Ta dạy có một điều và chỉ mỗi một điều mà thôi: đó là khổ đau và sự chấm
dứt khổ đau.
− Lời Phật dạy
Nhiều năm trước đây, khi tôi sống ở Ấn Độ và thực hành thiền tập tại
Bồ-đề Đạo tràng, tôi có đi với một người bạn sang Calcutta vài hôm. Đến
giờ trở về, chúng tôi mới biết là mình sắp trễ giờ xe lửa. Chỉ có một
cách duy nhất để ra ga kịp giờ là tìm một chiếc xe kéo. Xe kéo là một
loại xe rất thông dụng ở Ấn Độ. Tại những thành phố khác, xe kéo thường
được kéo bằng xe đạp hoặc xe gắn máy, nhưng ở Calcutta xe được kéo bằng
người chạy bộ. Mặc dù chúng tôi không thích ngồi trên xe để cho người
khác kéo, nhưng vì sợ trễ giờ nên chúng tôi không còn chọn lựa nào khác
hơn.
Người phu kéo xe đưa chúng tôi băng ngang qua những ngõ tắt, xuyên qua
các hẻm vắng tối om. Đột nhiên, một người đàn ông to lớn từ đâu xuất
hiện, tiến đến chỗ người phu kéo và chận đứng chiếc xe lại. Hắn nhìn
thấy tôi, nắm lấy tôi và cố lôi tôi ra khỏi xe. Tôi nhìn chung quanh tìm
người cứu giúp. Chung quanh tôi đâu đâu cũng có người, nhưng tôi không
thấy được gương mặt nào thân thiện.
Tôi tự nhủ: “Trời ơi, tên này sẽ lôi mình xuống và làm hại mình đây. Sau
đó hắn sẽ giết mình mà không một ai cứu giúp hết.” Nhưng người bạn tôi
ngồi cạnh bên trên xe, cố giúp tôi xô được tên say rượu ra xa, và bảo
người phu xe chạy nhanh đi. Chúng tôi thoát được nguy hiểm ấy và đến
trạm xe lửa đúng giờ.
Về đến Bồ-đề Đạo Tràng tôi vẫn còn cảm thấy run rẩy và tức giận. Tôi kể
cho vị thầy tôi nghe, ngài Munindra, về chuyện đã xảy ra. Ông nhìn tôi
và nói: “Sharon, với tất cả tâm từ bi của cô, đáng lẽ cô phải lấy cây dù
của cô, dùng hết sức mình mà đập lên đầu hắn mấy cái!”
Đôi khi chúng ta nghĩ, khi ta có một tâm bi, có một con tim rộng mở,
nghĩa là ta sẽ trở nên thụ động, cho phép người khác lợi dụng mình. Ta
lúc nào cũng nở nụ cười và mặc cho người khác muốn làm gì ta cũng được.
Nhưng tâm bi không phải là vậy. Ngược lại, tâm bi không hề có nghĩa là
yếu đuối. Nó là một sức mạnh phát sinh khi ta nhìn thấy được tự tánh khổ
đau của cuộc đời. Tâm bi cho phép ta nhìn thẳng vào khổ đau, dù là trong
ta hay trong người khác, không chút sợ hãi. Nó cho phép ta lên án những
bất công không chút do dự, và hành xử thích ứng với khả năng của mình.
Muốn phát triển tâm bi, tâm thứ hai trong Tứ vô lượng tâm, đức Phật dạy
ta phải biết sống với lòng thương xót đối với tất cả mọi người, mọi
loài, không phân biệt.
Nhưng cảm xúc của tâm bi rất dễ bị hiểu lầm. Lần đầu tiên tôi đến dạy
thiền tập ở Nga, tôi đề cập đến tâm bi rất nhiều. Khi những câu nói của
tôi được dịch sang tiếng Nga, tôi có một cảm giác kỳ quặc chúng đã không
được chuyển đạt đúng nghĩa. Cuối cùng, tôi quay sang hỏi người thông
dịch: “Khi tôi nói ‘tâm bi’, anh dịch như thế nào?” Anh ta đáp: “Ồ, tôi
diễn tả một trạng thái bị chế ngự bởi khổ đau của người khác, như là bị
ai lấy dao đâm vào tim mình, và ta phải gánh vác cái đau của người khác
như là nỗi đau của chính mình vậy.” Tôi ngồi đó và nghĩ thầm: “Thôi chết
rồi!”
