Dù đã trải qua rất nhiều thử thách và đạt được những thành quả nhất định 
		trong tu tập, nhưng sư phụ vẫn nhiều lần từ chối không chịu làm lễ xuất 
		gia để tôi chính thức trở thành một tu sĩ. Nguyên nhân của việc này chưa 
		bao giờ được người nói ra, nhưng tôi đoán là người muốn cho tôi thanh 
		toán xong chương trình ở bậc đại học.
		Và rồi ngày tôi học xong đại học cũng đã đến. Kỳ thi tốt nghiệp cử nhân 
		văn khoa của đại học Calcutta đã được định ngày, và tôi ráo riết chuẩn 
		bị cho kỳ thi bằng cách ... cầu nguyện.
		Vâng, đó là sự thật. Vì qua chuyện kể của tôi, hẳn bạn đọc cũng đã thấy 
		rõ là tôi chẳng dành bao nhiêu thời gian cho việc học tập ở nhà trường. 
		Còn hơn thế nữa, những chương trình học cùng với bài vở luyện tập chưa 
		bao giờ lôi cuốn được sự chú ý của tôi theo bất cứ ý nghĩa nào. Tuy 
		nhiên, tận đáy lòng tôi vẫn mong sẽ thỏa mãn được ước nguyện của cha tôi 
		là hoàn tất chương trình đại học, và thêm vào đó, sư phụ Śrỵ Yukteswar 
		cũng đã nói dứt khoát là người muốn tôi tốt nghiệp đại học như một tiền 
		đề cho sự nghiệp hoằng hóa sau này. Giờ đây, giây phút quyết định đã gần 
		kề. Tôi có thể nhận được mảnh bằng cử nhân văn khoa của trường đại học 
		hay không, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào việc... lời cầu nguyện của 
		tôi có được đáp ứng hay không, bởi vì tôi phải thú thật là tôi đã không 
		học hành nghiêm túc theo như chương trình quy định.
		Kết quả kỳ thi hoàn toàn bất ngờ đối với chính bản thân tôi. Tôi được 
		điểm ưu môn triết học, và đủ điểm trung bình cho tất cả các môn khác. 
		Như vậy, tôi chính thức được công nhận trở thành một Cử nhân văn chương.
		Phải nói thật lòng là về sau tôi cũng rất ít khi dùng đến danh hiệu cử 
		nhân theo sau tên gọi như hầu hết các ông cử đều làm. Tôi không xem đây 
		là một kết quả học tập thật sự của mình, mà chỉ là một ân huệ nhiệm mầu 
		để giúp tôi được dễ dàng hơn trên con đường hoằng pháp mà thôi.
		Sau khi tôi nhận bằng cử nhân, cha tôi đề nghị tôi nhận một chức vụ 
		trong công ty đường sắt, với hy vọng là tôi sẽ tiếp nối những công việc 
		của người. Tôi cương quyết từ chối và trình bày việc này với sư phụ Śrỵ 
		Yukteswar. Để kết luận, tôi nói:
		– Bạch thầy, xin thầy hãy cho con được chính thức xuất gia.
		Trước sự ngạc nhiên của tôi, sư phụ đáp lại thản nhiên như đã chuẩn bị 
		từ trước:
		– Được, nếu con đã quyết tâm, ngày mai chúng ta sẽ tổ chức lễ xuất gia 
		cho con.
		Như vậy là ước mơ của tôi đã sắp trở thành hiện thực. Sau khi đáp ứng 
		tất cả những gì mà cha tôi yêu cầu, tôi nghĩ là người sẽ không còn lý do 
		gì để từ chối việc xuất gia của tôi. Và sự ưng thuận của cha tôi quả 
		thật đã được đưa ra ngay vào tối hôm đó. Cha tôi nói:
		– Thế cũng tốt. Chính bản thân cha cũng mong muốn có được cuộc sống xuất 
		gia, nhưng không phải mọi người đều có thể thực hiện được một ước mơ như 
		thế. Cha hy vọng là con sẽ kiên trì theo đuổi con đường xuất thế. Đó là 
		niềm tự hào rất lớn cho gia đình ta.
