BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Đại Tạng No. 1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La
người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn
Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt Nam, PL 2543 (TL 2000)
Thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri
Quyển thứ mười lăm
-ooOoo-
NÓI RÕ PHẦN THỨ
TƯ, CHÍN MƯƠI HAI PHÁP ÐƠN ÐỀ.
[344a]
17.
GIỚI: CƯỠNG CHIẾM CHỖ NẰM CỦA NGƯỜI KHÁC.
Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn du hành trong nhân gian đến Câu diệm di, thế rồi vào một
hôm đầu đêm, Thế Tôn thuyết pháp cho các Thanh Văn; sau khi nghe thuyết pháp
xong, các Tỷ kheo trở về phòng an trú. Khi ấy, nhóm sáu Tỷ kheo còn nấn ná,
chuyện vãn với các người khác đến khuya mới trở về, gõ cửa phòng. Người trong
phòng hỏi: "Ai đó?", thì họ đáp: "Chúng tôi là nhóm sáu Tỷ kheo
đây, muốn nghỉ lại trong phòng này". Các Tỷ kheo trong phòng đáp:
"Phòng này đã hết chỗ rồi".
Nhóm
sáu Tỷ kheo bèn hạ giọng nhỏ nhẹ van nài: "Cho chúng tôi một chỗ để ngồi
một lát thôi".
Họ
van nài như thế mà không được, rồi họ đi đến phòng khác van nài lại cũng không
được. Họ bèn đi tới chỗ trú của các Tỷ kheo Hạ tọa, như căn phòng sưởi, phòng
tọa thiền, giảng đường gõ cửa. Các Tỷ kheo trong phòng hỏi: "Ai
đó?"thì họ đáp: "Chúng tôi là nhóm sáu Tỷ kheo, muốn xin nghỉ ở
đây".
Các
Tỷ kheo trong phòng đáp: "Phòng này đã đầy cả rồi".
Nhóm
sáu Tỷ kheo lại kỳ kèo, van nài không ngừng. Các Tỷ kheo trong phòng liền mở
cửa. Họ bèn bước vào trong phòng, rồi nằm ngang dọc trên giường, hoặc dùng tay
chân gác lên người bên cạnh, hoặc dùng cùi chỏ, đầu gối húc vào hông những
người đó, hoặc nói: "Nếu các trưởng lão thấy khó chịu thì đi chỗ
khác". Nói thế xong họ liền thổi tắt đèn, rồi gọi các Tỷ kheo bạn hữu ở
ngoài, nói: "Các vị phạm hạnh có thể vào đây".
Khi
vào phòng xong, họ nằm quay đầu ngược nhau, người này gác cùi chỏ lên đầu gối
người kia, mặc sức đùa giỡn. Các Tỷ kheo suy nghĩ: "Ai mà có thể nằm chung
với những kẻ phi oai nghi này", rồi cầm tọa cụ đi ra khỏi phòng. Thế rồi,
các Tỷ kheo đem sự kiện ấy bạch lên Thế Tôn. Phật dạy: "Ðợi ta đi Kiều Tát
La xong, trở về lại Thành Xá Vệ, các thầy hãy trình bày lại việc này với ta, Ta
sẽ chế giới cho các Tỷ kheo".
Lại
nữa, khi Phật an trú tại Thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Các Tỷ kheo khách nhận
được phòng của nhóm sáu Tỷ kheo, ban đêm họ đóng cửa nằm ngủ. Nhóm sáu Tỷ kheo
vì trước đó có mối hiềm khích với Tỷ kheo khách nên họ hốt bùn lầøy đổ ngay lối
đi trước cửa phòng, rồi bỏ đá gạch lẫn lộn vào. Tỷ kheo khách ban đêm đi ra
khỏi phòng, đạp nhằm bùn lầy, té trên gạch đá, bèn la lên: "Các trưởng
lão! Nhóm sáu Tỷ kheo hại tôi [344b] làm gãy cổ tôi. Họ làm cái việc như thế
(đổ bùn đá trên lối đi) là muốn nhiễu loạn tôi. Ai mà có thể sống với họ
được".
