cho thầy nhiều nhất, từ việc rửa và sức
dầu thơm chân thầy, anh đều làm một cách tận tụy. Nhưng anh lại đần độn, không
thuộc nhớ một điều gì. Dù vị thầy thấy anh rất đắc lực, cố gắng dạy nghề cho
anh nhưng chỉ mất công vô ích. Thời gian đã lâu mà anh ta vẫn không thuộc nỗi
một câu kệ nào, chán nản anh muốn rời thầy về nhà.
Vị thầy thấy anh ta hết lòng hầu hạ
mình, nên cũng muốn dạy cho anh ta thành một nhà thông thái nhưng không được.
Do đó, để đền ơn phần nào, ông dạy cho anh ta một câu chú. Ông dẫn anh ta vào
rừng và bắt học thuộc câu: "Ngươi đang âm mưu, ngươi đang âm mưu! Tại sao
ngươi âm mưu? Ta biết rồi! " Tuy anh ta phải vất vả lắm mới học thuộc hết,
nhưng một khi đã thuộc rồi thì không bao giờ quên nữa. Rồi ông cho chàng một số
tiền làm lộ phí và dặn dò:
- Bây giờ anh hãy đi kiếm sống bằng bài
chú này. Nhưng điều kiện bắt buộc là anh không được quên, phải lặp đi lặp lại
hoài hoài.
Và anh lên đường trở về Ba-la-nại. Mẹ
anh gặp lại con mừng rỡ vì nghĩ con đã học thành tài, và mở tiệc ăn khao.
Lúc bấy giờ vua Ba-la-nại đang trong
thời kỳ chú tâm xem xét từng hành động của thân khẩu ý, hầu phát hiện lỗi lầm
của mình. Ông tự tìm mà không thấy lỗi. Sau, ông tự nghĩ mình sẽ không thấy
được lỗi của mình và phải nhờ người khác. Vì thế ông đi khắp hoàng thành để
lắng nghe thiên hạ phê bình vua. Ông biết rằng thói thường khi đã no bụng người
ta ưa ngồi lê đôi mách đủ thứ truyện trên cõi đời, và nếu vua cai trị bất công
họ sẽ kể lể nào là đời sống suy sụp vì sưu cao thuế nặng, bị hôn quân áp bức,
còn vua cai trị công minh sẽ được tán thán về đức tính cao quý và được tung hô
vạn tuế.
Do đó đêm xuống, vua cải trang ra khỏi
cung điện, đi đến nhà dân. Nhằm lúc có bọn trộm đang đào một đường hầm giữa hai
nhà để chui vào. Một là nhà của chàng trẻ tuổi vừa học nghề về. Bọn trộm vào
được nhà và bắt đầu dòm ngó đồ đạc. Vừa đúng lúc, chàng trai thức giấc, miệng
lẩm nhẩm câu chú: "Ngươi đang âm mưu, ngươi đang âm mưu! Tại sao ngươi làm
thế? Ta biết rồi! " Bọn trộm nghe qua thất kinh hồn vía, tưởng là đã bị
phát giác, sợ nguy đến tính mạng liền tháo chạy xuống đường hầm bất kể phương
hướng, quăng lại bộ quần áo trên người. Vua đang ở gần đó, thấy bọn trộm chạy
và nghe chàng trai đọc thần chú, ông đi tiếp đến khi trời gần sáng sớm mới về
hoàng cung, và ra lệnh đòi chàng trai đến để bắt truyền dạy câu chú. Anh ta
đồng ý và dạy xong được vua ban một ngàn đồng.
Viên tướng thống lãnh quân đội thời đó
muốn soán ngôi nên âm mưu với anh thợ cạo cắt cổ vua, thành công thì chức thống
lãnh quân đội sẽ dành cho anh ta. Ðến ngày cạo râu cho vua, anh thợ cạo vào
cung thấm ướt râu vua với nước hoa, mài dao và áp vào cằm vua. Cứa cổ vua tốt
nhất chỉ với một nhát dao nhưng thấy con dao hơi lụt nên anh ta mài dao thêm
một lần nữa. Nhà vua bỗng nhớ đến câu chú muốn đọc lại "Ngươi đang âm mưu,
ngươi đang âm mưu! Tại sao ngươi làm thế? Ta biết rồi!" Anh thợ cạo hết
hồn, mồ hôi ướt trán từng giọt vì tưởng rằng vua đã biết toan tính của mình. Anh
ta ném dao, quỳ mọp sát chân vua run rẩy. Vua đoán ngay việc gì xảy ra nên giận
dữ bảo:
- Tên vô lại! Mi nghĩ rằng vua không
biết gì ư?
- Tâu bệ hạ, xin tha mạng cho thần!
- Thôi được, đừng sợ. Nói hết đầu đuôi
cho ta nghe.
Nghe xong, vua gọi viên tướng lãnh đến
trục xuất khỏi vương quốc và giao chức thống lãnh quân đội cho chàng trai để
đền ơn.
Thế Tôn kết thúc câu chuyện:
- Chàng trai chính là Châu-lợi-bàn-đặc
và vị thầy lỗi lạc là Ta.