		° ° °
		Lễ xuất gia của tôi được cử hành hết sức đơn giản. Sư phụ đã lược bỏ hầu 
		hết các lễ nghi phiền toái và chỉ giữ lại những gì là cốt yếu. Thêm vào 
		đó, người cho tôi một đặc ân mà không phải người đệ tử nào cũng có được, 
		đó là được quyền tự chọn lấy một pháp danh cho mình.
		Tuy bất ngờ trước đề nghị này của sư phụ, tôi cũng suy nghĩ trong một 
		lát rồi đáp:
		– Bạch thầy, con sẽ lấy pháp danh là Yognanda.
		Pháp danh này kết hợp hai ý nghĩa, với từ Yoga thể hiện pháp môn tu mà 
		tôi đã chọn và từ nanda có ý nghĩa là niềm an lạc hạnh phúc có được nhờ 
		việc thực hành tu tập.
		Sư phụ rất hài lòng với pháp danh mà tôi đã chọn. Người trịnh trọng 
		tuyên bố:
		– Được. Kể từ nay con sẽ không còn là Mukunda Lal Ghosh, mà sẽ là tu sĩ 
		Yognanda thuộc hệ phái Swmi.
		Hệ phái Swmi khởi đầu từ đức tổ sư Shankara, là một hệ phái đã được 
		truyền nối qua nhiều thế kỷ, với nhiều vị tăng sĩ đạo hạnh cao thâm và 
		nêu cao tôn chỉ sống cuộc sống thanh bần, thực hành hạnh bố thí.
		Rất nhiều tu sĩ thuộc hệ phái Swmi đã thể hiện cụ thể hạnh nguyện của 
		mình qua việc tham gia các chương trình cứu tế hay giáo dục trong xã 
		hội. Đôi khi, họ mở rộng hoạt động ra cả ở nước ngoài. Người tu sĩ thuộc 
		hệ phái này luôn biết chia sẻ khó khăn với cộng đồng, thay vì chỉ mưu 
		tìm sự thanh thản cho riêng bản thân mình. Tuy vậy, ngay trong những 
		hoạt động xã hội bận rộn nhất, họ cũng không bao giờ xao lãng công phu 
		tu tập hành trì.
		Thật ra, hệ phái Swmi không phải là một dòng thiền. Những tu sĩ thuộc hệ 
		phái này có thể chọn tu theo nhiều pháp môn khác nhau. Riêng sư phụ Śrỵ 
		Yukteswar là một người đã chọn pháp môn thiền định và đạt đến chỗ uyên 
		áo thâm sâu. Chính gương sáng của người đã khiến cho tôi quyết tâm chọn 
		pháp môn thiền định để nối bước theo người. Và cũng phù hợp theo với 
		hạnh nguyện của người, cuộc đời tôi về sau đã trở thành một chiếc cầu 
		nối để pháp môn này được trực tiếp truyền từ Ấn Độ sang phương Tây.
		° ° °
		Sau khi tôi chính thức trở thành một tu sĩ, theo đuổi đời sống xuất gia, 
		đáng buồn thay, dự báo đầu tiên của tôi lại là một tin chẳng tốt đẹp 
		chút nào.
		Một buổi sáng tinh mơ, khi tôi đang nhập định, tôi bỗng mơ hồ cảm thấy 
		có điều gì đó không hay đang sắp xảy đến cho gia đình tôi. Quả thật, cho 
		dù người ta đã chọn một đời sống xuất gia thì những quan hệ máu huyết 
		ruột thịt cũng vẫn không thay đổi.
		Lần đầu tiên tiên trong đời, tôi bất ngờ có thể định tâm để đọc được 
		chính những dự cảm của mình. Tôi biết điều không hay sắp tới đó chính là 
		việc anh Ananta của tôi sắp qua đời một cách bất ngờ, cho dù anh vẫn còn 
		rất trẻ. Đây là một kinh nghiệm mà tôi đã nhiều lần chứng kiến ở sư phụ 
		Śrỵ Yukteswar, nhưng bản thân tôi thì chưa từng được nếm trải.