Các
Tỷ kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo các Tỷ kheo đi
gọi nhóm sáu Tỷ kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi: "Các ông có làm
chuyện ấy thật chăng?".
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Ðó
là việc ác.
Thế
rồi, các Tỷ kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Nhóm sáu Tỷ kheo không
những làm một việc ác này mà lúc Thế Tôn đi du hành đến nước Kiều Tát La, họ
cũng đã từng nhiễu loạn các Tỷ kheo, đến nỗi các Tỷ kheo ấy phải mang tọa cụ
rời khỏi trú xứ".
Phật
liền hỏi nhóm sáu Tỷ kheo:
- Các
ông có làm việc ấy thực chăng?
- Có
thực, bạch Thế Tôn .
- Vì
sao các ông đã biết những người ấy đến trước, trải tọa cụ rồi, mà các ông đến
sau làm nhiễu loạn muốn đuổi họ đi? Ðó là việc ác, phi pháp, phi luật, trái lời
ta dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được.
Thế
rồi Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang cư trú tại Thành Xá Vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
--"Nếu
Tỷ kheo biết Tỷ kheo khác đến trước trải giường nệm rồi, mình đến sau cũng trải
đồ đạc ra rồi suy nghĩ: "Nếu người kia không thích thì bỏ đi". Làm
việc đó với dụng tâm như thế chứ chẳng có gì khác, thì phạm tội Ba dạ đề".
Giải
thích:
Biết: Tự biết hoặc nghe từ người khác mà biết.
Trải
đồ đạc ra trước:
Trải ra từ lúc đầu.
Giường
nệm: Như trước đã
giải thích.
Ðến
sau rồi bày đồ đạc ra:
Vì muốn nhiễu loạn người trước muốn cho họ bỏ đi. Nếu vì nguyên nhân ấy chứ
không có lý do nào khác thì phạm tội Ba dạ đề.
Ba
dạ đề: Như trên đã
nói.
Nếu
chỗ ở thiếu thì mỗi Tỷ kheo nên chiếm cứ trong phạm vi một cây cột, trải giường
nệm, tọa cụ, rồi đi đến các Hòa Thượng, A xà lê lễ bái, hoặc thăm hỏi, hoặc đọc
Kinh. Thế rồi Tỷ kheo đến sau bèn cuốn tọa cụ người trước, trải tọa cụ mình ra,
ngồi tán kệ rầm rì. Vị Tỷ kheo ở trước trở về phòng, thấy thế, suy nghĩ:
"Ai mà có thể nhiếp phục được người này!", bèn cầm tọa cụ bỏ đi, thì
vị Tỷ kheo đến sau ấy phạm tội Ba dạ đề. Hoặc ngồi thiền, tụng kinh, dưỡng bệnh
cũng như vậy. Hoặc mình là Thượng tọà đến sau rồi nằm ngủ trên giường người
khác, thì người kia nên nói: "Trưởng lão không biết Thế Tôn ngăn cấm việc
đó sao?". Nếu Tỷ kheo nằm ngủ này là Hạ Tọa, thì người kia nên khiển
trách: "Ông không biết rõ giới luật. Ông không biết Thế Tôn đã chế giới
sao? Vì sao đến sau mà ngủ trên giường người khác?".
Nếu
Tỷ kheo đi kinh hành tại chỗ của một Tỷ kheo khác mà trông thấy người ấy đến
thì nên lánh đi. Nếu Tỷ kheo ban đêm nằm ngủ rồi nói mớ mà không có ý nhiễu
loạn tha nhân thì vô tội. Nhưng nếu có chủ tâm nhiễu loạn thì phạm tội Ba dạ
đề.Nếu Tỷ kheo ni có tâm nhiễu loạn bạn đồng phạm hạnh thì phạm tội Thâu lan
giá [344c]; nhiễu loạn Thức xoa ma ni, sa di, sa di ni thì phạm tội Việt tì ni;
nhiễu loạn người thế tục thì phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám hối. Thế nên nói
(như trên).
18.
GIỚI: NGỒI GIƯỜNG CÓ CHÂN NHỌN.
