BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Tích truyện Pháp Cú
Thiền viện
Viên Chiếu
Nguyên tác:
"Buddhist Legends", Eugene Watson Burlingame
XVII.
Phẩm Sân Hận
1. Sân Hận Tàn Phá Dung Nhan
Bỏ phẫn nộ, ly mạn ...
Câu chuyện này được kể lại khi đức Phật
ở tại rừng Banyan, liên quan đến Rohinì, thiếu nữ Sát-lợi.
1A. Cô Gái Bị Mụn Ðỏ Trên Mặt
Một thuở nọ, Tôn giả A-nậu-lâu-đà trở
về thành Ca-tỳ-la-vệ với năm trăm Tỳ-kheo tùy tùng. Hoàng tộc họ Thích nghe tin
đều đến tinh xá đón chào, trừ cô em Rohinì.
Tôn giả hỏi:
- Rohinì
đâu?
- Thưa Tôn giả, còn ở nhà.
- Sao không đến?
- Thưa Tôn giả, công nương bị nổi mụn
nhọt đầy người, nên xấu hổ khi đi ra ngoài.
- Hãy gọi Rohinì đến ngay.
Rohinì được gọi, che mặt dưới một lớp
vải và đi đến. Khi nàng tới, Tôn giả hỏi:
- Sao cô không đến trước?
- Thưa Tôn giả con bị nổi mụn trên mặt,
nên xấu hổ không dám đi đâu.
- Vậy sao không làm việc công đức?
- Thưa Tôn giả, con có thể làm gì?
- Hãy xây cất một giảng đường.
- Việc ấy tốn kém bao nhiêu?
- Cô có một bộ nữ trang nào không?
- Thưa, con có.
- Trị giá bao nhiêu?
- Khoảng mười ngàn.
- Tốt lắm, đem chi dùng trong việc xây
cất.
- Ai sẽ xây cất cho con?
Tôn giả nhìn những hoàng thân đang đứng
gần và nói:
- Ðây là bổn phận các vị.
- Nhưng, bạch Tôn giả, còn Ngài sẽ làm
gì?
- Tôi ở đây, các vị đem vật liệu xây
cất đến cho Rohinì.
- Thưa, vâng.
Và họ mang vật liệu đến, Tôn giả đưa ra
đồ án xây cất, bảo Rohinì:
- Hãy cho xây cất một tòa nhà hai tầng,
và khi tầng trên đã xong xuôi, cô đứng ở tầng dưới dọn quét sạch sẽ, chuẩn bị
thức ăn và rót nước đầy các bình.
- Thưa, vâng.
Rohinì vâng lời, nàng bán toàn bộ nữ
trang để lấy tiền xây cất. Khi tầng trên vừa xong, nàng đích thân dọn dẹp để
đón chư Tỳ-kheo, ngay khi đó các mụt nhọt lặn hết.
Khi tòa nhà hoàn thành, nàng mời chư
Tăng được đức Phật dẫn đầu đến ngồi đầy nhà. Nàng dâng cúng thức ăn chọn lọc cả
cứng và mềm. Phật thọ trai xong, hỏi:
- Ai cúng dường hôm nay?
- Thưa, cô Rohinì, em của Ngài, bạch Thế Tôn.
- Hãy gọi đến đây.
Nàng không muốn đi ra, nhưng Phật vẫn
cho gọi nữa. Khi Rohinì đến, đảnh
lễ Phật và ngồi, Phật hỏi:
- Rohinì,
sao cô không đến trước?
- Bạch Thế Tôn, con bị nổi mụn nhọt
khắp người nên xấu hổ không dám đi.
- Cô có biết nguyên nhân nào khiến mụn
nhọt lan đầy người không?
- Thưa không.
- Chính vì lòng sân hận gây nên.
- Tại sao vậy, con đã làm gì?
- Hãy nghe đây!
Phật kể chuyện:
1B. Bà Hoàng Ganh Tỵ Với Nữ Vũ Công
Thời quá khứ, có một hoàng hậu của
vương quốc Ba-la-nại sanh tâm đố kỵ với một vũ nữ của hoàng gia, bà thầm nghĩ:
"Ta sẽ làm cho nó đau khổ". Bà liền tìm thật nhiều mày ghẻ đã khô,
nghiền nát thành bột và cho gọi cô vũ nữ đến chỗ bà, bí mật sai người rắc bột
ghẻ lên giường, ghế và khăn áo của cô. Rồi làm như đùa cợt, bà tung một ít bột
lên mình cô. Lập tức cô gái nổi mụn nhọt khắp mình, nó lở loét trông rất ghê
tởm, cô vừa đi vừa cấu khắp mình. Khi về nằm trên giường, bột ghẻ lại dính chặt
vào da, cô bị đau đớn đến tột cùng. Bà hoàng ấy là Rohinì ngày nay.
Phật kể xong chuyện quá khứ, Ngài dạy:
- Rohinì,
đó là hạt giống xấu mà cô đã gieo. Giận hờn hay ganh ghét, tuy ít bao nhiêu
cũng không phải là điều chánh đáng.
Ngài nói kệ:
(221) Bỏ phẫn nộ, ly mạn,
Vượt qua mọi kiết sử,
Không chấp trước danh sắc,
Khổ không theo, vô sân.
Nghe xong, nhiều thính chúng chứng Sơ
quả, Nhị quả, Tam quả. Rohinì
cũng chứng Sơ quả. Ngay khi ấy toàn thân cô trở nên vàng óng.
1C. Thiên Nữ Xinh Ðẹp
Rohinì sau khi mạng chung, tái sanh
lên cõi trời Ba mươi ba ngay giao điểm các ranh giới của bốn thiên tử.
Cô gái đẹp đến nỗi sau khi nhìn thấy
cô, cả bốn vị trời đều tranh nhau:
- Nàng thuộc về ranh giới của ta.
- Nàng tái sanh trong phạm vi của ta.
Họ kéo nhau đến chỗ Ðế Thích nhờ phân
xử:
- Thiên chủ! Chúng tôi tranh cãi nhau
về thiên nữ này, xin quyết định dùm.