Lại một hôm, các Tỳ-kheo bảo Thế Tôn là
nơi nương tựa cho Châu-lợi-bàn-đặc. Phật kể thêm chuyện quá khứ Culla Setthi trong Bổn sanh:
Người
khôn ngoan thông minh,
Có thể nâng đời mình,
Lên địa vị cao sang
Bằng chút ít tài sản,
Như thổi ngọn lửa nhỏ,
Gây nên đám lửa to.
Và bảo các Tỳ-kheo:
- Lúc đó học trò là Châu-lợi-bàn-đặc,
còn thương gia là Ta.
Một hôm khác, các Tỳ-kheo nhắc lại
chuyện Châu-lợi-bàn-đặc:
- Trong bốn tháng Châu-lợi-bàn-đặc
không thuộc nỗi một câu kệ. Nhưng vì trong tâm ông vẫn nung nấu ý nguyện không
hề lơi lỏng nên ông ta đã chứng A-la-hán, và giờ đây đang làm chủ tài sản xuất
thế gian.
Phật đến, nghe kể lại bèn dạy rằng:
- Này các Tỳ-kheo! Một Tỳ-kheo khi nỗ
lực hết sức mình tuân giữ giới luật thì không thể nào không làm chủ tài sản
xuất thế gian.
Và nói Pháp Cú sau:
(25) Nỗ lực, không phóng dật
Tự điều, khéo chế ngự,
Bậc trí xây hòn đảo,
Nước lụt khó ngập tràn.
4. Ngày Lễ Của Kẻ Ngu
Chúng ngu si thiếu trí ...
Phật nói câu Pháp Cú này lúc ở Kỳ Viên
liên quan đến ngày lễ của kẻ ngu, Bàlanakkhatta.
Một thuở nọ, tại Xá-vệ có một ngày lễ
của những tên ngu kéo dài trong bảy ngày. Chúng trét tro phân đầy mình và tha
hồ nói đủ kiểu thô tục. Nếu chúng gặp thân quyến bè bạn hay người tu nào, chúng
sẽ chẳng nể nang gì, có thể đứng tại cửa lăng mạ với những lời lẽ thô tục. Ai
không chịu nổi thì phải trả cho chúng một đồng, một nữa hay một phần tư tuỳ
theo túi tiền. Có tiền rồi, chúng mới chịu đi tới chỗ khác.
Năm mươi triệu thánh đệ tử Phật tại
Xá-vệ lúc đó bèn gửi lời xin Thế Tôn cùng Tăng chúng chớ vào thành trong bảy
ngày lễ này, và họ gửi thực phẩm đến tận tinh xá cúng dường, và chính họ cũng
không dám ra khỏi nhà.
Ðến ngày thứ tám khi cuộc lễ kết thúc,
họ cung thỉnh Phật và Tăng đoàn đến cúng dường đầy đủ, xong kính cẩn ngồi một
bên thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con đã trải qua
bảy ngày thật khó chịu. Lỗ tai chúng con muốn nổ tung khi nghe những câu nói
tục tĩu của lũ điên. Không ai tôn trọng ai hết. Vì thế chúng con không dám để
Thế Tôn vào thành. Chính chúng con cũng không ra khỏi nhà.
Phật nghe xong bảo họ:
- Kẻ ngu cư xử điên rồ như thế. Còn
người khôn giữ gìn chánh niệm xem như kho tàng quý báu nhất, và do hành động
như thế sẽ đạt đến Bất Tử và Niết Bàn.
Và Phật đọc Pháp Cú:
(26) Chúng ngu si thiếu trí,
Chuyên sống đời phóng dật,
Người trí, không phóng dật.
Như giữ tài sản quý.
(27) Chớ đời sống phóng dật
Chờ mê sau dục lục,
Không phóng dật, thiền định,
Ðạt được an lạc lớn.
5. Ðại Ca Diếp
Người trí dẹp phóng dật ...
Thế Tôn nói Pháp Cú này khi ngụ tại Kỳ
Viên, liên quan đến Trưởng lão Ðại Ca-diếp.
Khi Trưởng lão còn ở trong hang Pipphali, một hôm vào thành Vương Xá khất
thực xong, trở về độ ngọ, rồi Ngài ngồi xuống khai mở Tuệ giác, dùng Thiên nhãn
xem xét chúng sanh, kẻ buông lung, người chánh niệm, chúng sanh trong nước trên
đất, trên núi và khắp mọi nơi, kẻ ra đời người quá vãng.
Bấy giờ đấng Ðạo sư tại Kỳ Viên cũng
dùng Thiên nhãn xem xét, và thấy đệ tử Ngài là Ðại Ca-diếp đang quán sát chúng
sanh trong vòng sanh tử. Chúng sanh trôi lăn từ kiếp sống này đến kiếp sống
khác, và thọ mạng trong bào thai của mẹ mình mà không hề biết gì cả cha lẫn mẹ.
