Phần
I: Ba-la-di (Pārājika-dharmā)
******* Sự
phân loại các giới trong Luật Tứ phần và trong Luật
Pāli được sắp
xếp theo thứ tự từ nặng đến nhẹ. Trong đời sống xuất
gia của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, tội Ba-la-di là tội nặng
nhất. Bà I. B. Horner giải thích thuật ngữ pārājika như sau: “Ý
kiến của Burnouf (cũng được Childers và các học giả khác
chấp nhận) cho rằng pārājika
xuất phát từ ngữ căn
para + aj, có nghĩa là tội buộc
phải trục xuất hay khai trừ khỏi cộng đồng Tăng đoàn.
Theo văn phạm học, từ pārājika hay paraji có
thể xuất phát từ ngữ căn Para cộng với aj . Nhưng đối với tôi, dùng nghĩa “bị thất
bại” dường như đáng tin tưởng hơn là nghĩa “trục
xuất” và mặc dù trong văn học Vệ-đà ngữ căn aj có nghĩa là “tẩn xuất”, nhưng nghĩa này không được
xem như là nghĩa gốc trong Pāli.[1]
E.
J. Thomas nói: “Ngài Phật Âm (Buddhaghosa, còn được dịch nghĩa
là Phật Minh) giải thích từ pārājika
là “sự thất bại” hoặc “đau thương”, và trường phái
Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Mūlasarvastivāda) cũng
giải thích như vậy, nhưng bản sớ giải sớm nhất [2]
của Luật Bộ không đưa ra một gợi ý nào về ý nghĩa này.” [3] Trong
phần giải thích thuật ngữ Ba-la-di, tiếng Hoa là “po luo yi
fa” (ba-la-di pháp) Tứ Phần Luật
giải thích như thế này: nếu một vị
Tỳ-kheo [hay Tỳ-kheo-ni] phạm tội Ba-la-di thì vị Tăng [Ni]
ấy được xem như là “đã bị cắt đầu.” Người phạm
giới hoàn toàn đánh mất đời sống tu sĩ, không còn được
sống chung với các vị Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni thanh tịnh
nữa. [4]
Trong tụ Ba-la-di, Tỳ-kheo-ni có thêm 4 giới nữa liên quan đến
hành vi dâm dục. Nếu một Tỳ-kheo nào phạm một trong những
tội thuộc tụ Ba-la-di thì vị
ấy bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn. Một Tỳ-kheo-ni phạm
một trong những tội thuộc tụ Ba-la-di thì cách xử phạt cũng
giống như vậy. Tuy nhiên, kết quả việc vi phạm giới dâm dục
của Tỳ-kheo-ni có thể dẫn đến cô ấy bị mang thai, vì
Tỳ-kheo-ni vốn có khả năng sinh sản. [5]
Vì lý do này 4 giới thêm vào liên hệ đến vấn đề dâm
dục trong tụ Ba-la-di của Tỳ-kheo-ni là các giới rất nghiêm
trọng. Các giới Ba-la-di được trình bày như dưới đây: Người
dịch tạm đặt các mặc ước cho các giới sau: Thứ nhất là
các số thứ tự; kế đến là nội dung của giới,[6] thứ 3 là trật tự của giới Tỳ-kheo tương
đương [7] được để
trong ngoặc vuông […] nếu có. 1.
Cấm dâm dục [1]. 2.
Cấm trộm cắp [2]. 3.
Cấm sát sanh [3]. 4.
Cấm nói láo khoe mình chứng đạt Thánh quả [4]. 5.
Cấm đụng chạm đến người nam có tâm nhiễm ô. [8] 6.
Cấm làm tám việc [9]
chung cùng với người nam có tâm nhiễm ô. 7.
Cấm bỏ qua hoặc che dấu tội
trọng của một Tỳ-kheo-ni khác. 8.
Cấm a tùng theo một Tỳ-kheo phạm tội bị giáng cấp sau khi
khuyên răn 3 lần.