Khi
Phật an trú tại tinh xá Khoáng Dã, lúc ấy có hai Tỷ kheo cũng sống tại đó,
Thượng tọa ở tầng trệt, Hạ tọa ở trên gác. Thượng tọa ngồi thiền, Hạ tọa tụng
kinh. Ðến giờ khất thực, Thượng tọa khoác y, cầm bát vào thôn Khoáng Dã khất
thực, nhanh chóng đủ thức ăn bèn trở về, thì Hạ tọa mới đi. Thượng tọa ăn xong,
rửa bát đem cất lại chỗ cũ, rồi rửa chân ngồi kiết già. Hạ tọa đi khất thực
nhận được thức ăn chậm chạp nên về muộn, bèn leo lên gác, để bát ở chỗ cũ, rồi
kêu lên: "Mệt quá", đoạn đặt đít xuống ngồi thì bỗng dưng chân giường
sút ra rơi nhằm đầu Thượng tọa làm cho bị thương máu chảy ra. Thượng tọa liền
kêu lên: "Chết tôi rồi! Chết tôi rồi!". Các Tỷ kheo nghe tiếng kêu
liền chạy đến hỏi vì sao như vậy, Thượng tọa liền trình bày đầy đủ sự kiện kể
trên. Các Tỷ kheo liền đem sự việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật bèn bảo họ đi
gọi Tỷ kheo ấy đến. Khi thầy đến rồi Phật liền hỏi: "Ông có điều đó thật
không?".
- Có
thật như vậy bạch Thế Tôn. - Vì sao ở trên gác mà ông đặt giường có chân nhọn,
rồi ngồi mạnh lên đó? Từ nay trở đi ta không cho phép đặt giường có chân nhọn
trên gác mà ngồi.
Thế
rồi Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại thôn Khoáng Dã phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
--"Nếu
Tỷ kheo đặt giường có chân nhọn ở trên gác, trên lầu, rồi ngồi hoặc nằm trên
đó, thì phạm Ba dạ đề".
Giải
thích:
Gác: Tầng thứ hai.
Trên
lầu: Như đức Thế Tôn
đã cho phép.
Chân
nhọn: Như cái cọc.
Giường: Gồm có mười bốn loại, như trước đã nói.
Nếu
ngồi hoặc nằm (trên giường có chân nhọn) thì phạm tội Ba dạ đề.
Ba
dạ đề: như trên đã
nói.
Nếu
dùng đất sét làm nền ở dưới vững chắc, hoặc dùng gỗ lát kín ở dưới, hoặc chân
giường tròn, hoặc xung quanh gác và dưới gác không có người ngồi thì đều vô
tội. Nếu đục đẽo làm chân giường nhọn dùng để ngồi hay nằm thì phạm Ba dạ đề.
Nếu ngồi trên tấm ván mỏng thì phạm tội Việt tì ni. Nếu ngồi trên trường kỷ
(ghế dài) thì phạm tội Việt tì ni (?).Nếu làm cái giường một chân nhọn, ba chân
tròn, hay hai chân nhọn, ba chân, bốn chân nhọn đều phạm Ba dạ đề. Nhưng làm
cái giường bốn chân tròn thì vô tội. Thế nên nói (như trên).
19.
GIỚI: DÙNG NƯỚC CÓ SINH TRÙNG.
Khi
Phật an trú tại tịnh xá Khoáng Dã có Tỷ kheo quản sự dùng nước có trùng tưới
lên cỏ trên đất bùn khiến cho người đời chê trách rằng: "Sa môn Cù Ðàm
dùng vô lượng phương tiện khiển trách việc sát sinh, ca ngợi từ bỏ sát sinh,
thế mà nay sa môn đệ tử dùng nước có trùng tưới lên cỏ, trên bùn. Ðó là những
kẻ bại hoại [345a] nào có đạo hạnh gì!".
Các
Tỷ kheo nghe thế, liền đem sự kiện ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật bèn bảo gọi Tỷ
kheo quản sự đến. Khi thầy đến rồi Phật liền hỏi đầy đủ sự việc kể trên:
"Ông có làm việc đó thật chăng?".
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn .
