BuddhaSasana
Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode
Times font
HỘ
TÔNG TỲ KHƯU
(VANSARAKKHITA MAHA THERA)
MAHÀJANAKA
JÀTAKA BỒ TÁT TU HẠNH TINH TẤN BA LA MẬTATITE KÀLE: Trong thuở quá khứ có một vị Hoàng Ðế danh là MAHÀJANAKA, trong kinh đô MITHILÀ. TASSA RANNO DEVAPUTTA: Ðức Hoàng Ðế có hai Hoàng Tử là: ARIKHAJANA và POJANA. Vua cha phong con trường (ARIKHAJANA) làm đông cung, con thứ (POJANA) làm đại tướng. Không bao lâu Hoàng Ðế băng hà, đông cung lên kế vị, rồi phong cho em POJANA làm thứ vương. Vì vua quá tin lời sàm tấu của nịnh thần, nên bắt em là thứ vương hạ ngục. Sau thứ vương vượt ngục trốn khỏi, chiêu binh mãi mã [1] trở về tranh ngôi báu, giết được vua anh (ARIKHAJANA) rồi đoạt vị. Hoàng Hậu của vua ARIKHAJANA, khi hay tin chồng tử trận, bà bèn tìm đường tẩu thoát. Lúc đó nhờ đức Bồ Tát thọ sanh vào trong thai bào, nên khiến trời Ðế Thích hiện xuống, giả làm xa phu thỉnh Hoàng Hậu lên xe, đưa bà đến kinh đô KÀLACAMPAKA tỵ nạn, rồi từ biệt biến mất. Hoàng Hậu tìm chỗ an nghỉ, nương náu trong một phước xá. Khi ấy có một vị Bà la môn trứ danh, giáo sư (DÌSÀPAMOKKHA) trong thành KÀLACAMPAKA dẫn năm trăm đồ đệ đi tắm, thấy Hoàng Hậu liền phát tâm thương hại như em ruột (do phước báu của đức Bồ Tát trong thai bào) nhìn làm em gái, rồi đem về cho vợ chăm nom như em ruột. Không bao lâu, Hoàng Hậu sanh được một hoàng nam diện mạo khôi ngô, xinh đẹp, màu da như vàng, đặt tên là MAHÀJANAKA. Lớn lên đùa giỡn với trẻ con. Bồ Tát có nhiều sức mạnh nên lũ trẻ rất kiêng nể. Bữa nọ, vì bất bình, Bồ Tát đánh bọn trẻ chạy, chúng mách cha mẹ chúng hay, rồi chỉ Bồ Tát mà rằng: "Ðây, nó là đứa không cha". Bồ Tát nghe qua lòng chẳng yên, về hỏi mẹ: Cha con đâu? Hỏi nhiều lần Hoàng Hậu khó giấu được, nên nói rõ tự sự. Từ đó, Bồ Tát an lòng thủ phận, trầm tư suy nghĩ. Lên 16 tuổi, Ngài rất thông minh, trong năm trăm đồ đệ của vị trứ danh giáo sư chẳng ai sánh bằng. Một hôm, Bồ Tát MAHÀJANAKA hỏi: Mẹ có vật chi quí giá chăng? Hoàng Hậu đáp: Khi ra khỏi thành, mẹ có đem theo nhiều báu vật để làm của cho con. Bồ Tát xin phân nữa dùng làm vốn buôn bán lấy lời, với mục đích là chiêu binh mãi mã trở về phục nghiệp. Ngài xin phép mẫu hậu xuống thuyền qua biển về kinh đô MITHILÀ (xứ Phụ Vương của Ngài đã trị vì). Không may, thuyền ra biển đến ngày thứ 7, bị trận bảo to phải chìm. Lúc bấy giờ, các thủy thủ sợ chết, khóc la, khẩn cầu ông này bà nọ bảo hộ, trái lại. Bồ Tát tìm thực phẩm độ cho no, rồi ấy y phục nhúng dầu, mặc vào, xong leo lên cột buồm, nhảy ra xa khỏi bầy cá đang ăn các thủy thủ. Ngài lội mãi như thế, đến ngày thứ 7, thấy trăng trò, biết là rằm, Ngài bèn dùng nước mặn súc miệng rồi nguyện thọ trì bát quan trai và không quên sự cố gắng, trong kiếp Ngài là Bồ Tát MAHÀJANAKA này, gọi là Bồ Tát tu hạnh tinh tấn đến bờ kia (VIRIYA PÀRAMÌ). Thuở đó, có một nàng Thiên nữ tên là MANÌMEKHALÀ lãnh trách nhiệm cứu vớt nạn nhân trên biển, song nàng mắc đi dự hội với các Thiên nữ nên không hay biết (do tiền nghiệp của Bồ Tát). Ðến ngày thứ 7 Thiên nữ mới rõ có Bồ Tát mắc nạn trong biển đã 7 ngày, nàng bèn bay đến ngay trên chỗ Bồ Tát đang lội, rồi cất tiếng gọi: Người thanh niên này! Vì sao ngươi đến chịu chết trong biển to như vậy? Bồ Tát nghĩ rằng chắc là Thiên nữ đến cứ'u giúp ta, rồi đáp: Mẹ ôi! Xin mẹ từ bi ra ơn cứu độ con với! Nàng tiên nữ nghe những lời cảm động như thế, liền hỏi