| 
      [02]
       BODHISATTA 
      - BODHISATVA 
      TRUYỆN 
      ÐỨC BỒ TÁT
       
      Những người mong hiểu 
      Phật giáo, nên đọc chuyện Bồ Tát. Vì tiếng Phật giáo có 
      nghĩa là lời Phật dạy, mà người sẽ là Phật, trước tiên 
      phải tu hạnh Bồ Tát. hon nữa, sự thông rõ sử kinh về đức 
      Bồ Tát là một phương pháp phát sanh trí tuệ, đem đến cho 
      ta nhiều lợi ích, giúp cho ta nên bậc quí nhân. 
      Truyện Bồ Tát, hay nói 
      một cách khác là cổ tích của vị anh hùng (virapurasa) hoặc 
      bậc đại nhân (mAhàpurasa) vì là bậc xuất chúng, đáng làm 
      gương độ đời trở thành người hào kiệt hoặc đại nhân 
      được, bằng không cũng khiến cho người đời phát tâm trong 
      sạch, xác nhận trung thành đối với Tam bảo họ càng thấu 
      rõ chơn lý, tự xét đoán, quyết định rồi hoan hỷ, mát 
      mẻ thực hành theo, tâm linh của người thêm sáng suốt thanh 
      cao. 
      Với tên Bồ Tát, chúng 
      ta nên quan sát tỉ mỉ mẫu chuyện sau đây, rồi đem so sánh 
      với tài trí của mình với đức tính của Bồ Tát có danh 
      hiệu là người anh hùng và đại nhân. 
      
      BODHISATTA - 
      ÐỨC BỒ TÁT 
      
      Tiếng Bồ Tát (bodhisatta 
      hoặc bodhisatva) dịch là người sẽ giác ngộ pháp tối cao, 
      không thể so sánh được, hoặc là sự thông suốt pháp không 
      cho sanh, già, bịnh, chết, và những khổ não, dù là một tí 
      ti nào. Các sự hiểu biết khác nhau là: Sáng tác văn chương, 
      sáng tạo máy móc v.v... chỉ có lợi ích trong đời, không sao 
      sửa được sự sanh, già, bệnh, chết là những điều khổ 
      trọng đại vậy. 
      Những bậc đắc pháp Ba 
      la mật là: Dàna (bố thí), sìla (trì giới), nekkhamma (xuất 
      gia), pannà (trí tuệ), viriya ( tinh tấn), khantì (nhẫn nại), 
      sacca (ngay thật), adhitthàna (quyết định), mettà (bác ái), 
      upekkhà (xả), cả bậc thấy, bậc trung và bậc cao, đều 
      gọi là Bồ Tát, bậc này sẽ chứng quả Chánh đẳng Chánh 
      Giác là pháp giác ngộ thoát ly sanh tử luân hồi, lẫn tất 
      cả sự thống khổ ở đời. 
      Lại nữa, Bồ Tát có 3 
      hạng: Pannàdhika, Saddhàhika, Viriyàdhika. 
      Chú giải: 
      
        Pannàdhika: Hạng có trí 
        tuệ nhất. Bồ Tát hạng này có trí tuệ nhiều hơn các đức 
        tính khác. Nghĩa là cũng có đức tin, tinh tấn, vv... Nhưng kém 
        hoặc yếu hơn trí tuệ. 
        Saddhàhika: Hạng có đức 
        tin nhất. Bồ Tát hạng này, có đức tin nhiều hơn các đức 
        tính khác. 
        Viriyàdhika: Hạng có 
        tinh tấn nhất. Bồ Tát hạng này, có tinh tấn nhiều hơn các 
        đức tính khác. 
       
      Tóm tắt: Bồ Tát hạng 
      nhất có trí tuệ hướng dẫn, hạng nhì có đức tin hướng 
      dẫn, hạng ba có tinh tấn hướng dẫn. 
      
