Lấy hận diệt hận thù,
Đời này không có được.
Không hận diệt hận thù
Là định luật ngàn xưa.
Kinh Pháp cú (Kệ số 5)
Vào năm 1984, lần đầu tiên khi tôi hành thiền dưới sự hướng dẫn của ngài
Sayadaw U Pandita, có một lúc tôi đã phải đối diện với nhiều khó khăn
bởi những kỷ niệm đau buồn nằm sâu trong ký ức. Chúng là những hồi ức về
tất cả những gì sai quấy tôi đã làm trong quá khứ, như là những thái độ
hư đốn khi còn bé, những lúc nói dối vì một lý do rất “chính đáng”,
những khi tham giữ một điều gì trong khi tôi có thể dễ dàng buông bỏ...
Tất cả những việc ấy bỗng dưng trở lại ám ảnh tôi. Tôi không muốn kể cho
ngài Sayadaw nghe, nhưng cuối cùng tôi cũng đã phải trình bày với ngài.
Tôi thưa: “Thầy biết không, con cứ hết nghĩ việc này đến việc khác, rồi
việc khác, rồi lại việc khác - về tất cả những việc xấu xa mà con đã
từng làm trong quá khứ. Con cảm thấy hối hận. Con thấy chán nản. Con
buồn khổ lắm.”
Ngài U Pandita nhìn tôi và hỏi: “Thế cô có nhìn thấy được sự thật về con
người cô hay chưa?” Câu hỏi của ông làm tôi khá sửng sờ. Mặc dù lúc đó
tôi đang mang một tâm trạng tự ti, tự trách, nhưng trong lời ông nói có
một cái gì đó khiến tôi muốn cãi lại. Tôi tự nói thầm: “Không, con không
thấy được một sự thật nào về con hết!” Và rồi ông chỉ đơn giản khuyên:
“Đừng nghĩ gì về những điều đó nữa.”
Về sau này, tôi mới hiểu được tuệ giác trong câu trả lời của ông. Có ai
trong chúng ta mà lại chưa từng làm một điều gì có hại cho người khác,
cho những sinh vật khác, hoặc là cho chính quả đất này? Những hành động
phát xuất từ một tâm sân hận chắc chắn sẽ làm hại người khác, cũng như
sẽ có hại cho chính ta. Sự sân hận thường được kinh nghiệm qua nhiều
hình thái khác nhau - oán giận, sợ hãi, tội lỗi, nóng nảy, buồn phiền,
thất vọng, chán nản, và lo âu. Vì sân hận đối nghịch với tình thương,
nên chúng cũng được xem như “kẻ thù xa” của tâm từ.
Kẻ thù gần của tâm từ, tức tham ái, là một chướng ngại rất vi tế, vì nó
có thể tạo cho ta một sự thỏa mãn giả tạo. Ngược lại, những trạng thái
của sân hận rất là khó chịu, chúng đốt cháy ta và xâu xé thân tâm ta ra
thành từng mảnh. Đức Phật dạy, sân hận tuy có thể mang đến những hậu quả
tai hại lớn, nhưng ta có thể đối trị dễ dàng hơn. Chúng gây tai hại lớn
vì chúng xúi giục ta bạo động, có những hành động bất thiện gây nguy
hiểm cho mình và người khác. Tuy vậy, nỗi đau của chúng lại rất rõ ràng,
cụ thể và dễ cảm nhận. Và cũng vì khổ đau của chúng gây nên rất rõ ràng,
nên tự nhiên bao giờ ta cũng muốn buông bỏ chúng.
Năng lực của sân hận được biểu lộ qua hai phương diện. Một là hướng
ngoại, như là sự bực tức, một cơn giận dữ. Trạng thái này có rất nhiều
năng lượng, mãnh liệt và bộc lộ ra bên ngoài. Còn một mặt khác là hướng
nội. Sân hận được kinh nghiệm bằng sự giữ lại bên trong, như là khi ta
buồn chán, sợ hãi, hoặc là tuyệt vọng. Trong trường hợp này, năng lượng
của sân hận lại là sự tê liệt và chết cứng. Nhưng cho dù chúng ta có
hướng sự sân hận về mình hay người khác, dù ta có giữ nó lại trong tâm
hay bộc lộ ra bên ngoài, chúng cũng chỉ là những hình thái khác nhau của
cùng một trạng thái tâm thức mà thôi.
