| 
      [01]
       RATANATTAYAPUJA 
      DASA PÀRAMÌ 
      PHÁP THẬP 
      ÐỘ  
      (hay THẬP BA LA MẬT)
       
      Phạn ngữ: PÀRAMÌ hay 
      PÀRAMITA (Ba-la-mật) [1] dịch là Ðộ hoặc "Ðáo bỉ ngạn", 
      nghĩa là đến bờ kia. Ba la mật là nhân đến bờ kia hoặc là 
      pháp báu của các bậc cao nhân, là con đường đi của đấng: 
      
        - Chánh đẳng Chánh 
        Giác (sammàsambuddha) 
        - Ðộc giác (paccekabuddha) 
        - Thinh Văn giác (savakabuddha) 
       
      Những người tu Phật,nếu 
      muốn thành một trong 3 bậc giác ấy, cần phải một lòng 
      tinh tấn tu hành theo pháp Thập độ cho được viên mãn, bằng 
      chẳng vậy thì không thể đắc đạo quả Niết Bàn được. 
      Thập độ là pháp giải 
      thoát, ngăn ngừa ái dục, ngã mạn, tà kiến không cho nhiễm 
      vào tâm, do lòng từ thiện. 
      Nếu bố thí, trì giới 
      mà còn vọng cầu danh lợi hoặc ngã mạn tự cao, khinh bỉ kẻ 
      khác thì chẳng đáng gọi là người tu Thập độ, vỉ không 
      lòng từ bi đối với chúng sanh. 
      Hơn nữa, bậc tu pháp Thập 
      độ nếu bị chê trách hoặc người ngợi khen thì các Ngài vẫn 
      tự nhiên bất động, ví như tảng đá liền lạc, dù bị mưa 
      gió to lớn cũng không lay chuyển. Như thế mới đáng gọi là 
      người tu Thập độ. 
      Các bậc trí tuệ không 
      hay tưởng đến những việc của mình đã làm, nghĩa là 
      không lòng năn, than tiếc hoặc bất bình đến người nhạo báng 
      mình. 
      Hỏi: Cớ sao bậc trí tuệ 
      không đem lòng phiền trách kẻ nhạo báng mình ? 
      Ðáp: Vì các Ngài không 
      hay để ý những lời chê khen của người đời. Dầu có người 
      nào hạp ý khen tặng rằng: anh hoặc thầy là hạng thông minh 
      tài trí, các Ngài cũng không tỏ vẻ ưa thích. 
      Hỏi: Tại sao vậy ? 
      Ðáp: Bởi các Ngài thầm 
      xét rằng: Nếu ta làm lành thì cái quả lành ấy sẽ cho ta hưởng 
      những hạnh phúc, từ đây. Lại nữa, các Ngài thường làm 
      những việc mà người khó làm, vì có đức tin nhiều và 
      giàu lòng sốt sắng bởi các Ngài có trí tuệ thông rõ thời 
      vụ. 
      Hỏi: đáo bỉ ngạn hoặc 
      Ba la mật có mấy pháp ? 
      Ðáp: Có 10 pháp. 
      
        1) Dànam: Thí, là đem của 
        cải hoặc Phật Pháp mà cho chúng sanh. 
        2) Sìlam: Giới, là 
        không phạm điều luật của đức Phật đã răn cấm hoặc 
        gìn giữ thân và khẩu được trong sạch. 
        3) Nekkhammam: xuất gia, 
        là sự đi tìm đạo đức cao thượng hoặc dứt bỏ vợ 
        con, của cải mà đi tu hành. 
        4) Pannà: Trí tuệ, là 
        thông suốt tất cả các pháp. 
        5) Viriyam: Tinh tấn, là 
        một lòng cố gắng tu hành tấn tới. 
        6) Khantì: Nhẫn nhục, 
        là gắng chịu những điều s? nhục 
        7) Saccam: Chân thật, 
        là không gian tà, giả dối. 
        8) Àdhitthànam: Quyết 
        định, là quyết định không thay đổi chí hướng. 
        9) Mettà: Bác ái, hiền 
        lành, nhân từ, mong cho tất cả mọi loài được vui. 
        10) Upkkhà: Xả, là 
        không vui, không buồn, thờ ơ không để ý, có tâm bình đẳng. 
       
