BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Đại Tạng No. 1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La
người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn
Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt Nam, PL 2543 (TL 2000)
Thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri
Quyển thứ ba mươi chín
-ooOoo-
NÓI RÕ PHẦN THỨ BA CỦA 141 PHÁP BA-DẠ-ÐỀ.
100. GIỚI: CHO NGƯỜI CÓ CHỒNG DƯỚI 12
TUỔI THỌ GIỚI.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy những người con gái của dòng họ Thích, họ
Câu-lê, họ Ma-la, họ Li-xa sau khi lấy chồng rồi mới xuất gia, từng chịu đựng
những việc cực nhọc nên đã khôn ngoan. Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di bèn hỏi Phật:
-
Bạch Thế Tôn, những người nữ đã có chồng, chưa đủ 20 mùa mưa có thọ Cụ túc được
không?
-
Ðược.
Thế
rồi, Tỉ-kheo-ni cho những người nữ đã lấy chồng 8 tuổi, 9 tuổi thọ Cụ túc,
nhưng vì họ quá bé nhỏ, yếu đuối không chịu đựng được những việc cực nhọc. Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo lại đem việc đó đến bạch lên Thế
Tôn. Cho đến, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni cho những người nữ đã lấy chồng chưa đủ 12 mùa mưa thọ Cụ túc,
thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Chưa
đủ 12 mùa mưa: Như
trường hợp chưa đủ 20 mùa mưa ở trên đã nói rõ.
Người
nữ đã có chồng:
Người mà phạm hạnh đã bị hủy hoại. Nếu cho người như vậy thọ cụ túc thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu người nữ đã lấy
chồng muốn thọ Cụ túc trong pháp luật của đức Như-lai thì trước hết nên hỏi ;
(536a) cho đến phải xem tay chân xương cốt.v.v...
Thế
nên đức Thế Tôn nói (như trên).
101. GIỚI: NGƯỜI CÓ CHỒNG 12 TUỔI CHƯA
HỌC GIỚI MÀ CHO THỌ GIỚI.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, sau khi đức Thế Tôn chế giới không cho phép
Tỉ-kheo-ni cho người nữ đã lấy chồng chưa đủ 12 mùa mưa thọ Cụ túc, thì
Tỉ-kheo-ni cho những người nữ đã lấy chồng đủ 12 mùa mưa thọ Cụ túc. Thế nhưng,
các Tỉ-kheo-ni than phiền rằng: "Ngươi là người nữ đã lấy chồng đủ hay chưa đủ 12 mùa mưa ai mà biết được!".
Các
Tỉ-kheo-ni nghe thế bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo lại đem việc ấy đến bạch
lên Thế Tôn. Thế rồi, Phật dạy: "Từ nay về sau, những người nữ đã lấy
chồng đủ 12 mùa mưa phải cho học giới 2 năm".
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành
Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
- Nếu
Tỉ-kheo-ni không cho người nữ đã lấy chồng đủ 12 mùa mưa học giới mà cho thọ Cụ
túc thì phạm tội Ba-dạ-đề, như trong giới đồng nữ không học giới ở trên đã nói.
Kệ
tóm tắt:
"Mắng
ngay, độ phi pháp,
Mười pháp chưa đầy đủ.
Không yết ma nuôi chúng,
Phạm giới, thiếu hai mươi.
Không học, học chưa đủ,
Học đủ, không yết ma.
Dưới hai mươi, không học,
Kết thúc phần thứ mười."
102. GIỚI: NGƯỜI CÓ CHỒNG HỌC CHƯA XONG
MÀ CHO THỌ GIỚI.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy, Tỉ-kheo-ni Ca-lê độ bà vợ của viên quan
nhà vua là Tu-đề-na xuất gia cho thọ Cụ túc. Vì lúc còn ở nhà bà đã có thai nên
dần dần bụng lớn. Các Tỉ-kheo- ni bèn khiển trách người đó rằng:
- Ðã
thọ học giới mà có thai lẽ đáng phải trục xuất.
- Từ
khi xuất gia đến nay tôi không hề biết chuyện đó.
Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo lại đem việc ấy đến bạch lên Thế
Tôn. Phật liền dạy: "Người này từ lúc xuất gia về sau không biết đến việc
ấy (việc dâm dục) tức là bào thai có từ lúc còn ở nhà. Nếu gặp trường hợp như
vậy thì chưa nên cho thọ Cụ túc mà phải đợi đến sau khi sinh con. Nếu sinh con
gái, thì sau khi sinh cho thọ Cụ túc. Nếu sinh con trai, thì đợi đến khi đứa bé
dứt sữa mới cho thọ Cụ túc. Nhưng nếu có chị em thân thích nói: "Hãy bồng
đứa bé đến đây để tôi nuôi dưỡng cho" - Nếu gặp trường hợp như vậy - thì
nên cho thọ Cụ túc".
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại
thành Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni cho người nữ đã lấy chồng học giới chưa đủ mà cho thọ Cụ túc thì
phạm tội Ba-dạ-đề, như trong điều đồng nữ học giới chưa đủ trên kia đã nói rõ.
103. GIỚI: CHO NGƯỜI CÓ CHỒNG THỌ GIỚI,
KHÔNG LÀM YẾT-MA.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, sau khi Ngài chế giới không cho phép Tỉ-kheo-ni
cho người nữ đã lấy chồng đủ 12 tuổi (536b) chưa đủ 2 năm học giới thọ Cụ túc,
thì Tỉ-kheo-ni cho người nữ đã lấy chồng đủ 2 năm học giới thọ Cụ túc. Thế
nhưng các Tỉ-kheo-ni chê trách người ấy: "Người học giới đủ hay chưa đủ ai
mà biết được".
Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo lại đem việc ấy đến bạch đầy đủ
lên Thế Tôn. Thế rồi Phật bảo Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các
Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni cho người nữ đã lấy chồng học giới đủ thọ Cụ túc mà không làm
yết-ma, thì phạm tội Ba-dạ-đề, như trong điều đồng nữ không làm yết ma ở trên
đã nói rõ.
104. GIỚI: CHO THỌ GIỚI RỒI MÀ KHÔNG DẠY
DỖ.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy các Tỉ-kheo-ni nuôi nhiều đệ tử mà không
dạy dỗ, để họ giống như trâu trời, dê trời, không biết giữ gìn sạch sẽ, oai
nghi không đầy đủ; không biết phụng sự Hòa thượng, A-xà-lê, không biết phụng sự
trưởng lão Tỉ-kheo-ni, không biết phép vào thôn xóm, ở A-luyện-nhã, không biết
mặc y, cầm bát. Các Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo bèn đem việc
ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi,
Phật hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là việc xấu. Vì sao ngươi độ người mà không dạy? Từ nay về sau phải dạy dỗ 2
năm.
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại
thành Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni cho đệ tử thọ Cụ túc rồi thì phải dạy dỗ trong 2 năm. Nếu không
dạy dỗ thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Ðệ
tử: Tức là đệ tử
cùng sống chung.
Hai
năm: Tức là hai mùa
mưa.
Dạy
dỗ: Hoặc dạy
A-tì-đàm, hoặc dạy Tỳ-ni.
A-tì-đàm: Tức là 9 bộ Kinh.
Tì-ni: Tức là Ba-la-đề-mộc-xoa rộng rãi hoặc
giảng lược. Nếu thấy họ có oai nghi nên khích lệ. Nếu thấy họ trái oai nghi,
nên ngăn cản. Nếu như không dạy dỗ thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu như đệ tử không
thể dạy, không muốn học thì phải trục xuất.
Nếu
Tỉ-kheo không dạy bảo đệ tử cùng sống chung thì phạm tội Việt tì-ni. Thế nên
đức Thế Tôn nói (như trên).
105. GIỚI: THỌ GIỚI RỒI, KHÔNG HẦU THẦY.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-Vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni độ đệ tử, sau khi thọ Cụ túc
rồi, đệ tử bèn bỏ đi nơi khác. Do đó, Hòa thượng ni than phiền rằng: "Ðức
Thế Tôn chế giới bảo phải dạy đệ tử, nhưng đệ tử bỏ tôi mà đi, thì tôi dạy ai
đây?"
Các
Tỉ-kheo ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo liền đem việc ấy đến bạch đầy đủ
lên Thế Tôn. (536c) Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật
hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là việc xấu. Vì sao ngươi thọ Cụ túc rồi mà đi đến nơi khác? Ngươi phải phụng
sự Hòa thượng ni trong 2 năm.