tiếp: Do nguyên nhân nào, mà con phải lâm nạn trong biển này? - Vì tôi mong đi buôn lấy lời, để tìm dịp chiêu binh mãi mã về phục hồi đế nghiệp vua cha tôi. Ngài kể hết cho nàng Thiên nữ nghe - Thôi con đừng lo ngại, mẹ đến đây để cứu con được đắc kỳ sở nguyện. Nàng vớt Bồ Tát, bay đến kinh đô MITHILÀ, rồi trở về. Bồ Tát vào ngự uyển của Ðức vua MITHILÀ nằm nghỉ mê man, vì quá cực nhọc trọn 7 ngày đêm trong biển. Thuở đó Ðức vua thủ đô MITHILÀ đã thăng hà 7 ngày, mà chưa có người xứng đáng lên kế vị. Công chúa SÌVALÌ của vua thành tâm khẩu cầu người có trí tuệ lên ngôi vàng, thay thế vua cha, thì nàng cũng hoan hỉ làm Hoàng Hậu, để thừa kế đế nghiệp. Công chúa cho đòi vị cố vấn nào, cho ông biết ý thích của nàng. Vị cố vấn bèn tâu: Ðể hạ thần cầu khẩn Chư Thiên, rồi cho xe Rồng chạy vòng quanh kinh thành MITHILÀ, long xa ngừng ngay một nhân vật nào, hạ thần sẽ thỉnh vị ấy lên ngôi báu trị vì Thiên hạ. Công chúa hoan hỷ nhận lời Sáng ra, triều thần cho long xa nhiễu [2] ba vòng thành, rồi ra cửa đông chạy về hướng ngự uyển. Xe chạyrất nhanh, không ai theo kịp. Vị cố vấn ra lịnh, không cho chận xe, dù chạy đến 100 do tuần [3] cũng được, chúng ta cứ theo sau. Xe chạy đến chỗ Bồ Tát nằm, quay 3 vòng rồi ngừng bên cạnh Bồ Tát, dường như mong thỉnh Ngài lên xe. Vị cố vấn chạy đến, chờ các quan hội đông đủ, bảo cùng nhau rằng: "Vị nằm trên tảng đá có tướng mạo đoan trang, không biết có đáng lên ngôi báu chăng? Nếu thật là người có trí tuệ xứng đáng với ngôi Rồng, dù là nghe tiếng ngựa xe, tiếng trống, tiếng kèn cũng không vội ngồi dậy, xem bên này, ngó bên kia rồi chạy đi. Các ngươi hãy đánh trống, thổi kèn mau lên, như thế mới thấy rõ là người có phước hay bất hạnh". Khi đó, kẻ đánh trống, người thổi kèn một lược nghe vang rền. Nghe trống, kèn, Bồ Tát ngồi dậy xem thấy đám người, đoán biết ngai vàng đã đến, Ngài bình tâm nằm lại như cũ, nằm nghiên bên mặt. Vị cố vấn lại gần quan sát hai chân của Bồ Tát rồi tâu rằng: "Thật là bậc quý nhân, thỉnh Ngài ngồi dậy, ngôi trời đã đến cho Ngài rồi". Bồ Tát hỏi: - Chúa của các ngươi đi đâu? Tâu: - Hoàng Thượng của chúng tôi đã thăng hà 7 ngày - Ðức Hoàng Tử, thứ vương của vua không có sao? Tâu: - Không. Chỉ có một Công chúa mà thôi. Bồ Tát ngồi dậy và nhận lời cầu thỉnh. Triều thần đồng đến làm lễ,mặc long bào cho Ngài theo lễ tôn vương, xong thỉnh Ngài ngự lên long xa, hộ giá về thành MITHILÀ, thống trị dân hiệu là MAHÀJANAKA Hoàng Ðế. Ngài phán rằng: "Tất cả triều thần, trước ở tước vị nào, nay giữ như cũ" Khi Công chúa nghe vua ngự vào cung nội, bèn sai hoạn quan đến thỉnh vua, thử coi Ngài có trí tuệ thế nào. Hoạn quan tâu rằng: "Công chúa thỉnh Hoàng Thượng vào lập tức". Ðức vua nghe cũng tự nhiên, như không nghe biết, rồi tỏ lời rằng: "Toà lâu đài này đẹp". Hoạn quan không biết làm cách nào cho vua nghe lời tâu của mình được, rồi trở vào tâu với Công chúa: "Những lời mà lệnh bà dạy, hạ thần đến tâu, vua không để ý đến". Công chúa nghe qua hiểu rằng đấy là bậc đại phước. Công chúa sai hoạn quan đi tâu với Ðức vua 2, 3 lần như thế. Ðức vua cũng vẫn lãnh đạm như trước. Ngài từ từ bước đi như thường, uy phong lẫm liệt, khác nào như chúa sơm lâm. Công chúa xem thấy lấy kính phục, không dám trường mặt để được gặp Ngài và rất kính sợ nàng chỉ dám đưa tay lên làm dấu hiệu cho đức Bồ Tát dừng chân. Khi lên ngôi vàng Ðức vua dạy cất cất các phước xá tại các cửa