Biết rằng Ngài Ca-diếp chưa đủ năng lực để thấu triệt điều này, chỉ có chư Phật
mới thông suốt toàn bộ vòng luân hồi sanh tử của chúng sanh, nên Thế Tôn nói
cho Tôn giả hay điều đó, và phóng quang ánh kim thân Phật ngồi trước mặt Ca-diếp,
đọc câu Pháp Cú:
(28) Người trí dẹp phóng dật,
Với hạnh không phóng dật,
Leo lầu cao trí tuệ,
Không sầu nhìn khổ sầu,
Bậc trí đứng núi cao,
Nhìn kẻ ngu đất bằng
6.- Hai Huynh Ðệ
Tinh cần giữa phóng dật ...
Phật nói Pháp Cú này khi ngụ tại Kỳ
Viên, liên quan đến hai huynh đệ.
Có hai Tỳ-kheo nhận đề mục thiền quán
từ Phật xong, lui vào rừng ẩn cư. Sáng sớm người thứ nhất lo mang củi, nhúm lò
than và suốt canh một ngồi tán gẫu với các cận sự và Sa-di. Người kia thì tinh
cần chánh niệm lo tọa thiền, khuyên bạn chớ nên buông lung vì tứ khổ luôn chực
sẵn ở đó chờ người buông lung như ngôi nhà của mình vậy, và không thể được ân
huệ của chư Phật với lòng tráo trở. Nhưng vị Tỳ-kheo lười biếng không nghe.
Thấy không thể khuyên nhắc gì bạn mình, vị kia vẫn hết mình an trú trong chánh
niệm, tiếp tục ngồi thiền.
Vị Tỳ-kheo lười ngồi sưởi hết canh một,
rồi đứng dậy trở về tinh xá cùng lúc với vị kia vừa kinh hành xong trở về liêu.
Ðã vậy ông còn lên giọng răn dạy vị huynh đệ của mình:
- Anh thực là biếng nhác, lui vào rừng
chỉ để nằm dài và ngủ khì. Nhận đề mục thiền quán từ Thế Tôn đáng lý anh phải
thức dậy và nổ lực tọa thiền mới đúng chứ!
Buông ra những lời dạy khôn xong, ông
ta vào liêu đến chỗ mình điềm nhiên nằm xuống và ngủ liền. Còn vị kia, sau khi
kinh hành suốt canh một, nghỉ trong canh hai thức dậy vào canh cuối và dốc hết
sức tọa thiền. Sống chánh niệm như thế chẳng bao lâu vị Tỳ-kheo tinh cần chứng
A-la-hán cùng các thần thông. Còn vị lười biếng kia phí hết thì giờ trong sự
buông lung.
Mãn thời gian an cư, cả hai đi đến Thế
Tôn, đảnh lễ cung kính và ngồi xuống một bên. Phật thăm hỏi họ và bảo:
- Ta tin các ông đã sống tinh cần chánh
niệm, miên mật hành thiền. Chắc các ông đạt được quả thánh ?
Tỳ-kheo lười lẹ miệng thưa:
- Bạch Thế Tôn, ông kia chẳng tinh cần
chút nào cả. Từ lúc rời Phật chỉ có nằm và ngủ.
- Còn ông thì sao ?
- Bạch Thế Tôn, vừa sáng sớm con đã
mang củi nhúm lò than và ngồi sưởi trong canh một. Con không phí thì giờ để
ngủ.
- Ông đã phí thời giờ sống buông lung
mà còn dám bảo là mình siêng năng. Ông đã sai quấy sống buông lung thay vì sống
tinh cần chánh niệm. So với con của ta như con tuấn mã, ông như con ngựa hèn
yếu.
Rồi Thế Tôn đọc Pháp Cú:
(29) Tinh cần giữa phóng dật,
Tỉnh thức giữa quần mê,
Người trí như tuấn mã,
Bỏ sau con ngựa hèn.
7. Magha
Trở Thành Trời Sakka (Ðế Thích)
Ðế Thích không phóng dật ...
Thế Tôn dạy Pháp Cú này trong tinh xá
mùa hè gần Tỳ-xá-ly liên quan đến vua trời Ðế Thích.
Chuyện hiện tại.
7A. Câu Hỏi Của Mahàli
Một ông hoàng dòng Lệ-xá tên Mahàli Tỳ-xá-ly, nghe Thế Tôn đọc bài kinh
tựa đề là "Câu hỏi của Ðế Thích", trong đó Ngài nói những sự tốt đẹp
huy hoàng của Ðế Thích, ông đem lòng thắc mắc không hiểu Ngài có trông thấy hay
quen biết với Ðế Thích không. Và ông ta đến gần Thế Tôn, ngồi xuống một bên thưa
hỏi. Thế Tôn giải đáp rằng trong một tiền kiếp, vua trời Ðế Thích đã từng làm
người là ông hoàng Magha nên được
gọi là đức Maghavà; một kiếp khác
là một người cúng dường nên tên là Purindada;
một kiếp nữa là người ham bố thí nên tên là Sakka;
là người có thể nghĩ đến ngàn việc trong một lúc tên là Sahassakkha, có vợ A-tu-la nên tên là Sujampati; đã từng thống lãnh các vị trời
cõi ba mươi ba nên được gọi là vua trời. Ngoài những công đức này, đức Phật
giải thích thêm, trong một tiền kiếp khác vua trời Ðế Thích đã làm tròn bảy
điều thệ nguyện là suốt đời:
1) Phụng dưỡng
cha mẹ,
2) Lễ kính bậc trưởng thượng,
3) Nói những lời hòa nhã,
4) Không bao giờ nói xấu ai sau lưng,
5) Làm gia chủ với tâm không tham lam keo kiệt, tay rộng mở buông xả những gì thuộc
về mình, hoan hỷ rộng lượng, ân cần với người cầu xin, hoan hỷ trong sự bố thí,
6) Nói sự thật,
7) Dứt bỏ sân hận, nếu sân hận nổi lên xin mau buông bỏ.