      
      I. BỐ THÍ 
      BA LA MẬT ( DÀNA PÀRAMI) 
      
      Sẵn có tác ý lành, đem 
      tài vật của mình như: vật thực, y phục, chỗ ở, thuốc 
      men, cho chúng sanh do lòng bác ái gọi là bố thí Ba la mật. 
      Bồ Tát hằng có lòng 
      hoan hỉ trong việc bố thí, Ngài rất thỏa mãn khi tìm được 
      dịp đem của cho người, cho nên Ngài rán bố thí một lòng bất 
      hối. 
      Xem chuyện như sau đây rồi 
      rõ. Kinh Jàtaka trang 323 có dẫn tích đức Bồ Tát (tiền kiếp 
      của Phật Thích Ca Mâu Ni) trong một kiếp nọ, Ngài sanh làm 
      quan đại thần của vua Brahmadatta. Quan đại thần ấy, rất 
      mong được đôi giày và cây dù bằng lá thốt nốt của Ðức 
      vua. Trong 12 năm mà Ngài không dám xin của người. Vì thế, Bồ 
      Tát hay tìm dịp bố thí. 
      Nhưng Bồ Tát khi đem vật 
      gì cho ai rồi, Ngài không cần được báo đáp, hoặc trông 
      mong được lợi ích riêng. Ngài làm như quên hoặc kể như vật 
      thí ấy mất đi vậy, không lòng thương tiếc, muốn người 
      trả ơn. 
      Lại nữa, Ngài không giấu 
      giếm một vật gì cả. Nếu có người muốn xin món chi thì Bồ 
      Tát liền cho món ấy hoặc có kẻ nào muốn xin vật gì mà 
      không dám tỏ lời, xin biết được Ngài hoan hỷ cho ngay. Khi 
      Bồ Tát cho vật thực thì Ngài không bao giờ đem vật không 
      ngon hoặc không vừa lòng người mà cho; Ngài thường cho những 
      thức ăn vừa ý người. Cách bố thí của Bồ Tát như vậy mới 
      đáng gọi là bố thí chân thành. 
      Về các vật dụng, Ngài 
      thường bố thí 10 món như sau: 
      
        1) Annadàna: Thí các 
        món ăn thì ngài nguyện cầu cho tất cả chúng sanh đều 
        được 5 điều hạnh phúc: 
        
          Sắc đẹp. 
          Yên vui 
          Mạnh khỏe 
          Trí tuệ. 
          Thánh quả. 
         
        Mà người hằng đem lòng 
        hoan hỷ 
        2) Pànadàna: Thí nước 
        lạnh hoặc nước nóng, Ngài cầu cho tất cả chúng sanh đều 
        khỏi sự đói khát. 
        3) Vatthudàna: Thí y phục 
        thì Ngài cầu được nhan sắc xinh đẹp như kim thân để giác 
        ngộ và hổ thẹn các tội lỗi. 
        4) Yànadàna: Thí xe, ngựa, 
        kiệu, võng, thì Ngài cầu đắc lục thông được an lạc 
        ở Niết Bàn 
        5) Gandhadàna: Thí các vật 
        thơm thì Ngài cầu được món giới hương 
        6) Màlàvilepanadàna: 
        Thí tràng hoa và các vật để tắm, thì Ngài cầu được 
        tướng trang nghiêm của Phật. 
        7) Àsanadàna: Thí chỗ 
        ngồi, thì Ngài cầu được bồ đoàn của Phật tọa. 
        8) Seyyadàna: Thí chỗ nằm, 
        thì Ngài cầu được chỗ nằm của Phật ngọa 
        9) Avàsadàna: Thí chỗ 
        ở, thì Ngài cầu thành Phật thì tất cả chúng sanh đều 
        qui y theo Ngài. 
        10) Padìpeyyadàna: Thí 
        đèn đuốc, thì Ngài cầu được ngũ nhãn, nhất là nhãn 
        thông. 
       