[10]
Như
vậy, bốn giới đầu cả Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều có
nội dung như nhau. Bốn giới sau (5, 6, 7 và 8) thêm vào cho
Tỳ-kheo-ni. Nếu Tỳ-kheo-ni (Tỳ-kheo) nào vi phạm một trong các
giới trong tụ Ba-la-di thì không thể nào phục hồi được và
buộc phải khai trừ vĩnh viễn ra khỏi Tăng đoàn.[11]
Hai giới (5 và 6) thêm vào của Tỳ-kheo-ni đề cập đến các
tội tình dục, giới thứ 7 liên quan đến vấn đề che dấu
tội phạm Ba-la-di của một Tỳ-kheo-ni khác, và giới thứ 8:
a tùng với một vị Tỳ-kheo đã bị Tăng đoàn cử tội. Vì
chưa đủ kiến thức về quan điểm của Phật giáo đối
với phụ nữ, một số người nghĩ rằng 4 giới được chế
định thêm vào cho Tỳ-kheo-ni vì lòng tham ái của phụ nữ khó
kiềm chế được. Một
học giả Phật giáo Triều Tiên, Jung-shu Han phê bình các
giới trong tụ Ba-la-di của Tỳ-kheo-ni: “Chúng ta nên hiểu
những lý do tại sao mà đức Phật từ chối việc thành lập
Ni đoàn và chế đặt thêm 4 giới cho Tỳ-kheo-ni trong tụ
Ba-la-di này. Vì lòng tham dục của Tỳ-kheo-ni rất nhiều và
khó điều phục, họ có liên hệ tình dục với cư sĩ, với
những người không phải là Phật tử và ngay cả các
Tỳ-kheo. Do đó, họ tạo ra các vấn đề rắc rối trong Tăng
đoàn và làm mất đi sự thanh tịnh của giáo pháp trong thời
đức Phật.” [12] Tuy
nhiên, Richard F. Gombrich chỉ ra: “Một điều đáng chú ý là
đức Phật không theo các quan niệm đang thịnh hành trong
truyền thống Ấn Độ và các nơi khác, cho rằng lòng tham dục là
tội của phụ nữ và dâm dục là kết quả của sự cám dỗ
của người nữ đối với người nam…. Điều quan trọng hơn
là bài kinh nói về lòng tham dục của người nam đối với
người nữ và của người nữ đối với người nam đều như
nhau.[13] Gross
cũng nói: “Ðiều đáng chú ý ở đây, nhiều nhà sớ giải
hiện đại đều nhận ra rằng một trong những mối quan tâm
lớn về giới luật Tăng đoàn là phải tách biệt chư Tăng và
chư Ni để giữ gìn đời sống phạm hạnh. Chỉ có một vài
trường hợp ngoại lệ Tăng hoặc Ni lôi cuốn lẫn nhau. Điều
trở ngại thật sự là mối quan hệ giữa người xuất gia và
cư sĩ.” [14] Nagata
Mizu lại xác nhận thêm lý do thực tế của hai giới thêm vào
(5 và 6) liên hệ đến việc cấm dâm dục của Tỳ-kheo-ni. Ông
nói các điều luật này cấm Tỳ-kheo-ni xúc chạm đến thân
thể của nam giới vào bất cứ lúc nào, vào bất cứ tình
huống nào, vì Tỳ-kheo-ni có khả năng sinh sản, mà sự sinh
sản đi ngược lại với đời sống xuất gia.[15]
Tứ
Phần Luật không trình bày chi tiết lý
do tại sao giới Ba-la-di thứ 7 của Tỳ-kheo-ni được chế ra. [16] Tuy nhiên, bản
Luật Pāli có trình bày một sự kiện lịch sử lý do tại
sao giới này được chế định. Tỳ-kheo-ni Sundarīnandā có
quan hệ ái dục với nam cư sĩ Sāḷha, cháu nội của Migāra,