thành cho Ngài bố thí mỗi ngày, có trữ đủ các vật dụng cho những kẻ bịnh tật, nghèo nàn đói khổ. Ðức Bồ Tát không quên cho triều thần đi rước mẹ và vị trứ danh giáo sư tại xứ KÀLACAMPAKA, về đến dâng đủ báu vật để báo hiếu về đền đáp ơn dày của vị giáo sư. Từ ngày lên ngôi thống trị trong nước, Bồ Tát ban bố phóng thích tội nhân, chiêu an bá tánh, chuẩn bần dân nghèo. Quốc dân hằng được an cư lạc nghiệp. Thật là đời thái bình thạnh trị. Thuở đó Bồ Tát là dòng dõi của chư Phật, thấy dân gian an hoà. Ngài nhớ đến lúc bị nạn 7 ngày trong biển, Ngài phát tâm hoan hỷ, phỉ lạc, tuyên bố rằng:
Ta đã được thấy rõ điều đó trong lúc ấy rồi. Những người lười biếng đi cùng ta, đã phải làm mồi cho cá. Còn ta nhờ sự tinh tấn không dễ duôi, lội đến 7 ngày, gặp được nàng tiên nữ MANIMEKHALÀ cứu độ đến kinh đô MITHILÀ. Do đó, bậc trí tuệ, dù gặp phải khổ thân tâm đến đâu, cũng không bỏ sự tinh tấn, hãy đạt đến hạnh phúc tối cao, mới vừa có danh hiệu là bậc trí tuệ. Sanh ra có ngũ uẩn, trong vòng sanh tử luân hồi, có hạng được vui, kẻ lại chịu khổ, người được giàu sang mà vui, kẻ nhiều của cải mà khổ cũng có, vì bị tử thần giết hại, như bảy trăm thủy thủ đi cùng ta. Hơn nữa, chẳng phải người muốn chi được nấy, mong vật này lại được món khác, có lúc không cầu mà được. Như ta nào ngờ hôm nay mà được ngôi báu như vậy, cũng do sự tinh tấn của ta. Khi lên ngai vàng, Bồ Tát tinh tấn thực hành 10 pháp vương [4] (DASA KHAMMARÀJA) bố thí, trì giới trong sạch. Ngày nọ, đến mùa trái cây, quan giữ ngự uyển đem dâng các thứ quả và hoa thơm, Ngài bèn dạy dọn dẹp ngự uyển, Bồ Tát thấy xoài chín mong được dùng. Nơi đây có một cây có trái và một cây không trái. Quan ngự uyển bẻ xoài chín dâng đến đức Bồ Tát. Ðức Thứ vương " DÌGHÀVUKUMÀRA" (con Ngài) và các quan thấy thế, họ tranh nhau bẻ ăn, làm cho cây xoài có trái trở nên trơ trụi. Sau khi ngắm cảnh vật ngự uyển xong. Bồ Tát trở về ngang qua cây xoài có trái chín lúc nảy, bây giờ rụng lá, gãy cành, còn cây không trái vẫn sum suê tươi tốt. Ðức Bồ Tát hỏi: - Vì nhân nào mà trong hai cây xoài, một cây trơ trụi, một cây thì cành lá xanh tươi? Các quan tâu; - Cây xoài có trái, sau khi Hoàng Thượng đã thọ trái rồi, quan quân đồng nhau tranh giành hái bẻ, nên phải bị trụi lũi, cây kia không trái nên còn nguyên. Ðược nghe như thế, Bồ Tát bèn than rằng : "Ôi! Cây xoài có trái khác chi sự nghiệp Ðế Vương. Ta ngồi trên Ngài vàng, cũng như cây xoài có trái, biết bao kẻ nghịch đã trực sẳn giết hại ta. Nếu ta muốn khỏi người thù oán, thì nên xuất gia tìm đạo, mới được an nhàn như cây xoài không trái, nhành lá vẫn xanh tươi". Xét vậy, đức Bồ Tát liền cho đòi quan đại thần vào rồi phán: "Từ nay chỉ cho một người mỗi bữa đem thực phẫm, nước dùng và tăm xỉa răng cho Trẫm mà thôi, về việc triều chính, các ngươi đảm đương như cũ. Chẳng nên cho ai vào chầu ta, vì ta định tu hành". Ðáng thương xót cho triều thần lẫn dân gian, không được gần Thiên nhan, họ than van hoài cảm. Họ đồng nhau hỏi thăm người dâng cơm cho Bồ Tát mỗi ngày, có thấy Ngài nói lời chi chăng? Quan hầu đáp: - Phần nhiều chỉ thấy Ngài nín thinh Ðôi khi Ngài nhớ đến đức Ðộc giác là một vị sa môn ngụ trong lâm sơn thanh vắng, mới là hạnh phúc cao thượng. Các Ngài không còn bận lòng lo đến thế sự hảo huyền, cũng không bị phiền não cuốn lôi trong đường tội lỗi. Các Ngài chỉ tham thiền, quán tưởng ... "Ôi! Tôi xin hết lòng thành kính