      Lại nữa, đức Bồ Tát 
      còn bố thí thêm 6 món như sau: 
      
        1) Rùpadàna: Thí sắc, 
        là dùng tràng hoa, y phục xinh đẹp cùng dường đến Tam Bảo, 
        thì Ngài cầu cho được hào quang phóng ra một sải, chung 
        quanh thân Ngài. 
        2) Saddadàna: Thí tiếng 
        là dùng đờn kèn cúng dường đến Tam Bảo hoặc dâng cúng 
        nuớc mía, dầu, dùng làm thuốc cho các vị pháp sư, khuyên 
        người đi nghe pháp hoặc tự mình nói pháp cho người nghe, 
        thì Ngài cầu cho có tiếng thanh tao, dịu dàng như tiếng của 
        vị Ðại Phạm Thiên 
        3) Gandhadàna: Thí các 
        mùi thơm cúng dường đến Tam bảo, Ngài nguyện khi được 
        chứng quả Bồ đề, thì chúng sanh đều đem lòng cảm mến 
        Ngài. 
        4) Rasadàna: Thí vật 
        cao lương cúng dường đến Tam Bảo. Ngài nguyện khi được 
        chứng quả Bồ đề, thì chúng sanh đều đem lòng cảm mến 
        Ngài. 
        5) Patthabbadàna: Thí chỗ 
        nghỉ ngơi (giường, ghế, ván ngựa) cúng dường đến Tam bảo, 
        thì Ngài nguyện cho thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh 
        giác. 
        6) Bhesajjadàna: Thí thuốc 
        men, nước mía, dầu, mật ong, vv... cúng dường đến Tam Bảo, 
        thì Ngài nguyện cho khỏi sanh, lão, bệnh, tử, khổ. 
       
      Bồ Tát còn thí thêm 10 
      món nữa: 
      
        1) Dàsànambhijjissadàna: 
        Thí tôi tớ, là thả kẻ hầu hạ khỏi vòng nô lệ, thì 
        Ngài nguyện cho được sự giải thoát, dứt phiền não và 
        lòng ái dục. 
        2) Anavajjakhiddhà 
        vatihetudàna: Thí những sự chơi vô tội, thì Ngài nguyện 
        chúng sanh phát lòng hoan hỷ nghe pháp của Ngài. 
        3) Puttadàna: Thí con 
        trai, Ngài nguyện khi chứng được Phật quả, thì con của 
        Ngài cũng được gặp Ngài. 
        4) Dàradàna: Thí vợ, 
        thì Ngài nguyện cho đắc pháp vô thượng Bồ đề. 
        5) Ràjadàna: Thí ngôi 
        vua, thì Ngài nguyện cho thành vị pháp vương. 
        6) Ràjadàna: Thí tay, 
        thì Ngài nguyện cho tay Ngài nắm cả pháp báu để tế độ 
        chúng sanh và cho Ngài được thoát khỏi 5 đại hồng thủy 
        [2] nhất là ngũ dục hồng thủy. 
        7) Kànànasàdidàna: Thí 
        thân thể (tai, mũi), thì Ngài nguyện cho được ngũ căn 
        thanh tịnh. 
        8) Cakkudàna: Thí mắt, 
        thì Ngài nguyện cho được ngũ nhãn [3] nhất là Thiên nhãn. 
        9) Mamsalohitadàna: Thí 
        máu thịt, Ngài nguyện cho có thân thể tròn đủ. 
        10) Uttamanga dàna: Thí 
        đầu, thì Ngài nguyện cho thành Vô Thượng đại giác. 
       
