LỜI NGƯỜI DỊCH Nguyên tác A Buddhist View
of Women: A Comparative Study of the Rules for Bhikṣuṇīs
and Bhikṣus Based on the Chinese Prātimokṣa được đăng trong phần
tiếng Anh của một số trang Phật học. Về
nguyên tắc dịch, chúng tôi cố đi sát với văn phong của tác giả, chỉ
trừ chỗ nào thấy không phù hợp với văn phong Việt ngữ, buộc chúng
tôi phải dịch thoát ý. Tác
giả so sánh Giới Bổn Tăng và Giới Bổn Ni dựa trên bản tiếng
Hoa, nhưng một vài chỗ chúng tôi đối chiếu lại với nguyên tác tiếng
Hoa thì nhận thấy nó không sát với bản tiếng Hoa lắm. Tự nghĩ, nhiệm
vụ của chúng tôi không phải là so sánh cách dịch Giới Bổn từ tiếng
Hoa sang tiếng Anh của tác giả như thế nào, nên chúng tôi không quan tâm
nhiều về vấn đề này. Tuy nhiên, trong quá trình dịch, có một vài chỗ
làm chúng tôi hơi nghi ngờ, buộc chúng tôi phải đối chiếu lại và phát
hiện có nhiều giới có nội dung hơi xa với nguyên tác; nhờ đó chúng
tôi mới phát hiện trật tự của các giới trong bản dịch này bị thay đổi
rất nhiều. Do đó, chỗ nào chúng tôi vô tình phát hiện được thì chúng
tôi ghi là chú thích của người dịch để độc giả có thể đối chiếu
lại. Trong
nguyên tác, tác giả đã dùng hậu chú cho toàn bộ bài viết. Vì chúng tôi
nghĩ cách chia bài viết theo từng phần để dịch và trình bày thì dễ
dàng cho bản thân chúng tôi và cho độc giả hơn, nên chúng tôi làm hậu
chú cho từng phần, do đó thứ tự hậu chú của bản dịch và bản nguyên
tác không giống nhau. Thứ nữa, vì trong quá trình dịch chúng tôi có đưa
thêm một số ý kiến cá nhân nên trật tự cước chú bị thay đổi theo và
số lượng hậu chú cũng gia tăng. Vì
khả năng trình bày bị hạn chế, nên các biểu đồ trong nguyên tác chúng
tôi không vẽ được và thay vào đó chúng được trình bày dưới dạng bảng
liệt kê đính kèm các mặc ước. Do đó, những đoạn các mặc ước trong
bản dịch đều do chúng tôi ghi thêm vào để độc giả dễ nắm bắt. Bản
nguyên tác tiếng Anh có phần Thư Mục Tham Khảo các nguồn tài liệu tiếng
Anh, Hoa, Nhật, và Triều Tiên, chúng tôi không đưa vào bài dịch này, nếu
độc giả nào muốn tham khảo thêm xin vào nguyên tác để xem. Tác
giả bài khảo luận so sánh hai bộ Giới
Bổn Tăng và Giới Bổn Ni
này có lẽ đã bỏ công nghiên cứu một vài bộ Luật và các bài viết
nghiên cứu có liên hệ đến Luật nên đã đưa ra nhiều dẫn chứng đồng
dị để soi sáng vấn đề dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Điểm
khá độc đáo trong bài viết này, tác giả cũng là một Tỳ-kheo-ni có một
quan điểm khá khác biệt với hầu hết các quan điểm của các nhà ghiên
cứu phương Tây khi họ nghiên cứu về quan điểm bình đẳng của Phật giáo,
đặc biệt giữa Tăng Ni, hay rộng hơn là nam và nữ. Phần lớn các học
giả Đông Tây đều cho rằng chư Ni bị ép buộc phải giữ hơn chư Tăng 100 giới và
tuân thủ Bát Kính Pháp, điều đó được xem như là điều không cần thiết.