Vừa nhìn thấy Rohinì, Ðế Thích cũng ước ao. Ngài hỏi:
- Khi các ông nhìn thấy nàng, cảm tưởng
của các ông ra sao?
Vị thứ nhất nói:
- Tim tôi đập vang dội như trống chầu.
Vị thứ hai nói:
- Ý tưởng của tôi dồn dập như thác
chảy.
Vị thứ ba nói:
- Vừa thấy nàng mắt tôi muốn nổ tung.
Vị thứ tư nói:
- Tim tôi hớn hở như lá cờ bay.
Ðế Thích kết luận:
Các vị vui thích nhất thời, còn tôi nếu
không có nàng tôi sẽ chết.
- Ồ thiên chủ! Ngài cần gì phải chết!
Họ trao nàng cho Ðế Thích và lui về. Từ
lúc ấy nàng rất được Ðế Thích sủng ái, nàng muốn dạo chơi nơi nào Ðế Thích liền
chiều theo.
2. Thọ Thần Và Thầy Tỳ Kheo
Ai chặn được phẫn nộ ...
Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế
Tôn ở tinh xá Aggàlava liên quan
tới một vị Tỳ-kheo.
Từ sau khi đức Phật cho phép các
Tỳ-kheo được sống ngoài tinh xá, các vị Trưởng giả thành Vương Xá bận rộn cất
thất cho các thầy. Một Tỳ-kheo ở Alavi
muốn cất thất riêng cho mình, thầy thấy một thân cây thích hợp, bèn bắt đầu đốn
xuống. Trên cây ấy, có một nữ thọ thần, bà ẵm đứa con nhỏ của mình, hiện ra
trước thầy năn nỉ:
- Thưa thầy, xin đừng phá nhà con, con
sẽ phải lang thang không chỗ trú ẩn với đứa con dại.
- Ta không thể tìm ra cây nào khác
giống như cây này.
Thầy không chú ý đến lời cầu xin của nữ
thần. Bà nghĩ thầm: "Nếu thầy thấy con ta, chắc sẽ ngừng tay. Bà bèn đặt
đứa bé lên nhánh cây. Tuy nhiên, thầy Tỳ-kheo đã vung rìu với đà quá mạnh, chặt
mất cánh tay đứa bé. Nữ thần nổi giận vươn đôi tay định vặn chết thầy Tỳ-kheo,
nhưng trong khoảnh khắc bà tự nghĩ: "Thầy Tỳ-kheo này là một bậc hiền
thiện, nếu ta giết thầy, ta sẽ rơi xuống địa ngục. Hơn nữa, nếu các thần cây
khác thấy các Sa-môn đốn cây của họ, sẽ bảo nhau: "Một thần cây đã giết
Sa-môn trong trường hợp như thế..", họ sẽ theo gương ta giết các Sa-môn.
Thầy Tỳ-kheo này còn có thầy, ta sẽ thuật chuyện cho bổn sư của thầy".
Bà bỏ tay xuống, vừa đi vừa khóc đến
chỗ đức Phật, đảnh lễ và đứng qua một bên. Phật hỏi:
- Có chuyện gì thế, thọ thần?
- Bạch Thế Tôn, đệ tử của Ngài làm như
thế, như thế. Con đã định giết thầy ấy, nhưng kịp nghĩ lại và đến đây.
Bà thuật lại câu chuyện cho Phật nghe,
Phật dạy:
- Lành thay! Lành thay! Ngươi đã cư xử
rất tốt khi kìm hãm cơn giận như thắng chiếc xe lao nhanh.
Ngài nói kệ:
(222) Ai chặn được phẫn nộ,
Như dừng xe đang lăn,
Ta gọi người đánh xe,
Kẻ khác, cầm cương hờ.
Nghe xong, nữ thần chứng Sơ quả, hội
chúng cũng được lợi ích.
Nhưng sau đó, nữ thần vẫn đứng khóc.
Phật hỏi:
- Có chuyện gì thế?
- Bạch Thế Tôn, nhà ở của con bị phá,
con phải làm sao bây giờ?
- Thôi đừng sầu khổ, Ta sẽ cho một chỗ
ở.
Ngài chỉ một cây ở gần hương thất của
Ngài tại Kỳ Viên, và bảo nữ thần đến ở. Vì cây ấy là quà tặng của Như Lai, nên
dù vị thần nào có uy lực lớn lao cũng không thể lay chuyển được. Nhân chuyện
này, Phật ra lệnh cho các Tỳ-kheo giữ giới "Không được chặt đốn cây
cối".
3. Người Nghèo Và Cô Con Gái
Lấy không giận thắng giận ...
Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại
Trúc Lâm sau khi thọ trai tại nhà Uttarà,
liên quan đến nữ cư sĩ Uttarà.
3A. Punna Ðược
Công Ðức
Tại Vương Xá, có một người nghèo tên Punna sống bằng nghề làm thuê cho Trưởng
giả Sumana. Punna có một người vợ và một con gái tên
là Uttara, đều là nô tỳ của
Trưởng giả.
Ngày nọ, lệnh truyền khắp thành Vương
Xá tổ chức lễ hội trong bảy hôm. Sáng hôm lễ, Trưởng giả Sumana thấy Punna đến, bèn hỏi:
- Các người làm thuê cho ta đều nghỉ
lễ, còn ngươi nghỉ hay làm?
- Thưa chủ, nghỉ lễ chỉ dành cho người
giàu. Phần tôi không đủ cơm ăn cho ngày mai, tôi nghỉ lễ làm gì. Tôi sẽ dắt bò
đi cày.
- Tốt lắm, thôi đi cày đi!
Punna bắt một cặp bò mạnh khỏe và lấy
cày, nói với vợ:
- Mình ạ, mọi người trong thành đều
nghỉ lễ, nhưng nhà mình nghèo quá tôi vẫn phải đi làm, mình đem hai phần cơm
hôm nay cho tôi nhé.