      Các sự bố thí ấy, 
      chia ra làm 3 hạng: 
      
        a) Pháp dứt bỏ các 
        món dùng của mình (vợ, con, của) mà cho, gọi là bố thí 
        đến bờ kia (dànapàrami). 
        b) Pháp dứt bỏ tay, 
        chân, mắt, thịt mà cho, gọi là bố thí đến bờ trên 
        (dàna upapàrami). 
        c) Pháp dứt bỏ mạng 
        sống của mình mà cho, gọi là bố thí đến bờ cao thượng 
        (dàna paramattha pàrami). 
       
      Ðức Bồ Tát đã bố 
      thí các vật ngoài thân của Ngài, mà Ngài chưa vừa ý, nên 
      Ngài thí đến tay, chân, mắt, mũi, da, thịt của Ngài. Tuy vậy, 
      cũng chưa mãn nguyện, nên thí đến mạng sống của Ngài, 
      Ngài mới an lòng. 
      Trong kiếp đầu thai làm 
      thái tử Vessan tararàja, lúc lên 8 tuổi Ngài có nguyện rằng: 
      Nếu có người đến hỏi xin trái tim, là nơi nương tựa của 
      tâm, là sanh mạng của ta, thì ta mổ ngực lấy tim đem thí chẳng 
      sai. Nếu họ hỏi xin mắt thì ta dùng dao bén rọc lấy mắt 
      để trên bàn tay mà cho người. Tuy nhiêu, nếu có người hỏi 
      xin thịt, ta sẽ cắt thịt mà cho, với lòng hoan hỷ của ta. 
      Các pháp bố thí (đại 
      hoặc tiểu thí) đã giải trên đều trích trong kinh 
      MÀHÀ-SÙDASSANA JÀTAKA trang 95, kinh SASAJÀTAKA trang 316, kinh 
      SAMKHABRAHMANA JÀTAKA trang 442, kinh AKITTA BRAHMANA JÀTAKA trang 480, 
      kinh SIVIJÀTAKA trang 499, kinh NIMI JÀTAKA trang 411, kinh VESSANTARA 
      JÀTAKA trang 547. Xin các bậc thiện trí thức, nếu muốn biết 
      thêm, nên xem trong các thứ kinh JÀTAKA (Tiền thân Ðức Phật) 
      ấy. 
      
      II. TRÌ GIỚI 
      BA LA MẬT (SÌLA PÀRAMI) 
      
      Lời ngay thật mà đức 
      Bồ Tát hằng trau dồi, cho sự sáng trí và thương xót chúng 
      sanh (nghĩa là: Ngài hằng thốt lời ngay thật và hữu ích) bởi 
      Ngài có lòng từ bi đối với chúng sanh không phân gia cấp, gọi 
      là trì giới trong sạch. 
      Bồ Tát hằng tránh xa tội 
      lỗi và cố tìm làm việc lợi ích. Bởi đạo hạnh của Ngài 
      như vậy, nên gọi là trì giới đến bờ kia. 
      Dầu xuất gia hay cư sĩ, 
      Ngài vẫn trì giới trong sạch không khi nào để lấm nhơ. 
      Lúc tại gia, Ngài giữ 
      giới cư sĩ không vi phạm. Khi xuất gia, Ngài càng hết lòng 
      tinh tấn, thọ trì tứ thanh tịnh giới rất trong sạch theo 4 
      pháp là: 
      
        1) Giới bổn thanh tịnh 
        vì đức tin. 
        2) Ngũ căn thanh tịnh giới vì trí nhớ. 
        3) Chánh mạng thanh tịnh giới do tinh tấn. 
        4) Quán tưởng thanh tịnh giới do tuệ lực. 
       