- Ðó
là việc ác đáng bị người đời chê trách. Ðó là điều phi luật, phi pháp, trái với
lời ta dạy, không thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp được. Từ nay về sau,
Ta không cho phép dùng nước có trùng tưới lên cỏ lên đất.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang cư trú tại thôn Khoáng Dã phải tập
họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi
cũng phải nghe lại:
--"Nếu
Tỷ kheo đem nước có trùng tưới lên cỏ lên bùn hoặc sai người khác tưới, thì
phạm Ba dạ đề".
Giải
thích :
Biết: Hoặc tự biết, hoặc do nghe người khác mà
biết.
Trùng: Kể cả những loại bé nhỏ nhất mà có mạng
sống đều gọi là trùng .
Nước: Gồm có mười loại như trên đã nói .
Cỏ: Chỉ các loại cỏ tranh, cỏ gai .v.v.
Bùn
(mùn): Chất mục nát
của cỏ, của rác hoặc phân voi, phân ngựa, phân bò .v.v.
Tưới: Hoặc tự mình tưới hoặc sai người khác
tưới, đều phạm Ba dạ đề như trên đã nói .
Nếu
Tỷ kheo biết trong nước có trùng mà đem tưới rồi dừng lại, thì phạm một tội Ba
dạ đề, tùy theo dừng lại nhiều ít, cứ mỗi lần dừng thì phạm một tội Ba dạ đề.
Nếu sai người khác tưới, thì một lần bảo phạm một tội Ba dạ đề. Nếu lại nhắc
nhở: "Hãy tưới nhanh nhanh lên", thì mỗi lần nhắc phạm một tội Ba dạ
đề. Nếu Tỷ kheo làm phòng xá, nhà sưởi ấm cần đến nước, thì có thể lấy nước hồ,
nước sông, nước giếng đem lọc đựng vào trong thùng xem kỹ mà không thấy có
trùng thì mới dùng. Nếu vẫn còn trùng thì phải dùng đãy lọc lại rồi xem kỹ,
nhưng nếu vẫn còn trùng thì lọc đi lọc lại ba lần. Tuy thế, nếu chưa hết trùng
thì phải đào giếng khác, rồi tuần tự lọc và xem như trước, nếu vẫn có trùng thì
bỏ nơi này mà đi đến chỗ khác. Phương pháp lọc nước phải trồng ba cây trụ cứng
rồi dùng dây buộc vào các đầu trụ bên trên cột đãy lọc, ở dưới đặt thùng hứng
nước. Nước đọng trong đãy lọc, ta đem đỗ đi thì nó lại chảy trỡ lại xuống
giếng; trùng sinh ra không nhất định, hoặc trước không có bây giờ mới có, hoặc
bây giờ có mà sau này thì không. Thế nên Tỷ kheo hằng ngày phải xem kỹ trong
nước không có trùng mới được dùng. Nếu Tỷ kheo biết trong nước có trùng mà tự
mình đem tưới trên cỏ, trên đất mùn, hoặc sai người khác đem tưới, thì phạm Ba
dạ đề. Nếu đem nước có trùng đưa cho Hòa Thượng, A xà lê tắm rửa, cũng phạm Ba
dạ đề. Nếu dùng nước rửa chén, rửa cơm thừa canh cặn, các thứ tương chao có
trùng trong đó đem tưới trên cỏ trên đất bùn, thì phạm tội Ba dạ đề. Thế nên
nói (như trên).
20.
GIỚI: LỢP NHÀ QUÁ 3 LỚP.
Khi
Phật an trú tại Câu Diệm Di, nói rộng như trên, lúc ấy tôn giả Xiển Ðà đi
khuyến hóa [345b] về làm phòng. Xiển Ðà gom góp các vật dụng lợp nhà như cỏ
cây, tre v.v. xong xuôi, rồi đi đến thợ lợp nhà nói: "Tôi đã chuẩn bị các
vật dụng lợp nhà xong rồi, nhờ ông hãy đến lợp nhà giúp cho". Người thợ
lợp nhà nói: "Thưa thầy, thầy hãy cho tôi ăn cơm và trả tiền công cho
tôi".