Ðó là những việc làm của Ðế Thích khi
ông là ông hoàng Magha xử sự ra
sao nên Mahàli thỉnh cầu Thế Tôn
kể chuyện quá khứ. Ngài kể:
7B. Magha Trở Thành Vua Trời Sakka
Xưa có một ông hoàng tên Magha sống trong làng Macala thuộc vương quốc Ma-kiệt-đà. Một
hôm ông đến chỗ buôn bán thị tứ, lấy chân gạt sạch bụi đất để có một chỗ đứng thoải
mái. Nhưng một người khác lại đến đẩy ông ra chiếm chỗ. Thay vì giận người ấy,
ông kiếm một chỗ khác dọn sạch để đứng. Lại một người cũng đến đẩy ông ra chiếm
chỗ. Ông dặn lòng đừng giận và lại tìm chỗ khác. Rồi hết người này đến người nọ
tiếp tục đuổi ông đi. Ông nghĩ rằng những người này dường như khoái chí, việc
làm của ông mang đến niềm vui cho họ, quả là một việc đáng làm. Hôm sau ông
mang cuốc dẹp dọn một khoảng đất rộng bằng sân phơi lúa, tức thì thiên hạ đến
chiếm chỗ. Mùa lạnh ông đốt lò sưởi ấm họ, vì thế đây là nơi mọi người thích
đến. Rồi ông thấy có bổn phận phải làm một con đường bằng phẳng dễ đi, nên sáng
sớm ông bắt đầu làm đường, chặt bỏ hết những cành cây vướng víu. Ông đã dành
thì giờ để làm những việc như thế.
Có người thấy vậy bèn hỏi ông:
- Thưa Ngài, Ngài đang làm gì thế?
- Tôi đang bước trên đường dẫn đến cõi
trời.
- Cho tôi cùng đi với.
- Thưa Ngài, hãy đi với tôi; thiên
đường là nơi an lạc cho nhiều người.
Thấy hai người đang làm việc, người thứ
ba đến, và tương tự như trước, xin gia nhập. Rồi người thứ tư, thứ năm, cuối
cùng là đến người thứ ba mươi ba. Họ dùng cuốc và rìu làm một con đường dễ đi
và bằng phẳng dài chừng một hai dặm. Thôn trưởng nghe tin đến xem xét việc họ
làm và tỏ vẻ bực bội vì không kiếm chác gì được cho riêng mình. Ông thuyết phục
họ đừng làm nữa vì không phải là việc của người tại gia, và ông khuyên họ đi
câu cá, săn thú rừng, hoặc chè chén say sưa, hoặc vui chơi thỏa thuê. Nhưng họ
không nghe ông, vẫn một mực làm con đường dẫn lên cõi trời. Thôn trưởng tức
giận muốn phá họ bèn tâu dối vua đó là một bọn cướp. Vua truyền lệnh bắt ba
mươi ba chàng trai cho voi chà. Trước cơn nguy khốn, Magha nhắn nhủ đồng bọn:
- Các bạn, chúng ta không còn chỗ nào
để ẩn náu ngoài lòng từ bi. Hãy để tâm an tĩnh. Hãy yêu thương, đừng sân giận
bất cứ ai. Nên rải tâm từ đến nhà vua, thôn trưởng và đến cả con voi sắp giẫm
chân lên chúng ta.
Ba mươi ba chàng trai vâng lời thủ lãnh
của họ. Sức mạnh của tình thương đã khiến con voi không dám đến gần họ.
Vua nghe báo tưởng rằng vì nhiều người
nên voi không dám đến, nên ra lệnh phủ lên người họ tấm thảm dày. Nhưng từ xa
voi đã thối lui. Vua đoán biết chắc là có lý do gì đây, nên gọi họ lại xem có
phải bọn họ là băng ăn cướp len lỏi trong rừng hay không, được biết họ bị thôn
trưởng vu oan. Vua ra lệnh bắt thôn trưởng cùng với vợ con làm nô lệ cho họ,
tặng một con voi để cưỡi và cả ngôi làng ấy để tùy nghi sử dụng. Ba mươi ba
chàng trai thấy rõ công đức mang đến lợi lạc ngay đời này, họ càng thêm phấn
khởi, nên khi cưỡi voi về làng họ bàn tính sẽ làm thêm nhiều công đức nữa. Cuối
cùng họ nhất trí xây dựng một nhà khách cho dân chúng tại ngã tư đường lớn, một
tòa nhà an toàn và kiên cố. Họ mời chủ thầu đến giao việc, và cấm không cho phụ
nữ dự phần vào, vì họ đã dứt được lòng tham dục đối với phụ nữ.