Nhưng lầm lẫn ấy thật ra cũng tự nhiên thôi. Ta rất dễ hiểu lầm rằng tâm
bi có nghĩa là chịu đựng khổ đau của người khác!
Khi được dịch từ tiếng Phạn, chữ karuna, tâm bi, có nghĩa là sự run rẩy,
rúng động của con tim trước nỗi đau của người khác. Nhưng nó không có
nghĩa bạc nhược như cách diễn tả của người thông dịch. Khi ta bị chế ngự
bởi một nỗi đau, điều đó có thể đưa đến sự thất vọng, phiền muộn, chán
nản, và đôi khi là tức giận. Nhưng đó không phải là tâm bi. Ram Dass và
Paul Gorman trong quyển Tôi có thể giúp bằng cách nào? có viết: “... đem
con tim ra cởi mở và tiếp xúc là một chuyện, và để cho con tim mình bị
tan vỡ và chế ngự là một chuyện khác. Sự khác biệt của khổ đau nằm ở chỗ
đó.” Nếu ta cảm thấy con tim mình sẽ bị tan vỡ, ta sẽ bị đè bẹp, không
chịu đựng nổi sự việc xảy ra, thì ta không thể cởi mở trước nỗi đau được
- thế nhưng đó cũng chính là nền tảng của tâm bi.
Bước đầu tiên để phát triển một tâm bi là biết cởi mở và nhận diện được
sự có mặt của khổ đau trong cuộc đời. Ở khắp mọi nơi, bất cứ đâu, bằng
cách này hay cách khác, mọi loài đang khổ đau. Có những khổ đau to lớn
và bi đát, có những khổ đau nhỏ nhoi và thinh lặng.
W. H. Auden viết:
Về chuyện khổ đau họ chưa bao giờ sai,
Những vị Thầy xưa, đã hiểu quá nhiều
Chúng là số phận của con người;
Khổ đau xảy ra như thế nào
Khi một người đang ăn,
khi một người đang mở cánh cửa sổ,
khi một người đang đi lang thang...
Mặc dù cuộc đời không phải chỉ có toàn khổ đau mà thôi, nhưng nếu muốn
phát triển một tâm bi, ta cần phải biết nhận diện được sự có mặt của
chúng.
Chỉ cần nhìn lại kinh nghiệm của chính mình, chúng ta chắc cũng không ai
lạ gì chuyện khổ đau. Chúng ta ai cũng có những thăng trầm, những được
thua, những mất mát, đau đớn và buồn khổ. Có lúc ta không đạt được những
gì mình muốn, hoặc có nhưng rồi lại mất đi, hoặc cuối cùng khám phá rằng
đó không phải là những gì mình muốn. Trong chúng ta, ai không từng trải
qua những kinh nghiệm ấy! Nhưng thật ra, chấp nhận sự có mặt của chúng
sẽ mang lại cho ta ít khổ đau hơn là tìm cách lẫn tránh chúng.
Chúng ta lớn lên với một quan niệm rằng khổ đau là sai trái và ta phải
tránh né chúng. Ta nghĩ khổ đau như một cái gì ghê gớm lắm, không nên
đối diện. Và rồi, chúng ta cùng nhau xây dựng một xã hội có thể cung ứng
cho ta nhu cầu che đậy những dấu vết của khổ đau. Chúng ta tiêu thụ thật
nhiều, và dùng mọi thứ thuốc gây mê để tránh né, quên đi khổ đau. Chúng
ta loại bỏ những người nào khác biệt với mình, những người có vấn đề,
những người già, những người hấp hối, vào những nơi riêng biệt, để ta
khỏi phải nhìn thấy họ. Mặc dù chúng ta đều chia sẻ chung những hình
thái khổ đau này, Nhưng dường như trong cái già, cái bệnh và cái chết có
tàng chứa sự gì nhục nhã, xấu hổ, khiến ta luôn muốn che giấu nỗi đau
của riêng mình.