Khi
ấy, Xiển Ðà tùy theo giá trị đồng ý trả tiền công cho ông. Thế rồi ông ta đi
tới chỗ lợp nhà, Xiển Ðà chỉ cho ông xem những vật dụng để lợp nhà, ông nói:
"Lợp nhà có ba trường hợp dày mỏng không giống nhau, vậy thầy muốn lợp
theo cách nào?".
Xiển
Ðà nói: "Ông cứ tùy theo ba mức độ dày mỏng đó mà dùng hết loại cỏ này để
lợp".
Thợ
lợp nói: "Tất cả các việc ở đời đều có chừng mực nhất định, làm đúng chừng
mực thì người đời mới khen ngợi". Xiển Ðà nói: "Ông cứ việc lợp hết
lên, cần chi phải nói nhiều lời".
Thợ
lợp theo lời chỉ bảo dùng hết cỏ để lợp lên. Vì cỏ nhiều, dày nên buộc không
chặt do thế vừa mưa xuống liền sút sổ ra hết, giống như hoa nở mà bị cơn mưa
suốt đêm tàn phá. Cho nên y bát bị ướt hết cả. Bởi thế, sáng sớm hôm sau, Xiển
Ðà tới nhà thợ lợp nói: "Vì sao ông lợp nhà cho tôi lại để xảy ra sự cố
như thế?".
Thợ
lợp hỏi: "Sự cố gì?".
Xiển
Ðà nói: "Bị mưa suốt đêm khiến y bát của tôi ướt cả".
Thợ
lợp nói: "Lúc đầu tôi đã không bảo với thầy rằng lợp nhà có ba trường hợp
dày mỏng khác nhau là gì? Thế mà thầy lại bảo cứ lợp hết cả lên".
Xiển
Ðà nói: "Ông phải lợp lại cho tôi".
Thợ
lợp nói: "Thầy phải cho tôi ăn và trả tiền công cho tôi".
-Tiền
công ông đã nhận trước rồi .
-Tiền
nhận trước thì đã làm việc trước xong rồi. Nếu thầy muốn làm lại thì phải trả
gấp ba lần giá trước kia .
Thế
nhưng Xiển Ðà ỷ thế lực của vua chúa, bắt buộc thợ lợp phải lợp lại mà không
chịu trả tiền. Thầy đi xung quanh nhà thợ lợp đay nghiến, trách móc.
Lúc
ấy, có người đi qua đó, thợ lợp bèn phân bua với họ: "Các vị hãy xem ông
Sa môn con dòng họ Thích này ỷ thế lực của vua chúa bắt buộc tôi phải làm việc
mà không trả tiền công".
Những
người đi đường liền chê trách: "Vì sao con nhà họ Thích ỷ thế lực của vua
chúa bắt người ta phải làm việc mà không trả tiền công, thật là điều không thể
chấp nhận. Lại còn đi quanh nhà người ta giống như con ngựa dẫm đạp tàn phá cỏ
tươi. Ðây là kẻ bại hoại chứ nào có đạo hạnh gì!".
Các
Tỷ kheo liền đem sự việc ấy bạch đầy đủ lên đức Thế Tôn. Phật bảo họ đi gọi
Xiển Ðà đến. Khi thầy tới rồi Phật bèn hỏi: "Ông có việc đó thật
chăng?".
- Có
thật như vậy .
- Ðó
là việc ác, phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc ấy để nuôi
lớn thiện pháp được.
Thế
rồi Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại Câu Diệm Di phải tập họp lại
tất cả [345c] vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
--"Nếu
tỷ kheo nào làm phòng lớn có cửa lớn cửa sổ thì nên làm tại chỗ ít cỏ mọc và
chỉ bảo người ta lợp ba lớp là vừa, nếu lợp quá ba lớp thì phạm Ba dạ đề".
Giải
thích:
Làm: Hoặc tự làm, hoặc sai người khác làm.
Lớn: Quá mức qui định .
Phòng: Ðức Thế Tôn đã cho phép .
Cửa
lớn: Chỗ người ta ra
vào thông thoáng.
Cửa
sổ: Chỗ để ánh sáng
chiếu vào .
Chỉ
bảo: Sai bảo chỉ vẽ
.