Một trong những hình thức đem sự sân hận hướng về chính mình là mặc cảm
tội lỗi. Như kinh nghiệm tôi có trong thời gian tu tập với ngài U
Pandita. Khi sự hành thiền của ta được thâm sâu, thường thường tự nhiên
ta sẽ quán xét lại hết những hành động sai lầm của mình trong quá khứ.
Những chuyện này không cần ai mời gọi, chúng cũng cứ tự động khơi lên.
Có người nhớ lại là mình đã làm một người bạn thất vọng vì đã không đến
dự buổi tiệc sinh nhật 16 tuổi của cô, vào hai mươi sáu năm về trước,
hoặc một câu trả lời cay cú đối với người hôn phối, mà người ấy không
còn trong cuộc đời mình nữa. Có người đau khổ vì một sự lường gạt chưa
ai biết đến, hoặc nỗi sợ vì một lời nói dối trong tình bạn. Điều quan
trọng là ta phải biết thừa nhận các việc đó, tiếp xúc với nỗi đau ấy, và
rồi, như ngài Sayadaw khuyên tôi, buông bỏ chúng đi - “Đừng nghĩ gì về
những điều đó nữa.” Bằng không, chúng ta chỉ vô tình củng cố thêm một
hình ảnh rất sai lầm về con người thật của mình mà thôi.
Trong tâm lý học Phật giáo có một sự phân biệt khá lý thú giữa mặc cảm
tội lỗi và sự hổ thẹn. Mặc cảm tội lỗi, hay sự ghét bỏ, thường chỉa mũi
dùi về chính mình. Nó xâu xé thân tâm ta ra thành từng mảnh. Khi có một
mặc cảm tội lỗi lớn, ta sẽ không còn đủ năng lượng để chuyển hóa nó nữa.
Ta bị chính mặc cảm ấy chế ngự, làm tiêu hao hết năng lực của ta. Ta cảm
thấy rất cô đơn và chỉ còn biết nghĩ đến sự vô dụng và bất thiện của
mình mà thôi: “Tôi là người tồi nhất trên trái đất này. Chỉ có tôi mới
có thể làm ra những chuyện xấu xa đến như vậy!” Nhưng thật ra chính thái
độ ấy lại rất là vị kỷ, vì ta chỉ biết nghĩ đến mình như là trung tâm
của vũ trụ này vậy.
Ngược lại, sự hổ thẹn là một trạng thái chấp nhận. Chúng ta ý thức rằng
mình đã làm hay nói một điều gì đó bất thiện và gây ra khổ đau. Bây giờ
ta cảm nhận nỗi đau ấy. Nhưng điều quan trọng là sự hổ thẹn có công năng
giải thoát ta ra khỏi ngục tù của quá khứ. Nó ban cho ta một số năng
lượng, giúp ta có thể đứng dậy và bước đi, và tự hứa rằng mình sẽ không
bao giờ tái phạm lỗi lầm ấy nữa.
Mặc cảm tội lỗi đôi khi lại rất gian xảo. Ta có thể cảm thấy nó như là
một sức mạnh chính đáng có thể thúc đẩy ta hành động tốt lành, phục vụ
cho người khác. Nhưng thật ra, mặc cảm tội lỗi không hoạt động như vậy.
Khi chúng ta bị thúc đẩy vì tội lỗi thì chính mặc cảm ấy, nỗi đau ấy,
đóng vai trò chánh, làm chủ hành động của ta. Cũng như khi ta bị một cơn
giận sai sử, thì sự nổi giận ấy là ông chủ. Và khi những cảm xúc ấy đóng
vai trò chủ yếu, ta dễ dàng quên đi người chung quanh, không còn biết
đến họ nữa. Ta trở nên rất vị kỷ. Điều đó sẽ ngăn trở, không cho phép ta
suy xét và tiếp xúc một cách sáng suốt. Cảm xúc chế ngự tâm trí ta. Cuối
cùng, với mặc cảm tội lỗi, ta chỉ biết phục vụ cho chính mình mà thôi.