Có một câu chuyện trong bài trường thi anh hùng ca của Ấn Độ giáo,
Mahabharata, minh họa được cái động lực chối bỏ này của loài người. Khi
Yudhistara được hỏi: “Trên thế giới này có điều gì kỳ lạ nhất?” Ông trả
lời: “Điều kỳ lạ nhất trên cuộc đời này là quanh ta mọi người ai cũng sẽ
chết, nhưng ta không bao giờ tin rằng điều ấy sẽ xảy đến cho chính
mình.”
Chúng ta sống như thể là cái chết chỉ “đột nhiên” xảy đến mà ta không
ngờ trước. Có nhiều lần tôi đi siêu thị, trong khi đứng xếp hàng chờ trả
tiền, tôi đọc những tờ báo lá cải chuyên đăng tin giật gân với những bản
tin như Elvis Presley vẫn còn sống, có người gặp anh ở nơi này hoặc nơi
nọ... Có khi là ở Florida, có khi lại là ở California, và có lần tôi còn
đọc thấy là ở Hỏa tinh nữa! Tại sao Elvis không thể chết? Con người ai
cũng chết. Tại sao người ta lại không chấp nhận được sự thật ấy chứ!
Mỗi khi chúng ta chối bỏ kinh nghiệm của mình, là ta đang buông bỏ một
cái thật để nắm bắt cái giả tạo. Và sống theo những gì không thật, ảo
tưởng, bao giờ cũng chỉ gây hại cho ta mà thôi. Chân lý có lẽ khó chấp
nhận, nhưng sẽ không bao giờ mang lại sự thiệt thòi cho ta. Nếu chúng ta
có thể thật sự cởi mở và thẳng thắn nói rằng: “Khổ đau có mặt trên cuộc
đời này.” Mọi việc sẽ được phô bày ra trước mặt. Không có sự giả vờ,
không trốn tránh, không đùa chơi. Chấp nhận được sự thật về khổ đau sẽ
giúp ta cảm thấy đồng nhất với người khác. Mục đích của sự tu tập là để
hiểu, để thấy được chân tánh của sự sống, thấy được những gì đang thật
sự xảy ra. Khả năng thấy và hiểu này là bước đầu tiên của sự phát triển
tâm bi.
Nhưng nhận thấy được nỗi đau cũng còn là việc dễ, cởi mở được với nó mới
là khó hơn. Và đây là bước thứ nhì của sự phát triển tâm bi: cởi mở với
nỗi đau và thiết lập mối tương quan với nó. Chuyện ấy không phải dễ. Đôi
khi muốn thật sự cởi mở với cơn đau, ta cần phải tiến từng bước nhỏ. Còn
nếu như sự cởi mở của ta chỉ là một thủ đoạn hoặc bị bó buộc, thì mục
đích tu tập sẽ trở thành vô nghĩa, sẽ tan biến thành mây khói.
Đôi khi, lúc mới bắt đầu cởi mở với khổ đau, ta lại có cảm tưởng như
mình có thể kiểm soát nó được, như là khổ đau có thể vặn lên và tắt
xuống được vậy. Có lẽ điều này giải thích lý do vì sao người ta hay tìm
đọc những chuyện bạo động, tang thương trên báo chí, hoặc xem ti vi và
phim ảnh. Chúng ta xem những khổ đau xảy ra với hy vọng có thể điều
khiển chúng dễ dàng, chỉ bằng cách đổi băng tần hoặc là tắt máy đi.
Và khi chúng ta cảm thấy mình không làm chủ được khổ đau, ta đâm ra tức
giận, sợ hãi, hoặc là buồn chán. Tâm lý học Phật giáo gọi đó là những
“kẻ thù gần” của tâm bi, vì chúng có thể dễ dàng hóa trang thành tâm bi.
Kẻ thù xa của tâm bi là sự tàn bạo, nó chỉ có thể ở xa mà thôi vì bị
nhận diện quá dễ dàng. Còn như sự bất mãn, ta khó phân biệt nó hơn. Ta
có thể cảm thấy tức giận trước những bất công, hoặc cảm thấy bất mãn khi
nghe tin về những tệ đoan trong gia đình, ngoài xã hội hay trên chính
trường. Chúng ta có thể cảm thấy sợ hãi khi đối diện với những nỗi sợ
của người khác. Chúng ta có thể cảm thấy nản lòng trước những mất mát và
khổ đau của người khác. Tất cả những cảm xúc ấy rất gần gũi với tâm bi,
vì chúng cũng là những “rung động của con tim”! Nhưng thật ra, tâm bi
lại hoàn toàn khác, nó không phải là sự tức giận, sợ hãi hay là phiền
muộn, vì những trạng thái này có thể làm ta mệt mỏi, và đôi khi còn hủy
hoại chính mình nữa. Thật ra tôi không nói những cảm xúc này là sai.