      Trong mỗi kiếp chuyển 
      sanh đức Bồ Tát đều trì giói được trong sạch. Cách hành 
      đạo của Bồ Tát có giải rõ trong kinh Ganavera Jàtaka số 
      318. 
      Giới Ba la mật chia là 3 
      hạng: 
      
        a) Dẫu có sự thiệt 
        thòi đến vợ, con, đức Bồ Tát cũng quyết giữ giới được 
        trong sạch, gọi là trì giới đến bờ bên kia (sìla pàrami) 
        b) Dẫu có sự tai hại 
        đến thân thể, Bồ Tát cũng chẳng vi phạm giới luật mà 
        Ngài đã nguyện thọ trì, gọi là trì giới đến bờ trên 
        (sìla upapàrami) 
        c) Nếu có hại đến 
        sanh mạng đi nữa, Bồ Tát quyết không phá giới. Gọi là 
        trì giới đến bờ cao thượng (sìla paramattha pàrami) 
       
      Các bậc thiện hữu trí 
      thức muốn biết rõ giới Ba La Mật, nên tìm xem trong các kinh 
      JÀTAKA, nhất là kinh SÌLAVANAGA số 72, LOMAHAMSA số 94, KURUDNMMA 
      số 276, BANGÀMALA số 421, RURAMIGA số 482, CAMPEYYA số 506, 
      CHADDANDA số 514 và BHÙRIDATTA JÀTAKA số 543 
      
      III. XUẤT 
      GIA BA LA MẬT ( NEKKHAMMA PÀRAMI) 
      
      Ðức 
      Bồ Tát hằng có trí xuất gia, vì lòng từ bi, nhất là Ngài 
      thường thấy những điều tội lỗi của ngũ dục và suy xét 
      để tránh xa. 
      Vì thế, nên Ngài quyết 
      định xuất gia tu hành đến bờ kia. Tiếng Pabbajjà nghĩa là 
      là pháp xuất gia đu tu hành, dứt bỏ vợ con, của cải. 
      Lại nữa, các công đức 
      cao thượng nhất là nhập định, đều là phương pháp của bậc 
      xuất gia. h?ng này có thể dứt trừ phiền não, xa lìa dục giới. 
      Nếu đức Bồ Tát không xuất gia ở nhà hành đạo cư sĩ, Ngài 
      trì phạm hạnh pháp (brahmacarya dhamma) không sai phạm như đã 
      có giải trong kinh Darimukkha Jàtaka. 
      Xuất gia Ba la mật chia 
      làm 3 hạng là: 
      
        a) Cách dứt bỏ vợ, 
        con, là nhân vật yêu mến mà xuất gia, gọi là xuất gia đến 
        bờ kia (nekkhamma pàrami) 
        b) Cách dứt bỏ thân 
        thể, tứ chi mà xuất gia, gọi là xuất gia đến bờ trên 
        (nekkhamma uppàrami) 
        c) Cách dứt bỏ sự sống 
        mà xuất gia, gọi là xuất gia bờ cao thượng (nekkhamma 
        paramattha pàrami) 
       
      
      IV. TRÍ TUỆ 
      BA LA MẬT (PANNÀ PÀRAMI) 
      
      Pháp thấu rõ 3 tướng 
      (vô thường, khổ não, vô ngã) để trừ diệt tà kiến mà đức 
      Bồ Tát hằng nguyện đạt đến, gọi là trí tuệ đến bờ 
      kia. Giải rằng: Các danh sắc đều phải hư hoại do 3 tướng 
      đã giải trên. Trí tuệ thấy chắc như vậy gọi là 
      samannlalakkhana là pháp thấy rõ sự khổ về danh [4], sắc [5]. 
      Hơn nữa, danh hằng duyên theo trần cảnh đều phải hư hoại, 
      vì thời tiết (nóng, lạnh). Trí tuệ xét rõ như vậy, gọi là 
      trí tuệ cao thượng. 
      Các bậc Bồ Tát hằng 
      ghi nhớ đến 3 tướng ấy, không bao giờ quên, dù là các 
      Ngài chưa đạt đến bậc toàn giác. 
      Hỏi: Tại sao con người 
      và Chư Thiên đều hết lòng cầu nguyện cho được đắc đạo 
      quả A la hán. Còn đức Bồ Tát thì lại chẳng mong được đạo 
      quả ấy. 
      Ðáp: Bởi Ngài đã chí 
      hướng theo bậc Chánh Biến tri. Trí tuệ của Ngài thường hồi 
      hướng cho chúng sanh .hon nữa, chư Bồ Tát khi rõ được pháp 
      nào chơn chánh thì các Ngài hằng đem ra giảng giải cho Thiên 
      hạ, không giấu giếm. 
      Trí tuệ Ba la mật chia 
      ra làm 3 hạng: 
      