Ý niệm sai lầm về một “cái tôi” cố định, không thay đổi, cũng có thể
nuôi dưỡng sân hận qua hình thức của sự tự ghét bỏ hoặc tự phê phán. Khi
chúng ta cho rằng “cái tôi” này là thật, không bao giờ đổi thay, ta sẽ
dễ dàng chấp nhận những tập quán, thói quen của mình như là bản tánh tự
nhiên. Thiền quán sẽ giúp ta phá vỡ ý niệm sai lầm này. Nó giúp ta thấy
được tự tánh vô ngã của những năng lực khởi lên rồi diệt đi trong ta. Ví
dụ, ta có thể kinh nghiệm được sân hận, tội lỗi và phiền muộn như những
năng lực tự động đến và đi trong tâm, mà ta không làm gì hết. Sân hận
như là một cơn dông tố, nó kéo đến rồi kéo đi. Nó không phải là cái tôi,
là của tôi; cũng không phải là bạn, hay của bạn. Ý thức được sự trống
không này, ta sẽ nhìn thấy được mình và người khác chính xác hơn. Và từ
đó mà tâm từ được phát sinh.
Khi đức Đạt-lai Lạt-ma viếng thăm trung tâm Insight Meditation Society
vào năm 1979, có người hỏi ông: “Tôi là một người mới học thiền, và tôi
cảm thấy mình là một người không có chút giá trị nào hết. Ngài có thể
nói gì về vấn đề này không?” Đức Đạt-lai Lạt-ma đáp: “Anh đừng bao giờ
nghĩ như vậy. Điều ấy hoàn toàn sai. Anh có khả năng suy nghĩ, đó là một
năng lực của tâm. Và thật ra anh chỉ cần có bấy nhiêu thôi là đủ rồi.”
Ngài nhận biết trong chúng ta ai cũng có khả năng giác ngộ. Và vì thế,
đừng bao giờ tự hạ nhân phẩm của mình bằng cách cho rằng ta không có giá
trị gì hết.
Đôi khi chúng ta cũng cần phải được nhắc nhở về tiềm năng giác ngộ này,
để có thể thấy rõ mình hơn. Nhiều lúc vì vướng mắc trong sân hận mà ta
quên mất đi nhận thức ấy. Có lần, tôi đến gặp ngài S. N. Goenka, vị
thiền sư đầu tiên của tôi, và bực tức tra hỏi ông: “ Lẽ nào không còn
một phương pháp thiền tập nào dễ dàng hơn sao?” Tôi rất ghét, và không
chịu nổi những cơn nhức nhối, đau đớn trong lúc ngồi thiền nữa. Tôi
nghĩ, lúc ấy tôi thật sự tin rằng ông biết câu trả lời, ông biết một
phương pháp dễ dàng hơn, nhưng cố ý giấu để cho tôi phải chịu khổ.
Bây giờ nhớ lại tôi cảm thấy thật buồn cười, vì ngài Goenka là một người
có lòng từ bi rất lớn. Sau khi nghe tôi hỏi, ông chỉ đứng yên lặng nhìn
tôi thật lâu. Tôi như rơi vào trong đôi mắt sâu của ông, chúng tỏa chiếu
một cái nhìn mênh mông, rộng lớn, trong đó có phản ảnh cả cái khả năng
giải thoát của chính tôi. Trong cái nhìn ấy, của cả một đời công phu tu
tập, thì những sự đau lưng, đau đầu gối, những cơn buồn ngủ của tôi...
thật nhỏ nhoi và vô nghĩa. Chúng chẳng có gì là quan trọng hết. Khi
chúng ta không thấy được một khung trời bao la, ta sẽ dễ bị vướng mắc
vào những khó khăn nhỏ nhặt tạm thời. Và khi chúng ta bị kẹt trong sân
hận, ta sẽ quên đi khả năng thương yêu của mình.
Có lần, tôi nhận được một lá thư giận dữ đầy trách móc. Đó là một lá thư
mà chúng ta hẳn không ai muốn nhận. Nó liệt kê những vấn đề và hoàn cảnh
đã xảy ra. Trong thư viết: “Lần đó là lỗi của cô, và lần đó là lỗi của
cô, và lần đó cũng là lỗi của cô, và lần đó nữa cũng là lỗi của cô...”
Lá thư không được dễ thương lắm. Cả ngày hôm ấy, trong đầu tôi cứ bận
rộn thảo ra một lá thư để trả lời cho những lời buộc tội ấy. Chung chung
thì câu trả lời của tôi cũng giống như thế này: “Thật ra thì lần đó
không phải là lỗi của tôi đâu. Lần đó là lỗi của chị, và lần đó cũng là
lỗi của chị, và lần đó nữa cũng là lỗi của chị...” Và tôi trọn ngày chỉ
bận rộn suy nghĩ có bấy nhiêu thôi.