và cô bị mang thai. Sau khi cô không thể che dấu được nữa,
cô buộc phải ra khỏi Tăng đoàn. Chị của cô là Thullanandā
che dấu tội của Sundarīnandā mặc dù cô biết Sundarīnandā
phạm tội Ba-la-di. Do đó, mặc dù điều luật thứ 7 của
Ba-la-di thoáng nhìn qua dường như để đề cập tội che
dấu, nhưng nó cũng chỉ ra mối liên hệ đến vấn đề tình
dục giữa nam và nữ. [17] Mặc
dù đức Phật chế định các giới là Tỳ-kheo-ni phải học
giáo pháp (dharma) với
các vị Tỳ-kheo được Tăng đoàn chỉ định [18], Ngài cũng chế
giới thứ 8 để bảo vệ cho chư Tỳ-kheo-ni không bị một
Tỳ-kheo không có phẩm hạnh lạm dụng. Giới này có thể là
dư tàn của Ni đoàn vào thời kỳ đầu, khi một số
Tỳ-kheo-ni bị các Tỳ-kheo đã trục xuất ra khỏi Tăng đoàn
sai khiến.[19]
Những giới luật thêm vào cho Tỳ-kheo-ni trong tụ Ba-la-di có
vẻ không đồng nhất, nhưng chúng ta thấy sự kiện lịch
sử
để chế các giới này phần lớn có liên quan đến
các tội ái dục. Giới thứ 8 là một trong các giới quan
trọng nhất của đời sống phạm hạnh của Tỳ-kheo-ni, tuy
nhiên, phạm giới này chưa kết nhận là tội nếu chưa được
khuyên đến lần thứ ba. Chatsuman Kabilsingh nhận xét giới
thứ 8 như sau: “Một
điều lạ là cấu trúc của giới thứ 8 của tụ Ba-la-di khác
với những giới còn lại trong tụ này. Một vị Tỳ-kheo-ni
bị xem là phạm giới này chỉ sau khi khuyên đến lần thứ
3, cách kết tội này gống như tội Tăng-già-bà-thi-sa hơn là
tội Ba-la-di. Cũng có thể nó được lấy từ Tăng-già-bà-thi-sa
chăng? Nếu trường hợp đó đúng thì sự chuyển đổi này
phải xảy ra ở giai đoạn rất sớm trước khi phân phái, vì
các bộ luật của các trường phái đều có giới này. [20]
Nagata
Mizu tán thành rằng nếu một vị Tỳ-kheo-ni phạm tội có liên
hệ đến vấn đề tình dục, vị Ni ấy buộc phải rời
khỏi Ni đoàn. Hơn nữa, kết quả của việc phạm tội có
thể làm cô mang thai, và điều này tạo ra vấn đề rắc
rối hệ trọng cho Tăng đoàn cũng như cho cá nhân. Ngược
lại, nếu một vị Tỳ-kheo vi phạm đến các vấn đề tình
dục, sự hành phạt của tội có thể chỉ bị khắc khoải
trong thâm tâm của vị Tỳ-kheo ấy thôi. [21] Nhờ
khảo sát tỉ mỉ khi nghiên cứu, đối chiếu với các giới
trong tụ Ba-la-di của Tỳ-kheo-ni và Tỳ-kheo, chúng ta thấy
rằng 4 giới của tụ Ba-la-di thêm vào của Tỳ-kheo-ni thật
sự chỉ đề cập đến các vấn đề tình dục. Dường như
đức Phật hết sức quan tâm, đề phòng kỹ càng cho đời
sống thanh tịnh của Tỳ-kheo-ni hơn Tỳ-kheo, và để bảo
vệ an toàn hơn đối với hành vi tham ái cho Tỳ-kheo-ni bởi vì
họ vốn có khả năng sinh sản. [22]
Như Nagata Mizu khẳng định những kết quả của việc phạm
tội dâm của Tỳ-kheo-ni có thể khác xa với các kết quả
phạm tội dâm của Tỳ-kheo. Kết quả phạm tội dâm của
