******* Tôi
đã khảo sát các giới của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni trong các phần trước.
Hơn nữa, cả Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều có một số giới chỉ áp dụng
cho riêng họ. Như Tỳ-kheo thì có tụ Bất Ðịnh Pháp đã được trình
bày ở trên. Các giới mà đặc biệt chỉ áp dụng cho Tỳ-kheo-ni thì
không thể nói là do chính họ mà các giới này được chế định, tôi sẽ
bàn thảo sau. Các điều luật ấy được biết như Bát Kính Pháp. Bát
Kính Pháp có nội dung hầu như giống nhau trong hai bộ Luật tiếng Hoa và Pāli,
mặc dù chúng có thứ tự khác nhau. Trong kinh Pāli, Kinh Gotamī [2] và Cullavagga [3] cả hai đều nói đến
việc chế định Bát Kính Pháp và câu chuyện xuất gia của di mẫu
Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Mahāpajāpatī Gotamī - bà vừa là dì, vừa là kế mẫu của
đức Phật).[4]
Sau 5 năm đức Phật thành đạo,[5] đức Phật nhận lời thỉnh
cầu của di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề và đoàn tuỳ tùng của Bà, Ngài viếng
thăm Vườn Cây Banyan ở Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề
xin đức Phật cho phép Bà xuất gia. Đức Phật từ chối ba lần nhưng không
giải thích lý do tại sao, rồi đức Phật đi đến Tỳ-xá-li (Vesālī). Di
mẫu và đoàn tuỳ tùng buồn bã khóc lóc. Tuy buồn bã nhưng cả đoàn quyết
chí chọn đời sống của người xuất gia, dù không có sự chấp thuận của
đức Phật, họ đã cạo đầu và đắp y vàng. Bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề và
đoàn tùy tùng đi theo đức Phật từ Ca-tỳ-la-vệ đến nơi đức Phật dừng
chân là Tỳ-xá-li. Di
mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề và đoàn tùy tùng đang đứng bên ngoài giảng đường
Đại Lâm (Mahāvana) gần Tỳ-xá-li, họ gặp Tôn giả Ānanda - người bà
con của đức Phật. Tôn-giả Ānanda vô cùng thương cảm khi thấy di mẫu
Ma-ha-ba-xà-ba-đề đứng bên ngoài giảng đường buồn bã đẫm lệ với
đôi chân sưng phồng và thân thể rũ rượi vì đi bộ. Tôn giả quyết định
thuyết phục đức Phật để giúp di mẫu Gotamī. Dù đức Phật đồng ý
cho phụ nữ gia nhập Tăng đoàn, nhưng Ngài quy định rằng phụ nữ phải
tuân theo Bát Kính Pháp. Di mẫu Gotamī chấp nhận và trở thành Tỳ-kheo-ni
đầu tiên trong Phật giáo. Luật Tạng tiếng Hoa cũng giải thích chi tiết
về việc xuất gia của di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề và việc chế định Bát
Kính Pháp giống như vậy.[6] Bát Kính Pháp được dịch
sang tiếng Hoa là pa pu k’o wei fa (bát bất khả quá pháp) [7]
nghĩa là “Tám Điều Luật không được vi phạm.” Bát Kính Pháp được
trình bày như dưới đây: Người
dịch mặc ước như sau: Số La-tinh là thứ tự của Bát Kính Pháp, kế đến
là nội dung [8]
và cuối cùng là số thứ tự tương đương của giới Ba-dật-đề nếu có.
[9] 1.
Tỳ-kheo-ni dù trăm năm tuổi hạ cũng phải tôn kính, chào hỏi, xá bái một
vị Tỳ-kheo dù mới thọ giới một ngày. Tỳ-kheo-ni phải tuân giữ tôn
kính giới này suốt đời không được vi
phạm
[175]. 2. Tỳ-kheo-ni không được trách mắng hoặc
sỉ vả các sai lầm, hoặc các tà kiến, phẩm hạnh, nuôi mạng sống của
các Tỳ-kheo bằng bất cứ cách nào. Tỳ-kheo-ni
phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi phạm [145]. 3.
Tỳ-kheo được phép rầy la các Tỳ-kheo-ni, chứ Tỳ-kheo-ni không được phép rầy la một vị Tỳ-kheo.
Tỳ-kheo-ni
phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi phạm. 4.
Thức-xoa
muốn thọ giới phải đến cầu xin nhị bộ Tăng Ni. Tỳ-kheo-ni
phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi phạm.