        a) Ðức Bồ Tát ít quyến 
        luyến vợ, con, Ngài hằng lo làm những việc lợi ích đến 
        chúng sanh, nên gọi là trí tuệ đến bờ kia (pannà pàrami) 
        b) Ðức Bồ Tát hằng 
        hy sinh thân thể của Ngài để tìm sự lợi ích cho chúng 
        sanh , nên gọi là trí tuệ bờ trên (pannà upapàrami) 
        c) Ðức Bồ Tát không 
        màng đến mạng sống của Ngài, chỉ mong được sự lợi 
        ích cho chúng sanh, nên gọi là trí tuệ đến bờ cao thượng 
        (pannà paramattha pàrami) 
       
      
      V. TINH TẤN 
      BA LA MẬT (VIRIYA PÀRAMI) 
      
      Ðức Bồ Tát hằng cố 
      gắng tìm làm những lợi ích cho chúng sanh, không thối chuyển, 
      dầu có việc chẳng lành đến cho Ngài, Ngài cũng giữ một lòng 
      tu hành tinh tấn. Nếu rõ điều nào chơn chánh thì Ngài cố gắng 
      thực hành, để chúng sanh thấy mà xu hướng theo. 
      Tinh tấn đáo bỉ ngạn 
      chia ra làm 3 hạng: 
      
        a) Dứt bỏ vợ, con, cố 
        sức làm những việc lành, gọi là tinh tấn đến bờ kia 
        (Viriya pàrami) 
        b) Dứt bỏ tứ chi, 
        máu, thịt không than tiếc, nhất tâm tu hành không gián đoạn, 
        gọi là tinh tấn đến bờ trên (viriya upapàrami) 
        c) Cố gắng tận diệt 
        hoặc nghiệp dù có sự hại đến sanh mạng, Ngài cũng một 
        lòng bất thối, gọi là tinh tấn đến bờ cao thượng 
        (viriya paramattha pàrami) 
       
      Những người tu Phật muốn 
      biết rộng thêm về phép tinh tấn, nên tìm xem kinh VANAPATHA 
      JÀTAKA số 2, SERIVANIJJA JÀTAKA 3, KURUNJA số 21, BHOJÀJANIYA 
      JÀTAKA số 23 
      
      VI. NHẪN NHỤC 
      BA LA MẬT (KHANTI PÀRAMI) 
      
      Ðức 
      Bồ Tát thường tu hạnh nhẫn nhục, dằn lòng sân hận, vì 
      tâm từ bi của Ngài đối với chúng sanh. Ngài hằng thương xót 
      và hiền lành, không oan giận chúng sanh, gọi là nhẫn nhục 
      đến bờ kia. 
      Ðức Bồ Tát hay ghi nhớ 
      rằng: Chúng sanh toàn là thân bằng quyến thuộc của Ngài ; 
      Ngài hằng xá tội lỗi cho chúng sanh vì lòng hỉ xả của 
      Ngài. 
      Nếu có kẻ nóng giận 
      chưởi mắng Ngài vô cớ, Ngài chẳng chấp trách ; cho nên 
      ngài ít hay tỏ ý bất bình. Dẫu có ai đại nộ muốn đánh 
      hoặc cắt tay chân Ngài, Ngài cũng chẳng đem lòng oán thù hay 
      nói xấu kẻ ấy. Ngài lại cầu nguyện cho họ được an vui 
      trường thọ. 
      Nhẫn nhục đáo bỉ ngạn 
      chia ra làm 3 hạng: 
      