Tỳ-kheo-ni không chỉ đơn giản là họ bị khai trừ ra khỏi
Tăng đoàn, mà họ còn
phải cưu mang bổn phận phải sinh sản và làm mẹ . [1] Sacred Buddhist Books. Tập X. p. xxvi. [2] Bản sớ giải này nguyên tác viết bằng Pāli: Sāmantapāsādikā của Ngài Phật Âm viết vào khoảng thế kỷ thế V TL. Bộ sớ giải này chưa được dịch sang tiếng Anh và tiếng Việt (ghi chú của người dịch). [3] E. J. Thomas, The History of Buddhist Thought (New York: Alfred A. Knopf, 1933), p. 16. [4] Ðại Chánh Tạng, Tập XXII, p. 571. [5] Điều này người dịch không hoàn toàn chấp nhận với ý kiến của tác giả. Vấn đề vi phạm trọng giới dâm dục còn ảnh hưởng rất nặng đến đời sống tâm linh của người nữ cho kiếp hiện tại và trong nhiều kiếp sau, chứ không đơn giản chỉ có vấn đề mang thai. Hơn nữa, hiện nay có rất nhiều cách để ngừa thai. (ý kiến của người dịch) [6] Ðại Chánh Tạng, Tập XXII, pp. 714-718. 1031-1032. Bảng liệt kê này và các bảng liệt kê tiếp theo là bản dịch của tác giả từ tiếng Hoa. Nếu độc giả muốn tìm hiểu đầy đủ các giới luật của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni nên đọc trong Luật tạng. [7] Ðại Chánh Tạng, Tập XXII, pp. 568-579. 1015-1016. [8] Người có tâm nhiễm ô: người có nhiều ham muốn nhục dục. [9] Tám việc (Ðại Chánh Tạng, Tập XXII, p. 715) là: 1. Cầm tay người nam; 2. Ðụng chạm y phục người nam; 3. Cùng vào chỗ kín với người nam; 4. Ðứng với người nam; 5. Nói chuyện với người nam; 6. Cầm nắm tay chân của người nam; 7. Hẹn hò cùng đi; 8. Hẹn hò đến chỗ gặp. [10] Giới này được áp dụng cho người vi phạm sau 3 lần khuyên. [11] Ðại Chánh Tạng, Tập XXII, pp. 571. 1015-1016. [12] Muk-dam Kuk and Jung-shup Han, Pulgyo kyeyul haesol (A Translation and Commentary on the Chinese Bhikṣu and Bhikṣuṇī Sse fen lu) (Seoul: Ihwa Munhwasa, 1987), pp. 136-137. [13] Richard F. Gombrich, pp. 104-105. [14] Gross, p. 45. [15] Nagata Mizu, "A View of Women in the Bhikṣuṇī-Vinaya," in Journal of Indian and Buddhist Studies (Indogaku Bukkyogaku Kenyu) Vol. 54 (Tokyo: University of Tokyo, 1978), p. 708. [16] Ðại Chánh Tạng, Tập XXII, pp. 716-717. [17] Sacred Buddhist Books. Tập XIII, pp. 165-168. [18] Xem giới 140 và 141 của tụ Ba-dật-đề đối với các Tỳ-kheo-ni. [19] Mizu, p. 708. [20] Kabilsingh, p. 54. [21] Mizu, p. 708. [22] Theo người dịch, đức Phật là bậc toàn trí, Ngài có thể nhìn thấy vấn đề xa rộng hơn, đó là các tâm lý ái nhiễm của giới nữ khi sa ngã vào ái tình. Sư cô In Young Chung nêu những nguyên nhân trên, thiết nghĩ chỉ là vấn đề bên ngoài mà thôi (chú thích của người dịch). Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | Lời người dịch |
[ Trở Về ] |