      HẠN KỲ TU 
      HẠNH BA LA MẬT (PÀRAMI) CỦA BỒ TÁT 
      
      Cả 3 hạng Bồ Tát đều 
      phải thực hành tròn đủ 30 phép Ba la mật (PÀRAMI: đến bờ 
      kia, Sangkrit: PÀRAMITA), nhưng mau hoặc lâu khác nhau. 
      1) Pannàdhika bodhisatta: 
      Bồ Tát có trí tuệ nhất phải tu 20 a tăng kỳ (asankheyya) và 
      100.000 kiếp. Trong thời đại tu chia ra làm 3 thời lỳ: 
      
        - Thời kỳ trù định 
        (âm thầm ước nguyện) sẽ cố gắng cho được thành bậc 
        Chánh đẳng Chánh Giác, phải trải qua 7 a tăng kỳ. 
        - Thời kỳ thuyết minh 
        (nguyện ra lời), phải trải qua 9 A tăng kỳ. 
        - Thời kỳ được 
        Phật dự đoán, phải trải qua 4 A tăng kỳ và 100.000 đại 
        kiếp. 
       
      2) Saddhàdhika bodhisatta: 
      Bồ Tát có đức tín nhất, phải tu 40 A tăng kỳ và 100.000 
      kiếp. 
      
        - Thời kỳ trù định, 
        phải trải qua 14 A tăng kỳ. 
        - Thời kỳ thuyết 
        minh, phải trải qua 8 A tăng kỳ và 100.000 kiếp. 
        - Thời kỳ được 
        Phật dự đoán, phải trải qua 8 A tăng kỳ và 100.000 kiếp 
       
      3) Viriyàdhika bodhisatta: 
      Bồ Tát có tinh tấn nhất phải tu 80 A tăng kỳ và 100.000 
      kiếp. 
      
        - Thời kỳ trù định, 
        phải trải qua 14 A tăng kỳ. 
        
        - Thời kỳ thuyết minh, phải trải qua 36 A tăng 
        kỳ 
        
        - Thời kỳ được 
        Phật dự đoán, phải trải qua 16 A tăng kỳ và 100.000 kiếp 
       
      
      BA DANH 
      HIỆU ÐỨC BỒ TÁT 
      
      Bồ Tát có trí tuệ 
      nhất gọi là Ugghatitannù: Có thể chứng quả, khi đức Phật 
      vừa khởi đầu duyên pháp. Bồ Tát hạng này, được nghe 
      Phật thuyết pháp, nếu cần quả Thinh Văn giác phân tích, khi 
      vừa nghe Phật thuyết đầu đề thì được chứng quả ngay. 
      Bồ Tát có đức tin 
      nhất gọi là Vipacitannù: Có thể chứng quả, khi đức Phật 
      vừa thuyết pháp xong. Bồ Tát hạng này, được nghe pháp đức 
      Phật, nếu muốn chứng quả Thinh Văn giác, lục thông sẽ đắc 
      khi vừa nghe xong thời pháp. 
      Bồ Tát có tinh tấn 
      nhất gọi là Neyya: Có thể tiến dẫn được. Bồ Tát hạng 
      này, muốn chứng quả Thinh Văn giác lục thông có lẽ chứng 
      được khi đã nghe Phật thuyết pháp tỉ mỉ rõ ràng từ chi 
      tiết. 
      
      HAI HẠNG 
      BỒ TÁT 
      
      Trong 3 hạng Bồ Tát đã 
      giải rút ngắn lại còn 2 là: Bất định (aniyata) và Xác định 
      (niyata) 
      
        1) Bất định Bồ Tát: 
        Cả 3 hạng Bồ Tát, nếu chưa được Phật dự đoán gọi là 
        Bất định Bồ Tát, nghĩa là không định chắc sẽ thành 
        Phật vị lai, có thể sẽ thành Phật đ?c giác hoặc Thinh Văn 
        giác. 
        2) Xác định Bồ Tát: 
        Khi đã được Phật dự đoán gọi là Xác định Bồ Tát, 
        nghĩa là định chắc sẽ chứng quả Chánh Biết Tri 
       