Và Punna
ra đồng.
Hôm ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất sau khi
nhập định bảy ngày, thầm nghĩ: "Hôm nay, ta sẽ ban phước đến cho ai?"
Nhận thấy Punna có duyên với
mình, Tôn giả tự hỏi: "Liệu ông ấy có đủ niềm tin và dâng cúng cho
ta?" Quan sát tiếp thấy Punna tín
thành, hỷ cúng và còn được hưởng số gia tài lớn, Tôn giả đắp y, mang bát đi đến
cánh đồng Punna đang cày, dừng
lại bên đường và nhìn chăm chú một bụi cây. Punna
thấy Tôn giả, bỏ cày, đến đảnh lễ năm vóc sát đất, và tự nhủ: "Chắc Tôn
giả cần tăm xỉa răng". Ông đem tăm đến cho Tôn giả. Tôn giả trao đãy lược
nước và bình bát cho Punna.
"Chắc Tôn giả cần nước", Punna nghĩ
thế cầm lấy đãy lược, lược nước đầy bát và đem trao Tôn giả. Tôn giả nghĩ:
"Người này ở ngôi nhà sau cùng, nếu ta đi tới cửa vợ ông ta sẽ không thấy.
Ta sẽ đợi đúng lúc bà ta mang cơm ra cho chồng".
Tôn giả đứng đợi giây lát, khi thấy bà
vợ Punna bắt đầu ra đến đường,
Ngài bước đến. Người vợ thấy Tôn giả, tự nghĩ: "Một lần ta có thức ăn thì
không gặp, lần khác gặp Ngài thì ta lại không có gì để cúng. Hôm nay ta vừa gặp
Ngài lại có thức ăn. Ngài có ban phước cho ta chăng?". Bà đặt giỏ thức ăn
xuống, đảnh lễ Tôn giả năm vóc sát đất và bạch:
- Thưa Tôn giả, xin Ngài đừng nghĩ rằng
thức ăn ngon hay dở, xin hãy ban phước cho kẻ tôi tớ này.
Tôn giả đưa bình bát ra, bà sớt cơm vào
bát, được phân nửa, Tôn giả bảo: "Ðủ rồi!" Và Ngài lấy tay che miệng
bát. Người vợ thưa:
- Bạch Tôn giả! Một phần ăn không thể
chia làm hai. Xin Ngài ban phước cho con đời này và đời sau. Con muốn cúng
dường Ngài tất cả.
Bà sớt cơm vào bát Tôn giả với lời ước
nguyện:
- Xin cho con được dự vào pháp vị mà
Ngài đã chứng.
- Con sẽ được như thế.
Tôn giả đọc câu kệ hồi hướng, và ngồi
xuống một nơi mát, sạch, thọ trai. Người vợ nông phu về nhà nấu cơm khác.
Punna đã cày hết nửa mẫu đất, đói bụng
quá bỏ cày, ngồi xuống gốc cây trông chừng về phía đường. Khi người vợ mang cơm
đến, thấy chồng ngồi trông, bà nghĩ: "Ông ấy bị đói dữ dội đang đợi ta
kìa, ông sẽ trách ta đến trễ, lấy gậy đập ta, khiến cho việc ta vừa làm không
có kết quả, chi bằng ta nói trước". Và bà kêu lên:
- Mình ạ, hãy kiên nhẫn một chút và
đừng làm mất hết thành quả của việc tôi mới làm. Sáng sớm tôi đem cơm cho mình
gặp Tôn giả Xá-lợi-phất và đã cúng dường hết, về nấu cơm khác nên hơi lâu. Chắc
mình hài lòng chứ?
- Bà nói gì?
Sau khi nghe xong chuyện lần thứ hai, Punna bảo vợ:
- Mình đã làm việc tốt khi dâng cơm cho
Tôn giả. Tôi cũng đã đem tăm và nước súc miệng đến cho Tôn giả sáng nay.
Với nỗi vui mừng khi nghe vợ kể chuyện,
hơi mệt vì đã nhịn ăn từ sáng sớm, Punna gối
đầu lên chân vợ và ngủ. Bấy giờ, tất cả đất được cày lên từ sáng đều biến thành
vàng, sáng lấp lánh như hoa Kanikàra. Punna
thức giấc, nhìn thửa ruộng bảo vợ:
- Mình nhìn xem, dường như đất biến
thành vàng! Hay là tôi bị chóa mắt vì đã nhịn cơm trưa nay?
- Tôi cũng thấy như vậy.
Punna đứng dậy, bước xuống ruộng lượm
một miếng đất lấy cán cày đập thử và thấy nó là vàng. Ông kêu:
- Ôi! Chúng ta cúng dường Tôn giả
Xá-lợi-phất và phước báo đến ngay ngày hôm nay. Nhưng chúng ta không thể dấu
hết chừng ấy vàng để xài riêng.
Thế là ông lấy cái giỏ của bà vợ chất
đầy vàng đem đến cung vua, tâu:
- Tâu Ðại vương, hôm nay đất tôi cày
đều biến thành vàng. Số vàng ấy có phải nhập kho không?
- Ngươi tên gì?
- Punna.
- Hôm nay ngươi đã làm gì?
- Sáng sớm hôm nay tôi dâng Tôn giả
Xá-lợi-phất nước và tăm xỉa răng, vợ tôi dâng phần cơm của tôi cho Ngài.
Nhà vua giải thích:
- Ðó chính là quả phước do việc cúng
dường. Ta phải làm gì đây?
- Xin hãy đưa vài ngàn chiếc xe đến để
chở vàng về kho.
Khi người của nhà vua nhặt vàng, họ
nói:
- Ðây là tài sản của nhà vua.
Vàng trong tay họ liền biến thành đất.
Họ trở lại tâu vua. Vua hỏi:
- Các ngươi nói gì khi nhặt vàng?
- Chúng tôi nói nó là tài sản của đại
vương.
- Ta mà là ai? Hãy đi và nói rằng đây
là tài sản của Punna, rồi nhặt
vàng.