[giống với giới 124 hay giới thứ 126]. 5.
Tỳ-kheo-ni
phạm giới Tăng-già-bà-thi-sa hành pháp Ma-na-đoả [10]
nửa tháng trước nhị bộ Tăng Ni. Tỳ-kheo-ni
phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi phạm. 6.
Mỗi nửa tháng Tỳ-kheo-ni phải cầu giáo giới
chư Tăng. Tỳ-kheo-ni
phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi phạm [141]. 7.
Tỳ-kheo-ni không được an cư ở một trú xứ không có Tỳ-kheo. Tỳ-kheo-ni
phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi phạm [143]. 8.
Sau an cư, Tỳ-kheo-ni phải đến nhị bộ Tăng Ni cầu xin tự tứ (trình 3
việc: thấy, nghe, nghi). Tỳ-kheo-ni
phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi phạm [142].
Theo
như sự trình bày ở trên, chúng ta thấy sáu giới (1, 2, 4, 6, 7 và 8) giống
hay tương tự với các giới ở tụ Ba-dật-đề (175, 145, 124 hay 126, 141 và
142) trong Tứ Phần Luật. Như tôi đã
trình bày trong phần giới thiệu, một số học giả, nhà nghiên cứu Phật
giáo và các hành giả thường cho rằng vị trí phụ nữ trong Phật giáo thể
hiện qua phần Bát Kính Pháp. Anne
Bancroft nói: “Ngày nay người ta tranh luận gay gắt về Bát Kính Pháp có
phải thật sự là do đức Phật chế định hay do các vị Tăng thêm vào
sau này. Tám điều luật này thật là quá vô lý, và khó có thể tưởng
tượng được đức Phật đã chấp nhận khả năng chứng quả A-la-hán của
phụ nữ lại nói như vậy. Ngay cả đến ngày nay Bát Kính Pháp đã và
đang tiếp tục đóng vai trò chính trong cách ứng xử của Tỳ-kheo-ni đối
với Tỳ-kheo.”[11]
Nancy
Schuster Barnes viết: “Bát Kính Pháp được nói là do đức Phật chế định
khi Ngài thành lập Ni đoàn là quá đáng và quá áp đặt.”[12] Gross
nói: “Tuy nhiên, chư Ni bị yêu cầu phải chấp nhận tám giới đặc biệt
như là điều kiện cần để được gia nhập Tăng đoàn; tám giới này đặt
Ni đoàn dưới Tăng đoàn.”[13] “Nhiều
người thích cho rằng thái độ tiêu cực của đức Phật đối với Ni đoàn
là ý tưởng được thêm vào sau này, điều đó thể hiện khuynh hướng của
các đệ tử trong giai đoạn sau bảo thủ hơn.”[14] Susan
Murcott cũng nói: “Tám Giới Đặc Biệt được thừa nhận như là điều
tiên quyết đối với việc xuất gia của phụ nữ, có lẽ chúng là bức tường
để ngăn chặn tính liều lĩnh có thể phát sinh trong tương lai. Nhưng Tám
Giới Đặc Biệt này rõ ràng đặt phụ nữ ở vị trí thứ hai. Di mẫu
Ma-ha-bà-xà-ba-đề chấp nhận các điều luật này để đạt được mục
đích tối cao của bà là thành lập Ni đoàn.”[15] Dhamacharini
Sanghadevi vạch ra rằng: “Cuối cùng đức Phật đã đồng ý phụ nữ có
thể xuất gia, nhưng họ phải chấp nhận Bát Kính Pháp (Garudhammā), mà trên thực tế Bát Kính
Pháp khẳng định là Ni đoàn không những bị thua thiệt đối với Tăng
đoàn mà còn bị lệ thuộc vào Tăng đoàn nữa.”[16] Lorna
Devaraja cũng nói: “Giá phải trả cho sự xuất gia của các Tỳ-kheo-ni là
phải chấp nhận Tám Ðiều Luật (Aṭṭha Garudhammā) bất công, tất cả các điều
luật này nhằm đưa vị trí của nam giới lên. Điều thứ nhất nói rằng
Tỳ-kheo-ni dù trăm tuổi hạ cũng phải tôn kính, đứng dậy vái chào một
vị Tăng dù vừa mới thọ giới.”[17] Tuy
nhiên, bảng liệt kê ở trên đã vạch ra sự không ăn khớp của Bát Kính
Pháp với câu chuyện thành lập Ni đoàn và cách trị phạt các tội thuộc
Ba-dật-đề. Roykan Nagasaki tranh luận rằng dù Bát Kính Pháp là những điều
luật quan trọng nhất cho bất cứ phụ nữ nào muốn xuất gia đều phải
tuân giữ, nhưng các điều luật này được đức Phật chế định ra khi
di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề xuất gia thì rất hồ nghi, vì lúc bấy giờ Ni
đoàn chưa thành lập, và sáu giới quy định cho một vị Thức-xoa-ma-na phải
tuân giữ và tu tập trong 2 năm chưa có chế định. Tuy nhiên, các vấn đề
này lại được đề cập trong 4 điều (4, 5, 6 và 8) của Bát Kính Pháp. Dường
như Bát Kính Pháp có lẽ được thêm vào sau khi thành lập hai bộ Tăng Ni.”