lễ bái các Ngài. "Ngẫm nghĩ đến cuộc đời vô thường, thật là đáng chán. "Ôi! Bao giờ ta mới được xuất gia, ra khỏi đền vàng, vào tu trong non tuyết lãnh, cho tâm thần được an tĩnh. "Ôi! Bao giờ ta mới thoát ly ngôi rồng gác tía, quan quân, bà la môn, cung phi mỹ nữ, họ làm cho ta phải bận lòng mệt trí. Bao giờ sự đi đứng, đó đây một mình, không người ràng buộc sẽ được kết quả đến ta. "Ôi! Giờ nào ta mới được xuất gia, cạo tóc, mặc y casa, mang bát, đi khất thực tự do theo ý chí ta. "Ôi! Bao giờ ta được đi trì bình, khất thực trong mùa mưa liên tiếp 7 ngày, dù y bị ước ta cũng không quên đi khất thực! "Ôi! Khi nào ta mới có sự tri túc, không thương tiếc sự vật, lìa cây này, đến bóng cây khác, ra khỏi rừng kia, sang rừng nọ, từ thạch động này tìm đến hang đá khác, chỉ trải đi một mình, không còn lo sợ chi cả! Dù ngũ dục hoặc cuộc giàu sang đến đâu ta cũng chẳng màng!" Ðức Bồ Tát ngự trong cung cấm tu hành được 4 tháng như vậy. Một hôm, Ngài dạy quân hầu đến chợ mua y casa và bình bát đem về dâng Ngài, đừng cho một ai hay biết. Ngài mặc y, mang bát lấy làm thoả thích và tuyên ngôn rằng: AHO SUKHAM PARÀMAM SUKHAM. Sự xuất gia này là hạnh phúc thực, hạnh phúc cao thượng thật. Trọn đêm mặc y casa, đến sáng sớm Ngài ngự ra khỏi thành. Hoàng Hậu SÌVALÌ, vì quá thương nhớ vua,liền cho đòi cả bảy trăm phi tần, dạy phải trang điểm xinh đẹp, để vào hầu vua sáng mai này. Các nàng ráng làm thế nào, để cám dỗ Ðức vuaở trong đời. Sáng ra, Hoàng Hậu và các phi tần đồng nhau vào thành nội, đang lên thì đức Bồ Tát ngự xuống. Thấy mặc y mang bát tưởng là đức độc giác đến dạy đạo, nên các bà không để ý. Khi lên tận tầng trên, thấy tóc cạo bỏ đó và long bào, ngọc báo cởi để lại long sàng, mới rõ khi nảy không phảilà đức Ðộc giác,mà là Ðức vua. Hoàng Hậu cùng cung phi lập tức chạy theo, để nài nỉ, cầu khẩu Bồ Tát trở lại. Thương thay! Hoàng Hậu cùng cung phi theo sau khóc than rằng: "Hoàng Thượng ôi! Ngài nở nào đành bỏ chúng tôi, không nơi nương tựa, không còn ai dạy bảo lẻ phải lời ngay, hết lòng thương xót, cứu vớt như Hoàng Thượng! Muôn tâu Hoàng Thượng! Khẩn lạy Ngài trở về cùng chúng tôi, tội nghiệp. Nếu mất Ngài, chúng tôi không an thân được!". Khóc than, kể lể làmồn ào náo động cả xứ. Chúng dân hay rõ câu chuyện, cũng đều cảm động khóc theo các cung phi. Hoàng Hậu và các cung phi theo kịp vua, đồng quì lạy khẩu cầu, than khóc trước mặt Ngài "Xin Hoàng Thượng trở lại". Nhưng đức Bồ Tát không đáp, cũng không ngó đến ai, vẫn tiến hành tự nhiên. Hoàng Hậu nghĩ ra kế, bảo các quan trở về cho quân gom cỏ khô, vật cũ, đốt cháy tưng bừng trong đền, rồi kêu la cầu cứu rằng: "Ðền vua bị cháy" Hoàng Hậu thừa dịp ấy, quỳ tâu rằng: "Tâu Hoàng Thượng, xin Ngài nhìn xem, lửa cháy đỏ trời tại hoàng cung. Cầu Hoàng Thượng từ bi trở lại coi chửa lửa rồi sẽ ngự đi". Than van thế nào, Bồ Tát vẫn làm ngơ không đáp,không hỏi thăm,cũng không liếc xem. Thấy vậy, dân gian đồng chê trách Bồ Tát rằng: "Lửa cháy thành như thế, mà Ðức vua đành lãnh đạm, không nghĩ tưởng thương xót chúng dân đau khổ; dù Hoàng Thượng có ngự đi nơi nào chăng nữa, cũng nên về chữa lửa rồi sẽ đi, cũng không trở ngại." Tiếng la khóc càng vang rền: Lửa cháy đến kho vàng, kho báu, kho lương thực, mà Ðức vua cũng không dừng bước. Triều thần và dân chúng đồng khẩu cầu, nhất là Hoàng Hậu và cung phi lăn theo chân, vật mình than khóc rất thảm đạm rằng: "Xin Hoàng Thượng từ bi thương xót, trở về cứu độ chúng tôi". Ðức Bồ Tát trả lời rằng:
Nói xong, Bồ Tát ra cửa bắc rồi tiến hành. Hoàng Hậu bèn bày kế: Dạy các quan giục quân giả làm giặc đến cướp phá hoàng cung, rồi cho quân phi báo rằng: "Tâu Hoàng Thượng, nay có quân cướp giết người đoạt của rất nhiều". Hoàng Hậu đến quỳ tâu: "Bây giờ, có nhiều kẻ cướp, suy mưu làm loạn, đoạt kho tàng, sát hại lương dân, lấy ngọc ngà châu báu, thành phố phải hư hại, nhân dân chịu nạn cướp bóc khổ sở vô cùng, Hoàng Thượng đành lòng nào sống một mình, mà để nhân dân phải chịu khổ. Xin Hoàng Thượng mở lượng từ bi thương xót, trở về trừ bọn cướp trước, rồi sau sẽ ngự đi cũng chẳng muộn." Bồ Tát biết rõ là mưu kế của Hoàng Hậu, Ngài ngâm câu kệ rằng:
Bồ Tát giảng giải thế nào, cũng không một ai chịu bỏ Ngài, họ vẫn theo bén gót không ngừng nghỉ. Khỏi kinh đô, lối hai ngàn thước, Bồ Tát muốn cho quần thần và Hoàng Hậu, cung phi trở về, nên Ngài lấy gạch một đường ngang qua con lộ làm dấu, xong Ngài phán hỏi các quần thần: - Ðây là đất của ai? Tâu: - Của Hoàng Thượng - Vậy kẻ nào qua khỏi hoặc làm mất dấu hiệu này, Trẫm sẽ chiếu theo luật hình mà trị tội. Nghe như thế, không ai dám vượt qua khỏi, hay làm mất dấu gạch ấy. Mọi người thấy vậy, nhào lăn, khóc than thảm đạm tại nơi đây. Còn Hoàng Hậu thì không dám theo vì quá nể lệnh vua, nhưng lại sợ mất người đáng kính mến, nên bà gieo mình vật vã khóc than, thật đáng thương hại. Vì quá quý mến, Hoàng Hậu không còn sợ chi liền đứng dậy chạy riết theo đức Bồ Tát. Quần thần cho rằng Hoàng Hậu đã lắp mất dấu gạch rồi nên đồng chạy theo sau. Bồ Tát nhắm hướng bắc đi ngay vào núi Tuyết Sơn. Hoàng Hậu dẫn đường quan quân đi theo Bồ Tát đến 20 do tuần. Thuở đó có một vị đạo sĩ danh là NÀRADA. Ðạo sĩ ngụ trong thạch động Tuyết Sơn, khi xuất định đạo sĩ tuyên minh rằng:"Ôi! Thật là hạnh phúc cao thượng, hạnh phúc thật." Ðạo sĩ nghĩ rằng: Trong đời này ai có chí hướng tìm hạnh phúc như vầy chăng? Ðạo sĩ biết có đức Bồ Tát MAHÀJANAKA là dòng dõi của bậc Toàn giác, đang xuất gia tìm đạo thanh cao,nhưng khó làm cho Hoàng Hậu và đại chúng trở về được sợ Ngài thối chuyển. Vậy, ta nên đến đó giúp cho Ngài càng phát đức tin trong sạch. Vị đạo sĩ bèn vận thần thông bay đến, ngồi trên hư không, trước mặt Bồ Tát,rồi thốt rằng: KIM MAHESO MAHÀGHO SO
KANUGÀMEVA KIRIYÀ "Này thầy Sa môn thọ thọ trì phạm hạnh pháp! Tôi xin hỏi:"Do nhân chi mà đại chúng theo dính người, có cả tiếng ngựa,xe, rộn rực như cuộc đại lễ trong kinh thành? Nầy thầy Sa môn.Quần chúng theo hộ vệ đến đây là thế nào?" - Bạch đạo sĩ, Ngài đã rõ rồi, tiếng họ than van vì Ðức vua MAHÀJANAKA bỏ ngôi vàng,xuất gia hành đạo. Bạch Ngài, nay tôi lìa đế vị để tu phạm hạnh. Bậc trí tuệ không ưa thích sự huyên náo, không thương tiếc chỗ ăn ngon, ngủ kỹ, để tìm trí tuệ sáng suốt, tôi đây cũng thế. Nay tôi cũng chưa hoàn toàn xuất gia,vì còn bị đại chúng ràng buộc, họ muốn cho tôi trở về trị vì như trước, nên họ mới theo khẩn cầu tôi. - Này thầy sa môn! Ngươi không nên cho mình vướt khỏi phiền não. Bậc xuất gia chẳng phải chỉ mặc y casa, cạo tóc đó đâu,chưa lìa được lưới phiền não đâu? Phiền não làm hư hại đường trời, người. - Bạch Ngài, tôi từ bỏ ngai vàng, chẳng mong được ngũ dục ở cõi người và trời, như thế còn có chi nguy hiểm đến tôi nữa chăng? - Này thầy sa môn! điều nguy hiểm trong thân thể của ngươi, sẵn chờ cám dỗ ngươi chẳng ít.
