Phần
III: Bất
Ðịnh Pháp (Aniyata dharmā) ****** Tụ
thứ ba của Giới Bổn Tỳ-kheo là Bất Ðịnh Pháp (S. aniyata; P. aniyatā) tụ này không có trong Giới Bổn Tỳ-kheo-ni.
Bất Ðịnh Pháp được định nghĩa như vầy: “Vì bản chất của tội chưa
được xác định, nên tụ này của
Giới Bổn được gọi là Bất Ðịnh Pháp, tức là “sẽ được xác
định.” [1]
Charles S. Prebish nói: “Các tội trong tụ này được xem là những tội chưa
xác định.” [2]
Aniyata
dharmā
được
dịch sanh tiếng Hoa là pu ting fa (Bất Ðịnh
Pháp) [3]
nghĩa là không rõ ràng hay chưa xác định. Hai giới Bất Ðịnh này chỉ
áp dụng cho Tỳ-kheo, điều này làm cho chúng ta phải ngạc nhiên và nhận
thấy mức độ tin cậy đối với phụ nữ để xác chứng về một vị Tỳ-kheo
phạm một trong hai giới Bất Ðịnh. Bất Ðịnh Pháp được trình bày như
dưới đây: Người
dịch tạm mặc ước hai giới Bất Ðịnh của Tỳ-kheo như sau: thứ nhất
là trật tự của giới, thứ hai là nội dung của giới [4]. 1.
Cấm ngồi với phụ nữ chỗ kín, chỗ che khuất, thích hợp cho quan hệ
tình dục. 2.
Cấm ngồi với người nữ chỗ trống trải hoặc chỗ che khuất, không
thích hợp với quan hệ tình dục. Tôi
bàn về hai giới này của Tỳ-kheo có lẽ là không thích hợp lắm. Tuy
nhiên, chúng cũng cho chúng ta thấy quan điểm Phật giáo đối với phụ nữ.
Như Prebish chỉ ra, “Hai tội trong phần Bất Ðịnh Pháp phản ảnh một mức
nào đó về lòng tin tưởng đối với nữ cư sĩ Phật tử làm cho chúng ta
phải ngạc nhiên.” [5]
Nếu một vị Tỳ-kheo ngồi chung với phụ nữ chỗ kín thích hợp có khả
năng liên hệ đến tình dục hoặc ngồi ở chỗ trống trải không thích hợp
để sinh lòng tham dục, thì vị Tỳ-kheo ấy có thể phạm một trong những
tội trong các tụ Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa hoặc Ba-dật-đề tuỳ theo lời
khai của nữ cư sĩ. [6]
Điều đáng chú ý ở đây là lời nói của phụ nữ được đánh giá cao
như vậy, và thật là lạ lùng khi vị trí của phụ nữ vào thời đó rất
thấp mà giới luật lại quy định như vậy. Các hình phạt cho hai tội của
Bất Ðịnh Pháp này giành cho Tỳ-kheo lại đặt niềm tin vào nữ giới,
mà lại không áp dụng cho chư Ni. Bà
Hornor nói: “Hai giới Bất Ðịnh này cho chúng ta thấy sự tôn trọng và lòng tin tưởng đối với
phụ nữ vào thời đó. Họ không bị khinh bỉ, gạt qua một bên như đồ
ngồi lê đôi mách hoặc như người
ba hoa vô tích sự, mà lời nói của họ
được
xem là quan trọng.” [7] [1] C. S. Upasak, Dictionary of Early Buddhist Monastic Terms (Varanasi: Bharati Prakashan, 1975), p. 14. [2] Charles S. Prebish, Buddhist Monastic Discipline: The Sanskrit Prāṭimokṣa Sūtras of the Mahāsāṃghikas and Mūlasarvāstivādins (New York: The Pennsylvania State University Press, 1975), p. 13. [3] Ðại Chánh Tạng, Tập XII, pp. 600-601. [4] Sách đã dẫn, pp. 600-601, 1017. [5] Prebish, p. 13. [6] Ðại Chánh Tạng, Tập XII, p. 1017. [7] Sacred Buddhist Books. Tập X, p. xxxiii. Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | Lời người dịch |
[ Trở Về ] |