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại
thành Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Khi Tỉ-kheo-ni thọ Cụ túc rồi phải theo hầu, cung phụng Hòa thượng ni trong 2
năm, nếu không theo hầu, cung phụng, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Người
thọ Cụ túc: Chỉ cho
đệ tử cùng sống chung.
Hai
năm: Tức trong thời
gian 2 mùa mưa.
Cung
phụng: Tức cung
phụng hòa thượng ni.
Theo
hầu: Không được rời
xa. Nếu không theo hầu, cung phụng thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nhưng nếu Hòa thượng
ni trì giới lỏng lẻo, khiến đệ tử không muốn học, suy nghĩ: "Hòa thượng ni
của ta chỉ đi đến những nơi không nên đến, nếu ta đi theo thì sợ tổn thương đến
phạm hạnh", rồi bỏ đi để bảo toàn phạm hạnh thì không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo không theo hầu, cung phụng Hòa thượng, thì phạm tội Việt tì-ni. Thế nên
đức Thế Tôn nói (như trên).
106. GIỚI: NUÔI ÐỆ TỬ HÀNG NĂM.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy các Tỉ-kheo-ni cứ mỗi năm mỗi độ đệ tử cho
thọ cụ túc, rồi tâm sinh nghi ngờ không biết có được làm như thế không, bèn hỏi
Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo liền đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni
ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Từ
nay về sau, Ta không cho phép cứ mỗi năm mỗi độ đệ tử mà phải để cách năm.
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành
Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni cứ mỗi năm mỗi nuôi đệ tử thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Mỗi
năm: Cứ mỗi mùa mưa.
Nuôi
đệ tử: Tức cho thọ
cụ túc.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Phật không cho phép mỗi
năm mỗi nuôi đệ tử mà phải để cách năm một. Nếu Tỉ-kheo-ni có phước đức thì năm
thứ nhất cho đệ tử học giới, năm thứ hai cho thọ cụ túc, thì tuy năm nào cũng
có độ mà không có tội. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
107. GIỚI: ÐỂ CÁCH ÐÊM CHO THỌ GIỚI.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Thọ-đề muốn cho đệ tử thọ Cụ túc
bèn nói với Tỉ-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà rằng: "Thưa Thánh giả, xin người
mời giúp Tăng để cho đệ tử tôi thọ Cụ túc". Thế rồi Tỉ-kheo-ni Tăng bèn
cho giới tử thọ Cụ túc (ở bản bộ yết-ma). Khi ấy, Tỉ-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà
mời được nhóm sáu Tỉ-kheo, Thọ-đề bèn hỏi:
- Cô
đã mời giúp Tăng cho tôi được chưa?
- Ðã
mời được rồi.
- Mời
được ai vậy?
- Mời
được nhóm sáu Tỉ-kheo.
- Tôi
không dùng những vị ấy.
Thế
là đến sáng hôm sau, Thọ-đề liền mời các thiện Tỉ-kheo (537a) khác cho thọ Cụ
túc. Các Tỉ-kheo-ni bèn đem việc ấy nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo liền đem đến
trình bày lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni Thọ-đề đến. Khi cô tới rồi,
Phật hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Này
Thọ-đề, đó là việc xấu. Vì sao trong một chúng thanh tịnh mà ngươi để qua đêm
mới cho thọ Cụ túc, lại còn khinh thường chúng nữa? Từ nay về sau, Ta không cho
phép trong một chúng thanh tịnh mà để qua đêm cho thọ Cụ túc, cũng không cho
phép khinh thường chúng.
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại
thành Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
-- Nếu
Tỉ-kheo-ni ở trong một chúng thanh tịnh mà để qua đêm cho thọ Cụ túc thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Một
chúng thanh tịnh:
Tức thọ Cụ túc trong chúng của Tỉ-kheo-ni.
Ðể
qua đêm: Nếu để đến
hôm sau mới cho thọ Cụ túc trong chúng của Tỉ-kheo thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói: Phật không cho phép ở
trong một chúng thanh tịnh mà để qua hôm sau mới cho thọ Cụ túc; đồng thời cũng
không cho phép khinh thường chúng, cũng không được mời chúng Tỉ-kheo ác cho thọ
Cụ túc, mà trước hết phải đi thỉnh cầu thiện Tỉ-kheo. Nếu không thể mời đủ thì
phải mời được một nửa hoặc hơn một nửa để làm yết-ma. Nếu trường hợp gặp nạn
vua, nạn giặc không thể làm trong một ngày mà phải để qua đêm thì không có tội.
Trường
hợp Tỉ-kheo cũng không được khinh thường chúng, cần phải mời được một nửa, hoặc
hơn một nửa giới sư để làm yết-ma. Nếu khinh thường chúng thì phạm tội Việt
tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
108. GIỚI: ÐỆ TỬ CÓ LỖI MÀ KHÔNG THU XẾP.
Khi
Phật an trú tại thành Tỳ-xá-ly, Lúc ấy Tỉ-kheo-ni Ca-lê độ người con gái thứ ba
của dòng họ Li-xa xuất gia, thế rồi, cô này sống thân cận với người thế tục và
ngoại đạo. Các Tỉ-kheo-ni bèn nói với Tỉ-kheo-ni Ca-lê: "Cô biết đệ tử
mình sống thân cận với người thế tục và ngoại đạo mà vì sao không đưa kẻ ấy đến
sống cách biệt ở nơi khác?".
Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo liền đem việc ấy đến bạch lên Thế
Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni Ca-lê đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là việc xấu. Vì sao ngươi biết đệ tử sống thân cận với người thế tục và ngoại
đạo mà không cách ly họ? Từ nay về sau, Ta không cho phép làm như thế.
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành
Tỳ-xá-ly phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni độ đệ tử có vấn đề mà không tự mình đưa họ hoặc sai người khác
đưa họ đi xa ít nhất là 5,6 do tuần, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Ðộ
người: Tức là Hòa
thượng ni.
Ðệ
tử: Tức là đệ tử
đồng hành.
Có
vấn đề: Tức là đệ tử
muốn thôi tu, hoặc là cha mẹ bà con muốn họ thôi tu, hoặc chồng (537b), chú
muốn họ thôi tu.
Ðưa
đi: Hoặc tự mình đưa
đi, hoặc sai người khác đưa đi.
Ít
nhất là 5, 6 do tuần: Mức độï ít nhất là sáu do tuần.
Nếu
đệ tử sống thân cận với người thế tục thì nên đưa họ đi du hành. Nếu bản thân
mình già bệnh không thể làm được thì nên chuyển lời nhờ người khác dạy bảo
rằng: "Ngươi nên đi vân du đảnh lễ chùa tháp sẽ được nhiều công đức, đồng
thời gặp được những hội chúng tốt đẹp làm cho tầm hiểu biết của mình thêm mở
mang, nếu ta mà không già cả thì ta cũng sẽ đi".
Nếu
Tỉ-kheo có đệ tử cùng sống chung có vấn đề mà không tự mình đưa đi hoặc sai
người khác đưa đến nơi khác thì phạm tội Việt tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói
(như trên).
109. GIỚI: NGOAN CỐ KHÔNG NGHE LỜI
KHUYÊN.
Khi
Phật an trú tại Xá-vệ, lúc bấy giờ Tỉ-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà chưa đủ 10 pháp
mà độ đệ tử, rồi không dạy dỗ để họ buông lung giống như trâu trời, dê trời.
Thế rồi có Tỉ-kheo-ni nói với Thâu-lan-nan-đà:
- Này
Thánh giả, cô chưa đủ 10 pháp mà độ đệ tử rồi không chịu dạy bảo để họ như thế
đó.
- Cô
đố kỵ việc tôi độ đệ tử nên trách mắng tôi.
Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo liền đem việc ấy đến bạch lên Thế
Tôn. Phật liền bảo gọi Thâu-lan-nan-đà đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là việc xấu. Vì sao ngươi chưa đủ 10 pháp lại độ đệ tử rồi không chịu dạy bảo
mà còn trách móc người khác? Từ nay về sau, Ta không cho phép trách móc người
khác.
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại
thành Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni A nói với Tỉ-kheo-ni B rằng: "Này Thánh giả, cô chưa đủ 10
pháp mà độ đệ tử thì phải dạy bảo họ", mà cô B trách ngược lại cô A thì
phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Tỉ-kheo-ni: Hoặc Ni Tăng, hoặc nhiều người, hoặc một
người.