Này sa môn! Ngươi có tướng mạo đẹp như vàng, khi cho họ hiểu rằng ta là vua, bỏ ngôi tìm đạo, họ dâng thực phẩm quí đầy bát, thọ thực no đủ, xong ngủ mê và ngây, đến lúc thức lại không dậy, trở ngủ nữa. Ngủ rồi thức, thức rồi ngủ như vậy là điều nguy hiểm, làm cho thối bộ sự xuất gia. Ngủ ngủ, thức thức như vậy là nhân sanh lười biếng, không quét chỗ ngụ, không xách nước để dùng, dần dần sẽ sanh dục tư duy [5] là nhân chán nản trong sự xuất gia. Tất cả điều nguy hiểm đó, đều phát sanh do ăn no ngủ kỹ. Này sa môn! Không nên cẩu thả, tưởng rằng ta có tăng tướng rồi là vượt khỏi hẳn phiền não đâu? - Bạch đạo sĩ, Ngài đến đây thức tỉnh tôi, thật là hân hạnh vô cùng. Bạch Ngài, xin cho tôi biết quý danh của Ngài? - Pháp danh tôi là NÀRADA đạo sĩ. - Vì thấy thầy là bậc cao quý, sẽ đem những lợi ích đến chúng sanh sau này, nên tôi mới gặp thầy. Này sa môn! Chẳng nên ưa thích nhục dục, chẳng nên chán nản trong sự xuất gia, hãy cố gắng tinh tấn, phát tâm hoan hỉ thực hành Chánh Pháp cho đến ngày mãn nguyện. Này sa môn! Thầy nên tinh tấn tu pháp "Tứ vô lượng tâm [6] đừng bỏ qua. Nên bổ túc giới định tuệ, cho viên mãn, chẳng nên ngã mạn rằng ta là vị vua xuất gia tu hành, cần phải thọ trì pháp nhẫn nại, quan tâm về sự dập tắt phiền não, không nên tự cao mà hại người, phải thực hành thập thiện nghiệp, ngủ thông, bát thiền cho hoàn bị. Như thế, sự xuất gia của thầy mới đem lại nhiều kết quả tốt, không thối bộ và hối hận về sau. Giảng giải xong vị đại sĩ từ giả trở về núi. Sau đó có một vị đạo sĩ nữa là MITÀJÀNA khi vừa xuất định như Ðạo sĩ NÀRADA, cũng đến khuyên giáo đức Bồ Tát. Ðạo sĩ hỏi: - Do thân nào mà Ngài xuất gia? - Bạch, tôi là Hoàng Ðế tại kinh đô MUTHILÀ vì xét thấy đời là khổ, chúng sanh mê đời, không thấy tình trạng vô thường của vạn vật, cho đời là vui thú hơn cả, nên say đắm cuộc đời mộng ảo. Họ gây biết bao nghiệp ác, vì lòng tham, sân thúc đẩy, rồi phải chịu hình phạt trong kiếp hiện tại, sau khi chết còn phải sa vào 4 đường ác đạo, không biết đời kiếp nào mới ra khỏi được. Bởi thấy thế, tôi phát tâm chán nản, ghê sợ không tiếc ngai vàng, của báu, vợ đẹp, hầu xinh, để tìm đường đạo đức, thoát ly thống khổ. Nếu còn quyến luyến, tôi không sao tránh khỏi như quần chúng. Ðạo sĩ MITÀJINA nghe được như thế, bèn hỏi: Những lời Ngài nói đó, ai là thầy của Ngài, hay là nhờ nghe đức Ðộc Giác chỉ dạy? - Bạch, tôi chưa từng nghe ai giáo huấn, vì khi còn ở ngôi báu, có ngày nọ tôi đi ngoạn cảnh, đến ngự uyển thấy hai cây xoài: Cây có trái bị trơ trụi, cây không trái còn nguyên. Tôi xét nghĩa rằng: Sự nghiệp Ðế Vương của tôi, ví như cây xoài có trái,, sẽ bị nhiều người tranh giành mai hậu. Kẻ vô tài sản như bậc xuất gia, tam y, quả bát, không nhà không cửa, thì hằng được an vui nhà cây xoài không trái, vẫn được xanh tươi. Tôi đem mình so sánh với hai cây xoài nên sanh lòng chánnản xuất gia như vầy: Bạch Ngài người giết cọp vì muốn được da, sát voi mong được ngà, hại người mong được của. Gia chủ không trí tuệ, ở một mình ắt bị kẻ nghịch sát hại, bằng có pháp trí tuệ thì hằng được vui, như cây xoài không trái; của cảinhiều thì lo nhiều, bị nhiều người ganh ghét oán thù. Hạng xuất gia chơn chánh là hạnh phúc thật. Vì thế tôi mới bỏ đế quyền, tìm tu một mình trong nơi thanh vắng. Bạch Ngài, hai cây xoài đó là thầy tổ của tôi, dạy tôi thực hành theo bậc xuất gia như vậy. - Này thầy sa môn! Thầy không nên cẩu thả, hãy tinh tấn trọ trì pháp xuất gia cho đến kỳ cùng. Khuyên Bồ Tát rồi, đạo sĩ trở về chỗ ngụ. Thì khi ấy, Hoàng Hậu quỳ tâu nài nỉ Bồ Tát trở về, vì chúng dâng khóc than, kể lễ không ai nương nhờ, xin Hoàng Thượng hồi trào tôn vương cho Hoàng Tử rồi sẽ ngự đi xuất gia. Bồ Tát đáp: Nay ta đã từ bỏ ngôi vàng, quan quân thân quyến không còn bận lòng một cái gì cả. Hoàng Hậu vật mình nhào lăn khóc than rằng: "Ôi! Kiếp trược tôi đã tạo nghiệp chi mà nay phải chịu phân ly chồng vợ như vầy. Hoàng Thượng xuất gia bỏ tôi một mình, biết nương cậy vào đâu!" - Này SÌVALÌ! Nên nghe ta chỉ giáo, người ở trong của cải là nhân khiến mình gây nghiệp ác. Khi nàng trở về thành tôn vương cho Hoàng Tử rồi phải giúp con trị vì trăm họ, gây thêm nghiệp thân, khẩu, ý ác, vì quyến luyến trong sự nghiệp. Ta đã dứt được tình thương nhỏ hẹp, trải đi khất thực nuôi mạng, do sự bố thí của mỗi nhà chút ít. Xuất gia là điều thoát khổ, của cải là nhân sanh những nghiệp tội. này SÌVALÌ nàng nên suy xét... Bồ Tát và Hoàng Hậu tranh luận nhau dài theo đường cho đến tối. Quan quân che trại cho Bồ Tát và Hoàng Hậu nghỉ. Nhưng Bồ Tát ngự đi tìm ngụ đưới bóng cây một mình. Sáng ra Bồ Tát vẫn tiến hành, Hoàng Hậu cùng quần chúng theo sau. Ði gần đến chợ, có người nướng thịt, để sơ ý nên chó tha, chạy đến thấy Bồ Tát và Hoàng Hậu đang đi, nó sợ hoảng chạy bỏ miếng thịt lại. Bồ Tát nghĩ rằng, miếng thịt này chó đã bỏ, không còn mến tiếc như vật vô chủ, thế là vô tội, đáng cho người xuất gia dùng. Ta thọ miếng thịt này. Ngài bèn lượm miếng thịt này, phủi bụi rồi đặt vào bát, đến nơi có nước Ngài tìm chỗ để thọ thực. Hoàng Hậu xem thấy, kể lể khóc than rằng: "Hoàng Thượng không gớm thịt của chó tha mà lượm đem dùng. Ôi! Thật là thê thảm" Bồ Tát đáp: Nàng vô trí tuệ, đây là vật thực cao quý. Rồi Ngài tìm ngồi nơi khuất mắt Hoàng Hậu mà thọ thực. Hoàng Hậu trách Bồ Tát ăn thịt của chó tha không nhờm gớm. Bồ Tát đáp: Này SÌVALÌ! Vậy vô chủ là món trong sạch, đáng cho bậc xuất gia dùng. Trái lại vật không hợp pháp dù có giá trị dù 100 ngàn bạc thì ta nhờm gớm và hổ thẹn, không ước mong. Ði đến trước, gặp nhóm trẻ đang chơi cát, có một em gái, một tay đeo một chiếc xuyến, tay kia đeo hai chiếc. Tay đeo một chiếc không nghe khua động, tay đeo hai chiếc thì chạm nhau nghe lạch cạch. Bồ Tát liền nghĩ rằng: Nàng SÌVALÌ theo sau ta, không tốt vì phụ nữ là phiền não của xuất gia. Người đời xem thấy họ dèm siểm. Bồ Tát liền hỏi thử đứa bé: - Này cháu! Vì nhân nào mà tay chàu đeo một chiếc xuyến không nghe kêu, còn tay đeo hai chiếc lại nghe tiếng? Ðức bé đáp: - Vì có hai vật mới có chạm nhau ra tiếng, như có hai người sẽ có lời qua tiếng lại. - Bạch Ngài, Ngài là bậc xuất gia, tại sao lại có phụ nữ xinh đẹp theo sau? Lệ thường, dù là em gái, người xuất gia cũng chẳng nên đi chung, chỉ đi một mình mới được trong sạch. Bồ Tát nghe qua rất thỏa thích, bèn nói với nàng SÌVALÌ: - Nàng có nghe lời trẻ em nói y như ta chăng? Này SÌVALÌ! Ta đã bị trẻ nhỏ chê trách, vậy nàng chẳng nên theo ta nữa. Ðây là con đường rẽ hai, mỗi người đi mỗi ngã. Nàng vừa lòng đường nào thời cứ đời bước, ta đi đường khác. Nàng đừng theo sau tỏ ý chồng vợ cho người đời chê trách. Hoàng Hậu nghe Bồ Tát nói như thế, rất đau lòng xót dạ, nhưng cũng theo sau Ngài luôn. Ði đến một đoạn đường nữa, gặp một người thợ vót tên lấy cây vót rồi ngắm xem bằng một mắt. Bồ Tát lại gần hỏi: Nhân chi ngươi nheo mắt lại mà nhắm cây tên? - Bạch Ngài, nếu xerm cả hai mắt, thì thấy không ngay, vì hai mắt sẽ thấy cây tên khum quẹo, thế nào, người xuất gia cũng nên tu một mình mới có kết quả nếu tu hành mà dẫn vợ trang điểm như thế kia, hằng có tai hại và vô hiệu. Bồ Tát