Lợp: Có mười cách: Hoặc bằng cỏ, hoặc bằng
đất dẻo, hoặc bằng ván, hoặc bằng xi măng ; hoặc lợp theo cách của nước A Bàn
Ðầu ; theo cách của nước Ma Kiệt Ðề; theo cách của nước Câu Diệm Di ; theo cách
của Sơn Quốc ; theo cách của nước Cung Kính ; theo cách của nước Tàng Ngữ. Ðó
là mười cách lợp .
Ba
lớp: Tối đa là ba
lớp chứ không phải 5, 6 lớp.
Chỗ
đất ít cỏ: Chỗ đất
mà cỏ ít sinh trưởng.
Ba
dạ đề: như trên đã
nói .
Khi
đi thuê người lợp nhà định giá cả thì phải căn cứ theo thời giá, không được cao
hay thấp, và nên nói với người thợ lợp: "Nếu ông lợp được như thế, thì tôi
sẽ trả cho ông giá như thế. Nếu ông không lợp được như thế thì tôi sẽ không trả
cho ông giá như thế", cần phải yêu cầu rõ ràng như vậy.
Khi
đã đặt điều kiện xong, Tỷ kheo liền suy nghĩ: "Ta hãy dùng phương tiện đem
cỏ cây, tre tới chỗ anh ta, để anh ta trông thấy mà lợp nhanh và đẹp", thì
người thợ lợp khi thấy rồi, dù làm đẹp hay không đẹp, Tỷ kheo đều phạm tội Ba
dạ đề. Hoặc là dùng phương tiện muốn cho người lợp nhà trông thấy mình, thầy
bèn đi đến Hòa Thượng, A xà lê đảnh lễ hoặc nghe kinh, hoặc đi kinh hành hoặc
vào thôn xóm, với suy nghĩ: "Mong người thợ lợp trông thấy mình để anh ta
sẽ lợp nhanh và đẹp", thì khi thợ lợp trông thấy, dù có lợp đẹp hay không
đẹp, Tỷ kheo này đều phạm Ba dạ đề. Nghĩa là dùng bất cứ phương tiện nào với
dụng tâm như vậy, đều phạm Ba dạ đề. Nếu không có ý đồ dùng phương tiện mà chỉ
đến xem anh ta lợp có nhanh và đẹp hay không, thì vô tội. Thế nên nói:
"Chủng
tử và nói khác
Hiềm trách ngồi chỗ trống
Trải đồ đuổi người ra Trải đồ trước trên gác
Nước trùng, làm phòng lớn
Phần hai Bạt cừ xong".
21.
GIỚI: TỰ ÐI DẠY NI.
Khi
Phật an trú tại Thành Xá vệ, nói rộng như trên ; bấy giờ các trưởng lão Tỷ kheo
theo thứ tự đi giáo giới Tỷ kheo ni, nhưng Nan Ðà và Ưu Ba Nan Ðà không được
sắp xếp theo thứ tự giáo giới, nên tự bảo nhau: "Các trưởng lão Tỷ kheo
đều được sắp xếp theo thứ tự đi giáo giới Tỷ kheo ni, còn chúng ta thì không
được theo thứ tự đi giáo giới; Vậy nay chúng ta hãy tự đi giáo giới
trước". Họ bèn suy nghĩ: "Ta phải theo thứ tự trước ai đây? Ðại Mục
Kiền Liên chăng? Nhưng tôn giả ấy có đại thần lực, lỡ có điều gì thất thố thì
ông ta sẽ xách chúng ta ném đến một thế giới xa xôi khác mất. Vậy chúng ta nên
theo thứ tự trước tôn giả Ðại Ca Diếp [346a] mà đi. Nhưng tôn giả ấy có đại uy
đức, nếu ta có điều gì không hợp lý thì ông ta có thể làm nhục chúng ta giữa
đại chúng. Chỉ có tôn giả Xá Lợi Phất là nhu nhuyến hòa nhã, vậy ta hãy theo
thứ tự của ông ấy". Suy nghĩ thế rồi, họ bèn theo thứ tự, sớm tinh sương,
khoác y đi đến trước tinh xá của Tỷ kheo ni, nói như sau: "Các chị em hãy
tập trung lại trong sự hòa hợp, chúng tôi đến để giáo giới đây".