Tỉ-kheo-ni
B: Tức là Tỉ-kheo-ni
Thâu-lan-nan-đà.
Chưa
đủ 10 pháp: Tức là
10 pháp chưa thành tựu mà độ đệ tử, cho thọ Cụ túc, rồi có người khuyên can mà
lại trách móc, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói.
Nếu
Tỉ-kheo làm như trên thì phạm tội Việt tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như
trên).
110. GIỚI: HỨA CHO THỌ GIỚI MÀ KHÔNG CHO
THỌ.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy có cô ni đang học giới nói với
Thâu-lan-nan-đà:
-
Thưa Thánh giả, con học giới đủ rồi cho con thọ Cụ túc.
-
Ðược.
Sau
đó, cô Ni học giới nhắc lại: "Thưa Thánh giả, con học giới đủ rồi, cho con
thọ Cụ túc". Thâu-lan-nan-đà nghe thế mà không cho thọ Cụ túc, không nhờ
người khác cho thọ, cũng không bảo đi nơi khác để thọ. Các Tỉ-kheo-ni bèn trách
cô ta: "Trước đây cô hứa cho thọ Cụ túc, vì sao không cho thọ?" Tuy
nghe lời trách móc ấy, nhưng (537c) cô vẫn không cho thọ.
Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo lại đem việc ấy đến bạch đầy đủ
lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Thâu-lan-nan-đà đến. Khi cô tới rồi, Phật liền
hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là việc ác. Vì sao ngươi hứa cho người khác thọ Cụ túc mà rồi không cho thọ? Từ
nay về sau, Ta không cho phép làm như vậy.
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành
Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni nói với Thức-xoa-ma-ni rằng: Ngươi học giới đủ rồi ta sẽ cho thọ
cụ túc", nhưng sau đó không cho thọ, không nhờ người khác cho thọ, cũng
không bảo họ đi nới khác, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Thức-xoa-ma-ni: người tùy thuận học 18 việc trong 2 năm.
Nói
rằng: Như trường hợp
Tỉ-kheo-ni Thâu-lan-nan-đà hứa cho thọ Cụ túc mà sau đó tự mình không cho thọ
cũng không bảo người khác cho thọ thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni nói với
Thức-xoa-ma-ni rằng: Ta sẽ cho ngươi thọ Cụ túc mà sau đó không có khả năng thì
nên bảo người khác cho thọ. Nếu tự mình không cho thọ, không nhờ người khác cho
thọ, thì nên bảo họ đi nơi khác để thọ Cụ túc. Nếu Tỉ-kheo-ni hứa cho
Thức-xoa-ma-ni thọ Cụ túc mà sau đó không cho thọ thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu
Tỉ-kheo hứa cho Sadi thọ Cụ túc mà sau đó không cho thọ thì phạm tội Việt
tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
111. GIỚI: KHÔNG BỆNH MÀ ÐI XE .
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, bấy giờ Tỉ-kheo-ni Bạt-đà-la-già-tì-lê đi xe lộng lẫy
đến nhà bà con, bị người đời chê trách rằng: "Vì sao Samôn ni đã xuất gia
mà giống như người thế tục, đi xe lộng lẫy, còn nhiều tham dục đến như
thế?".
Các
Tỉ-kheo-ni nghe thế bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo đem việc đó đến bạch đầy
đủ lên Thế Tôn. Phật bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là việc xấu. Từ nay về sau, Ta không cho phép làm như vậy.
Lại
nữa, bấy giờ có một Tỉ-kheo-ni con dòng họ Thích, vì già bệnh ốm yếu, đi đường
không theo kịp bạn bè phải đi sau, bị bọn giặc xâm phạm. Cuối cùng, Phật bảo
Ðại Ái Ðạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành Xá-vệ phải tập
họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni không bệnh mà đi xe thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Bệnh: Nếu vì già bệnh ốm yếu hay là nhạc sĩ
không thể đi được (thì đi xe) Thế Tôn bảo là không có tội.
Xe: Gồm có 8 loại, kể cả thuyền bè đó gọi là
8 loại; nếu sử dụng những thứ ấy thì phạm tội Ba-dạ-đề. (538a) Ðức Thế Tôn
không cho phép Tỉ-kheo-ni không bệnh mà đi xe, thuyền. Nhưng nếu có bệnh cũng
không được đi xe do trâu đực kéo, mà được đi xe do trâu, ngựa, lạc đà cái kéo.
Nếu vì bệnh không biết đó là con đực hay cái thì không có tội. Nếu đi đò ngang
thì không có tội. Ngoài ra, nếu có nhân duyên thì được đi đò xuôi, ngược dòng
sông.
Nếu
Tỉ-kheo không bệnh mà đi xe, đò thì phạm tội Việt tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn
nói (như trên).
Kệ
tóm tắt:
"Chưa
đủ, không yết-ma,
Hòa thượng không dạy bảo.
Ðệ tử không theo hầu,
Hằng năm nuôi đệ tử.
Cách đêm thọ Cụ túc
Có chuyện, không đưa đi.
Chê trách, hứa thọ giới,
Ði xe thuyền cuối cùng
Hết phần thứ mười một"
112. GIỚI: KHÔNG BỆNH MÀ ÐỘI DÙ.
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, bấy giờ Tỉ-kheo-ni Bạt-đà-la-già-tì-lê đội dù, mang
giày đi đến nhà bà con, bị người đời chê bai rằng: "Vì sao Samôn ni mà
giống như người thế tục, còn đa dục đến như thế?".
Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo lại đem việc ấy đến bạch lên Thế
Tôn. Phật bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
Từ
nay về sau, Ta không cho phép cầm dù, mang giày.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ có những cô gái của họ Thích họ Ma-la,
trước kia vốn là nhạc sĩ, nay đã xuất gia, đi đường gặp lúc trời nóng bức rất
là cực nhọc. Các Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo đem việc ấy đến
bạch lên Thế Tôn. Phật dạy: "Từ nay về sau, Ta cho phép khi bệnh (được đội
dù)".
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành
Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni không bệnh mà cầm dù, mang giày thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Bệnh: Nếu bị già yếu, bệnh hoạn, khiêng chân
mà mang giày thì Thế Tôn nói là không có tội.
Ô
dù: Như ô dù làm
bằng vỏ cây, bằng đa-lê, bằng tre, bằng ma-lâu, bằng lá cây, bằng vải, đại loại
các thứ dù tương tự như thế.
Giày: Loại giày một lớp, hai lớp.
Cầm: Nếu sử dụng thì phạm tội Ba-dạ-đề .
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu cầm dù mà không
mang giày thì phạm tội Việt tì-ni . Nếu mang giày mà không cầm dù cũng phạm tội
Việt tì-ni. Nếu dùng cả hai thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu không dùng cả hai thì
không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo cầm dù đẹp đẽ, mang giày hai lớp thì phạm tội Việt tì-ni. Thế nên đức
Thế Tôn nói (538b) (như trên).
113. GIỚI: NẰM GIƯỜNG CAO QUÁ MỨC ÐỘ.
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Bạt-đà-la-già-tì-lê đi đến nhà bà
con, trải 2, 3 lớp nệm trên chiếc giường Khư-trù-la cao nghệu mà ngồi, bị người
đời và ngoại đạo chê bai rằng: "Vì sao Sa-môn ni đã xuất gia mà còn giống
như người thế tục, đa dục đến như thế?".
Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo lại đem việc đó đến bạch lên Thế
Tôn. Phật bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Vì
sao ngươi ngồi trên giường Khư-trù-la cao quá mức độ như vậy? Từ nay về sau, Ta
không cho phép làm như thế.
Ðoạn
Phật bảo Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại
Tì-xá-li phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni ngồi hoặc nằm trên giường nệm Khư-trù-la cao quá mức độ thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Quá
mức độ: Cao hơn 8
ngón tay.
Giường
nệm Khư-trù-la:
Khư-trù-la gồm có 14 loại, cho đến giường Băng-cầu-la, Khư-trù-băng-cầu-la, nếu
ngồi hay nằm trên đó thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu ngồi suốt ngày thì
phạm một tội Ba-dạ-đề. Nếu đã đứng lên rồi, ngồi xuống lại thì cứ mỗi lần ngồi
lại phạm một tội Ba-dạ-đề. Nếu giường cao quá mức độ thì được chôn chân giường
xuống (cho ngang mức độ) mà ngồi.