[18] Sư
Cô Hae-ju Chun, vừa là Tỳ-kheo-ni và cũng là giảng viên của trường đại
học Tonguk tại Seoul, Triều Tiên chứng minh có 6 điều luật (1, 2, 4, 6, 7 và
8) trong Bát Kính Pháp thuộc các giới trong tụ Ba-dật-đề của Tỳ-kheo-ni,
vì các giới trong Bát Kính Pháp tương tự hay giống như các giới trong tụ Ba-dật-đề. Chúng ta có thể so
sánh sự khác nhau trong cách trị phạt của Bát Kính Pháp với cách trị phạt
trong Ba-dật-đề. Vi phạm Bát Kính Pháp thì người nữ không được xuất
gia, Bát Kính Pháp phải được tuân giữ suốt cuộc đời của Tỳ-kheo-ni.
Tuy nhiên, các điều luật Ba-dật-đề (175, 145, 124, hay 126, 141, 143, 142) chỉ
yêu cầu sám-hối, vì các tội này của Tỳ-kheo-ni được xem như là vi phạm
“giới nhỏ.” Dựa trên mức độ khác nhau quá nhiều của các tội giữa
Bát Kính Pháp và các giới Ba-dật-đề, Sư Cô đã khẳng định có lẽ
Bát Kính Pháp được thêm vào sau này.” [19] Điều
luật thứ nhất trong Bát Kính Pháp dường như không có trong Luật Tỳ-kheo-ni
Pāli. Tôi không tìm ra điều luật này trong văn học Pāli, nhưng nó được
lập lại ở giới 175 thuộc tụ Ba-dật đề của Tỳ-kheo-ni trong Tứ Phần Luật
tiếng Hoa. Ðiều luật thứ
nhất trong Bát Kính Pháp thường được
mọi
người đem ra để tranh luận về vị
trí của phụ nữ trong Phật giáo. Có lẽ nó được các soạn giả thêm
vào trong Giới Bổn tiếng Hoa, họ muốn
thêm vào kinh điển những ý tưởng không tốt đối với phụ nữ. Đề cập
về điều luật này tôi hồ nghi rằng trong thời đức Phật các vị Tỳ-kheo
vừa mới thọ giới lại có được tám phẩm hạnh[20]
có thể nhận sự tôn kính từ nhiều vị trưởng lão Tỳ-kheo-ni đã chứng
A-la-hán hay không. Nancy
Auer Falk khẳng định: “Rõ ràng đầu dây mối nhợ của mọi chuyện là
do Bát Kính Pháp đặt chư Ni dưới quyền điều khiển của chư Tăng. Ðiều
này ám chỉ là chính đức Phật đã không đồng ý thành lập Ni đoàn để
cho phụ nữ xuất gia. Nếu chúng ta
tin theo lời khẳng định của đức Phật là phụ nữ có khả năng chứng
đạt quả A-la-hán, thì câu chuyện này có thể là một sự lừa gạt, vì
nó không được xếp vào loại văn học Phật giáo thời kỳ đầu, nhưng lại
được lưu hành rộng rãi như là câu chuyện đáng tin cậy về việc thành
lập Ni đoàn, vì vậy câu chuyện ấy ắt hẳn đã là bóng đêm phủ trùm
lên mọi nỗ lực của chư Ni.” [21] Như
tôi đã cố gắng minh hoạ ở trên, mục đích đầu tiên của đức Phật
hoàn toàn khác. Tính không nhất quán của các điều luật về phương diện
tình thương và sự hiểu biết dành cho chư Ni như đã được diễn tả
trong các giới chế định, cũng như các yêu cầu quá khắc khe của Bát
Kính Pháp thì khó mà chấp nhận được. Tôi
hoàn toàn nhất trí với Harikawa: “Bát Kính Pháp có 8 điều. Theo Bhikkhunīkhandaka [S. Bhikṣunī-skhandhaka] (Kiền-độ cho Tỳ-kheo-ni),
khi đức Phật chấp thuận lời cầu
xin xuất gia của di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề để trở thành Tỳ-kheo-ni, Ngài
cũng chế định Bát Kính Pháp. Tuy nhiên, nội dung của Bát Kính Pháp cho thấy