      
      SAMODHÀDHAMMA 
      - TÁM LIÊN HỢP PHÁP 
      
      Bồ Tát được Phật 
      dự đoán, cần phải có đầy đủ 8 liên hợp pháp là: 
      
        1) Manussattam: Phải là 
        người nam thật. 
        2) Lingasampatti: Phải có 
        đầy đủ hình tướng của người nam 
        3) Hetu: Phải có đặc 
        sắc đắc Thinh Văn giác như Sumedha đạo sĩ v.v... nghĩa là 
        nếu cần thành Thinh Văn giác thì đắc ngay trong thời đó. 
        4) Satthàradasanam: Phải 
        gặp Phật và làm điều cao thượng, dâng đến đức Phật 
        như vị đạo sĩ Sumedha trải thân làm cầu dâng cho Ðỉnh 
        Quang Phật (dipankàra) ngự đi. 
        5) Pabbajjà: Phải là người 
        xuất gia chơn chánh (đạo sĩ cũng được) 
        6) Gunasampatti: Phải có 
        đủ đức tính phi thường, nhất là ngũ thông, bát thiền. 
        7) Adhikàro: Phải được 
        làm việc tốt cao thượng là thí sinh mệnh và vợ con, do tác 
        ý, mong được chứng bậc Toàn Giác. 
        8) Chandatà: Phải có tâm 
        hăng hái đầy đủ trong sự tu chứng đạo quả, không mong 
        điều chi khác, dù khổ não thế nào cũng không nao núng. 
       
      Khi được đủ cả 8 đức 
      tánh trên trong kiếp nào thì mới Phật dự đoán là Xác định 
      Bồ Tát. 
      
      BUDDHABHÙMIDHARMA 
      - TRÌNH ÐỘ PHÁP 
      
      Là pháp chỉ về đạo 
      đức với tài năng cao, thấp của đức Bồ Tát, xác định 
      Bồ Tát là bậc chắc sẽ chứng quả Phật Toàn Giác, phỉ có 
      trình độ xuất chúng phi thường. 
      BỐN TRÌNH ÐỘ PHÁP 
      
        Ussàha: Có nghị lực 
        Ummagga: Có nhiều trí tuệ 
        Avatthànan: Có sự quyết định kiên cố. 
        Hitacariyà: Chỉ làm điều lợi ích. 
       
      Chú giải: 
      
        Ussàha: Có nghị lực. 
        Xác định Bồ Tát có khả năng quả quyết trong khi làm công 
        việc lành, không thối bộ. 
        Ummagga: Có nhiều trí 
        tuệ. Xác định Bồ Tát có sự hiểu biết tinh tường trong 
        nhân quả của mọi việc, rằng thế nào là điều lành, 
        dữ, rồi tránh nhân ác, cố tạo điều lành để thọ quả 
        vui. 
        Avatthànan: Có sự 
        quyết định kiên cố. Xác định Bồ Tát khi đã làm điều 
        thiện nào, thì nguyện làm cho thành tựu, không bỏ dở. 
        Hitacariyà: Chỉ làm điều 
        lợi ích. Xác định Bồ Tát chỉ làm điều lợi ích cho mình 
        và cho người, lánh xa nghiệp ác. 
       
      Trong 4 pháp trên, nên 
      sắp theo thứ tự như vầy: 
      
        Ummagga: Có nhiều trí 
        tuệ. 
        Hitacariyà: Chỉ làm điều lợi ích. 
        Avatthànan: Có sự quyết định kiên cố 
        Ussàha: Có nghị lực. 
       