Trong những cơn giận “chính đáng” ấy, chúng ta thường đúc kết lại và tạo
nên hai hình ảnh rất là cách biệt, “tôi” và “người kia”. Một người đang
sân hận thì tội nghiệp lắm. Trong giây phút ấy họ không còn có khả năng
thương yêu và nối liền với người khác được nữa. Nhưng ta phải làm gì đây
trong những hoàn cảnh ấy?
Trong xã hội ngày nay, chúng ta thường hay bối rối về vấn đề phải đối
phó với cơn giận của mình thế nào cho phải. Ví dụ, chúng ta chưa hiểu
được sự khác biệt giữa sự cảm nhận cơn giận và sự bộc lộ cơn giận của
mình. Khi bước chân vào con đường thiền tập, việc đầu tiên là ta phải
biết cởi mở với tất cả những gì đang xảy ra. Ta ghi nhận chúng, ý thức
chúng, và chấp nhận mọi cảm xúc đang có mặt, không phân biệt. Trong cuộc
sống hằng ngày, chúng ta thường có thói quen tự lừa dối. Ta loại bỏ
những gì không ưa thích ra khỏi nhận thức, hoặc là đè nén chúng xuống.
Nếu ta biết ý thức được điều ấy và cởi mở với sự sân hận, điều đó sẽ có
tác dụng chữa thương rất lớn. Nhưng trong tiến trình ấy, đôi khi ta phải
trả một giá rất đắt. Ta có thể bị sự sân hận kéo đi thật xa vì thiếu
chánh niệm. Ta trở nên yếu đuối và bị chúng sai sử mà không hay.
Những nhà tâm lý học ngày nay chứng minh rằng, trong cuộc sống hằng ngày
nếu ta thường xuyên bộc lộ cơn giận của mình, điều đó sẽ dẫn đến một
thói quen dễ dàng bộc lộ cơn giận. Chúng ta nghĩ, mình có một số phiền
giận nằm bên trong, và nếu ta không muốn giữ nó ở trong, ta phải mang nó
ra ngoài. Như thể là, khi nó ở bên ngoài thì sẽ không còn ở bên trong
nữa vậy. Sân hận được ta xem như một khối thực thể đặc cứng. Nhưng khi
quán chiếu cho sâu, ta sẽ khám phá rằng sân hận không phải là một khối
đặc nào hết. Nó là một hiện tượng duyên khởi, tùy theo điều kiện mà sinh
lên rồi diệt đi. Điều quan trọng ta phải nhớ là, mỗi khi ta nhận lấy
những trạng thái tạm thời này là mình, ta sẽ bị chúng sai sử, thúc đẩy
phải có những hành động gây hại cho mình và người khác. Sự cởi mở của ta
đối với cơn giận cần phải được đặt nền tảng trên sự vô chấp, không đồng
hóa tự thân với nó. Khi ý thức rằng cơn giận chỉ là trạng thái nhất thời
trong tâm, ta sẽ không còn nhận chúng làm mình và không còn để chúng sai
sử nữa.
Sân hận là một cảm xúc rất phức tạp và có nhiều thành tố khác nhau. Nó
là sự thất vọng, sợ hãi, buồn chán... tất cả những sợi tơ cảm xúc ấy
quyện đan lại với nhau thành một mối. Cơn giận thường được biểu lộ ra
như một thực thể cứng chắc. Nhưng khi ta quán chiếu và thấy được những
khía cạnh khác nhau của cơn giận, ta sẽ hiểu được tự tánh của nó. Nó
cũng vô thường như bất cứ một hiện tượng nào khác. Nó sinh lên và diệt
đi như những ngọn sóng đến rồi đi. Tính chất của phiền giận là không
toại nguyện, không thể mang lại cho ta một hạnh phúc nào lâu dài. Ta
nhận thấy rằng, không có một cái “tôi” nào làm chủ cơn giận ấy. Nó không
khởi lên vì sự mong cầu hoặc theo ý muốn của ta. Nó khởi lên vì điều
kiện đầy đủ cho nó khởi lên, thế thôi. Cơn giận không phải là của ta,
không thuộc về ta. Ta không có một quyền hạn nào đối với nó hết. Chúng
ta không thể ngăn chận được một cơn giận khởi lên, nhưng ta có thể học
cách đối trị sao cho thật khôn khéo.