Họ làm theo lời vua dặn, lập tức đất
trong tay họ biến thành vàng. Họ chở hết số vàng này về sân cung điện, và chất
thành đống cao tám mươi cubit.
Nhà vua cho vời các thị dân đến và hỏi:
- Có ai trong thành có nhiều vàng như
thế này chăng?
- Tâu đại vương, không.
- Ta nên tặng gì cho ông ấy?
- Xin cho một cây lọng báu.
- Hãy gọi ông ấy là Ðại Phú Gia, Trưởng
giả Bahudhana.
- Ðại vương, tôi sống nhờ nhà người,
xin cho tôi một nơi để ở.
Nhà vua chỉ khoảnh đất của nhà một
Trưởng giả trước đây, nói:
- Nhìn đây, có khoảng cây rậm rạp và
ông hãy dọn sạch, cất nhà ở đấy.
Punna cất nhà xong, tổ chức lễ khánh
thành, cúng dường trai tăng suốt bảy hôm. Ðức Phật thuyết pháp cho ông, sau bài
pháp cả Punna, vợ và cô con gái Uttarà đều chứng quả Dự lưu.
Thời gian sau, vị Trưởng giả thành
Vương Xá muốn hỏi Uttarà cho con
trai mình, Punna từ chối, Trưởng
giả Vương Xá bảo:
- Ðừng làm thế, chúng ta là hàng xóm,
ông giàu có và địa vị cao. Hãy gả nó cho con trai tôi.
- Con ông theo ngoại đạo. Con gái tôi
tin Tam Bảo. Tôi không gả được.
Nhiều nhà vọng tộc, phú hào, quyền chức
đã khuyên Punna đừng làm mất tình
thân của Trưởng giả kia. Cuối cùng, Punna
nhận lời, vào ngày trăng tròn tháng Asalhi,
gả Uttarà.
3B. Uttarà Và Sirimà
Từ khi về nhà chồng Uttarà không có dịp gặp gỡ chư vị Tỳ-kheo
Tăng Ni, hoặc cúng dường, hoặc nghe pháp. Hai tháng rưỡi trôi qua, nàng hỏi
người hầu.
- Mùa an cư còn bao lâu?
- Thưa phu nhân, nửa tháng nữa.
Uttarà nhắn tin về cha nàng: "Tại
sao lại nhốt con trong cái nhà như vậy? Thà là đánh con, chửi con hơn gả con
cho một gia đình như thế. Từ ngày về đây, con không được gặp một vị Sa-môn nào,
chẳng có dịp làm một công đức nhỏ".
Cha nàng được tin, buồn bã nói:
- Ôi! Con ta bất hạnh quá!
Ông gởi cho nàng mười lăm ngàn kèm theo
lời nhắn tin: "Trong thành này có cô kỹ nữ tên là Sirimà, một đêm một ngàn. Với số tiền này,
con đưa cô ấy về cho chồng con, để thay con. Và con sẽ có thời giờ làm việc
phước".
Uttarà gọi Sirimà đến, cho tiền, đề nghị làm bạn với chồng mình. Chồng của
Uttarà cũng say mê nhan sắc của Sirimà nên đồng ý, để Uttarà tự do đi cúng dường và nghe pháp.
Uttarà thỉnh chư Tăng và đức Phật:
- Bạch Thế Tôn, bắt đầu ngày nay xin
thọ trai ở nhà con.
Ðược Phật nhận lời, nàng vui sướng nghĩ
thầm: "Từ ngày mai trở đi cho đến ngày Tự Tứ, ta được dịp hầu hạ đức Phật
và nghe pháp". Và nàng bảo nhà bếp chuẩn bị thức ăn cần thiết: "Hãy
nấu món này, hãy làm bánh này".
Một hôm, vào ngày trước lễ Tự Tứ, chồng
Uttarà đứng ở cửa sổ phòng mình
nhìn vào nhà bếp, nghĩ thầm:
- Cô vợ khùng này đang làm gì kìa?
Khi thấy Uttarà đi tới đi lui, mình mẩy đẫm mồ hôi, dính đầy tro bụi
mồ hóng.. y nói thầm: "A, ở một chỗ như nhà mình mà con nhỏ đó không thích
xa hoa, tiện nghi, chỉ thích nấu nướng cúng kính các thầy tu trọc đầu", y
bật cười rồi bỏ đi. Sirimà đứng
gần đó thấy vậy, tự hỏi: "Ông ấy thấy ai mà cười?". Nhìn qua cửa sổ
thấy Uttarà, Sirimà ghen tức
"Chỉ vì thấy bà ta thôi, giữa họ vẫn còn tình tứ lắm" (Dù Sirimà sống nửa tháng trong nhà ấy như một
nàng hầu, chóa mắt vì sự xa hoa lộng lẫy, nàng quên mình chỉ là nàng hầu mà
tưởng mình là nữ chủ).
Sirimà cảm thấy ghét Uttarà muốn làm cho nàng khổ sở đau đớn.
Cô chạy xuống lầu, đi vào nhà bếp, đến bên chảo bánh, múc một muỗng bơ đang sôi
tiến về phía Uttarà. Uttarà thấy
cô đi tới nhưng vẫn nói:
- Cô bạn đã giúp tôi rất nhiều. Trái
đất này có thể nhỏ hẹp, cõi trời Phạm có thể chấp, nhưng lòng tốt của cô lớn
lao hơn nhiều. Nhờ cô, tôi được rảnh để cúng dường và nghe pháp, nếu tôi nổi
giận với cô tôi sẽ bị cháy bỏng. Nếu không, nó không làm hại tôi.
Nói như thế, và Uttarà hướng tâm thương yêu về phía đối
thủ. Khi Sirimà tạt muỗng bơ đang
sôi lên đầu nàng, nói giống như nước lạnh. Sirimà
múc luôn muỗng thứ hai..
Các bà gia nhân của Uttarà thấy thế, la lên:
- Cút đi! Ðồ ngu! Mày có quyền gì mà
chế bơ vào đầu chủ tao.