Nếu
Tỉ-kheo ngồi giường Khư-trù-la cao quá mức độ thì phạm tội Việt tì-ni. Thế nên
đức Thế Tôn nói (như trên).
114. GIỚI: CÙNG NẰM CHUNG MỘT GIƯỜNG.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy nhóm sáu Tỉ-kheo-ni cùng ngủ chung trên một
giường, một chõng, mền gối bị rách nát, giường chõng bị hỏng hóc. Các
Tỉ-kheo-ni bèn đem sự việc ấy nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo bạch với Thế Tôn.
Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật bèn hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là việc xấu.
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành
Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni trải giường nệm ra cùng nằm chung thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Trải: Cùng một chõng, một giường, một mùng.
Giường: Gồm có 14 loại, thậm chí nếu nằm trên
giường Chi-lan thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Không được nằm chung
một giường mà nên nằm mỗi người một giường. Nếu giường ba chỗ ngồi thì được nằm
hai người nhưng khi dang chân ra thì không được quá đầu gối. Nếu tấm nệm vuông
thì ba tấm được dùng cho hai người nằm, nhưng khi dang chân ra thì không được
quá đầu gối. Nếu trải dưới đất thì không được dùng cho nhiều người mà nên nằm
cách nhau chừng một cánh tay dang ra. Nếu tọa cụ thì nên tự trải ra mà ngồi.
Khi trời lạnh thì ở trên (538c) được phủ chung một tấm màn còn ở dưới mỗi người
tự đắp mền riêng thì không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo cùng nằm chung một giường thì phạm tội Việt tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn
nói (như trên).
115. GIỚI: RA ÐI KHÔNG TRẢ LẠI PHÒNG.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Ca-lê nhận phòng của Tăng rồi
đóng cửa mà ra đi. Sau đó có Tỉ-kheo-ni khách là Thượng tọa đến, theo thứ tự
nhận phòng, thấy cửa phòng đóng, than phiền rằng: "Ðây là phòng ốc của
Tăng vì sao lại đóng cửa rồi ra đi?".
Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Thế rồi, Phật bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi
cô tới rồi, Phật liền hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là việc xấu. Vì sao phòng của Tăng mà ngươi nhận rồi không trả, lại đóng cửa
rồi ra đi? Từ nay về sau không được làm như vậy.
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành
Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni không xả phòng giường nệm của Tăng mà ra đi thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Giường
nệm của Tăng: Như
giường nằm, giường ngồi, gối nệm và câu chấp.
Không
xả: Không trả lại,
không thưa mà bỏ đi nơi khác thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni muốn đi
đâu thì phải trả lại giường nệm, nói với người trông coi giường nệm biết rồi
mới đi. Nếu không trả lại mà đi, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu như phòng không bỏ
trống, sau đó có người khác ở, thì phạm tội Việt tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói
(như trên).
116. GIỚI: VÀO CHỖ TĂNG KHÔNG THƯA TRƯỚC.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy, Tỉ-kheo-ni mẹ của Kiệt-trụ không nói trước
mà đột nhiên đi vào phòng Tỉ-kheo cha của Kiệt-trụ, rồi xoa sau lưng. Vị này
quay lại nhìn thấy, liền kêu lên: - Ðừng, đừng! Hãy xa tôi ra!
-
Ngày trước tôi thường tắm rửa cho ông, nay tôi chỉ xoa một tí thì có gì mà kêu
vang.
-
Ngày xưa tôi là người thế tục, nay đã xuất gia không được làm như trước nữa.
Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn.
Phật bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là việc xấu. Vì sao ngươi không thưa trước mà đi vào tinh xá của Tỉ-kheo? Từ
nay về sau Ta không cho phép làm như thế.
Thế
rồi, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni không bạch trước mà đi vào Tăng-già-lam của Tỉ-kheo thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Tăng-già-lam
của Tỉ-kheo: Ít nhất
là chỗ ở của một Tỉ-kheo.
Không
bạch trước: Không
nói trước, không gọi mà tự động vào như Tỉ-kheo-ni mẹ của Kiệt-trụ thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni muốn đi
vào trú xứ của Tỉ-kheo thì phải (539a) đến đứng trước cửa phòng bạch rằng:
"Kính chào, Tỉ-kheo-ni (mỗ giáp) xin vào gặp, mong được sự cho phép".
Khi ấy, Tỉ-kheo phải cân nhắc, nếu thấy Tỉ-kheo-ni ấy hiền thiện mà mình đang
rỗi rảnh, đã khoác sẵn y phục, thì cho phép vào. Nếu mình đang có việc, hoặc
đang làm đất hay đang ở trần thì nên nói: "Này chị em, hãy đứng chờ một
tí", rồi xướng rằng: "Này các Trưởng lão, Tỉ-kheo-ni muốn vào, các vị
hãy mặc y phục". Nếu thấy Tỉ-kheo-ni ấy bất thiện, không có oai nghi thì
nên nói: "Cô đừng vào, Tăng đang có việc".
Nếu
không nói trước mà đi vào lần đầu thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nhưng nếu đi đến lần
sau thì không có tội. Nếu không bạch mà đi vào thì khi dở lên một chân phạm tội
Việt tì-ni, dở lên cả hai chân phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu đi trở ra thì phạm tội
Việt tì-ni.
Nếu
Tỉ-kheo không nói trước mà đi vào trú xứ của Tỉ-kheo-ni thì phạm tội Việt
tì-ni. Khi muốn vào nên đến đứng trước cửa phòng bảo tịnh nhân nữ thông báo
(rồi mới vào). Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
117. GIỚI: TRÚ NGỤ NHÀ THẾ TỤC.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni đi đường gặp lúc hoàng hôn muốn
vào trong thôn xin chỗ trú ngụ, bèn đến một nhà kia nói với người phụ nữ:
- Xin
cho tôi nghỉ tạm một đêm.
-
Chồng tôi đi vắng có thể chiều tối sẽ trở về.
Tỉ-kheo-ni
cứ tiếp tục nài nỉ xin trú ngụ. Người phụ nữ nói: "Nếu chồng tôi không về
thì cô có thể tạm nghỉ một đêm". Thế là bà ta cho nghỉ. Ðến lúc chiều tối,
ông chồng trở về, do kiết sử sai khiến, ông bèn giao hoan với bà vợ. Tỉ-kheo-ni
này vì chưa ly dục nên nghe tiếng hai vợ chồng giao hoan lòng không vui, đến
khi trở về tinh xá, liền nói với các Tỉ-kheo-ni. Các Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại
Ái Ðạo. Cuối cùng, Phật bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật liền
hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Vì
sao ngươi biết thực gia dâm xứ mà vẫn trú ngụ? Từ nay về sau, Ta không cho phép
làm như vậy.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ các Tỉ-kheo-ni đi đường đến lúc
chiều tối bèn vào trong thôn tìm khắp nơi mà không có những nhà không có đàn
ông, đành phải nghỉ tạm bên đường hẻm. Thế rồi vào lúc đêm khuya có mưa to gió
dữ nổi lên, bị bọn thanh niên đến xâm phạm làm tổn thương phạm hạnh. Các
Tỉ-kheo-ni bèn đem việc ấy trình bày với Ðại Ái Ðạo. Cuối cùng, Phật dạy:
"Từ nay về sau, trừ lúc khác (cho đến) dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni biết thực gia dâm xứ mà trú ngụ - trừ lúc khác - thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Lúc
khác: Tức là lúc
gió, lúc mưa, lúc bị đe dọa mất mạng, lúc phạm hạnh bị tổn thương; đó gọi là
lúc khác.
Tỉ-kheo-ni: Như trên đã nói.
Biết: Hoặc tự biết hoặc do nghe người khác mà
biết.
Thực: Người nữ là thực phẩm của người nam,
người nam là thực phẩm của người nữ.
Gia: Tức gia tộc bốn chủng tánh.