Lúc bấy giờ có bốn bà ở trong nhà Magha là Hoan Hỷ, Trầm Tư, Thiện Tánh và
Thiện Sanh. Thiện Tánh bí mật đến gặp chủ thầu hối lộ để ông ta chạm câu
"Căn nhà này của Thiện Tánh" vào tháp nhọn trên mái nhà. Chủ thầu vớ
được món bở, đồng ý ngay và cho hạ một cây khô. rồi đẽo, bào, khoan thành một
tháp nhọn, xong quấn vải cất lại.
Khi căn nhà đã hoàn thành, đến ngày
dựng tháp chủ thầu giả bộ hoảng hốt tìm ba mươi ba chàng trai báo tin là còn
thiếu cây tháp. Họ hối phải làm ngay, nhưng không thể làm với cây tươi được.
Chủ thầu lúc đó bảo họ tốt nhất là đi tìm nhà nào đã làm sẵn tháp để bán. Họ
tìm kiếm khắp nơi và chỉ trong nhà Thiện Tánh là có sẵn tháp. Họ chịu mua với
giá một ngàn đồng, nhưng Thiện Tánh không bán mà chỉ muốn góp phần vào công
trình xây dựng. Các chàng trai ban đầu từ chối viện dẫn không muốn cho phụ nữ
tham gia, nhưng sau bị chủ thầu thuyết phục là chỉ có cõi Phạm Thiên mời loại
trừ đàn bà, nên họ nhận tháp để công trình sớm hoàn tất. Rồi họ chia căn nhà ra
ba phòng, một dành cho vua, một cho người nghèo và một cho người bệnh.
Họ xây tiếp ba mươi ba chỗ ngồi, dặn
con voi khi có khách đến ngồi vào chỗ nào thì mời khách đến nơi vị chủ của chỗ
ngồi đó, để chủ làm bổn phận với khách như xoa bóp chân và lưng khách, dâng
thức ăn cứng và mềm dọn chỗ ở, tức là làm tốt mọi việc phục vụ khách.
Magha trồng một cây mun gần tòa nhà và
xây một ghế đá dưới gốc cây. Khách vào tòa nhà. Nhìn tháp nhọn đọc tên của
Thiện Tánh đã khắc chạm vào đó, mà không thấy tên ba mươi ba chàng trai đâu cả.
Hoan Hỷ thấy Thiện Tánh khéo góp phần
vào, trong khi mình chưa có gì hết, bèn nghĩ cách đào một hồ nước, để cung cấp
nước uống và nước tắm cho khách. Ðến lượt Trầm Tư cũng vậy, biết rằng ai đã
bước vào tòa nhà, sau khi uống nước và tắm đều trang điểm vòng hoa trước khi đi
ra, nên cho trồng một vườn hoa tráng lệ với nhiều hoa đẹp và trái quý đến nỗi
không ai bảo bông trái này chắc chắn là từ vườn hoa của Trầm Tư. Riêng phần
Thiện Sanh là em họ và cũng là vợ của Magha nên
nghĩ rằng công đức của Magha nàng
sẽ được hưởng lây. Cũng như công đức của nàng Magha
vẫn hưởng chung, do đó nàng chẳng làm gì cả, chỉ lo trang điểm.
Như vậy, Magha người phụng dưỡng cha mẹ, tôn kính bậc trưởng thượng,
nói sự thật, không lỗ mãng, không nói sau lưng, bỏ lòng tham, không nổi sân,
tức là đã làm tròn bảy giới luật nên được làm vua trời cõi ba mươi ba sau khi
tái sanh. Các bạn đồng hành cũng đều sanh thiên nơi đó. Còn người chủ thầu thì
làm trời Vissakamma.
Khoảng thời gian đó còn loài A-tu-la
sống ở cõi trời ba mươi ba, và khi họ biết có những vị trời mới sinh lên đó bèn
chuẩn bị tiệc rượu cho họ. Nhưng vua trời Ðế Thích cấm nhóm bạn mình không được
uống nước đó. Các A-tu-la thì uống thỏa thuê và say nhè. Ðế Thích không muốn
cho A-tu-la sống chung với mình nên ra hiệu cho nhóm bạn mình đá họ rơi xuống
biển. Nhờ có công đức nên dưới chân núi Tu-di mọc lên tòa lâu đài cho A-tu-la
và cây hoa Kèn nhiều màu.
Cuộc xung đột giữa chư thiên và A-tu-la
kết thúc, phần thắng về chư thiên. Từ đó thành lập cung trời ba mươi ba. Khoảng
cách từ cổng Ðông sang cổng Tây là mười ngàn dặm, từ cổng Bắc đến cổng Nam cũng
vậy. Cung trời có một ngàn công tô điểm với vườn cảnh và hồ nước. Do quả báo từ
việc xây cất nhà khách, nổi lên ngay giữa cung một điện các tên là Chiến Thắng.
Cao bảy trăm dặm, cờ phướn dài ba trăm dặm treo la liệt. Trên cột vàng treo cờ
ngọc, trên cột ngọc treo cờ vàng, trên cột san hô treo cờ hổ phách, trên cột hổ
phách treo cờ san hô, trên cột bằng bảy loại đá quý treo cờ bằng bảy loại đá
quý.