        a) Nhẫn nhục về việc 
        lầm lỗi của chúng sanh đối với vợ, con, gọi là nhẫn 
        nhục đến bờ kia (Nhẫn nhục chẳng phải chỉ nín thinh, 
        mà cần nói lời ôn hoà cao thượng và lợi ích mới gọi 
        là nhẫn nhục đáo bỉ ngạn) (khanti pàrami) 
        b) Nhẫn nhục với việc 
        làm sai của chúng sanh phạm đến thân thể, gọi là nhẫn 
        nhục đến bờ trên (khanti upapàrami) 
        c) Nhẫn nhục đến việc 
        quấy của chúng sanh phạm đến mạng sống mà Ngài chẳng 
        nóng giận (oán thù), gọi là nhẫn nhục đến bờ cao thượng 
        (khanti paramattha pàrami) 
       
      
      VII. CHÂN 
      CHÁNH BA LA MẬT (SACCA PÀRAMI) 
      
      Sự xa lánh lời nói 
      không thật vì lòng từ bi của Bồ Tát, gọi là chân chánh đến 
      bờ kia 
      Lời thật ấy chia ra làm 
      3 bậc: 
      
        a) Dẫu có tai hại đến 
        vợ, con Ngài chẳng nói sai lời, gọi là ngay thật đến bờ 
        kia (sacca pàrami) 
        b) Dù có sự tai hại 
        đến thân thể nhưng chẳng nói sai lời, gọi là ngay thật 
        đến bờ trên (sacca upàrami) 
        c) Dù có tai hại đến 
        mạng sống, cũng chẳng nói sai lời gọi là ngay thật đến 
        bờ cao thượng (sacca paramattha pàrami) 
       
      
      VIII. QUYẾT 
      ÐỊNH BA LA MẬT (ADHITTHÀNA PÀRAMI) 
      
      Chí nguyện một lòng bất 
      thối, nghĩa là: Nếu Bồ Tát đã quyết định tu thì Ngài nhất 
      tâm hành đạo, y theo lời nguyện của Ngài không lòng thối 
      chuyển, gọi là quyết định đến bờ kia. 
      Quyết định chia ra làm 
      3 bậc: 
      
        a) Nếu vợ, hoặc con của 
        đức Bồ Tát có sự khó khăn đến đâu, Ngài không bỏ qua 
        lời nguyện. Sự tu hành tinh tấn như thế gọi là quyết định 
        đến bờ kia (adhitthàna pàrami) 
        b) Dù có sự thiệt 
        thòi đến tứ chi, thân thể của Ngài, Ngài vẫn nắm giữ 
        lời nguyện, không thoái bộ, gọi là quyết định đến bờ 
        trên (adhithàna upapàrami) 
        c) Dẫu có sự hại đến 
        mạng sống, Ngài chẳng khi nào thụt lùi bỏ lời nguyện, gọi 
        là quyết định đến bờ cao thượng (adhitthàna paramattha 
        pàrami) 
       
      
      IX. BÁC ÁI 
      BA LA MẬT (METTÀ PÀRAMI) 
      
      Cách tìm sự lợi ích an 
      vui cho chúng sanh và không lòng sân hận mà đức Bồ Tát hằng 
      thực hành gọi là bác ái đến bờ kia. Bác ái Ba la mật chia 
      làm 3 bậc: 
      
        a) Không làm mất sự lợi 
        ích an vui của chúng sanh, mặc dù có việc dự đến vợ, 
        con, thì Ngài cũng chẳng sân hận. (mettà parami) 
        b) Dẫu có kẻ làm hại 
        đến tứ chi, thân thể, Ngài vẫn không bất bình, gọi à 
        bác ái đến bờ trên (mettà upapàrami) 
        c) Dẫu có kẻ hại đến 
        mạng sống của Ngài, Ngài vẫn thương xót, gọi là bác ái 
        đến bờ cao thượng (mettà pàramettha pàrami) 
       