Nhưng chúng ta phải có khả năng nhìn thẳng vào chúng một cách thành
thật, và thấy được những phản ứng cũng như hậu quả của chúng.
Có lần tôi nói chuyện về sự khác biệt giữa thái độ bất mãn và tâm bi.
Sau đó có một người đến gặp tôi, anh ta có vẻ rất bực tức. Anh ta kể cho
tôi nghe về người chị của anh bị chấn thương não rất nặng, phải sống
trong một viện dưỡng bệnh dành cho người già, và mức độ chăm sóc ở nơi
này lại rất thấp. Anh ta nhấn mạnh rằng nhờ có sự can thiệp mạnh bạo và
nhiều lần của anh mà bà ta mới còn có thể sống trong nơi ấy. Khi kể
chuyện cho tôi nghe, cả người anh run lên. Sau một hồi, tôi hỏi anh:
“Bên trong anh bây giờ đang cảm thấy như thế nào?” Anh đáp: “Tôi đang
giãy chết đây. Cơn giận này đang hành hạ và giết tôi!” Lẽ dĩ nhiên, trên
cuộc đời này sẽ có những bất công cần phải phản đối, những hoàn cảnh thù
nghịch cần phải thay đổi... Nhưng chúng ta có thể thực hiện những việc
ấy mà không cần phải hủy hoại chính mình vì sợ hãi, vì tức giận.
Trạng thái của tâm bi, một sự rung động của con tim, bao giờ cũng có mặt
cùng với sự tĩnh lặng. Bạn có thể tưởng tượng một tâm thức không có sự
thù hằn, bực tức, phê phán và trách cứ chính mình hay người khác. Tâm
thức này không nhìn cuộc đời qua những sự đối đãi như là đúng và sai,
tốt và xấu, thiện và ác... Nó chỉ thấy có một điều và mỗi một điều mà
thôi, đó là “khổ đau và sự chấm dứt của khổ đau”. Chúng ta cũng có thể
nhìn lại đời mình bằng ánh mắt không phê phán ấy. Ta sẽ thấy có những
việc mang lại khổ đau và có những việc đem đến hạnh phúc, nhưng không có
một sự sợ hãi, một mặc cảm tội lỗi, hay là một sự chối bỏ nào. Khi chúng
ta có thể nhìn thấy chỉ có khổ đau và sự chấm dứt khổ đau, lòng bi sẽ có
mặt. Và chừng ấy, ta có thể hành động bằng tất cả nghị lực và sự cương
quyết của mình, nhưng vẫn không bị hao mòn và tiêu hủy bởi năng lượng
của sân hận.
Ta có thể hành động rất cương quyết mà không cần đến sự thù hằn hoặc bất
mãn. Khi chúng ta nhìn thấy một em bé đang vói tay lên một nồi nước sôi
bắc trên lò, ta lập tức ra tay ngay! Hành động của ta phát sinh từ một
lòng bi: ta lao tới để kéo em bé ra khỏi sự nguy hiểm. Ta đâu cần có một
sự bất mãn hay giận ghét nào đâu!
Có tâm bi nghĩa là ta mong ước cho một người nào, hoặc tất cả mọi người,
được thoát khỏi khổ đau. Có tâm bi tức là ta có thể thật sự cảm nhận
được những gì người khác đang kinh nghiệm. Tôi có kinh nghiệm này vào
ngày cuối trong lần đầu tiên đến Nga. Ở phi trường, khi tôi sửa soạn đi
về, tôi phải đi ngang qua nơi soát giấy thông hành. Sự khám xét nơi đây
rất kỹ lưỡng, tôi nghĩ, có lẽ chánh quyền Nga không muốn những người dân
Nga xuất ngoại bằng cách sử dụng thông hành giả. Nên việc bị soát thông
hành là cả một thử thách. Tôi mỉm cười trao giấy thông hành của tôi cho
một nhân viên mặc quân phục. Ông ta nhìn tấm hình, rồi nhìn tôi, lại
nhìn tấm hình, rồi nhìn tôi, cúi xuống nhìn tấm hình, rồi lại ngước lên
nhìn tôi. Cái nhìn của ông đối với tôi, tôi có cảm tưởng là một cái nhìn
thù nghịch nhất trên đời, chưa từng có ai nhìn tôi với ánh mắt như thế.