Quả báo việc trồng cây mun khiến mọc
lên cây san hô ôm một trăm dặm. Quả báo của việc xây chỗ ngồi dưới gốc cây
khiến hiện ra dưới gốc san hô một ngai bằng đá vàng, màu vàng ửng đỏ giống như
hoa Lài, dài sáu mươi dặm, rộng năm mươi dặm và dày mười lăm dặm. Khi Ðế Thích
ngồi lên ngai thì bị lún xuống một nữa, nếu đứng dậy thì trồi lên hết, vì được
tái sanh làm trời Eràvana. Vì cõi
trời không có loài vật nên muốn đến vườn giải trí voi phải bỏ thân trời hiện
tướng voi trở lại, cao lớn cỡ một trăm năm mươi dặm. Voi Eràvana làm ra ba mươi ba vại nước cho ba
mươi ba chàng trai, mỗi cái chu vi ba phần tư dặm. Ðúng ngay trung tâm voi tạo
một bồn nước tên là Mỹ Lệ dành cho trời Ðế Thích, chu vi ba mươi dặm, bên trên
có che một vòm làm toàn bằng ngọc quý rộng mười hai dặm. Quanh vòm cách khoảng
đều treo những lá cờ dài một dặm bằng bảy báu. Một hàng chuông leng keng dính
vào biên dưới lá cờ, mỗi khi gió thổi rung lên một điệu nhạc êm dịu như âm
thanh phát ra từ năm loại nhạc cụ hay tiếng hòa của chư thiên. Giữa lầu các đặt
sẵn một giường bằng ngọc dài một dặm cho Ðế Thích tựa mình trang trọng. Trong
ba mươi ba vại nước của ba mươi ba vị trời, mỗi vại mọc lên bảy ngà voi, mỗi
cái dài năm mươi dặm và chứa bảy hồ sen, mỗi hồ sen nhô lên bảy cọng sen, mỗi
cọng sen nở bảy hoa sen, mỗi hoa có bảy nhánh và trên bảy nhánh có bảy thiếu
nữa đang múa. Như thế trong phạm vi năm mươi dặm ở mọi phía đều có hội chúng
nhảy múa lơ lửng trên vô số ngà voi. Vua Ðế Thích đã thụ hưởng lạc thú sung mãn
như vậy.
Thiện Tánh qua đời cũng tái sanh về cõi
trời, đồng thời xuất hiện giảng đường Thiện Tánh, nhà luận nghị của chư thiên
rộng chín trăm dặm đẹp không nơi nào bì kịp, và tại đó vào ngày thứ tám hàng
tháng có thuyết pháp. Từ đó trở đi ai trông thấy nơi nào lộng lẫy cũng nói
giống nhà nghị luận của chư thiên tức giảng đường Thiện Tánh.
Hoan Hỷ và Trầm Tư đều sanh thiên, đồng
thời hiện ra một hồ sen tên Hoan Hỷ rộng năm trăm dặm và một khu rừng dây leo
tên Trầm Tư rộng năm trăm dặm. Nhưng riêng Thiện Sanh tái sanh thành một con
sếu ở trong hang núi.
Nhận biết tình trạng những người vợ cũ
mình như thế, Ðế Thích tìm cách giúp cho Thiện Sanh có cơ hội tạo lập công đức.
Ông cởi bỏ lớp trời đến bên Sếu trò chuyện. Ông phải xưng tên là Magha vì Sếu không nhận ra và kể cho nàng
biết là bạn bè đều sanh thiên, hỏi nàng muốn gặp họ không, nàng ưng thuận. Ông
đặt nàng trong lòng bàn tay mang lên trời đến bên hồ sen Hoan Hỷ rồi gọi những
bà kia đến. Họ thấy Sếu, chế nhạo một hồi, nào là mỏ nàng, bàn chân rồi đến cặp
chân, kết luận một câu:
- Hãy xem quả báo của quý nương, người
chỉ dành thời giờ để tô son chuốt phấn cho riêng mình!
Xong kéo đi hết.
Ðế Thích mang nàng trở về chỗ cũ trên
mặt nước và dọ ý xem nàng có thích cõi trời hay không. Nàng rất ưa thích vì
thấy trên đó vui sướng đẹp đẽ. Ông dạy cho nàng năm giới. Ba lần Ðế Thích hóa
làm cá giả như chết để thử nàng, khi nàng lấy mỏ quắp cá vẫy đuôi, nàng liền
không ăn. Nàng Sếu giữ giới không ăn cá sống, chỉ ăn cá đã chết rồi hoặc không
ăn gì hết, chẳng bao lâu nàng héo mòn và chết. Do phước báo của việc giữ giới
này nàng tái sanh làm con gái người thợ gốm ở Ba-la-nại. Khi cô gái lên mười
lăm, mười sáu tuổi, Ðế Thích bỏ lốt trời, lấy bảy báu đã hóa thành dưa chuột
chất đầy xe đẩy vào thành Ba-la-nại rao bán. Người ta cầm tiền đến mua, giá nào
ông cũng không bán. Có người thắc mắc hỏi tới, ông đáp là chỉ cho người nào giữ
giới, họ lại hỏi tiếp giới là gì, không giữ giới, nên ông đẩy xe đi. Có người
chỉ cho ông con gái thợ gốm thường nói "Tôi giữ giới", ông đánh xe
đến nhà cô và giao cho cô kho báu của trời trong lớp dưa chuột không hề mất
mát.