Họ xúm lại đánh đập, đá thoi, xô Sirimà xuống đất. Uttarà cố gắng can ngăn mà không được.
Nàng đứng chắn trước Sirimà, đẩy
gia nhân ra, hỏi han Sirimà:
- Sao cô hành động hung bạo thế?
Nàng đỡ Sirimà dậy, tắm rửa bằng nước nóng, lấy dầu loại quý thoa
cho. Lúc ấy, Sirimà mới chợt nhớ
mình chỉ là nàng hầu, tự nhủ: "Thật là một hành động thô bỉ khi ta đổ bơ
nóng lên đầu nàng chỉ vì chồng nàng cười với nàng. Và nàng, thay vì ra lệnh cho
gia nhân trói ké ta lại, nàng lại đuổi họ đi khi họ đánh đập ta, rồi hết sức
chăm sóc ta. Nếu ta không xin lỗi nàng, đầu ta sẽ bể làm bảy mảnh". Sirimà quỳ dưới chân Uttarà nói:
- Phu nhân, hãy tha lỗi cho tôi.
Uttarà trả lời:
- Tôi là con của cha tôi, nếu cha tôi tha lỗi cho cô, tôi sẽ tha
lỗi.
- Lành thay, phu nhân. Tôi sẽ xin lỗi
cha nàng, Trưởng giả Punna.
- Punna
là cha thế gian của tôi. Nếu người cha xuất thế gian của tôi tha lỗi
cho cô, tôi sẽ tha lỗi.
- Nhưng ai là cha xuất thế gian của
nàng?
- Là đức Phật, bậc Giác Ngộ Vô Thượng.
- Tôi không dám tin vào Phật sống.
- Tôi sẽ làm cho nàng tin. Ngày mai đức
Phật sẽ đến đây với chư Tỳ-kheo, hãy chuẩn bị đồ cúng dường và đến đây xin sám
hối.
- Thưa vâng, phu nhân.
Sirimà trở về nhà, bảo năm trăm tỳ nữ
chuẩn bị sẵn sàng theo cô. Nàng sắm nhiều loại thức ăn ngon, hôm sau mang đến
nhà Uttarà. Không dám đặt phẩm
vật cúng dường vào bát của Phật và chư Tăng, nàng đứng đợi. Uttarà bèn nhận phẩm vật và tùy nghi dâng
lên. Phật thọ trai xong, Sirimà
và đoàn tỳ nữ quỳ dưới chân Phật, Ngài hỏi:
- Con đã gây tội gì?
- Bạch Ngài, hôm qua con đã làm như
thế.. Nhưng người bạn này đã ngăn gia nhân không cho đánh con. Nàng rất tốt nên
con xin nàng tha thứ, nàng nói nếu Thế Tôn tha thứ, nàng sẽ tha thứ.
- Uttarà,
đúng vậy không?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Uttarà thuật lại những gì lòng nàng
nghĩ về Sirimà, lúc ấy, Phật khen
ngợi:
- Lành thay! Lành thay! Uttarà! Ðó là cách đúng nhất để dập tắt
cơn giận. Từ bi có thể xóa sạch hận thù. Dùng không mắng chửi để thắng mắng
chửi, dùng bố thí thắng xan tham, dùng thật ngữ thắng vọng ngữ.
Ngài nói kệ:
(223) Lấy không giận thắng giận,
Lấy thiện thắng bất thiện,
Lấy thí thắng xan tham,
Lấy chơn thắng hư ngụy.
4. Việc Thiện Nhỏ Ðưa Ðến Thiên Giới
Nói thật, không phẫn nộ ...
Câu chuyện này được kể lại khi Phật ở
Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Ðại Mục-liên.
Một hôm, Tôn giả Mục-liên đi dạo nơi
cung trời, thấy một vị trời có thần lực rất lớn đang đứng trước cung điện của
mình. Thiên thần ấy đến chào Tôn giả, Tôn giả hỏi:
- Này thiên thần, ông có uy lực lớn,
ông đã làm gì mà được như thế?
- Ồ! Bạch Ngài, xin đừng hỏi tôi. (vị
trời này chỉ làm một việc thiện nhỏ, nên xấu hổ không muốn nói).
Tôn giả cứ hỏi lại, yêu cầu nói cho
nghe, cuối cùng thiên thần nói:
- Thưa Tôn giả, tôi không hề cúng
dường, tôn kính hay nghe pháp. Tôi chỉ nói thật mà thôi.
Tôn giả đến cung điện khác, hỏi một vài
thiên nữ khác. Họ cố giấu việc mình làm nhưng không qua được Tôn giả, một người
nói:
- Thưa Tôn giả, tôi không bố thí hay
làm việc về tôn giáo, nhưng vào thời Phật Ca-diếp tôi là đầy tớ của một ông chủ
tàn bạo hà khắc. Ông ta chỉ có đánh đập. Nhưng khi tư tưởng sân hận nổi lên tôi
tự an ủi mình rằng: "Ông ấy là chủ mình, có thể bắt giam mình, hoặc xẻo
mũi mình, hay xẻo bất cứ nơi nào. Ðừng giận dữ". Như thế, tôi làm lắng dịu
lòng mình, chỉ có thế, tôi được phước quả này.
Người khác nói:
- Thưa Tôn giả, khi tôi đang canh chừng
ruộng mía, tôi có cúng một cây mía cho một Sa-môn.
- Tôi cúng một timbaràsaka.
- Một elàluka.
- Một phàrusaka.
- Tôi cúng một nắm củ cải.
Tất cả đều kết luận: "Bằng cách ấy
chúng tôi đạt được quả phước".
Tôn giả trở về bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, có phải người được sanh cõi trời chỉ vì đã nói
thật, hay đã chế ngự cơn giận, hay bố thí một nắm đậu.v.v..?
- Vì sao ông hỏi ta điều ấy? Tất cả
thiên thần đã chẳng kể rõ cho ông sao?
- Thưa vâng, con tin rằng chỉ vài điều
thiện nhỏ như thế cũng đủ sanh thiên.