Một thứ thù nghịch lạnh như băng. Lần đó cũng là lần đầu tiên trong đời,
tôi kinh nghiệm một năng lượng như thế trực tiếp hướng đến cá nhân tôi.
Tôi chỉ biết đứng đó, sửng sốt. Cuối cùng, sau một thời gian rất lâu,
ông ta trả lại tôi tờ thông hành và bảo tôi đi.
Tôi đi lên phòng đợi trong phi trường, gặp lại một số bạn đồng hành đang
chờ tôi. Tôi cảm thấy bực tức. Tôi có cảm tưởng như năng lượng của ông
đã làm nhiễm độc con người tôi vậy. Tôi đã tiếp nhận sự thù hằn của ông
ta và phản ứng rất mãnh liệt. Nhưng, chỉ trong giây phút, mọi sự thay
đổi hết. Tôi nghĩ: “Nếu như tôi chỉ mới cảm nhận năng lượng ấy trong
mười phút thôi mà còn cảm thấy mệt mỏi đến như vậy, nếu phải sống với
năng lượng ấy trong tâm suốt đời thì còn như thế nào nữa?” Tôi biết rằng
người đàn ông ấy thức dậy mỗi sáng, đi làm cả ngày, và tối về ngủ, cũng
cùng với một trạng thái tâm thức mà tôi mới vừa kinh nghiệm đó. Tự nhiên
tôi có một lòng thương rất lớn đối với ông ta. Đối với tôi, ông không
còn là một kẻ thù đe dọa nữa, mà là một người đang rất khổ đau.
Muốn nhìn cuộc đời bằng đôi mắt thương yêu, chúng ta phải thấy được
những gì đang xảy ra cùng với những điều kiện đã làm cho nó phát sinh.
Thay vì chỉ nhìn thấy kết quả cuối cùng mà thôi, ta cần phải thấy được
mọi yếu tố cấu tạo nên nó. Giáo pháp của đức Phật có thể được gom lại
trong tuệ giác này: mọi việc xảy ra trong cuộc đời đều do nhân duyên.
Bạn có bao giờ giận một người nào đó, và rồi thấy được những nguyên nhân
trong quá khứ của người ấy đã khiến họ phải hành động như vậy? Bạn đột
nhiên hiểu được nhân duyên đưa đến tình trạng ấy, thay vì chỉ cố chấp
vào kết quả cuối cùng.
Tôi có biết hai người kia, cả hai đều có một quá khứ rất khổ đau vì bị
xúc phạm và hành hạ khi còn nhỏ. Một người là đàn bà, chị ta lớn lên
trong một nỗi sợ sệt, và người kia là đàn ông, anh ta lớn lên với sự thù
hằn, nóng tánh. Cả hai lại có dịp làm việc chung với nhau. Cô ta không
ưa anh ta đến nỗi tìm đủ mọi cách để anh bị cho nghỉ việc. Nhưng khi cô
biết được quá khứ của anh, biết rằng anh ta cũng đã có những khổ đau
giống mình, cô thốt lên: “Đây là người anh em của tôi mà!”
Thái độ này không có nghĩa là chúng ta sẽ bỏ qua hoặc chấp nhận những
điều sai quấy của người khác. Nhưng chúng ta thấy được tất cả những yếu
tố đã làm thành cuộc sống của người ấy, và hiểu được tình trạng bị hoàn
cảnh đưa đẩy của họ. Ý thức được như vậy, ta sẽ dễ tha thứ và có một tâm
bi với mọi người hơn.