Dâm
xứ: Phòng ngủ của vợ
chồng. Nếu Tỉ-kheo-ni trú ngụ nơi ấy thì phạm tội Ba-dạ-đề. Ngoại trừ khi khác
thì đức Thế Tôn nói là không có tội. Khi khác tức là khi gió, khi mưa, khi bị
mất mạng, (539c). Khi nghi ngờ bọn con trai làm tổn thương phạm hạnh; đó gọi là
khi khác. Không được đã biết nơi đó là thực gia dâm xứ mà vẫn trú ngụ. Nếu nghi
ngờ trong thôn có bọn con trai phóng đãng vì sợ bọn chúng mà trú ngụ thì không
có tội. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
118. GIỚI: ÐI XA KHÔNG CÓ BẠN.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, bấy giờ các Tỉ-kheo-ni ở Tì-xá-li an cư xong, muốn
đến thành Xá-vệ lễ bái Thế Tôn, bèn đến tinh xá Tỉ-kheo, chào:
-
Kính chào tôn giả! Con nghe nói tôn giả muốn đến thành Xá-vệ lễ bái Thế Tôn, có
đúng thế không?
- Cô
hỏi để làm gì?
- Con
muốn đi theo.
- Ðức
Thế Tôn chế giới không cho Tỉ-kheo đi chung đường với Tỉ-kheo-ni.
-
Ngày nào khởi hành vậy?
-
Ngày mỗ.
Thế
là các Tỉ-kheo-ni ghi nhớ ngày ấy, về chuẩn bị y bát rồi đúng ngày đến đứng chờ
bên đường. Ðến ngày ấy, các Tỉ-kheo ăn xong rồi lên đường. Khi trông thấy các Tỉ-kheo-ni bèn bảo nhau: "Các
Tỉ-kheo-ni muốn đi theo chúng ta, chúng ta hãy đi nhanh lên". Khi ấy, các
Tỉ-kheo-ni trẻ tuổi thì vội vã chạy theo, còn những người già bệnh, nhạc sĩ
không theo kịp, lạc lại đàng sau, nên bị bọn cướp lột hết đồ đạc.
Các
Tỉ-kheo-ni bèn trình bày với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo lại đem việc ấy đến bạch
lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật hỏi:
-
Ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Tại
sao không có khách buôn làm bạn mà ngươi dám đi đường đến nước khác xa xôi? Từ
nay về sau, Ta không cho phép làm như vậy
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành
Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni không có khách buôn làm bạn mà đi đến nước khác xa xôi thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Không
có bạn: Không có
khách buôn làm bạn.
Nước
khác: Một vương quốc
khác. Nếu đi đến đó thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Khi
Tỉ-kheo-ni muốn đi thì trước hết nên tìm thương nhân làm bạn. Nếu người ấy nói:
"Thánh giả cứ đến đây, tôi sẽ sắp đặt để cho cô đi", thì nên xem xét
người ấy. Nếu họ nói nghe hay ho mà trông họ không tốt, thì không nên đi theo,
mà nên tìm những người tốt có đem theo vợ và con gái để cùng đi chung.
Nếu
lúc ra đi gấp gáp không xem xét kỹ được đến giữa đường mới phát giác được thực
hư, thì không được rời bỏ họ ngay lập tức mà phải đợi đến gần thôn xóm mới rời
bỏ họ mà đi. Nếu họ hỏi: "Cô định đi đâu vậy?", thì nên đáp:
"Tôi đi khất thực".
Nếu
Tỉ-kheo-ni không làm bạn với thương nhân trong khi đi đường thì phạm tội Việt
tì-ni, khi đến nơi thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu
Tỉ-kheo không có thương nhân làm bạn mà đi đường xa thì phạm tội Việt tì-ni.
Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
119. GIỚI: DU NGOẠN THẮNG CẢNH.
(539c)
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy Tỉ-kheo-ni đi với phụ nữ đến tham quan
các khu vườn, hồ nước. Thế rồi, các phụ nữ đến bên hồ nước để ăn uống, còn
Tỉ-kheo-ni thì vào trong thôn xóm để tham quan. Khi ấy, bỗng có các thanh niên
từ trong rừng đi ra, quấy nhiễu Tỉ-kheo-ni.
Tỉ-kheo-ni
bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Cuối cùng, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
- Nếu
Tỉ-kheo-ni đến vườn, khu rừng, nơi hoang vắng trong lãnh thổ (quốc gia) để ngắm
cảnh, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Trong
lãnh thổ: Trong đất
nước của một vì vua.
Vườn: Như vườn Am-bà-la cho đến vườn
A-đề-mục-đa.
Khu
rừng: Tức những khu
rừng trồng cây.
Nơi
hoang vắng: Tức
những nơi không có nhà cửa. Nếu tham quan những nơi đó thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni đi tham
quan khu vườn, rừng, nơi hoang vắng, thì khi ra đi phạm tội Việt tì-ni, lúc đến
nơi phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu đàn việt nữ giới mời đi với họ thì không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo vì ham vui mà đi tham quan vườn, rừng, nơi hoang vắng thì phạm tội Việt
tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
120. GIỚI: NGỒI VỚI TỈ-KHEO Ở CHỖ KHUẤT.
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, lúc ấy người vợ cũ của Ưu-đà-di là Tỉ-kheo-ni
Tu-xà-đề nói với thầy rằng: "Tôn giả, ngày mai tôi giữ phòng, tôn giả có
thể đến thăm". Bấy giờ, tất cả Tỉ-kheo-ni đều vào thôn xóm khất thực, thì
Ưu-đà-di khoác y, cầm bát đi vào tinh xá của Tỉ-kheo-ni. Thế rồi, hai người
ngồi chòm hỏm ở phòng sau, để lộ bộ phận sinh dục, nhìn nhau với lòng đầy dục vọng.
Lúc ấy có một Tỉ-kheo-ni già bệnh từ trong phòng bước ra để đi tiểu tiện, thấy
thế rất xấu hổ, liền bước nhanh qua; rồi đem sự việc ấy nói với Ðại Ái Ðạo.
Cuối cùng, Phật bảo gọi Tỉ-kheo-ni ấy đến. Khi cô tới rồi, Phật liền khiển
trách: "Ðó là việc xấu" (cho đến) Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni ngồi một mình với một Tỉ-kheo ở nơi vắng vẻ thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Một
mình: Chỉ có một
Tỉ-kheo, ngoài ra không có ai khác. Giả sử có người mà người ấy ngủ, hoặc say,
hoặc điên cuồng, hoặc bị bệnh tâm thần, hoặc trẻ con đang kêu khóc, hoặc phi
nhân, súc sinh thì cũng được xem là chỉ có một mình.
Nơi
vắng vẻ: Chỗ khuất
vắng không có người.
Ngồi: Nếu cùng ngồi với nhau thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo-ni ngồi với
một Tỉ-kheo suốt ngày thì phạm một tội Ba-dạ-đề. Nếu nửa chừng đứng dậy rồi
ngồi lại thì mỗi lần ngồi phạm mỗi tội Ba-dạ-đề.
Nếu
Tỉ-kheo-ni ngồi một mình trong phòng, rồi đột nhiên có Tỉ-kheo đi đến, vào
ngồi, thì Tỉ-kheo-ni nên nhanh chóng đứng dậy. Nhưng muốn đứng lên thì nên nói
trước đừng để Tỉ-kheo lấy làm ngạc nhiên. Nếu Tỉ-kheo hỏi: "Vì sao mà
đứng", thì hãy đáp: "Vì Thế Tôn chế giới không cho phép con ngồi một
mình với Tỉ-kheo".
Nếu
ngồi một mình với đứa bé trai dưới 7 tuổi cũng phạm. Thế thì khoảng thời gian
ngồi đó là bao lâu? - (540a) Khoảng thời gian đó bằng khoảnh khắc lấy thức ăn
cho người xuất gia. Nhưng nếu có tịnh nhân làm việc đi lại vào ra không gián
đoạn thì ngồi không có tội. Hoặc là cửa phòng hướng ra ngoài đường, mà trên
đường có người đi lại không gián đoạn cũng không có tội. Trái lại, nếu người đi
lại gián đoạn thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu tịnh nhân đang ngủ thì phải búng ngón
tay đánh thức họ dậy. Nếu mình ở trên gác mà người dưới gác nhìn thấy, hoặc
mình ở dưới gác mà người ở trên gác nhìn thấy, ba người luôn luôn nhìn thấy
nhau thì không có tội.
Lại
có các trường hợp: Thấy mà không nghe; hoặc nghe mà không thấy; vừa thấy vừa
nghe; vừa không nghe, không thấy.
Thấy
mà không nghe: Từ xa trông thấy Tỉ-kheo ngồi với Tỉ-kheo-ni mà không nghe tiếng
nói.
Nghe
mà không thấy: Nghe tiếng nói mà không nhìn thấy.