      
      X. XẢ BA LA 
      MẬT (UPEKKHA PÀRAMI) 
      
      Ðức 
      Bồ Tát hằng đè nén lòng ưa thích và sự bất bình theo 
      tình dục của chúng sanh, do tâm bác ái của Ngài gọi là xả 
      đến bờ kia. Xả Ba la mật chia ra làm 3 bậc: 
      
        a) Ðức Bồ Tát hằng 
        có lòng không thiên vị đối với người, nhất là với vợ, 
        con của Ngài, xả như thế gọi là xả đến bờ kia (upekkha 
        pàrami) 
        b) Ðức Bồ Tát hằng 
        giữ lòng trung thực, với những người ân hoặc vô ân với 
        Ngài, không lòng thiên vị, gọi là xả đến bờ trên 
        (upekkha upapàrami) 
        c) Dẫu có kẻ nào hại 
        đến mạng sống hoặc cứu tử Ngài, thì Ngài vẫn giữ 
        tâm điềm nhiêm đối với những người ấy, gọi là xả 
        đến bờ cao thượng (upekkha paramattha pàrami) 
       
      Phép Thập độ này trong 
      mỗi bộ có chia ra làm 3 bậc: Ðáo bỉ ngạn đến bờ kia (pàrami), 
      đáo bỉ ngạn đến bờ trên (upàrami), đáo bỉ ngạn đến bờ 
      cao thượng (paramattha pàrami). Tổng cộng là Tam Thập độ. 
      
      Thập độ có thể độ người chứng 3 quả Bồ 
      đề: 
      
      
        - Chánh đẳng chánh 
        giác (sammasambodhi) 
        - Duyên giác (paccekabodhi) 
        - Thinh Văn giác (savakabodhi) 
       
      Những người tu Phật tuỳ 
      sở thích, nên cầu nguyện cho được kết quả một trong 3 bậc 
      giác này. Hằng học Phật nếu chẳng thực hành theo pháp Thập 
      độ, vì chẳng mong đạt đến Niết Bàn. Vì thế các bậc 
      thiện hữu chí thức tinh tấn tu hành theo pháp Thập độ này, 
      không dễ duôi, thì sẽ ắt đoạt đến bậc tiêu dao, tự tại 
      chẳng sai. 
      - DỨT PHÁP THẬP ÐỘ 
      - 
      
      Chú thích: 
      
      
      [1] Tàu âm là: Ba La Mật 
      (Sanskrit: PARAMITA, Ba-la-mật-đa) 
      [2] Phiền não ví như nước 
      lụt to, nhận chúng sanh chìm trong bể khổ: Ngũ dục hồng thủy 
      (KAMOGKHA); sắc giới hồng thuỷ (BHAVOGHA); tà kiến hồng thuỷ 
      (DITTHOGHA); vô minh hồng thuỷ (AVJJOGHA) 
      [3] Tiên nhãn 
      (DIBBACAKKHU); nhục nhãn (MAMSACAKKHU); huệ nhãn (PANNÀCAKKHU); Phật 
      nhãn (BUDDHACAKKHU); toàn nhãn (SAMANTECAKKHU). 
      [4] thọ, tưởng, hành, 
      thức. 
      [5] Sắc thân tứ đại là: 
      đất, nước, gió, lửa 
       
      
      -ooOoo- 
       Ðầu 
      trang | 01 | 02 | 03 
      | 04 | 05 | 06 
      | 07 | 08 | 09 
      | 10 | 11 | 12 
      | Mục lục  |