Có tâm bi nghĩa là ta biết chú ý hơn đến tất cả những điều kiện, những
thành tố, của bất cứ một sự việc nào. Chúng ta phải có khả năng nhìn
được sự việc như nó đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. Chúng ta cần
phải có sự cởi mở và một không gian để thấy được những điều kiện tạo
nên, cũng như ý nghĩa toàn vẹn của nó. Ví dụ, chúng ta có thể tuyên bố
rằng: “Thuốc phiện rất nguy hiểm.” Điều ấy đúng, không ai nghi ngờ gì
cả. Nhưng nó có thật sự đúng đối với những người bị bệnh nan y không,
khi họ đang bị dày xé bởi những cơn đau đớn cực kỳ? Thứ thuốc ấy có thể
làm giảm cơn đau kịch liệt của họ! Cái ý nghĩa toàn vẹn của thực tại
trong giờ phút ấy là gì? Nếu chúng ta biết nhìn theo cách ấy, ta sẽ
không bị bó buộc trong những khuôn khổ khô cứng, khiến ta trở nên câu
chấp và không còn nhìn đời bằng con mắt của tâm bi nữa.
Và làm thế nào để chúng ta đem tâm bi vào cuộc đời? Đức Phật dạy rằng,
được sinh làm người là một điều rất may mắn và hiếm có. Trong vũ trụ
mênh mông có vô số cảnh giới, được sinh ra trong cõi người là một cơ
duyên rất lớn. Vì trong cõi người có một sự quân bình giữa hạnh phúc và
khổ đau, giúp ta dễ thăng tiến trên con đường tu tập. Nếu như cuộc sống
có quá nhiều đau khổ, ta sẽ bị đè bẹp, ta chỉ còn biết gắng sức cho sự
sinh tồn của chính mình mà thôi. Và nếu như cuộc sống chỉ toàn hạnh
phúc, ta sẽ trở nên dễ duôi, lười biếng, không có gì để thúc đẩy sự tiến
tới.
Đức Phật cũng dạy rằng, chúng ta có hai cách để duy dưỡng tâm bi. Thứ
nhất, chúng ta có thể cố gắng gầy dựng cho tất cả mọi người có được một
môi trường tu tập thuận tiện, giúp họ có thể tìm được chân lý và hạnh
phúc, vượt ra ngoài mọi ý niệm về thân và tâm. Thứ hai, nếu ta tiếp xúc
với con người, dù trong hoàn cảnh nào, dù họ có hoang phí cuộc sống
nhiệm mầu nhưng ngắn ngủi này đến đâu, ta vẫn có một lòng thương.
Sống theo phương cách ấy, mỗi giây phút của cuộc đời ta là một cơ hội để
phát triển tâm bi. Mỗi hành động, cho dù nhỏ nhoi đến đâu, cũng có thể
là biểu hiện của con tim biết thương xót. Đôi khi chúng ta nghĩ rằng,
muốn thể hiện tâm bi ta phải giống như Mẹ Teresa. Nhưng thật ra chỉ cần
nhìn vào những việc làm nhỏ nhặt của mình trong đời sống hằng ngày, ta
sẽ thấy: Chúng nói gì về phản ứng của ta đối với khổ đau? Chúng có phản
ảnh được sự hiểu biết về khổ đau không? Chúng ta có thấy được những điều
kiện tạo nên hoàn cảnh ấy không, và ta có hiểu được ý nghĩa trọn vẹn của
nó không?
Bạn nên nhớ, cho dù một hành động nhỏ nhoi đến đâu cũng có thể đem lại
một sự thay đổi lớn. Có thể chúng ta không mang đi được khối khổ đau của
người khác, nhưng ta có thể có mặt ở đó với họ. Hành động có mặt của ta,
tuy nhỏ nhoi, nhưng nó giúp người khác cảm thấy không cô đơn, lẻ loi
trong nỗi khổ của mình, và bấy nhiêu thôi cũng đã là một sự cung hiến
rất lớn lao rồi.
Vào cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, tôi bị một tai nạn xe cộ khá
nặng. Lần ấy tôi phải chống nạng để đến hướng dẫn một khóa tu nhiều ngày
ở trung tâm Insight Meditation Society. Sự đi đứng của tôi vô cùng khó
khăn. Năm đó cũng là năm đức Đạt-lai Lạt-ma ghé sang thăm trung tâm. Vấn
đề tổ chức chuẩn bị cho sự viếng thăm của ngài rất chu đáo và tỉ mỉ.