Ðại
loại hai trường hợp sau cũng thế. Nếu thấy mà không nghe thì phạm tội Việt
tì-ni. Nếu nghe mà không thấy cũng phạm tội Việt tì-ni. Nếu vừa thấy, vừa nghe
thì không có tội. Nếu không thấy, không nghe thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Tội
này bao gồm các trường hợp: ở xóm làng; ở a-luyện-nhã; ban ngày; ban đêm; lúc
đúng thời; lúc phi thời; ở chỗ che khuất chứ không phải ở chỗ trống trải, chỉ
có một người chứ không phải nhiều người; ở gần nhau chứ không phải ở cách xa
nhau. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
121. GIỚI: NGỒI VỚI NAM GIỚI Ở CHỖ KHUẤT.
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Bạt-đà-la đến nhà bà con, ngồi với
anh em, chị em, trẻ con ở chỗ che khuất; Tỉ-kheo-ni khác thấy thế trách cứ
rằng: "Vì sao người xuất gia mà ngồi chung với người thế tục ở chỗ kín đáo
giống như người đời vậy?" Rồi cô đem việc ấy nói với Ðại Ái Ðạo. Cuối
cùng, Phật dạy: "Từ nay về sau, Ta không cho phép ngồi với nam tử ở chỗ
kín đáo (cho đến) dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni ngồi với nam giới ở chỗ che khuất thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Ba-dạ-đề: Như trong giới của Tỉ-kheo ở trên đã nói
rõ.
Thế
nên đức Thế Tôn nói (như trên).
Kệ
tóm tắt:
"Cầm
dù, ngồi giường cao,
Cùng trải giường, không bỏ.
Không bạch, nghỉ chỗ dâm,
Không bạn, đi tham quan.
Cùng ngồi với Tỉ-kheo
Cũng như với nam giới.
Hết phần thứ mười hai".
122. GIỚI: ÔM ÐÀN ÔNG VÀO MÌNH MÀ THỦ THỈ.
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Bạt-đà-la đến nhà bà con, đưa tay
ra kéo anh em, chị em, trẻ con vào đứng gần bên mình rồi rỉ tai. Kẻ đầy tớ thấy
thế hiềm nghi, nói: "Người xuất gia này đang nói thì thầm, chắc là nói về
lỗi lầm của ta".
Các
Tỉ-kheo-ni nghe thế bèn nói với Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di. Cuối cùng, Phật dạy: Dù
ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni đưa tay ra kéo nam tử vào đứng sát bên mình, rồi nói rỉ tai thì
phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Tỉ-kheo-ni: Như trên đã nói.
Ðưa
tay ra kéo vào bên mình:
Ðưa tay ra kéo vào đứng gần kề bên.
(540b)
Nói rỉ tai: Nếu nói thì thầm bên tai nhau thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Tỉ-kheo-ni
không được đưa tay ra kéo nam tử vào đứng kề bên mình rồi nói chuyện, hoặc nói
thì thầm. Nếu muốn nói chuyện thì phải đứng cách xa ngoài tầm tay. Nếu muốn bàn
luận chuyện bí mật thì phải đứng cách hàng rào, cách bức tường, cách gốc cây
hoặc cách bức màn. Nếu Tỉ-kheo-ni (nói rỉ tai với người khác) thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Nếu
Tỉ-kheo đưa tay ra kéo người nữ vào đứng kề bên mình, nói chuyện thì thầm thì
phạm tội Việt tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
123. GIỚI: ÐI VÀO CHỖ TỐI CÓ ÐÀN ÔNG.
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Bạt-đà-la đến nhà bà con; không nói
trước mà đột nhiên đi vào chỗ anh em, chị em, trẻ con đang ngồi trong bóng tối
không có đèn, khiến những người bà con sững sờ hổ thẹn. Các Tỉ-kheo-ni bèn nói
với Ðại Ái Ðạo. Cuối cùng, cô đáp với đức Phật:
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Vì
sao ngươi biết nam tử đang ngồi trong chỗ tối không có đèn mà đi vào? Từ nay về
sau, Ta không cho phép làm như vậy.
Thế
rồi, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni biết nam tử đang ngồi trong chỗ tối không có đèn mà đi vào thì
phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Chỗ
nam tử đang ngồi:
Chỗ mà họ thường nằm ngủ.
Chỗ
tối: Chỗ không nhìn
thấy nhau.
Không
có đèn: Không có đèn
dầu và các loại đèn khác. Nếu đi vào nơi đó thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Không được vào chỗ tối
mà nam tử đang ngồi. Nếu có nhân duyên cần vào mà nghe những người ở trong đó
đang nói năng lớn tiếng thì nên vào. Nếu không nghe tiếng nói thì trước hết nên
sai người báo tin, hoặc gảy ngón tay, hoặc đốt đèn sáng cho thấy hình người,
rồi có người gọi vào thì mới được vào. Nếu không báo trước, không gảy ngón tay,
không đốt đèn sáng mà vào thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu
Tỉ-kheo không báo tin trước mà vào thì phạm tội Việt tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn
nói (như trên).
124. GIỚI: XEM TRÌNH DIỄN VĂN NGHỆ.
Khi
Phật an trú tại thành Vương-Xá, lúc ấy nhóm sáu Tỉ-kheo-ni đi đến trước chỗ tụ
điểm ca nhạc chiếm chỗ ngồi xem. Khi bọn kỹ nhi trình diễn thì họ cất tiếng
cười lớn, khiến mọi người bắt chước cười theo. Ðến lúc mọi người cười thì họ
lại im lặng tựa như người đang ngồi thiền. Ðợi khi mọi người không cười nữa thì
họ mới vỗ tay cười ầm lên. Do thế dân chúng bỏ các kỹ nhi mà nhìn Tỉ-kheo-ni.
Vì vậy, bọn kỹ nhi không thu tiền được, nổi giận trách móc: "Vì bọn Sa-môn
ni này mà chúng ta không thu tiền được".
Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Cuối cùng, Phật hỏi thì họ đáp:
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó là việc xấu. Vì sao các ngươi xem ca nhạc? Từ nay về sau, Ta không cho phép xem ca
nhạc.
Thế
rồi, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni xem trình diễn ca nhạc thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Ca
nhạc: Trình diễn các
loại như: múa, ca, đánh xập xõa, đánh trống, ít nhất là xem 4 người (540c)
trình diễn thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói; không được xem ca nhạc.
Nếu Tỉ-kheo-ni đi khất thực mà gặp vua, phu nhân của vua xuất hành có nghi vệ
ca nhạc rồi mình trông thấy thì không có tội. Thế nhưng, nếu mình đang ở chỗ
thấp mà cố y leo lên chỗ cao để nhìn xem thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu
đàn việt muốn cúng dường Phật, nên sắm các thứ kỹ nhạc, nghiền hương, kết vòng hoa,
rồi nói với Tỉ-kheo-ni: "Thưa thánh giả, hãy giúp tôi bày biện các vật
cúng dường này", thì khi ấy, mình được làm giúp họ. Nếu ở tại đó nghe
tiếng nhạc mà mình có ý thích thú thì hãy bỏ đi.
Nếu
Tỉ-kheo xem ca nhạc thì phạm tội Việt tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như
trên).
125. GIỚI: KHI CHÚNG TRANH CHẤP MÀ KHÔNG
DẬP TẮT.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy trong các Tỉ-kheo-ni có sự tranh chấp sống
không hòa hợp. Bấy giờ, Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di đang làm thủ chúng mà trong Tăng
có sự tranh chấp khởi lên thì không thể dập tắt, còn những việc chưa phát khởi
thì không thể ngăn chặn cho nó đừng sinh khởi. Các Tỉ-kheo-ni bèn đem việc ấy
đến bạch lên Thế Tôn. Phật bảo gọi Ðại Ái Ðạo Cù-đàm-di đến. Khi Ni sư tới rồi,
Phật liền hỏi:
- Này
Cù-đàm-di, bà có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Vì
sao sự tranh chấp phát sinh mà bà không dập tắt, còn những chuyện chưa phát
sinh thì không tìm phương tiện ngăn chặn đừng cho sinh khởi? Từ nay về sau, khi
có sự tranh chấp thì phải dập tắt.
Thế
rồi, Phật bảo Ðại Ái Ðạo truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại thành
Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu các Tỉ-kheo-ni có sự tranh cãi chống đối sống không hòa hợp mà vị thủ chúng
không dàn xếp dập tắt thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Tranh
cãi: Cãi nhau bằng
miệng.