Bấy
giờ, các Tỷ kheo ni bèn tập họp Ni chúng (để nghe giáo giới). Tỷ kheo Nan Ðà
này vốn đa văn, có biện tài, khéo thuyết pháp, liền tùy nghi thuyết pháp cho
chúng Tỷ kheo ni.
Khi
ấy, tôn giả Xá Lợi Phất đến giờ đi giáo giới bèn khoác y, đi đến trước cổng
tinh xá của Tỷ kheo ni, đứng lại đó, thì nghe tiếng thuyết pháp. Lúc này các Tỷ
kheo ni từ xa trông thấy tôn giả Xá Lợi Phất, nhưng vì tôn kính pháp nên không
ra cửa đón tiếp. Tôn giả Xá Lợi Phất thấy sự kiện như thế liền suy nghĩ : "Nay
ta không nên làm gián đoạn thời thuyết pháp", bèn trở về, đến chỗ Phật,
cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi đứng qua một bên. Phật biết nhưng vẫn hỏi Xá Lợi
Phất: "Ông đã giáo giới Tỷ kheo ni xong rồi sao?".
-
Không giáo giới, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao thế?
Xá
Lợi Phất bèn đem nhân duyên trên bạch đầy đủ với Thế Tôn. Phật liền bảo đi gọi
Nan Ðà, Ưu Ba Nan Ðà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật chăng?
- Có
thật như vậy bạch Thế Tôn .
Vì
sao Tăng không sai mà các ông đi giáo giới Tỷ kheo ni? Ðó là điều phi pháp, phi
luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được.
Thế
rồi Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo sống tại Thành Xá Vệ phải tập họp lại tất
cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe
lại:
--"Nếu
Tỷ kheo không được Tăng sai mà đi giáo giới Tỷ kheo ni thì phạm Ba dạ đề".
22.
GIỚI: GIÁO GIỚI NI CHO ÐẾN TRỜI TỐI.
Khi
Phật an trú tại Thành Xá Vệ, nói rộng như trên, bấy giờ các trưởng lão Tỷ kheo theo
thứ tự đi giáo giới Tỷ kheo ni, nhưng tôn giả Nan Ðà đến phiên mình đi giáo
giới mà không chịu đi, khiến Tỷ kheo ni Ðại Ái Ðại Kiều Ðàm Di, đi đến chỗ Phật
cuối đầu đảnh lễ chân Phật rồi bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Tôn giả Nan
Ðà theo thứ tự đi giáo giới [346b] Tỷ kheo ni mà không chịu đi, vậy thì ai là
người nên đi đây?". Nói thế xong, bà cuối đầu đảnh lễ chân Phật rồi ra đi
.
Phật
liền bảo một Tỷ kheo đi gọi Nan Ðà đến. Khi thầy tới rồi, Phật bèn hỏi:
"Ðến phiên ông phải đi giáo giới Tỷ kheo ni, mà vì sao không đi?".
-
Bạch Thế Tôn! Vì con chưa được Tăng làm yết ma cử đi, do thế mà không đi.
Phật
liền nói với các Tỷ kheo: "Người nào thành tựu mười hai việc thì Tăng nên
cử đi giáo giới Tỷ kheo ni". Thế nào là mười hai việc? Ðó là:
Trì
giới thanh tịnh .
Học nhiều A tì đàm .
Am tường tì ni.
Học giới .
Học định .
Học tuệ.
Có thể đoạn trừ ác kiến, tà kiến cho kẻ khác .
Tự mình giữ giới tinh nghiêm lại có thể làm gương cho người khác .
Rành ngôn ngữ lý luận
Không làm hoen ố phạm hạnh .
Không hỷ hoại trọng giới của Tỷ kheo ni.
Ðủ hai mươi hạ lạp, hoặc hơn hai mươi hạ lạp.
Ðó là
mười hai pháp.
Người
làm yết ma nên tác bạch (đề cử) như sau:
- Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Tôn giả Nan Ðà thành tựu mười hai pháp, nay Tăng sai
Nan Ðà giáo giới Tỷ kheo ni, các đại đức nào bằng lòng Nan Ðà giáo giới Tỷ kheo
ni thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói.