rằng các điều luật này thật sự được chế định sau này.” [22] Như
Harikawa tuyên bố, tôi tin rằng chỉ có một cách giải thích hợp lý là
Bát Kính Pháp được thêm vào sau này. Bằng chứng có sức thuyết phục mạnh
mẽ nhất cho cách giải thích này là nhiều điểm quá khác nhau về cách trị
phạt các tội Ba-dật đề và Bát Kính Pháp. Phạm giới Ba-dật-đề chỉ
có sám-hối, trong khi đó Bát Kính Pháp buộc Tỳ-kheo-ni phải tuân giữ suốt
đời . [1] Các học giả dịch từ Gurudharmā bằng nhiều cách khác nhau: Tám Giới Ðặc Biệt, Tám Giới Phụ, Tám Điều Kiện Quan Trọng, Tám Giới Lớn, Tám Giới Chủ Yếu,Tám Ðiều Luật Ðặc Biệt, Tám Giới Chính, Tám Giới. Tôi thích cách dịch “Tám Giới.” [2] The Book of the Gradual Sayings (Aṅguttara-Nikāya), Vol. IV (London: P.T.S.), pp. 181-5. [3] Sacred Buddhist Books. Tập. XX, pp. 352 - 6, hoặc Ðại Chánh Tạng, Tập XXII, pp. 922-3. [4] Câu chuyện xuất gia của di mẫu Mahāpajāpatī trong một số bản luật có vài điểm khác nhau nhưng căn bản là giống nhau, ngoại trừ một vài chi tiết quan trọng. [5] Horner, Women Under Primitive Buddhism, p. xxii. [6] Ðại Chánh Tạng, Tập XXII, pp. 922-923. [7] Sách đã dẫn, p.923. [8] Sách đã dẫn, Tập XXII, pp. 646, 649, 923, 1045 và Tập XXIII, p. 345. [9] Ryokan Nagasaki, "A Study on the Ordination of Mahāpajāpatī Gotamī Bhikṣuṇī," in The Journal of Indian and Buddhist Studies. Vol. 52 (Tokyo: University of Tokyo, 1978), p. 656. Nagasaki so sánh Bát Kính Pháp của Luật Pāli với Bát Kính Pháp của các bộ Luật khác. Còn tôi thì so sánh Bát Kính Pháp với các giới trong phần Ba-dật-đề dựa trên Luật Tứ Phần tiếng Hoa. [10] Xem cước chú 16 phần Tăng-già-bà-thi-sa. [11] Anne Bancroft, "Women in Buddhism," Women in the World's Religions, ed. Ursula King (New York: Paragon House Publishers, 1987), p. 83. [12] Nancy Schuster Barnes, "Buddhism," in Women in World Religions, ed. Arvind Sharma (Albany: State University of New York Press, 1987), p. 107. [13] Gross, p. 9. [14] Sách đã dẫn, p.33. [15] Murcott, p. 17. [16] Dharmacharini Sanghadevi, "The History of the Ordination of Women in Buddhism," in Dakini Issue 7, Summer 1991 (Glasgow: Ink Print and Design, 1991), p. 4. [17] Heidi Singh, "The Value of Precepts," in Sakyadhītā: International Association of Buddhist Women Vol. 4, No. 1 (Honolulu: Sakyadhita, 1993), p. 7. [18] Nagasaki, p. 656. [19] Hae-ju Chun, "A View of Women in Buddhism" in The Dharma Newspaper (Pubpo Sinmun) Nov. 16, 1992, p. 8. [20] Bậc thánh đã chứng quả A-la-hán. Ðây là quả thánh tối cao của Phật giáo Thương Toạ Bộ. Trong Trưởng Lão Ni Kệ (Therīgāthā) có 73 bài kệ của các vị Trưởng Lão Ni. Nhiều Tỳ-kheo-ni đã chứng quả A-la-hán trong thời đức Phật còn tại thế. [21] Falk, p. 162. [22] Hirakawa, p. 37. Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | Lời người dịch |
[ Trở Về ] |