Nhìn cho kỹ, thật ra một năng lực sân hận cũng có những khía cạnh tích
cực của nó. Sân hận không phải là một trạng thái thụ động và ngồi yên tự
mãn. Nó tàng chứa một năng lượng khá mãnh liệt. Cơn giận có thể giúp ta
giải thoát được những trói buộc do những đòi hỏi vô lý của người khác.
Nó dạy cho ta biết nói “Không!” Vì vậy, sân hận cũng có thể giúp nâng
cao nhân phẩm của ta, giúp ta bớt nghe theo những đòi hỏi của thế giới
chung quanh, và trở về với tiếng nói chân thật của mình. Sân hận giúp ta
vạch những lằn mức giới hạn và thách đố những bất công. Sân hận không
bao giờ chịu chấp nhận một sự kiện nào là dĩ nhiên, một cách vô ý thức
hết.
Ngoài ra, phiền giận còn có một khả năng thẩm thấu xuyên qua lớp vỏ bên
ngoài của sự vật. Nó không chịu tiếp xúc hời hợt bên ngoài. Sân hận có
một năng lực chiếu soi, xuyên qua những gì quá rõ ràng, để tiếp xúc với
những gì sâu kín hơn. Vì lý do ấy mà sân hận có thể chuyển hóa thành tuệ
giác, vì tự tánh của nó có những đặc tính gần giống với trí tuệ.
Nhưng dầu sao, những khía cạnh bất thiện của sân hận là kinh khiếp lắm,
vượt trội hơn phần tích cực của nó nhiều. Đức Phật diễn tả như thế này:
“Sân hận, với nhân đầy độc tố, sự thiêu đốt cực độ, và sự ngọt ngào chết
người, các thầy hãy diệt trừ nó.” Mà thật vậy, nó ngọt ngào lắm chứ!
Nhưng sự ngọt ngào ấy, niềm thỏa thích do sự bộc lộ của một cơn giận đem
lại rất ngắn ngủi, mà sự tàn phá của nó rất lâu dài và sẽ hủy hoại chúng
ta.
Theo tâm lý học Phật giáo, một đặc tính của sân hận là sự hung bạo. Công
năng của sân hận là thiêu đốt hết tất cả, ngay chính những gì nuôi dưỡng
nó, giống như một trận cháy rừng. Nó tàn hoại tất cả, không để lại cho
ta một vật gì. Cũng như trận cháy rừng, tung hoành và man dại, sân hận
có thể đưa đẩy ta đến một hoàn cảnh hoàn toàn nằm ngoài dự tính. Và đặc
tính của sân hận còn là sự si mê. Khi chúng ta đang giận, ta không còn
thấy có một sự chọn lựa nào khác hơn, ta chỉ biết đập phá cho thỏa lòng
mà thôi.
Sân hận được biểu lộ ra ngoài bằng sự thù nghịch và đàn áp. Tâm ta trở
nên rất hẹp hòi và nhỏ nhoi. Ta đóng khung một người hay một vật nào
lại, bắt nó phải trở nên cố định. Cái nhìn của ta chỉ còn có một chiều.
Ta không còn thấy một đường lối nào khác hơn, tin chắc rằng người ấy hay
việc ấy sẽ đời đời y như vậy, không bao giờ thay đổi. Sân hận vì thế mà
cứ nuôi dưỡng thêm sân hận. Ta bị kẹt trong một vòng luẩn quẩn không
thoát ra được. Ta có thể thấy được sự thật này qua những cuộc xung đột
sắc tộc, đấu tranh giai cấp, hay những cuộc chiến tranh giữa các quốc
gia, tôn giáo... Sự thù hận cũng có một điểm đặc biệt là nó có khả năng
gắn bó con người lại với nhau giống như tình thương vậy. Trong hận thù,
người ta lôi kéo nhau, đoàn kết nhau qua những cuộc trả thù bất tận,
không buông bỏ được, không thể dừng lại được. Kịch gia kiêm chính khách
Vaclav Havel cũng nhận thấy sự tương tự này giữa thù hận và tình thương.
Ông nói, “Ta gắn bó với người khác, lệ thuộc vào họ, và thật ra thì ta
còn trao cho người khác một phần con người của mình nữa... Người thù
ghét bao giờ cũng gắn bó với đối tượng thù ghét của họ.”