Chúng tôi phải lo an ninh chặt chẽ cho một vị tăng sĩ cũng được xem là
vị nguyên thủ của một quốc gia. Một trung tâm ở ngoại ô êm ả bỗng trở
nên một thành trì kiên cố. Những con đường chung quanh đều bị ngăn lại,
cảnh sát mang súng đi tuần trên những nóc nhà. Máy ghi hình được đặt
khắp nơi. Mọi người ai cũng bận rộn. Chỉ có tôi là cảm thấy hơi buồn tủi
với đôi nạng, nhất là khi phải đứng phía sau hết trong đám đông chờ đón
ngài Đạt-lai Lạt-ma.
Cuối cùng, chiếc xe chở ngài đến được dàn chào bởi những máy quay phim,
đám đông và cảnh sát bảo vệ an ninh. Đức Đạt-lai Lạt-ma bước xuống xe,
ngài nhìn chung quanh và thấy tôi đứng tận phía sau đám đông, tựa người
trên đôi nạng. Ngài băng qua đám đông và đi thẳng đến chỗ tôi, như tìm
đến một người khổ đau nhất trong hoàn cảnh này vậy. Ngài nắm tay tôi,
nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi: “Chuyện gì xảy ra cho cô vậy?”
Giây phút ấy đẹp tuyệt vời! Tôi đang cảm thấy mình bị bỏ rơi. Bây giờ,
đột nhiên tôi cảm thấy mình là người được cưng chìu nhất. Đức Đạt-lai
Lạt-ma đâu cần phải làm cho nỗi đau của tôi biến mất! Và thật ra, ngài
cũng không có khả năng ấy. Nhưng sự có mặt của ngài, sự nhận biết và cởi
mở của ngài, khiến tôi cảm thấy mình được quan tâm. Mỗi hành động của ta
đều có thể biểu hiện được giá trị sâu xa nhất của mình.
Cho dù có việc gì xảy đến trong cuộc đời ta, phản ứng của ta vẫn có thể
là một biểu hiện của tâm bi. Cho dù có ai nói với ta những lời chân
thật, dễ thương hoặc lường gạt, mắng nhiếc, chúng ta vẫn có thể đáp trả
bằng tình thương. Và đó cũng là một phương pháp đem tâm bi vào cuộc đời.
Đức Phật đã biểu hiện tâm bi qua nhiều cách khác nhau. Tâm bi của ngài
vô biên, bao trùm từ những việc tầm thường, nhỏ nhặt cho đến những gì là
lớn lao, tuyệt đối nhất. Ngài phục vụ chúng sinh đủ mọi cách, từ sự chăm
sóc người ốm đau, cho đến chỉ dạy cho mọi người con đường giải thoát.
Đối với ngài, cả hai không khác biệt gì nhau.
Có một vị đệ tử Phật bị mắc chứng bệnh ghẻ lở, trông rất gớm ghiếc.
Trong kinh kể rằng, vị này có những vết thương chảy mủ nhìn rất kinh tởm
và hôi thối khiến không một ai dám đến gần. Vị thầy này nằm liệt trên
giường, chờ đợi cái chết, mà không một ai dám lại gần chăm sóc. Khi đức
Phật biết chuyện, ngài đích thân đến chỗ của vị thầy bị bệnh, tự tay tắm
và lau rửa những vết thương cho ông, và an ủi cũng như chỉ dạy cho ông
phương pháp tu tập.
Sau đó, đức Phật dạy toàn thể tăng chúng rằng, nếu như có người nào muốn
phục vụ đức Phật, thì hãy lo chăm sóc những người ốm đau. Phục vụ những
người bệnh cũng như phục vụ chính đức Phật vậy.
Theo lời Phật dạy, tâm bi cần phải được phát triển trên mọi bình diện
của con người: cá nhân, xã hội và chính trị. Có lần đức Phật kể câu
chuyện về một vị vua muốn truyền ngôi cho con mình. Vua cha dặn dò vị
vua mới phải biết giữ sự chánh trực và đức rộng lượng. Thời gian trôi
qua, vị vua mới lên ngôi duy trì được sự chánh trực nhưng không nghĩ gì
đến đức rộng lượng. Dân chúng trong nước trở nên nghèo đói, nạn trộm
cướp xảy ra thường xuyên. Vị vua phải đặt ra thêm những hình phạt mới để
trừng trị tội phạm. Nhận xét về câu chuyện này, đức Phật nói, những hình
phạt đặt ra thêm không giải quyết được gốc rễ của vấn đề. Đức Phật dạy,
muốn tội phạm giảm xuống, ta cần phải nâng cao tình trạng kinh tế, mức
sống của con người lên. Ngài đưa ra những giải pháp như là cung cấp hạt
giống, phương tiện trồng trọt cho nông dân, cho thương gia mượn vốn, và
trả lương đầy đủ cho nhân công.