      Chú giải: 
      Khi làm một việc gì thì 
      cần phải áp dụng theo thứ tự của trình độ pháp. Trước 
      tiên, phải dùng trí tuệ (trình độ pháp thứ nhất) quan sát 
      rồi mới bắt đầu làm (trình độ pháp thứ nhì), tiếp theo 
      dùng sự quyết định (trình độ pháp thứ ba) sau cùng đến 
      nghị lực (trình độ pháp thứ tư). 
      Ðức Xác định Bồ Tát, 
      mỗi khi hành động một việc gì dù lớn hay nhỏ, Ngài hằng 
      suy nghĩ, dự liệu tinh tường, thấy có lợi ích thật rồi, 
      quyết chú tâm làm cho kỳ được, dù gian lao đến đâu cũng 
      không ngã lòng, bỏ dở. 
      Hạng phàm nhân, chưa 
      phải là Xác định Bồ Tát, cũng nên trì chí trụ trong 4 trình 
      độ pháp như thế, mới mong đem mình ra khỏi bể khổ luân 
      hồi, khỏi vòng sanh tử, hưởng quả vị siêu thoát. 
      Bậc có 4 trình độ pháp, 
      mới gọi là người thượng lưu (panitapuggala). Người chưa có 
      đủ 4 trình độ pháp, gọi là kẻ hạ lưu (omakapuggala). 
      
      AJJHÀSAYADHARMA 
      - SÁU KHUYNH HƯỚNG PHÁP 
      
      Lệ thường Xác định 
      Bồ Tát thường có 6 khuynh hướng là: 
      
        Alobhajjhàsaya: Thiên 
        về không tham. 
        Adosajjhàsaya: Thiên về không sân. 
        Amohajjhàsaya: Thiên về không si. 
        Nekkhammajjhàsaya: Thiên về xuất gia 
        Pavivekajjhàsaya: Thiên về an tĩnh 
        Nissaranajjhàsaya: Thiên về thoát ly 
       
      Chú giải: 
      
        Thiên về không tham: Là 
        không mong được riêng về mình, hằng quan tâm những ích 
        cho kẻ khác, tức là sẳn có tác ý bố thí. 
        Thiên về không sân: Là 
        chận đứng tâm không cho nóng giận, khi phát sân thì lấy 
        đức từ bi đè nén. 
        Thiên về không si.: Là 
        không ngay dại, có trí tuệ không vội tin, Xác định Bồ Tát 
        hay suy nguyên nhân quả rồi mới tin 
        Thiên về xuất gia: Xác 
        định Bồ Tát, hằng bỏ đi tu, lìa khỏi sự yêu thương, 
        quyến luyến ngũ dục. 
        Thiên về an tĩnh: Xác 
        định Bồ Tát, hằng lánh xa chốn huyên náo, tìm ngụ trong 
        nơi thanh vắng một mình. 
        Thiên về giải thoát: 
        Là tìm đường ra khỏi phiền não, để thoát ly các sự 
        thống khổ ở đời. 
       
      Như thế, chúng ta thấy 
      rõ Bồ Tát có đặc tính ra sao, có khuynh hướng khác thường 
      thế nào. Chúng ta nên cố gắng hành theo, để hưởng quả 
      vui cho mình và cho kẻ khác. 
      
      ACCHARIYADHARMA 
      NIYATABODHISATTA - PHI THƯỜNG PHÁP CỦA XÁC ÐỊNH BỒ TÁT. 
      
      Ðức Xác định Bồ Tát 
      có 7 pháp phi thường, đáng cho trời, người nhận rằng cao 
      thượng vượt khỏi thường nhân là: 
      
        Pàpapatikuthacitto: Có tâm 
        chán nản điều ác. 
        Pàsarnacitto: Có tâm truyền thiện. 
        Adhimuttakàlakiriyà: Có tâm khuynh hướng về sự chết. 
        Visesajanattam: Người đặc biệt không giống kẻ khác. 
        Tikalannù: Biết rõ ba thời kỳ. 
        Pasùtikàlo: Khi đản sinh 
        Manussajàtiyo: Sinh ra làm người. 
       