Vòng tròn thù hận ấy sẽ không bao giờ chấm dứt. Ta cảm thông với những
người bị trả thù, áp bức, nhưng rồi khi ta có được quyền hành, ta lại
cũng hành xử y như thế đối với người khác. Có người viết cho tôi một lá
thư buộc tội, và tôi buộc tội ngược lại người ấy.
Nhưng làm sao ta có thể buông xả được trong hoàn cảnh ấy? Làm sao ta có
thể hành động khác hơn? Thật ra, ta có thể tập chú ý vào nỗi khổ đang có
mặt trong ta và người khác hơn là vào cơn giận. Ta có thể tự hỏi: Thật
sự ta đang giận ai đây? Thường thường, cái mà ta giận chính là cơn giận
của người khác. Vì người khác bao giờ cũng chỉ là một công cụ để cho cơn
giận đi qua, xúi giục họ hành động thiếu khôn ngoan mà thôi. Chúng ta
đâu có giận cái miệng người phỉ báng ta, nhưng ta giận cái cơn giận đã
thúc đẩy họ làm như thế. Và một khi đem thù hận cộng vào với hận thù, ta
chỉ làm tăng thêm thù hận mà thôi.
Đức Phật dạy: “Không thể lấy hận thù để chấm dứt hận thù, chỉ có tình
thương mới chấm dứt được hận thù. Đó là luật của muôn đời.” Chúng ta chỉ
có thể chấm dứt vòng tròn hận thù này bằng cách thôi không để mình là
một tác nhân của sự thù ghét nữa. Ta biết, cuối cùng rồi ai cũng phải
nhận chịu nghiệp quả do chính mình gây ra. Nếu một người làm hại người
khác, họ sẽ nhận lãnh khổ đau. Và nếu ta làm hại người khác, ta phải
chịu khổ đau. Trong kinh Pháp cú (Dhammapada), đức Phật dạy: “Trong các
pháp, tâm dẫn đầu. Tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm
tạo nghiệp, nói năng hoặc hành động, khổ đau sẽ theo nghiệp kéo đến, như
bánh xe lăn theo vết chân của con bò kéo xe. Nếu ta đem tâm trong sạch
tạo nghiệp, nói năng hoặc hành động, hạnh phúc sẽ theo ta không rời xa,
như bóng theo hình.”
Hạnh phúc hay khổ đau đều hoàn toàn tùy thuộc vào hành động của ta.
Nhưng điều này không có nghĩa là ta cứ ngồi thích chí tự nghĩ: “Ngươi
hại ta thì thế nào rồi ngươi cũng sẽ bị hại, không kiếp này thì kiếp
tới!” Ta chỉ hiểu rằng mình không cần phải làm một tác nhân của hận thù,
nếu ai gây nên khổ đau thì người đó sẽ nhận lãnh khổ đau. Đó là một luật
chung không phân biệt và thiên vị một ai, kể cả chính ta.
Trong đêm thành đạo, lúc còn là một vị Bồ Tát, đức Phật ngồi dưới cội
cây bồ-đề, cương quyết sẽ không đứng dậy cho đến khi nào chứng được quả
giác ngộ. Khi ấy Ma vương, tức kẻ “phá hủy thiện nghiệp” và “phá hủy sự
sống”, thấy cơ đồ của mình đang bị lung lay trước sự chứng ngộ của đức
Phật, bèn tìm đủ mọi cách để cản trở ngài. Ma vương dùng đủ mọi thứ ái
dục, thù hận và sợ hãi để khuất phục đức Phật. Hắn biến hóa ra những
trận bão tố, sấm sét long trời lở đất. Nhưng đức Phật vẫn ngồi yên, tĩnh
lặng, không cử động, không hề sợ sệt.
Cuối cùng, Ma vương dùng đến một thử thách tối hậu là sự tự ngờ vực. Hắn
hỏi đức Phật: “Lấy quyền gì mà người ngồi đó để đeo đuổi chí nguyện ấy?
Tại sao người nghĩ là người có thể giác ngộ, giải thoát hoàn toàn?” Để
trả lời câu hỏi ấy, đức Phật chỉ đưa tay mình ra và chạm xuống mặt đất.
Ngài kêu gọi mặt đất minh chứng cho biết bao nhiêu kiếp qua, đức Phật đã
từng thực hành từ bi và kiên trì giới luật. Đời này sang đời khác, ngài
đã xây nên một ngọn sóng tốt lành cao vòi vọi, có thể cho phép ngài theo
đuổi mục tiêu giác ngộ.