Nhưng theo Sư Cô In Young Chung cho rằng những giới mà chư Ni buộc phải tuân thủ đó rất cần thiết
cho một Tỳ-kheo-ni sống trong xã hội Ấn Độ cổ đại (Phần V: Giới
Ba-dật-đề). Hơn nữa, Bát Kính Pháp là một vấn đề gây nhiều tranh
cãi có phải là do chính đức Phật chế định hay không? Sư Cô In Young
Chung và nhiều tác giả nghiên cứu khác như trong phần IX đã trình bày là
Bát Kính Pháp không phải do chính đức Phật chế định, mà có lẽ là do
chư Tổ hoặc các nhà có trọng trách
biên tập Tam Tạng về sau thêm vào. Chúng tôi cũng đồng với các quan điểm
đó. Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ rằng không phải vì Bát Kính Pháp không phải
do chính đức Phật chế định nên chúng ta có quyền bác bỏ. Theo kinh nghiệm
bản thân của người dịch, dù chư Ni có buộc giữ Bát Kính Pháp như điều
kiện tiên quyết cho đời sống lý tưởng của một người xuất gia, thì
điều đó cũng không có trở ngại cho đời sống tu tập tâm của mình,
mà ngược lại Bát Kính Pháp giúp cho Tăng Ni tổ chức đời sống cộng đồng
ổn định hơn, khi nhìn theo phương diện xã hội học, vì điều đó giúp
cho chư Tăng Ni có khoảng cách, tránh được những rắc rối có thể phát
sinh. Hơn nữa, Bát Kính Pháp giúp cho chư Ni khiêm hạ trước chư Tăng và
nhờ đó chư Ni học được nhiều kinh nghiệm tu tập quý báu từ chư
Tăng. Chính nhờ sự khiêm hạ đó, chư Ni tạo được các mối quan hệ tốt
đối với chư Tăng và giúp ích cho đời sống cộng đồng chư Ni được
ổn định hơn. Điều này cũng không phải vì những lợi ích thô thiển như
trên mà buộc chư Ni phải giữ thêm Bát Kính Pháp mà nhiều chư Ni Việt
Nam hay các nước than van, thậm chí có những thái độ hoặc hành động quá
đáng đòi hỏi quyền bình đẳng tuyệt đối giữa nam nữ như thế thường.
Sự đòi hỏi quá đáng với tâm niệm hơn thua, lớn nhỏ, xuất phát từ
các tâm lý bất thiện như vậy làm cho các mối quan hệ xã hội đổ vỡ,
chưa kể đến đời sống nội tâm của chư Ni cũng bị bất an vì những
tâm niệm ấy thường rình rập, dày xéo mảnh đất tâm của họ. Theo các
nhà khoa học và nhiều nhà nghiên cứu về tâm lý trị liệu, các nhà tâm
lý học, phụ nữ có nhiều nhược điểm hơn nam giới vì cấu trúc sinh
lý chi phối não bộ, làm ảnh hưởng đến đời sống tâm linh. Do đó,
không có gì quá đáng khi chư Ni phải tuân giữ thêm Bát Kính Pháp và một
số giới khác trong các tụ giới.
Dĩ
nhiên, chư Tăng cũng đừng vì lợi dụng Bát Kính Pháp mà bắt nạt chư Ni
thái quá, làm cho chư Ni phải tủi thân, cảm thấy bị hèn mọn. Điều đó cũng không tương hợp với với lời
dạy của đức Phật, đó là tất cả chúng sanh đều bình đẳng trước
đau khổ và quả vị giác ngộ tối thượng.
Tinh thần bảo thủ không cho nữ giới thọ cụ túc giới của
một số nước theo truyền thống Phật giáo Theravāda (Lào, Cam Pu Chia, Thái
Lan, Miến Điện) và Phật giáo Đại Thừa (Tây Tạng và Mông Cổ) đã làm
cho nữ giới sinh khởi những tư tưởng tự ti mặc cảm không cần thiết,
rồi lại đi cầu thọ cụ túc giới ở nơi khác. Kính mong chư tôn đức
quan tâm nâng đỡ cho chi Ni phát huy hết chức năng của mình như thời đức
Phật còn tại thế, tạo điều kiện để chư Ni đóng góp sức mọn của
mình cho nhân quần xã hội, đem lại cuộc sống an lạc và đạo vị hơn. Chúng tôi dịch
tài liệu này với mục đích là để học hỏi thêm, nhận thấy tài liệu
này có lẽ sẽ bổ ích cho những vị muốn nghiên cứu về Giới Bổn Tăng và Giới Bổn Ni, các quan điểm Đông Tây về
quan điểm bình đẳng giữa Tăng và Ni cũng như giới thiệu sơ bộ lý do Giới Bổn Ni
được thành lập mà Sư Cô In Young Chung đã dày công biên khảo.
Do đó, xin được chia sẻ với tất cả thiện hữu tri thức, đặc biệt
những vị quan tâm nhiều đến Giới Bổn
Tăng và Giới Bổn Ni. Bản dịch có lẽ
còn nhiều khiếm khuyết, mong các bậc thiện hữu tri thức hoan hỷ chỉ dạy
cho. Kính chúc chư pháp hữu đều được “hiện pháp lạc trú” và sớm
đạt được lý tưởng hằng mong ước. Mùa Phật Đản PL.
2546 Dharamsala, Ấn Độ, Thích Nữ Liên Hiếu
Kính ghi. Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | Lời người dịch |
[ Trở Về ] |