      Chú giải: 
      
        1) Pàpapatikuthacitto: Có 
        tâm chán nản điều ác. Xác định Bồ Tát, hằng hổ thẹn 
        (hiri) và ghê sợ (ottappa) tội lỗi, vừa thấy điều chi 
        xấu xa thì Ngài liền ngã lòng ví như lông gà bị cháy. 
        2) Pàsarnacitto: Có tâm 
        truyền thiện. Xác định Bồ Tát hằng có tâm hoan hỉ với 
        việc lành, không thoái bỏ trước lẽ phải. Nếu làm việc 
        gì mà chưa toại nguyện thì không khi nào chán nản bỏ qua. 
        3) Adhimuttakàlakiriyà: Có 
        tâm khuynh hướng về sự chết. Xác định Bồ Tát, sanh 
        trong cõi trời trường sinh, Ngài sợ mất thì giờ tu pháp 
        Ba la mật, nên Ngài nguyện rằng: xin cho sinh mạng tôi đừng 
        tồn tại nữa. Nguyện xong, Ngài đi thọ sanh ngay (điều này 
        nếu chưa phải là Xác định Bồ Tát thì không thi hành được). 
        4) Visesajanattam: Người 
        đặc biệt không giống kẻ khác. Xác định Bồ Tát trong 
        kiếp chót, thọ sanh vào lòng mẹ không giống như thường 
        nhân. 
        Thường nhân: Khi ở 
        trong thai bào hết sức là u tối và vấy bẩn. Phải úp 
        mặt vào lưng mẹ, lưng xoay ra bụng mẹ. 
        Trái lại Xác định 
        Bồ Tát ngự trong nơi sạch sẽ, không chút bợn nhơ dính mình. 
        Ngài ngồi xoay mặt ra phía trước và ngồi bán già như vị 
        pháp sư trên pháp tọa. 
        5) Tikalannù: Biết rõ 
        ba thời kỳ. Xác định Bồ Tát trong kiếp chót biết rõ 3 
        thời kỳ: Khi giáng sinh từ cõi trờ vào lòng mẹ; Khi ngự 
        trong thai bào 10 tháng; Khi đản sinh. 
        Ðức Ðộc Giác và 2 
        thủ đệ tử Phật là Dvikàlannù chỉ biết 2 thời kỳ: Khi 
        sanh vào lòng mẹ và lúc ở trong thai bào. 
        Tám mươi vị Thinh Văn 
        giác là Ekakàlannù chỉ biết một thời kỳ là khi thọ sanh 
        vào lòng mẹ 
        Ngoài ra ra, phàm phu 
        chẳng có ai biết như ba hạng trên. 
        6) Pasùtikàlo: Khi đản 
        sinh. Xác định Bồ Tát trong kiếp chót, giờ đản sanh, Ngài 
        duổi 2 tay ra theo 2 chân, trong thoáng mát, Ngài ra khỏi thai bào, 
        hình như vị pháp sư đang xuống tọa, trong khi bà mẹ Ngài 
        đang đứng, mẹ Ngài và Ngài không thọ khổ chi cả. Ngày 
        đức Bồ Tát đản sinh vạn vật trong vũ trụ đều rung 
        rinh. 
        7) Manussajàtiyo: Sinh ra 
        làm người. Xác định Bồ Tát trong kiếp chót, Ngài có 
        thế lực sinh ra theo 3 nhân là: 
        
          - Ðời vừa cho Ngài 
          truyền bá Phật pháp. 
          - Hân hạnh có người xuất gia để thừa hành giáo pháp 
          của Ngài. 
          - Nơi có dịp để lưu truyền Xá lợi, sau khi Phật nhập 
          Niết Bàn. 
         
       
      Sự phi thường của Xác 
      định Bồ Tát trong kiếp chót, chỉ có 3 là pháp thứ 5, 6, 7. 
      
      -ooOoo- 
       Ðầu 
      trang | 01 | 02 | 03 
      | 04 | 05 | 06 
      | 07 | 08 | 09 
      | 10 | 11 | 12 
      | Mục lục  |