		Mấy hôm sau, tôi liền trở về quê cũ ở Gorakhpur để thăm anh Ananta đang 
		ở đó. Ngay trong thời gian tôi ở thăm, anh bất ngờ ngã bệnh. Tôi đã tận 
		tình săn sóc anh bằng tất cả khả năng của mình, nhưng tôi biết anh sẽ 
		không sao qua khỏi.
		Không muốn chứng kiến cảnh đau lòng này một cách vô ích, tôi nhanh chóng 
		thu xếp một chuyến đi đường biển sang Miến Điện và Nhật Bản. Tôi đã lên 
		tàu trong sự thất vọng của cha tôi vì người không sao hiểu được là tôi 
		đã thấy trước mọi việc.
		Tôi lưu lại hải cảng Kobé mấy ngày rồi lại theo đường biển trở về Ấn Độ. 
		Thật là một chuyến đi không có mấy ích lợi, chỉ là vì tôi không sao chịu 
		nổi việc bất lực đứng nhìn anh mình hấp hối.
		Khi tôi ghé lại Thượng Hải trên đường về, ông bác sĩ đi theo tàu là 
		Misra đã tháp tùng tôi cùng đi dạo trong thành phố. Chúng tôi mua một số 
		quà tặng để mang về cho thân nhân trong nước. Bất chợt, tôi buông rơi 
		một món quà đang cầm trên tay và kêu lên:
		– Anh Ananta đã mất rồi!
		Bác sĩ Misra nhìn tôi hoài nghi, nhưng ông cũng nói theo cách an ủi:
		– Xin đại đức đừng quá bi quan. Còn phải đợi xem có tin tức gì không đã.
		Khi chúng tôi về đến Calcutta, em trai út của tôi là Bishnu đã đợi tôi 
		trên bến. Tôi và bác sĩ Misra cùng lên bờ một lượt. Và trước sự kinh 
		ngạc đến ngẩn người của ông bác sĩ, em tôi thông báo việc anh Ananta đã 
		mất, đúng vào ngày mà chúng tôi ghé lại Thượng Hải. Ông lắc đầu:
		– Có lẽ tôi phải đề nghị thêm một năm học nữa về thần giao cách cảm cho 
		các sinh viên y khoa ở trường đại học.
		Cha tôi đón tôi về nhà với thái độ thân tình mà người rất hiếm khi bày 
		tỏ. Ông ôm chầm lấy tôi, vỗ về trên lưng tôi và nói:
		– Con đã về! Con đã về!
		Bây giờ thì ông đã hiểu được lý do khiến tôi đột ngột bỏ ra đi. Tôi ở 
		lại nhà mấy hôm để an ủi cha trong lúc người đang hết sức buồn đau vì 
		cái chết của anh tôi.
		Nhưng rồi không bao lâu sau đó, một tai họa khác lại giáng xuống cho gia 
		đình tôi. Có điều, lần này thì tôi đã không đến nỗi hoàn toàn bất lực.
		° ° °
		Em gái tôi, Nalini, là một người gầy yếu từ thuở nhỏ. Thật ra, cho đến 
		thời niên thiếu thì tôi cũng chẳng mập mạp gì hơn em. Chỉ đến khi gặp 
		được sư phụ Śrỵ Yukteswar và được chữa khỏi chứng bệnh đau dạ dày kinh 
		niên thì tôi mới bắt đầu trở nên mập mạnh, thậm chí là lực lưỡng nữa. 
		Nhưng trường hợp của em gái tôi thì hoàn toàn khác. Nó không bị bệnh tật 
		gì cả, chỉ là từ bé đến lớn chưa bao giờ thấy nó lên cân hay mập mạp ra 
		chút nào, cho dù được ăn uống tẩm bổ bằng bất cứ thứ gì. Thân hình nó 
		gầy ốm dưới mức trung bình, như một bộ xương cao lêu nghêu và khô đét.
		Khi đến tuổi trưởng thành, gia đình thu xếp chuyện hôn nhân cho nó với 
		một bác sĩ trẻ ở Calcutta. Anh chàng tên là Panchanon Bose, chưa từng 
		được nhìn mặt cô dâu lần nào trước ngày đám cưới.
[2] 
		Tuy nhiên, anh chàng nhận được một món tiền hồi môn rất lớn để bù lại 
		cho cô vợ... quá gầy.