Phật dạy:
- Này Mục-liên, chỉ với lời nói thật,
chỉ với việc chế ngự cơn giận, hay tặng một quà nhỏ, người được sanh thiên.
Ngài nói kệ:
(224) Nói thật, không phẫn nộ,
Của ít, thí người xin,
Nhờ ba việc lành này,
Người đến gần thiên giới.
5. Bà La Môn Ðón Phật Như Con
Bậc hiền không hại ai ...
Câu chuyện này được kể lại khi đức Phật
ở Anjanavana gần Sàketa, liên quan đến câu hỏi của chư
Tỳ-kheo.
Một hôm, đức Phật cùng chư Tăng đi vào Sàketa khất thực, một người Bà-la-môn ở
trong thành nhìn thấy đấng Thập Lực đang đi vào cổng thành, ông ta quỳ xuống ôm
chân Phật kêu lên:
- Con thân yêu! Bổn phận con cái là
chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già, sao lâu quá chúng ta không gặp con? Ðây là lần
đầu cha mới gặp, hãy về thăm mẹ con đi.
Phật đi theo, ông lão đưa Phật về nhà,
ngồi vào chỗ soạn sẵn, với chư Tăng. Vợ người Bà-la-môn đến gặp Phật, gieo
người dưới chân Ngài nói:
- Con ơi! Bấy lâu nay con ở đâu? Không
ai chăm sóc cha mẹ khi tuổi già.
Bà kêu con trai, con gái ra chào Phật
và nói:
- Hãy đi chào anh con.
Vui mừng hân hoan, người Bà-la-môn và
vợ cúng dường thức ăn cho Phật và Tăng chúng, thỉnh cầu;
- Bạch Thế Tôn, hãy thọ trai ở đây suốt
đời.
Phật trả lời:
- Chư Phật không bao giờ thọ trai ở một
nơi cố định.
- Như thế, xin Ngài cho chúng con biết
được người nào mời thọ trai.
Từ đó, đức Phật bảo người đến thỉnh
Ngài thọ trai rằng: "Hãy bảo cho Bà-la-môn đó". Và họ đến nói với
ông:
- Ngày mai chúng tôi thỉnh Phật thọ
trai.
Người Bà-la-môn sẽ đem cơm canh từ nhà
mình đến chỗ nào có đức Phật. Khi không ai mời, Phật dùng bữa tại nhà ông. Cả
hai vợ chồng thường xuyên cúng dường Phật và nghe pháp, qua thời gian đều chứng
Tam quả.
Các Tỳ-kheo bàn tán ở Pháp đường:
- Chư hiền, người Bà-la-môn biết chắc
chắn rằng phụ thân đức Như Lai là vua Tịnh Phạn, và mẹ Ngài là hoàng hậu Ma-da.
Dù vậy, cả hai ông bà đều gọi Như Lai là "Con chúng ta" và Phật chấp
nhận lối xưng hô ấy. Chuyện này là thế nào?
Ðức Phật nghe việc này, Ngài dạy:
- Này các Tỳ-kheo, hai vợ chồng
Bà-la-môn đều có ý xem Ta như con khi họ gọi Ta là con.
Ngài nói về quá khứ:
- Thời quá khứ, Bà-la-môn ấy là cha của
Ta trong năm trăm kiếp, là chú của Ta trong năm trăm kiếp, là ông nội của Ta
năm trăm kiếp, bà vợ là mẹ của Ta năm trăm kiếp, là dì của Ta năm trăm kiếp, bà
ngoại của Ta năm trăm kiếp. Ta được nuôi dưỡng suốt một ngàn năm trăm kiếp bên
người chồng và một ngàn năm trăm kiếp bên người vợ.
Ðể giải thích việc ba ngàn đời là con
cháu của họ, Phật nói kệ:
Khi
ý tưởng hân hoan,
Và trái tim tin tưởng,
Ta có thể tin vào,
Người mới gặp lần đầu.
Qua liên hệ quá, hiện,
Lòng yêu thương khởi lên,
Như sen nhô trên nước.
Ba tháng ở tại Sàketa, đức Phật thường lui tới nhà
Bà-la-môn ấy để thọ trai, sau ba tháng, họ chứng quả A-la-hán và nhập Niết-bàn.
Mọi người tỏ vẻ kính trọng thi hài họ, đặt lên giàn cây khiêng đi. Nghe tin
rằng họ đã là mẹ và cha của đức Thế Tôn, dân chúng đi theo đám tang rất đông.
Ðức Phật đến một giảng đường gần nơi hỏa táng, chờ ở đấy. Mọi người đến đảnh lễ
Phật thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn, xin đừng buồn vì song
thân qua đời.
Họ tìm cách an ủi Ngài. Thay vì quở họ
đừng nói thế, đức Thế Tôn quan sát tâm tư mọi người và nói bài pháp tương ứng
với trường hợp đặc biệt này, đọc kinh Jarà
như sau:
Ðời
sống thật ngắn ngủi.
Một trăm năm chưa qua,
Người ta đã phải chết.
Dù ai có sống lâu,
Rồi cũng sẽ chết già.
Các Tỳ-kheo, không biết rằng người
Bà-la-môn và vợ đã nhập Niết-bàn, hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn, họ sẽ tái sanh nơi đâu?
- Này các Tỳ-kheo, trường hợp của các
A-la-hán thánh nhân như họ không có kiếp sau. Họ đã đạt đến Ðại Niết-bàn, cõi
bất tử, vĩnh hằng.
Ngài nói Pháp Cú:
(225) Bậc hiền không hại ai,
Thân thường được chế ngự,
Ðạt được cảnh bất tử,
Ðến đây, không ưu sầu.
6. Có Phải Người Tặng Quà Làm Nên Quà Tặng?
Những người thường giác tỉnh ...
Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế
Tôn ở tại núi Linh Thứu, liên quan đến Punna,
đầy tớ gái của Trưởng giả thành Vương Xá.