Qua kiếp này cô gái tái sanh làm con
của vua A-tu-la là Vepacitti. Vì
giữ giới trong hai kiếp liên tiếp nên cô rất duyên dáng mỹ miều từ thân hình
đến nước da màu vàng chưa từng thấy. Cha cô rất kén rể, ai cũng không vừa ý,
cuối cùng ông mời hết A-tu-la đến, đặt tay vào con gái một vòng hoa bảo nàng tự
chọn người chồng vừa ý. Ðế Thích biết được biến thành một A-tu-la lọm khọm đứng
vòng ngoài các chàng trai. Cô gái vì ở một kiếp trước đã từng làm vợ Ðế Thích
nên khi thấy ông mãnh lực ái tình tuôn tràn, nàng liệng vòng hoa lên đầu ông và
la lên:
- Ông ta là chồng tôi!
Các chàng trai A-tu-la buồn bã bảo
nhau:
- Ðúng là già kén kẹn hom, chàng phò mã
này đáng ông nội cô ta!
Lúc đó Ðế Thích hiện nguyên hình trời,
nắm tay cô gái bay lên không la lên:
- Ta là Ðế Thích!
Các A-tu-la đồng thanh hô lớn:
- Lão Ðế Thích này lừa chúng ta rồi!
Và họ rượt đuổi theo.
Người đánh xe Màtali đem xe chiến thắng đến ngừng giữa
đường rước Ðế Thích và cô dâu chạy về cung trời. Ðến rừng cây Bông và Tơ bầy
chim non Garuda (Kim Xí Ðiểu) nghe
tiếng bánh xe sợ bị nghiến nát kêu cứu inh ỏi. Ðế Thích liền ra lệnh cho Màtali quất roi khiến ngàn tuấn mã Sindh quay đầu chạy trở lại. Các A-tu-la
thấy vậy nghĩ rằng Ðế Thích đã có viện binh nên cũng trở lui về thành bằng con
đường cũ, và không bao giờ dám ló đầu ra nữa. Từ đó cô gái A-tu-la Thiện Sanh
được tấn phong lên cầm đầu hai mươi lăm triệu thiên nữ. Nàng chỉ có một mình
trên thiên giới, không cha mẹ, anh em ... nên thường xin đi theo Ðế Thích.
Thời gian sau khi cây hoa Kèn nhiều màu
nở hoa, các A-tu-la reo lên là cây san hô trên thiên giới trổ bông và họ xông
lên tấn công Ðế Thích. Vua trời bèn đặt trạm gác để ngăn chặn giúp loài rồng Nàgas dưới biển và cho bảo vệ chim thần Supannas và chư thiên Kumbhandas, trời Dạ-xoa (Yakkhas) và cả Tứ Thiên Vương. Ðể ngăn
ngừa tai họa, ông đặt trước cổng thành ảnh Ðế Thích tay cầm lưỡi tầm sét.
A-tu-la đánh thắng loài rồng Nàgas
và các phi nhân khác xong tiến đến cổng thiên giới họ thấy ảnh Ðế Thích hô hoán
lên "Ðế Thích xông ra kia kìa!" và vội bỏ chạy.
Thế Tôn kết luận:
- Này Mahàli
! Ông hoàng Magha đã chọn con
đường tinh cần chánh niệm thế đó, và đạt đến ngôi vị tối cao cai quản hai thiên
giới. Tinh cần chánh niệm được chư Phật và mọi người tán thán, nhờ thế sẽ đạt
quả vị cao tột thế gian và xuất thế gian.
Rồi Ngài đọc Pháp Cú:
(30) Ðế Thích không phóng dật,
Ðạt ngôi vị thiên chủ.
Không phóng dật được khen,
Phóng dật thường bị trách.
8. Một Tỳ Kheo Chứng A-La-Hán
Vui thích không phóng dật ...
Giáo lý này Thế Tôn nói trong khi ngụ ở Kỳ Viên liên quan đến một
Tỳ-kheo.
Một Tỳ-kheo nhận đề tài thiền quán từ
Thế Tôn xong lui vô rừng. Dù cố gắng hết sức mình ông vẫn không chứng được quả
A-la-hán. Ông rời nơi an cư trở về chỗ Thế Tôn định xin đổi đề tài thiền quán
khác. Trên đường đi ngang một khu rừng lớn đang cháy dữ dội, ông trèo lên đỉnh
một ngọn núi trọc và ngồi xuống ngắm ngọn lửa bừng cháy đang thiêu đốt mọi vật
lớn và nhỏ. Ông cũng muốn tất cả những chướng ngại lớn và nhỏ sẽ được ngọn lửa
trí tuệ của Thánh đạo đốt cháy hết.
Ðức Phật ngồi trong hương thất thấy hết
diễn biến tư tưởng của Tỳ-kheo liền phóng quang đến trước mặt Tỳ-kheo nói kệ:
(31) Vui thích không phóng dật,
Tỳ-kheo sợ phóng dật
Bước tới như lửa bừng,
Thiêu kiết sử lớn nhỏ.