Mỗi khi nghĩ đến luật nghiệp quả, karma, là tôi nhớ đến câu chuyện này.
Mặt đất này đang chứng minh cho tất cả chúng ta: Nếu ta gây khổ đau, ta
sẽ nhận lãnh khổ đau; nếu người khác gây khổ đau, họ sẽ nhận lãnh khổ
đau. Hiểu được sự thật này, ta sẽ có khả năng buông bỏ. Ta có thể tự do.
Cũng trong ngày tôi nhận được lá thư trách móc nặng nề ấy, khi tôi bị
những phản ứng khá mạnh, tình cờ có người bạn mời một vị Lạt-ma Tây Tạng
ghé sang thăm chúng tôi tại trung tâm Insight Meditation Society. Vị
Lạt-ma này đã sống trong một hang động trên rặng Hy-mã-lạp sơn trong
suốt mười lăm năm trời không bước ra ngoài. Ngài chuyên tu pháp nội hỏa,
tumo, có thể dùng tâm ý để làm tăng sức nóng trong cơ thể.
Người ta tìm đến hang động và thỉnh cầu ngài sang Hoa Kỳ để họ có thể
nghiên cứu và học hỏi thêm. Những khoa học gia đang tìm hiểu về thiền
tập mong muốn có những bằng chứng về ảnh hưởng cụ thể nào mà họ có thể
đo lường được. Và, làm tăng nhiệt độ của cơ thể bằng sự định tâm là một
hiệu quả mà ta có thể đo lường được! Vì có sự yêu cầu của chính đức
Đạt-lai Lạt-ma nên ngài đồng ý đi.
Vị Lạt-ma rời hang động và bay sang Boston. Từ phi trường, người ta đưa
ngài thẳng đến bệnh viện. Nơi đây, ngài ngồi thiền định nhiều ngày trong
khi các khoa học gia theo dõi thân nhiệt của ngài.
Một người bạn đã đưa vị Lạt-ma này sang Hoa Kỳ đề nghị ngài nên dành
chút thời gian ghé thăm trung tâm Insight Meditation Society, vì cũng
không xa Boston. Ngài nhận lời. Khi ngài vừa bước vào cửa trung tâm, câu
đầu tiên của ngài là: “Nơi đây có vẻ khác xa với những nơi khác của Hoa
Kỳ. Các ông làm gì ở đây?” Chúng tôi giải thích với ông, và cuối cùng
chúng tôi đã nói chuyện, trao đổi với ngài trọn cả buổi chiều.
Vị Lạt-ma, pháp sư của môn nội hỏa, tumo, có mang theo một thông dịch
viên trẻ tuổi khá lưu loát. Theo lời anh kể, vị Lạt-ma này là một nhân
vật được xem như khá phi thường trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng.
Ngài xuất gia khi tuổi đã lớn, so với pháp tu này thì bắt đầu hơi muộn.
Tuy vậy, ngài đã tiến được những bước rất xa trên con đường tu tập, mặc
dù ngài đã bỏ qua nhiều giai đoạn mà người ta cho là rất cần thiết cho
pháp tu này. Ngài chưa hề học hỏi hay thực tập những phương pháp cơ bản,
cần yếu để làm nền tảng cho những phương pháp thực tập khó khăn và cao
siêu hơn. Vì vậy, người Tây Tạng xem ngài là một trường hợp phi thường.
Chúng tôi hỏi vị Lạt-ma: “ Ngài có biết vì sao ngài có thể tiến bộ rất
xa trong sự tu tập, mặc dù ngài chưa hoàn tất những phương pháp cơ bản
thông thường?”
Ngài đáp: “Có chứ, tôi nghĩ là tôi biết. Khi tôi chưa xuất gia, tôi là
một người lính kháng chiến. Tôi thường bắt những tù binh, tra khảo và
giết họ. Cho đến một ngày, chính tôi bị phe bên kia bắt làm tù binh. Tôi
bị đánh đập, tra khảo và trải qua một giai đoạn khổ đau ghê gớm. Lúc đó
tôi tự hứa là mình sẽ không bao giờ thù hận người đã gây khổ cho mình.”