Có một ngày, Punna phải giã gạo rất nhiều từ sáng sớm đến tối mịt, đốt
đèn lên làm cũng không hết việc. Cuối cùng mệt quá, cô bước ra ngoài nghỉ một
lát, thân thể ướt đẫm mồ hôi. Bấy giờ thần Dabba
the Malla có nhiệm vụ đưa chư Tỳ-kheo về chỗ nghỉ. Sau khi nghe
pháp, ông dùng thần thông làm ngón tay sáng lên như một ngọn đèn và đi trước
dẫn đường, các Tỳ-kheo theo sau.
Ánh sáng khiến Punna chú ý đến các Sa-môn đang đi trên
đường núi. Cô nghĩ thầm: "Mình làm thân ở đợ nên giờ này còn chưa được
ngủ. Còn các Tỳ-kheo tôn kính kia sao không ngủ được?" Và cô đi đến kết
luận: "Chắc có thầy nào đau ốm hay bị rắn cắn gì đây?".
Sáng sớm hôm sau, Punna lấy một ít cám, nhồi với nước lạnh,
nắn bánh và đem nướng. Sau khi nướng xong, cô đem bánh, nước uống, đi ra bờ
sông tắm, dự định sẽ ăn bánh trên đường đi. Lúc ấy, đức Phật cũng đi trên đường
ấy, vào làng để khất thực. Punna thấy
Ngài, thầm nghĩ: "Có mấy hôm gặp Phật, ta không có gì để cúng dường, hoặc
có thức ăn lại không gặp Phật. Hôm nay gặp Phật lại là lúc mình có sẵn bánh
đây. Nếu Ngài không để ý bánh ngon hay dở, mình sẽ cúng dường Ngài". Và cô
đặt bình nước xuống bên đường, chào đức Phật và thưa:
- Bạch Thế Tôn, xin nhận phẩm vật đơn
sơ này và ban phước cho con.
Phật nhìn sang A-nan, Tôn giả cầm bát
vốn là quà tặng của một đại vương, trao cho Phật. Phật đưa bát và nhận bánh cám
nướng. Punna đảnh lễ Phật, năm
vóc sát đất và bạch:
- Bạch Thế Tôn, xin cho chân lý Ngài
chứng ngộ, con cũng được dự phần.
- Con sẽ được như vậy.
Và đứng ngay tại chỗ, Thế Tôn nói lời
chúc phúc. Nhưng Punna vẫn nghĩ:
"Mặc dù Thế Tôn ban phước cho ta khi Ngài nhận bánh nhưng chắc Ngài không
ăn. Chắc Ngài cầm nó đi một quãng đường rồi ném cho quạ, cho chó. Rồi Ngài đến
nhà một ông hoàng hay vị đế vương nào đó, nhận thức ăn thượng vị".
Ðức Phật biết Punna nghĩ như thế nên Ngài nhìn A-nan, tỏ
dấu muốn ngồi. Tôn giả trải tọa cụ, đức Phật ngồi xuống ngoài cổng thành và ăn
bánh nướng. Chư thiên các tầng trời bèn đổ mật ong (thức ăn thích hợp cho cả
trời lẫn người trên khắp các cõi nước) vào chiếc bánh khô cứng của Punna. Punnà đứng nhìn Ngài thọ thực. Khi
Thế Tôn ăn xong, A-nan dâng nước. Vào cuối bữa ăn sáng này, Thế Tôn quở Punnà:
- Này Punna,
tại sao người phỉ báng đồ đệ Ta?
- Bạch Thế Tôn, con đâu có.
- Vậy ngươi nói gì khi thấy họ?
- Bạch Thế Tôn, con nghĩ đơn giản rằng:
"Con bị bắt buộc làm việc nên không đi ngủ được, còn các Sa-môn tôn kính
kia vì sao không ngủ? Có thể một vài vị bị bệnh hoặc rắn cắn chi đây?"
Thế Tôn nghe xong, dạy Punnà:
- Này Punnà,
trường hợp ngươi khổ sở vì không được ngủ. Nhưng các đệ tử của Ta luôn luôn
tỉnh giấc nên không ngủ.
Ngài nói kệ:
(226) Những người thường giác tỉnh,
Ngày đêm siêng tu học,
Chuyên tâm hướng Niết-bàn,
Mọi lậu hoặc được tiêu.
Nghe xong, Punnà liền chứng Sơ quả, hội chúng cũng được lợi ích.
Thế Tôn về đến tinh xá, các Tỳ-kheo bàn
tán về việc ban sáng như sau:
- Chư hiền, chắc đấng Thế Tôn đã ăn
sáng khó nuốt lắm với chiếc bánh của Punnà
làm bằng bột cám và nước bằng than.
Thế Tôn đến gần, hỏi các thầy:
- Các Tỳ-kheo, các ông tụ họp ở đây nói
chuyện gì thế?
Khi nghe kể lại, Ngài nói:
- Này Tỳ-kheo, đây không phải là lần
đầu Ta ăn như thế, sự việc này cũng đã xảy ra vào thời quá khứ.
Ngài nói kệ:
-
Cỏ thừa ngươi thường ăn,
Váng cháo tấm ngươi uống
Ấy thức ăn ngày trước
Sao giờ ngươi chẳng ăn?
-
Chưa rành giòng dõi xuất thân,
Thưa Ngài váng cháo tấm ăn no lòng.
Còn con, ngựa giống ngựa nòi
Ngài, con đều biết, cháo kia đâu thèm.
(Trích đoạn của
truyện tiền thân)
Và Ngài kể lại chuyện tiền thân Kundakasimdhavapotaka.
7. Không Có Gì Quá Nhiều, Quá Ít.
A-tu-la nên biết ...
Câu chuyện này xảy ra khi đức Phật ở
tại Kỳ Viên, liên hệ đến nam cư sĩ Atula.