nói với Hoàng Hậu rằng: - Nàng SÌVALÌ này! Có nghe thợ vót tên nói chăng? Họ là người tay sai của ta, mà còn tỏ lời chê trách ta như thế, nàng không nên đi chung cùng ta nữa, hãy đi ngã khác đi. Hoàng Hậu vì quá nể, vâng lời cố gắng đi riêng một đoạn đường, đau lòng chịu không nỗi, liền dắt đại chúng trở lại theo sau Bồ Tát nữa. Ðến gần núi, Bồ Tát bèn nghĩa là gồi xuống nhổ một cọng cỏ, cho Hoàng Hậu xem và thốt rằng: "Cọng cỏ này, không còn dính liền với gốc nữa được, thế nào, nàng với ta, nàng với ta cũng chẳng phải là vợ chồng nữa, như cọng cỏ ấy. Nàng đừng theo gót ta mà luống công, hãy trở về ở một mình đi, ta cũng chỉ ở riêng một mình mà thôi. Như thế, mới mong thoát khổ được. Muốn giải thoát hãy tu hành như ta vậy". Nghe Bồ Tát nói những lời tuyệt vọng, Hoàng Hậu khóc nức nở, từ đây ta và MAHÀJANAKA (Bồ Tát) chẳng còn là vợ chồng nữa, hẳn rồi. Nàng nhào lăn ra khóc thảm thương vô cùng khổ não đền bất tỉnh. Thừa dịp Hoàng Hậu hôn mê, Bồ Tát đi nhanh vào rừng sâu tuyết lảnh, tham thiền đắc định được an vui như ý nguyện. Khi hết kiếp, Ngài được sanh lên cõi Phạm Thiên. Quan quân đến nơi thấy Hoàng Hậu nằm mê trên đất, vội vã dạy người đến cứu cấp. Khi tỉnh dậy Hoàng Hậu xem tứ phía không thấy Bồ Tát bèn hỏi: - Có ai thấy Hoàng Thượng đi nơi nào chăng? - Tâu lệnh bà, chúng tôi theo sau lệnh bà, nào thấy được. Hoàng Hậu liền sai người tìm đủ các hướng, cũng không một ai gặp Bồ Tát cả. Hoàng Hậu vật mình, kêu la khóc kể thật là đau đớn, thiết tha, không sao tả xiết, ai nghe cũng đều xúc động thương tâm; cung phi, triều thần; chí dân gian đều khóc và theo bà. Hoàng Hậu bèn dạy xây tháp để kỷ niệm và dâng hương hoa cứng dường trong các chỗ như:
Về thành, vào đến cung nội, thấy các nơi mà Bồ Tát thường đến ngọan thuởng (ao sen, vườn hoa, hồ tắm,...), Hoàng Hậu càng nghĩ tưởng, càng khóc than thảm đạm. Sáng ra lâm trào, Hoàng Hậu truyền cho bá quan văn võ làm lễ tôn vương cho đông cung lên kế vị ; xong, Hoàng Hậu cạo tóc xuất gia tu trong ngự uyển, thực hành theo lời dạy của Bồ Tát, tham thiền đắc định. Sau khi mệnh chung, bà được sanh lên cõi trời Phạm Thiên. đức Phật Tổ Thích Ca chúng ta, khi đã giảng thuyết xong tích đức Bồ Tát MAHÀJANAKA, gọi chư Tăng rằng: Này các Thầy! Như Lai chẳng phải bỏ ngai đi xuất gia trong kiếp cuối này đâu. Thuở Như Lai là MAHÀJANAKA được kế vị rồi cũng bỏ đi tu như đã giải... Ngài thuyết thêm pháp Tứ Diệu Ðế rồi họp Bổn sanh truyện như vầy: TASÀ SAKKO UNUMIDDHO AKOSI, SAMU DARAKKHITÀ DEVADHITÀ UPALAVANNÀEVA, NARADO SÀRIPUTTO, MITÀJINO MAGGALÀNO, KUMÀRIKÀ KHEMÀ BHIKKHUNÌ, USUKÀRO ÀNANDOCEVA, QESAPURISÀ BUDDHAPARISÀ, SÌVALIDEVÌ RÀHULOMÀTÀ, DÌGHAVUKUMÀRO, ÀHULO, MÀTÀPITARO MAHÀRÀJAKULÀNI AHESUN MAHÀJANAKARINADO ÀHA MEVA SAMMÀSAMBUDDHO AKOSÀTI. TASÀ: - Thuở đó, đức Ðế Thích nay là Tỳ khưu A Nậu Lầu Ða; nàng Thiên nữ cứư vớt nạn nhân trong biển, nay là Tỳ khưu UPALAVANNÀTHERÌ; đạo sĩ NÀRADA nay là Ðại ÐứcXá Lợi Phất, đạo sĩ MITÀJANA nay là Ðại Ðức Mục Kiền Liên, trẻ gái đao xuyến nay là Tỳ khưu ni KHEMÀ, người thợ vót tên nay là đức ANANDA. Tất cả những người thừa lại (đã có trong câu truyện) nay là hàng Phật tử Hoàng Hậu SÌVALÌ nay là mẹ RÀHULA, DÌGHÀVUKUMÀRA nay là RÀHULA. Cha mẹ của đức MAHÀJANAKA nay là đức Tịnh Phạn Vương và Hoàng Hậu MÀYÀ. Còn MAHÀJANAKA nay chính là đấng Chánh đẳng Chánh Giác tức là Như Lai đây. Chú thích:
-ooOoo- Ðầu trang | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | Mục lục |
Chân thành cám ơn anh NTH đã giúp đánh máy vi tính -- Bình Anson, tháng 6-2001
update: 10-06-2001