		Ngày đám cưới, tất cả gia đình và cả những người thân trong gia tộc đều 
		quy tụ đông đảo. Tôi làm quen với người em rể mới bằng một nụ cười rất 
		cởi mở đến nỗi anh chàng cho rằng tôi là người duy nhất để anh ta dám 
		“trút bầu tâm sự” trong lúc này. Anh mon men đến gần tôi vào một lúc 
		thuận tiện, rồi đưa mắt ra hiệu về phía Nalini, anh hỏi tôi:
		– “Cái đó” là cái gì vậy?
		Tôi trả lời anh chàng một cách hóm hỉnh:
		– À, “cái đó” là một bộ xương để cho ông khám nghiệm đấy, thưa bác sĩ!
		Cả hai chúng tôi đều bật cười vang sau lời đùa cợt ấy, và kể từ đó Bose 
		xem tôi không chỉ là anh rể mà còn là người bạn thân để anh ta có thể kể 
		lể tâm tình. Nhiều lần, anh chàng nói với tôi:
		– Anh ạ, vợ em quả là một trường hợp lạ thường. Em đã thử đủ mọi phương 
		cách, mọi thứ thuốc bổ dưỡng... nhưng hầu như là không có lấy một chút 
		tác dụng nào cả.
		Và tôi biết điều đó đã phần nào làm cản trở hạnh phúc trong cuộc sống 
		hôn nhân của vợ chồng em tôi.
		Một ngày kia, tôi đến thăm Bose và định ra về mà không cho em gái tôi 
		biết, nhưng khi tôi vừa ra đến cửa thì nó đã từ trên lầu gọi xuống:
		– Anh Mukunda, em có chuyện muốn nói với anh.
		Tôi liền quay trở lại. Hóa ra, “chuyện muốn nói” lại chính là sự gầy gò 
		kinh niên bất trị của nó. Nalini nói với tôi qua làn nước mắt:
		– Nếu anh đã nhờ vào con đường tu tập mà có được sức khỏe như hôm nay, 
		tại sao anh không giúp em với? Em thật là đau khổ khi phải mang thân 
		hình gầy ốm xấu xí này suốt cả đời. Em không còn tin tưởng chút nào vào 
		thuốc men và sự tẩm bổ nữa.
		Vừa nói, Nalini vừa mở nắp chai thuốc bổ và trút cả vào giỏ rác nơi góc 
		phòng.
		Tôi im lặng cảm thông với đứa em tội nghiệp của mình. Một lát, tôi bảo 
		nó:
		– Anh chỉ sợ là em không có đủ đức tin.
		– Không, em sẽ làm được. Chỉ cần anh hướng dẫn cho em phải làm những gì.
		Tôi lặng lẽ ra về. Hai hôm sau, tôi đến thăm vợ chồng Nalini và mang đến 
		cho nó một giỏ rau tươi với mấy quả cà chua thật lớn. Chỉ ngồi chơi một 
		lát rồi ra về, tôi thậm chí không gặp Nalini vì lúc ấy em tôi đang ở 
		trên lầu.
		Hai tháng sau, Bose gặp tôi trên đường phố và mừng rỡ kéo tôi lại, thông 
		báo với một vẻ rất bí mật:
		– Em chưa dám nói cho ai biết, nhưng quả thật vợ em đã lên được 2 kí-lô 
		trong vòng 2 tháng qua. Thật kỳ lạ, từ hôm anh ghé chơi đến nay nó từ 
		chối dứt khoát không dùng thịt, cá, trứng... chỉ toàn ăn cơm với các 
		loại rau cải... thế mà lại lên cân mới quái chứ!
		Tôi không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, chỉ đáp lại:
		– Thế à!
		Bose không hề biết rằng việc em gái tôi ăn chay chính là đã hiểu được 
		lời chỉ dạy của tôi. Chính tôi cũng đã cầu nguyện cho sức khỏe và đức 
		tin của nó. Ngoài việc nó lên cân, tôi tin rằng nó còn đạt được nhiều 
		điều khác nữa trong tinh thần.