Thay vì giải quyết những vấn đề xã hội bằng cách tăng thuế hoặc hình
phạt, đức Phật khuyên ta nên nhìn sâu sắc để thấy được những điều kiện
nào đã tạo nên môi trường dẫn đến lối hành xử của dân chúng. Và từ đó ta
có thể thay đổi những điều kiện ấy. Trong kinh nói, sự nghèo đói là
nguồn gốc của nạn trộm cướp và bạo động, và vị vua phải nhìn sâu vào
nguyên nhân ấy mới thấy được ảnh hưởng của chúng. Nếu như ta có đầy đủ
mọi thứ, thì sống một đời lương thiện đâu có gì là khó! Nhưng giả sử như
khi con ta đói khát, cha mẹ ta bệnh hoạn, thiếu thốn, chuyện trộm cắp sẽ
rất khó tránh được. Vì vậy, vấn đề là làm sao chúng ta có thể tạo nên
những điều kiện thuận lợi, giúp mọi người dễ dàng sống trong sạch. Giáo
pháp của đức Phật vô cùng cụ thể, nó phản ảnh được tấm lòng từ bi vô
biên của ngài.
“Phật pháp bất ly thế gian pháp.” Giáo lý của đạo Phật không bao giờ rời
xa cuộc đời. Trong đó chứa đầy tình người. Đức Phật nói rằng, cả cuộc
đời ngài là vì hạnh phúc và an lạc của mọi chúng sinh, vì tình thương
đối với tất cả mọi sự sống, không phân biệt. Và ngài khuyên chúng ta
cũng nên phát nguyện như thế, đem cuộc sống của mình làm phương tiện để
mang hạnh phúc và an lạc đến cho tất cả mọi người, mọi loài.
Giáo lý này không bắt buộc ta phải biểu hiện tâm bi theo một đường lối
nhất định nào. Bạn có thể cầm cây dù của bạn, với tất cả tâm bi của
mình, đập xuống đầu một người nào đó mấy cái thật mạnh. Hay bạn có thể
từ bỏ tất cả và chọn đời sống xuất gia. Có nhiều sự chọn lựa khác nhau.
Một hành động của tâm bi không cần phải là một cái gì vĩ đại, to tát.
Những hành động nhỏ nhặt nhưng bày tỏ tình thương, sự cởi mở, như là
tặng thức ăn cho người đói, chào đón, hỏi thăm một người nào, hoặc chính
sự có mặt để chia sẻ - tất cả những điều đó đều là những biểu hiện rất
hùng tráng của tâm bi. Tâm bi giúp ta mở lòng ra và tiếp xúc với nỗi
đau, và tuệ giác chỉ cho ta biết cách hành xử cho thích hợp. Với tâm bi,
sự sống của bạn sẽ là hiện thân của tình thương và sự hiểu biết.
Sự tu tập tâm bi không chỉ là chiếc áo lý tưởng khoác bên ngoài. Tâm bi
phát khởi khi ta biết cởi mở và tiếp xúc với khổ đau. Nó đem lại cho
cuộc đời ta một ý nghĩa và hạnh nguyện lớn lao. Cho dù có biến cố gì,
hay trong hoàn cảnh nào, mục đích và ước mong của ta trong giây phút ấy
vẫn là biểu hiện tình thương chân thật nhất. Khả năng thương yêu sẵn có
của ta không bao giờ có thể bị tiêu diệt. Cũng như trái đất này không
thể bị tan vỡ vì một người nào đó tự quăng mình xuống mặt đất, tâm bi
không bao giờ bị suy suyển vì những nghịch cảnh. Bằng sự tu tập tâm bi,
một trong Bốn thiên trú, hay Tứ vô lượng tâm, tâm ta sẽ trở nên mênh
mông và không còn chút dấu vết của hận thù. Tình thương ấy vô biên và
hoàn toàn vô điều kiện.