Chống
đối: Hai bên tranh
thắng bại, sống không hòa hợp, rồi nói với nhau như: đúng pháp, phi pháp; đúng
luật, phi luật; có tội, không có tội; tội nhẹ, tội nặng; tội có thể trị phạt,
tội không thể trị phạt; tội có dư tàn, tội không có dư tàn; yết-ma đúng pháp,
yết-ma phi pháp; yết-ma hòa hợp, yết-ma không hòa hợp; nên làm yết-ma, không
nên làm yết-ma; yết-ma đúng chỗ, yết-ma không đúng chỗ.
Thủ
chúng: Vị đứng đầu
của chúng làm mẫu mực cho mọi người noi theo.
Không
dàn xếp dập tắt: Nếu
tự mình không dập tắt hoặc sai người khác dập tắt thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Khi các Tỉ-kheo-ni có
sự tranh cãi chống đối nhau sống không hòa hợp, thì không được để yên như thế
mà nhìn, mà phải tìm cách dập tắt, bảo họ sám hối lẫn nhau. Nếu sự việc không
đình chỉ được cần phải làm yết-ma, thì nên tập họp Tăng để giải quyết. Nếu bản
thân mình không đủ khả năng thì nên mời những Tỉ-kheo, Tỉ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di có đức độ trong các chúng khác đến dập tắt. Nếu sự tranh cãi khó giải
quyết thì nên suy nghĩ: "Ðó là do hạnh nghiệp của chúng sinh đang diễn
tiến, hãy đợi (541a) thời gian chín mùi, tự nó sẽ kết thúc". Nếu suy nghĩ
như thế thì không có tội.
Nếu
các Tỉ-kheo tranh cãi chống đối nhau mà vị thủ chúng không tìm cách dập tắt thì
phạm tội Việt tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
126. GIỚI: BẢO PHỤ NỮ THOA HƯƠNG KỲ CỌ.
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Bạt-đà-la đến nhà bà con xem họ tắm
gội. Các phụ nữ nói với cô: "Ðể tôi kỳ cọ thân thể cho thánh giả đặng kiếm
chút công đức". Vì thân thể của Tỉ-kheo-ni này đoan chính nên các phụ nữ
muốn xem cho biết. Thế là cô đồng ý để họ kỳ cọ. Họ bèn dùng các thứ hương dầu
bôi vào thân cô. Các Tỉ-kheo-ni thấy thế chê trách rằng: "Người xuất gia
mà còn nhiều tham dục như thế!".
Do
đó, các Tỉ-kheo-ni nói với Ðại Ái Ðạo. Cuối cùng, Phật hỏi và cô đáp:
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Vì
sao ngươi bảo những phụ nữ thế tục kỳ cọ thân thể? Từ nay về sau, Ta không cho
phép làm như vậy.
Thế
rồi, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni bảo phụ nữ thế tục bôi dầu, hương thơm, kỳ cọ thân thể để tắm
gội - trừ khi bệnh - thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Phụ
nữ thế tục: Những
phụ nữ thuộc bốn chủng tộc.
Kỳ
cọ để tắm gội: Dùng
các thứ dầu, hương thơm bôi vào mình rồi kỳ cọ. Nhưng nếu vì già bệnh thì không
có tội. Còn nếu như không có bệnh mà bảo họ kỳ cọ tắm gội thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói.
Nếu
thân thể bị ghẻ lở thì được dùng thuốc bôi lên rồi tắm rửa. Nếu bị bệnh nhiệt
thì được dùng đậu xanh giã nát rồi bôi lên. Nếu bị bệnh phong thì được dùng bột
gạo lứt bôi lên. Nếu bị các chứng bệnh tạp thì được dùng các loại thuốc gia
truyền bôi lên, không có tội. Nhưng sau khi bôi thuốc, không được ở trong chúng
mà nên ở trong phòng bên cạnh, đến khi bệnh lành phải tắm rửa sạch sẽ rồi mới
được vào trong chúng.
Nếu
Tỉ-kheo không có bệnh mà bảo người thế tục kỳ cọ thì phạm tội Việt tì-ni. Thế
nên đức Thế Tôn nói (như trên).
127. GIỚI: BẢO TỈ-KHEO-NI TẮM CHO MÌNH.
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, sau khi Thế Tôn chế giới không cho phép Tỉ-kheo-ni
bảo phụ nữ thế tục kỳ cọ tắm rửa, thì Tỉ-kheo-ni Bạt-đà-la bèn sai Tỉ-kheo-ni
kỳ cọ cho mình. Các Tỉ-kheo-ni bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Cuối
cùng, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni không bệnh mà bảo Tỉ-kheo-ni khác kỳ cọ tắm gội cho mình thì
phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu
xoa bóp mà không kỳ cọ thì phạm tội Việt tì-ni. Nếu kỳ cọ mà không xoa bóp cũng
phạm tội Việt tì-ni. Nếu làm cả hai thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu
Tỉ-kheo không có bệnh mà bảo Tỉ-kheo khác xoa bóp, kỳ cọ thì phạm tội Việt
tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (như trên).
128. GIỚI: BẢO SA-DI-NI TẮM CHO MÌNH.
Ðối
với Sa-di-ni cũng như vậy. Thế nên, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe
lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni không bệnh mà bảo Sa-di-ni xoa bóp, kỳ cọ thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Sa-di-ni: Theo Phật xuất gia, thọ 10 giới.
Bảo
xoa bóp kỳ cọ: Như
trong phần Tỉ-kheo-ni đã nói.
129. GIỚI: BẢO THỨC-XOA-MA-NI TẮM CHO
MÌNH.
(541b)
Ðối với Thức-xoa-ma-ni cũng như vậy. Thế nên, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni không bệnh mà bảo Thức-xoa-ma-ni xoa bóp, kỳ cọ thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Thức-xoa-ma-ni: Tùy thuận làm 18 việc và học giới trong
hai năm.
Sai
xoa bóp kỳ cọ: Như
trong vấn đề Tỉ-kheo-ni ở trên đã nói.
130. GIỚI: SAI PHỤ NỮ TẮM CHO MÌNH.
Ðối
với phụ nữ thế tục cũng như vậy. Thế nên, đức Thế Tôn dạy: Dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni không bệnh mà sai phụ nữ thế tục xoa bóp, kỳ cọ thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Phụ
nữ thế tục: Tức phụ
nữ trong các gia đình thuộc bốn chủng tánh.
Xoa
bóp, kỳ cọ: Như
trong vấn đề Tỉ-kheo-ni đã nói.
131. GIỚI: KHÔNG TÔN TRỌNG LỄ BỐ-TÁT.
Khi
Phật an trú tại thành Vương Xá, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Tăng tập họp định làm yết-ma
Bố-tát thì Tỉ-kheo-ni Thọ-đề không đến, Tăng bèn sai sứ giả đi gọi:
-
Thưa thánh giả, Tỉ-kheo-ni Tăng tập họp định làm yết-ma Bố-tát, mời cô hãy đến.
- Ðức
Thế Tôn chế giới nói rằng trong đời này hễ ai thanh tịnh thì được Bố-tát, ta
thanh tịnh nên không cần phải đi đâu nữa.
Ðại
Ái Ðạo bèn đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Cuối cùng, Phật hỏi và cô đáp:
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là việc xấu.
Thế
rồi, Phật nói: "Ngươi không kính trọng Bố-tát thì ai kính trọng?" Cho
đến, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni không tôn kính lễ Bố-tát thanh tịnh của mỗi nửa tháng thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Thanh
tịnh Bố-tát: Nếu
ngày 14, 15 Tỉ-kheo-ni không bệnh mà không đi đến cung kính Bố-tát thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Bệnh: Nếu vì già yếu đau ốm uống thuốc hay lể
đầu chảy máu uống sữa, thì phải gởi dục thanh tịnh.
Nếu
Tỉ-kheo-ni không bệnh mà không đến Bố-tát, hoặc có bệnh mà không gởi dục thanh
tịnh thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu
Tỉ-kheo-ni không đến Bố-tát, hoặc có bệnh mà không gởi dục thanh tịnh thì phạm
tội Ba-dạ-đề.
Nếu
Tỉ-kheo không đến Bố-tát, hoặc có bệnh mà không gởi dục thì phạm tội Việt
tì-ni. Thế nên đức Thế Tôn nói (kệ tóm tắt):
"Ðưa
tay vời, không đèn,
Ca nhạc, không dập tắt.