Atula (Tu-lại) là một thiện tín sống ở
Xá-vệ, và có một nhóm bạn năm trăm Phật tử. Một ngày nọ ông dắt cả năm trăm
người đi đến tinh xá nghe pháp. Ðầu tiên họ đến bên Tôn giả Ly-bà-đa (Revata), cung kính đảnh lễ và ngồi một
bên. Tôn giả là người ưa độc cư, yêu thích cô độc như một con sư tử yêu thích
cô đơn, nên Ngài không nói gì với họ.
Tu-lại nghĩ thầm: "Tôn giả chẳng
nói năng chi". Cả nhóm đứng dậy đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, và cung
kính đứng bên. Tôn giả hỏi:
- Các ông đến gặp ta có chuyện gì?
Tu-lại thưa:
- Bạch Tôn giả, con đưa các bạn đi nghe
pháp và đã gặp ngài Ly-bà-đa. Nhưng Ngài chẳng nói gì, nên con bất mãn và đến
đây. Xin Tôn giả thuyết pháp cho chúng con.
- Tốt lắm. Các ông hãy ngồi xuống.
Và Tôn giả Xá-lợi-phất giảng giải về
A-tỳ-đàm tràng giang đại hải.
Tu-lại nghĩ thầm: "A-tỳ-đàm rất
khó hiểu, Tôn giả chỉ giảng giải pháp ấy cho ta quá dài, điều ấy đâu có ích lợi
gì?" Và ông bực bội dẫn chúng bạn đi đến chỗ Tôn giả A-nan. Tôn giả
hỏi: - Có việc gì thế cư sĩ?
Tu-lại thưa:
- Thưa Tôn giả, chúng con đến chỗ Ngài
Ly-bà-đa mong được nghe pháp. Tôn giả chẳng nói lời nào. Chúng con đến chỗ Tôn
giả Xá-lợi-phất, và Ngài dạy quá nhiều về A-tỳ-đàm với tất cả chi tiết. Chúng
con chẳng hiểu gì cả và buồn bực Tôn giả ấy, nên đến đây. Xin Tôn giả thuyết
pháp cho chúng con.
- Tốt lắm, hãy ngồi xuống và lắng nghe.
Tôn giả nói pháp cho họ, ngắn gọn và dễ
hiểu. Nhưng họ cũng bực tức, bỏ đi và đến chỗ Thế Tôn đảnh lễ rồi lui ngồi một
bên. Phật hỏi:
- Vì sao các ông đến đây?
- Bạch Thế Tôn, chúng con nghe pháp.
- Nhưng các ông đã nghe rồi.
- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Ly-bà-đa chẳng
nói lời nào, Tôn giả Xá-lợi-phất giảng dạy quá nhiều, Tôn giả A-nan lại nói
ngắn quá, chúng con không vui nên đến đây.
Phật nghe xong và quở:
- Này Tu-lại, từ xưa đến nay, người ta
luôn chê bai. Người không nói, người nói nhiều, người nói ít đều bị chê, không
ai hoàn toàn được khen, cũng không ai hoàn toàn bị chê. Ngay cả các bậc Ðế
vương cũng được người khen kẻ chê. Ngay cả đại địa, mặt trời, mặt trăng, ngay
cả một vị Phật, ngồi giữa tứ chúng mà thuyết pháp cũng có người khen kẻ chê.
Lời khen chê của người ngu không quan trọng. Nhưng khi người học thức, thông
minh khen hay chê, đó mới là đích thực.
Ngài nói kệ:
(227) A-tu-la nên biết,
Xưa vậy, nay cũng vậy,
Ngồi im, bị người chê,
Nói nhiều, bị người chê,
Nói vừa phải bị chê,
Làm người không bị chê
Thật khó tìm ở đời.
(228) Xưa, vị lai và nay,
Ðâu có sự kiện này,
Người hoàn toàn bị chê,
Người trọn vẹn được khen.
(229) Sáng sáng, thẩm sát kỹ,
Bậc có trí tán thán,
Bậc trí không tỳ vết,
Ðầy đủ giới, định, tuệ.
(230) Danh sáng như vàng ròng,
Ai dám chê vị ấy?
Chư thiên phải khen thưởng,
Phạm thiên cũng tán dương.
8. Lục Quần Tỳ Kheo
Giữ thân đừng phẫn nộ ...
Câu chuyện này xảy ra khi Thế Tôn ở tại
Trúc Lâm, liên quan đến Lục quần Tỳ-kheo.
Ngày nọ, nhóm Lục quần Tỳ-kheo mang
guốc gỗ, hai tay cầm gậy khua lóc cóc, đi lên đi xuống rầm rầm trên một phiến
đá. Phật nghe tiếng lốp bốp, mới hỏi Ngài A-nan:
- Này A-nan! Tiếng gì thế?
Tôn giả thưa:
- Bạch Thế Tôn, Lục quần Tỳ-kheo mang
guốc gỗ, đi tới đi lui nên gây ra tiếng ấy.
Nghe thế, Phật dạy:
- Một Tỳ-kheo phải kiểm soát tư tưởng,
lời nói, và hành động của mình.
Ngài nói kệ:
(231) Giữ thân, đừng phẫn nộ,
Phòng thân, khéo bảo vệ,
Từ bỏ thân làm ác,
Với thân, làm hạnh lành.
(232) Giữ lời, đừng phẫn nộ,
Phòng lời, khéo bảo vệ
Từ bỏ lời thô ác,
Với lời, nói điều lành.
(233) Giữ ý đừng phẫn nộ,
Phòng ý, khéo bảo vệ,
Từ bỏ ý nghĩ ác,
Với ý, nghĩ hạnh lành.
(234) Bậc trí bảo vệ thân,
Bảo vệ luôn lời nói,
Bảo vệ cả tâm tư,
Ba nghiệp khéo bảo vệ.
--ooOoo--
Ðầu trang | Mục lục
| 01a | 01b | 01c | 01d | 02a | 02b | 03 | 04a | 04b
| 05a | 05b | 06 | 07 | 08
| 09 |
10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15
| 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21
| 22 | 23 | 24 | 25 | 26a
| 26b | 26c
[Trở về trang Thư Mục]
updated: 12-03-2002