Dứt câu kệ, vẫn ngồi tại chỗ, Tỳ-kheo
thiêu đốt hết mọi trói buộc và chứng A-la-hán cùng những thần thông Sau đó ông
bay lên không đến gặp Thế Tôn, tán thán và ca ngợi kim thân Phật.
9. Tissa Ở
Phố Chợ
Vui thích không phóng dật ...
Giáo lý này Thế Tôn dạy khi ngụ tại Kỳ
Viên liên quan đến Trưởng lão Tissa
ở phố chợ, tức Nigamavàsì Tissa.
Một chàng trai có địa vị sinh sống tại
phố thị không xa Xá-vệ, một hôm xuất gia thành Tỳ-kheo trong giáo đoàn của
Phật. Nhờ làm tròn bổn phận ông thường được gọi là Tissa ở phố chợ. Ông nổi tiếng sống thanh đạm, trí túc,
trong sạch và kiên quyết. Ông hay đi khất thực trong làng có thân quyến cư ngụ
mà không bao giờ đến Xá-vệ ở gần bên, dù ông Cấp Cô Ðộc và những cư sĩ khác kể
cả vua Ba-tư-nặc thường dâng cúng nhiều phẩm vật ngoại hạng.
Các Tỳ-kheo bàn tán về ông, cho rằng ông
chỉ giao thiệp thân mật với quyến thuộc mà chớ hề đến Xá-vệ nơi được cúng dường
dồi dào. Chuyện đến tai Phật, ông được gọi đến. Phật hỏi:
- Tỳ-kheo, có thật ông đã sống như
người ta báo không?
Tissa đáp:
- Bạch Thế Tôn, không đúng sự thật khi
nói con giao thiệp thân thiết với họ hàng. Con chỉ nhận nơi họ thức ăn vừa đủ.
Chỉ vì nhu cầu gìn giũ mạng sống, nên dù ngon dù dở, con thấy rằng không cần
phải trở về tinh xá để tìm vật thực nữa. Con không giao thiệp thân mật với
quyến thuộc, bạch Thế Tôn!
Phật biết được tâm ý của Tỳ-kheo liền
khen:
- Lành thay! Lành thay! Tỳ-kheo! Không
có gì lạ, là đệ tử của Ta tất nhiên ông phải biết sống thiểu dục. Thiểu dục là
ý hướng và thói quen của Ta.
Chuyện quá khứ
9A. Sakka Và Con Vẹt
Ngày xưa mấy ngàn con vẹt sống ở rừng
cây sung xứ Hy-mã-lạp-sơn trên bờ sông Hằng. Khi những trái trên cây nơi con
vẹt chúa đậu rụng hết, nó bèn ăn những gì tìm được dù chồi non, lá xanh hay cỏ
cây, ống nước sông Hằng và rất hạnh phúc mãn nguyện ở lại nơi ấy. Vẹt hạnh phúc
và mãn nguyện đến nỗi cung trời của Ðế Thích (Sakka)
rúng động. Ðế Thích tìm lý do, thấy là vì chim vẹt liền quyết định thử thách
nó. Ông dùng thần lực giáng xuống cây sung làm cành lá đổ la liệt, chỉ còn gốc cây
đầy lỗ hổng và vết nứt. Khi tiếng ầm vang lên từ bên trong cây bụi tuôn mù mịt,
và đó là nguồn thức ăn của chim vẹt cùng với nước sông Hằng, nó không đi đâu
khác, nó vẫn đậu trên cây sung chẳng ngại gì nắng gió.
Ðế Thích thấy vẹt vẫn hạnh phúc và mãn
nguyện, bèn biến thành ngỗng chúa có Thiện Sanh trong hình dáng nữ thần Asura dẫn đường đến rừng cây sung. Ông đậu
xuống một cây gần chỗ của vẹt và mở đầu câu chuyện bằng bài kệ:
Có
những cây lá xanh
Những cây nặng trĩu trái
Tại sao vẹt lại thích
Ở trên cây bị đốn ngã trơ trọi?
Kể đến đây đức Phật nói tiếp:
- Lúc ấy Ðế Thích là Ananda là vẹt chúa
chính là Ta. Vì thế này các Tỳ-kheo, thiểu dục là ý hướng và thói quen của Ta.
Do đó không có gì lạ khi đệ tử của Ta là Nigamavàsì
Tissa biết sống hạnh phúc và mãn nguyện không bị sa đọa, không những
thế còn gần đến Niết-bàn.
Ðức Phật nói tiếp Pháp Cú sau:
(32) Vui thích không phóng dật,
Tỳ-kheo sợ phóng dật,
Không thể bị thối đọa,
Nhất định gần Niết-bàn.
--ooOoo--
Ðầu trang | Mục lục
| 01a | 01b | 01c | 01d | 02a | 02b | 03 | 04a | 04b | 05a | 05b | 06 | 07 | 08
| 09 |
10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15
| 16 | 17 | 18 | 19 | 20
| 21 | 22 | 23 | 24 | 25
| 26a | 26b | 26c
[Trở về trang Thư Mục]
updated: 12-03-2002