		Nửa năm sau thì Nalini đã có tầm vóc của một phụ nữ bình thường. Sức 
		khỏe cũng rất khả quan, không còn những lần ốm đau vặt vãnh như trước 
		đây. Nalini vẫn tiếp tục ăn chay.
		Và vào thời điểm ấy thì tôi có việc phải sang Nhật Bản ít lâu. Khi trở 
		về, tôi được biết là Nalini đã ngã bệnh trong khi tôi đi vắng. Tôi vội 
		vã đến thăm và rất ngạc nhiên khi thấy chưa bao lâu mà nó đã chỉ còn da 
		bọc xương, nằm thoi thóp mê man trên giường bệnh. Bose mừng rỡ khi thấy 
		tôi đến:
		– Anh đây rồi! Trong những ngày còn tỉnh táo, Nalini luôn miệng gọi tên 
		anh.
		Hóa ra là Nalini mê man đã hai hôm nay rồi. Bose và các bạn bác sĩ khác 
		bạn anh đã xác định là Nalini mắc chứng thương hàn, kèm theo bệnh kiết. 
		Nhưng thuốc men của họ dường như đều vô hiệu.
		Từ nhà em gái trở về, tôi âm thầm cầu nguyện cho nó. Ngày hôm sau, trong 
		lúc nhập định tôi dự cảm được là em tôi sẽ qua khỏi căn bệnh này nhờ vào 
		sự thành tâm chú nguyện của tôi, nhưng với định lực của mình tôi vẫn 
		không thể cứu thoát nó khỏi một sự thương tổn nặng nề nhất định nào đó.
		Một tuần sau, trước sự kinh ngạc của tất cả các bác sĩ người Anh và 
		người Ấn tại Calcutta, em gái tôi dần dần bình phục như một phép lạ. Tuy 
		nhiên, điều họ không ngờ được là đôi chân em đã không còn cử động được 
		nữa. Sau khi xác định chúng đã bị liệt, họ tuyên bố là Nalini xem như 
		tàn tật suốt đời.
		Tôi tìm gặp sư phụ Śrỵ Yukteswar với tâm trạng tuyệt vọng trước sự mất 
		mát quá lớn lao cho cuộc đời của em gái tôi. Sư phụ tỏ vẻ hết sức cảm 
		thông và bảo tôi:
		– Nalini là một đứa con gái ngoan và có đức tin. Con không cần phải lo 
		cho nó. Đến cuối tháng này thì đôi chân của em con sẽ bắt đầu cử động 
		được thôi.
		Tôi vui mừng vô hạn vì biết chắc lời nói của sư phụ không hề sai lệch 
		bao giờ. Tôi lễ bái tạ ơn sư phụ về lời chúc phúc tốt lành đó. Khi tôi 
		đã bước ra đến cửa, sư phụ gọi tôi trở vào và nói:
		– Ta cần nói thêm điều này nữa. Các bác sĩ sẽ nói với em con là nó không 
		có khả năng sinh sản. Nhưng không cần thiết phải để cho nó đau khổ vì 
		việc đó. Con hãy nói cho nó biết là trong năm tới nó sẽ sinh một đứa con 
		gái, và ba năm sau là một đứa con gái khác nữa.
		° ° °
		Trường hợp của em gái tôi đã trở thành một thách thức chưa từng có và 
		đập tan hoàn toàn sự hoài nghi của các bác sĩ Tây y ở Calcutta. Bởi vì 
		đúng như dự báo của sư phụ Śrỵ Yukteswar, đôi chân của em tôi đã cử động 
		bình thường trở lại. Hơn thế nữa, kết luận về chứng vô sinh của Nalini 
		đã hoàn toàn sai lầm khi em gái tôi lần lượt hạ sinh hai bé gái đúng như 
		lời sư phụ Śrỵ Yukteswar đã tiên đoán.
		Để đáp lại những phước lành ấy, vợ chồng Nalini trở thành một trong 
		những cặp vợ chồng sùng đạo nhất ở Calcutta. Hơn thế nữa, Nalini đã phát 
		nguyện ăn chay trường suốt cuộc đời mình. Về sau, một trong hai đứa con 
		gái của em tôi đã xuất gia trở thành nữ tu sĩ.