Vị Lạt-ma giải thích, ông thấy được hoàn cảnh của ông giống y như những
trường hợp đã nói trong kinh sách. Những gì ông phải lãnh chịu dưới tay
của phe đối nghịch chính là nghiệp báo ông đã gieo trồng qua những việc
làm trong quá khứ. Mặc dù lúc ấy chưa ý thức được điều đó, nhưng ngài
hiểu là không một ai có thể làm cho ngài đau khổ. Và ngài quyết định sẽ
không chế thêm dầu vào ngọn lửa thù hận, cho dù những đau đớn, cực hình
mà ngài đang lãnh chịu. Ngài nói với chúng tôi, ngài tin rằng chính
quyết định ấy đã giúp ngài có những tiến bộ phi thường trên đường tu tập
về sau.
Trong khi ngồi nghe ngài kể chuyện, tôi chợt nghĩ đến lá thư mà tôi đang
bận rộn soạn thảo trong đầu trọn ngày hôm ấy. Tôi muốn nói: “Lần đó là
lỗi của cô, và lần đó là lỗi của cô, và lần đó nữa cũng là lỗi của
cô...” Nhưng tôi chợt ý thức là mình không cần phải trả lời như vậy. Cám
ơn sự có mặt đúng lúc của vị Lạt-ma. Nó giúp tôi thấy rõ những gì một
người với một con tim bình thường có thể thật sự làm được. Tôi hiểu lời
dạy của đức Phật hơn: “Hận thù không bao giờ chấm dứt được hận thù.”
Không bao giờ! “Chỉ có tình thương mới có thể chấm dứt được hận thù.”
Những khi tâm ta đầy hận thù đối với người khác thì thật ra chính ta là
người đang khổ đau. Nhưng tìm cho được một nơi trong tâm ta biết tha
thứ, biết thương yêu, cũng không phải là chuyện dễ! Khả năng tha thứ và
buông bỏ cũng giống như một hình thức của cái chết vậy. Ta phải nói được
rằng: “Tôi không còn là con người ấy nữa. Và chị cũng không còn là con
người ấy nữa.” Sự tha thứ giúp ta tìm lại được một phần của con người
mình đã bị đánh mất trong biến cố đã qua. Và đôi khi, có thể một phần
nào khác trong ta phải chết đi, để ta có thể tiếp nhận lại được phần
năng lượng đã mất ấy.
Tất cả những kinh nghiệm này đều đang có mặt, nếu ta biết tiếp xúc với
những cảm xúc cho thật sâu sắc. Ta hãy tự quán chiếu: Ta đang chống đối
những gì? Và tại sao ta chống đối? Ta nên nhớ một điều quan trọng này:
Cảm xúc của ta không thể do một nguyên nhân duy nhất nào đem đến. Trong
một thế giới duyên sinh, không có sự việc nào tồn tại độc lập cả. Chúng
ta sống trong một thực tại duyên khởi, cái này có mặt vì cái kia có mặt,
hoàn cảnh hiện tại trong giờ phút này tùy thuộc vào tất cả những gì ta
đã tạo ra cho nó từ quá khứ.
Giả sử như giữa một căn phòng đông người, bỗng có một người đứng dậy làm
một số cử chỉ kỳ lạ nào đó. Có một số người cảm thấy thích thú. Có người
cảm thấy sợ sệt. Có người cảm thấy nổi giận. Người khác lại cảm thấy tức
cười. Không bao giờ có một hành động nào buộc phải có một phản ứng duy
nhất. Hoàn cảnh hiện tại thì như thế này, và đây là tất cả những gì
chính ta mang đến cho nó!
Vì vậy, chúng ta phải có trách nhiệm đối với tâm ý của mình. Hy vọng
rằng cuộc sống của bạn không chỉ là một hành trình nổi trôi, bấp bênh
theo những ngọn sóng nhấp nhô của những phản ứng khác nhau. Cuộc đời bạn
cần phải có một chí hướng, như là phát triển một con tim thương yêu. Đó
cũng là chìa khóa cho một lối sống giải thoát.
Nếu chúng ta có thể thấy rõ được rằng, tất cả những sự giận dữ, sợ hãi,
buồn chán, thất vọng và tự ti đều chỉ là những trạng thái của sân hận,
ta sẽ biết cách giải thoát. Nhưng giải thoát ở đây không có nghĩa là ta
sẽ không bao giờ kinh nghiệm chúng nữa. Giải thoát và tự do có nghĩa là
ta có thể thanh lọc chúng, ta có thể nhìn thấy chúng rõ ràng hơn, hiểu
chúng hơn, và không bị chúng sai sử nữa. Và với tuệ giác ấy, ta có thể
chấp nhận và chuyển hóa được tất cả.