Hương dầu, Tỉ-kheo-ni,
Sa-di-ni, học giới.
Phụ nữ, không Bố-tát,
Hết phần thứ mười ba".
132. GIỚI: KHÔNG TÔN KÍNH TỈ-KHEO GIÁO
HUẤN.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy trưởng lão Tỉ-kheo đi giáo huấn Tỉ-kheo-ni,
nhưng nhóm sáu Tỉ-kheo không được đi giáo huấn. Thế là đến ngày giáo huấn, họ
bàn nhau: "Chúng ta hãy đi giáo huấn". Rồi có người nói: "Ðức
Thế Tôn đã chế giới: Hễ không sai thì không được đi giáo huấn. Vậy chúng ta hãy
ra ngoài cương giới đề cử lẫn nhau rồi đi". Thế rồi, họ ra ngoài cương
giới đề cử lẫn nhau, rồi vào buổi sáng sớm khoác y đi đến trú xứ của
Tỉ-kheo-ni, nói với Tỉ-kheo-ni: "(541c) Chị em hãy tập họp tất cả lại,
chúng tôi sẽ giáo huấn".
Khi
ấy, nhóm sáu Tỉ-kheo-ni liền nhanh chóng tập họp, nhưng các thiện Tỉ-kheo-ni
thì không đến mà nói rằng: "Chúng tôi không nhận sự giáo huấn của những
người không tuân thủ giới luật".
Bấy
giờ, nhóm sáu Tỉ-kheo cùng với nhóm sáu Tỉ-kheo-ni nói chuyện thế tục trong
giây lát rồi giải tán. Thế rồi, trưởng lão Nan-đà khoác y, cầm bát đi đến tinh
xá, nói với Tỉ-kheo-ni: "Chị em hãy tập họp Tăng lại, tôi sẽ giáo
huấn". Lúc ấy, các thiện Tỉ-kheo-ni liền tập họp đầy đủ, nhưng nhóm sáu
Tỉ-kheo-ni thì không đến. Trưởng lão hỏi:
-
Tỉ-kheo-ni Tăng đã tập họp chưa?
-
Chưa tập họp.
- Ai
không tập họp?
-
Nhóm sáu Tỉ-kheo-ni.
Ðoạn,
trưởng lão bảo sai người đi gọi:
- Các
chị em hãy đến để tôi giáo huấn.
-
Chúng tôi không đến; vì đã thọ giáo huấn với nhóm các thánh giả rồi.
- Như
vậy là Tỉ-kheo-ni không hòa hợp.
Nói
xong, trưởng lão liền ra về. Khi thầy đến tinh xá, Phật biết nhưng vẫn hỏi:
- Ông
giáo huấn sao nhanh thế?
-
Bạch Thế Tôn! Khi đến giờ, con khoác y đến đó để giáo huấn, các thiện
Tỉ-kheo-ni đều tập họp, nhưng nhóm sáu Tỉ-kheo-ni thì không đến; vì Tỉ-kheo-ni
Tăng không hòa hợp nên con không thể giáo huấn.
- Ði
gọi nhóm sáu Tỉ-kheo-ni đến đây.
Khi
họ tới rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ngươi có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
Thế
rồi, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Vào mỗi nửa tháng Tăng giáo huấn mà Tỉ-kheo-ni không cung kính, không đến nghe,
thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Nửa
tháng: Tức ngày 14
và ngày 15.
Tăng
giáo huấn: Tức là
giáo huấn Tỉ-kheo-ni. Nếu như không cung kính, không đến nghe thì phạm tội
Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu vì già yếu bệnh
hoạn uống thuốc, hoặc lể đầu chảy máu uống sữa thì nên gởi dục nói như sau:
"Con là mỗ giáp xin gởi dục vì sự giáo huấn" (Nói như vậy ba lần).
Nếu
không có bệnh mà không đến, hoặc có bệnh mà không gởi dục thì phạm tội
Ba-dạ-đề. Ðến ngày Bố-tát, nên sai Tỉ-kheo-ni đem thỉnh nguyện đến chỗ Tăng nói
như sau: "Tỉ-kheo-ni Tăng hòa hợp, xin cúi đầu đảnh lễ dưới chân Tỉ-kheo
Tăng, hỏi về việc Bố-tát và thỉnh cầu giáo huấn" ( Nói như vậy ba lần).
Khi
ấy, trong chúng Tỉ-kheo Tăng nếu có người đi giáo huấn Ni thì nên đáp:
"Này chị em, tôi sẽ đến".
Nếu
có Tỉ-kheo thành tựu 12 pháp thì nên làm yết-ma sai đi giáo huấn; còn nếu như
không có thì hãy nói: "Không có người đi giáo huấn Tỉ-kheo-ni. Nhưng Ni
chúng chớ phóng dật".
Thế
nên đức Thế Tôn nói (như trên).
133. GIỚI: BẢO NAM TỬ PHÁ UNG NHỌT.
Khi
Phật an trú tại thành Vương Xá, lúc ấy Tỉ-kheo-ni Thọ-đề bị mụt nhọt mọc tại
chỗ kín. Khi các Tỉ-kheo-ni vào thôn xóm khất thực hết thì có vị lương y chữa
mụt nhọt đến, cô (542a) bèn bảo:
-
Thưa y sĩ, ông hãy phá giùm mụt nhọt cho tôi.
- Có
thể được.
Thế
là vị thầy thuốc liền mổ ung nhọt, đắp thuốc vào rồi ra về. Khi các Tỉ-kheo-ni
khất thực trở về, thấy dưới đất có máu mủ, bèn hỏi Thọ-đề:
- Ðây
là máu mủ gì vậy?
- Tôi
phá ung nhọt đấy.
- Vì
sao cô có ung nhọt ở chỗ kín, không bạch với thiện Tỉ-kheo-ni mà lại phá?
Các
Tỉ-kheo-ni bèn nói với Ðại Ái Ðạo. Cuối cùng, khi Phật hỏi, thì cô đáp:
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Vì
sao ngươi có ung nhọt từ đầu gối trở lên, từ vai trở xuống mà không bạch xin
phép trước mà lại phá? Từ nay về sau Ta không cho phép làm như vậy.
Thế
rồi, Phật dạy: Dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
Nếu Tỉ-kheo-ni có ung nhọt ở chỗ kín, từ đầu gối trở lên, từ vai trở xuống,
không bạch xin phép trước mà để cho nam tử phá, tẩy rửa thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Giải
thích:
Từ
đầu gối trở lên: Tức
là từ bắp vế trở lên.
Từ
vai trở xuống: Tức
là từ đôi nhũ hoa trở xuống.
Không
bạch trước: Không
bạch với thiện Tỉ-kheo-ni.
Xin
phép: Làm yết-ma cầu
thính ở giữa Tăng. Khi ở chỗ kín có ung nhọt mà muốn phá thì trước hết nên làm
yết-ma cầu thính ở giữa Tăng (rồi mới phá). Người làm yết-ma nên nói như sau:
- Xin
thánh giả Tăng lắng nghe. Ở chỗ kín của Tỉ-kheo-ni mỗ giáp có ung nhọt. Nếu
thời gian của Tăng đã đến, Tăng nay cho Tỉ-kheo-ni mỗ giáp vào giữa Tăng xin
pháp yết-ma phá ung nhọt:
Xin
thánh giả Tăng lắng nghe. Tỉ-kheo-ni mỗ giáp muốn vào giữa Tăng xin pháp yết-ma
phá ung nhọt, vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
Nếu ở
chỗ kín có ung nhọt thì nên bảo người đáng tin cậy, hoặc đệ tử y chỉ, hoặc bạn
đồng Hòa thượng, A-xà-lê dùng kim hay móng tay để phá rồi rịt thuốc vào. Nếu
bảo nam tử phá ung nhọt thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Ba-dạ-đề: Như trên đã nói. Nếu bị mụt nhọt từ vai
trở lên, từ đầu gối trở xuống mà muốn phá, hoặc muốn lể đầu chảy máu hay muốn
lể cánh tay, thì nên sai phụ nữ nắm chặt nơi ấy để cho nam tử phá, thì không có
tội.
Thế
nên đức Thế Tôn nói (như trên).
LUẬT
MA HA TĂNG KỲ
Hết quyển thứ ba mươi chín.
-ooOoo-
Đầu trang | 00
| 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 |
20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 |
updated: 16-03-3002