Tăng
đã bằng lòng sai Nan Ðà giáo giới Tỷ kheo ni, vì Tăng đã im lặng. Vậy việc ấy
cứ như thế mà thi hành.
Thế
rồi, tôn giả Nan Ðà tới đó thuyết pháp cho các Tỷ kheo ni kéo dài đến lúc mặt
trời lặn, các Tỷ kheo ni mới vội vả trở về lại trong thành, khiến người đời
trông thấy thế, chê trách rằng: "Sa môn Thích tử dẫn Tỷ kheo ni này đi mua
vui cho đến mặt trời lặn mới trở về. Khá thương thay cho thân phận nữ nhi không
được tự tại! Ðến như thế thì thật là những kẻ bại hoại, nào có đạo hạnh
gì!".
Các
Tỷ kheo nghe thế, bèn đem sự kiện ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo đi gọi
Nan Ðà đến. Khi thầy đến rồi, Phật bèn hỏi: "Ông có việc đó thật
chăng?".
- Có
thật như vậy bạch Thế Tôn .
- Ðó
là việc xấu, phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc ấy để
nuôi lớn thiện pháp được.
Thế
rồi Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại
tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải
nghe lại:
--"Nếu
Tỷ kheo được Tăng sai đi giáo giới Tỷ kheo ni mà ở lại từ lúc mặt trời lặn cho
đến bình minh chưa xuất hiện, thì phạm tội Ba dạ đề".
Giải
thích:
Tăng
sai: Người thành tựu
mười hai pháp. Tăng chúng thành tựu, tác bạch thành tựu và yết ma thành tựu .
Giáo
giới [346c]: Hoặc là
dạy về A tì đàm (luận), hoặc là dạy về tì ni (luật) .
Trời
tối: Từ lúc mặt trời
lặn cho đến khi ánh sáng mặt trời chưa xuất hiện.
Ba
dạ đề: Như đã nói
trên
Mặt
trời đã lặn mà tưởng là mặt trời chưa lặn cứ việc giáo giới thì phạm tội Việt
tì ni.
Mặt
trời chưa lặn mà tưởng là mặt trời đã lặn cũng phạm tội Việt tì ni.
Mặt
trời đã lặn mà tưởng là mặt trời đã lặn (nhưng vẫn tiếp tục giáo giới) thì phạm
tội Ba dạ đề.
Mặt
trời chưa lặn mà tưởng chưa lặn thì không có tội.
Minh
tướng (Ánh sáng bình minh) trong bốn trường hợp cũng như vậy.
Tỷ
kheo ni mà tưởng là Thức xoa ma ni rồi giáo giới họ thì phạm tội Ba dạ đề.
Thức
xoa ma ni mà tưởng là Tỷ kheo ni, rồi giáo giới thì phạm tội Việt tì ni.
Thức
xoa ma ni mà tưởng là thức xoa ma ni rồi giáo giới, thì không có tội.
Tỷ
kheo ni mà tưởng là Tỷ kheo ni rồi giáo giới (đến tối), thì phạm tội Ba dạ đề.
Sa di
ni, nữ ngoại đạo xuất gia, Ưu bà di, trong bốn trường hợp, cũng như vậy.
Nếu Tỷ
kheo ni ban đêm đảnh lễ dưới chân Tỷ kheo, rồi Tỷ kheo nói: "Mong hết khổ
được giải thoát", thì phạm tội Ba dạ đề. Nếu nói: "Lành thay, cô đến
đây", thì không có tội.
Nếu
trong đêm bốn bộ chúng tập họp để nghe pháp mà Tỷ kheo có dụng ý muốn thuyết
pháp riêng cho Tỷ kheo ni rồi nói về các kinh Ðại ái đạo xuất gia, Kinh Hắc cù
đàm di, Kinh pháp dự Tỷ kheo ni thì phạm tội Ba dạ đề. Nếu lâu nay chỉ đọc các
kinh này, không biết các kinh khác rồi theo thứ tự mà đọc, thì không có tội.
Nếu
ban đêm Tỷ kheo ngồi trên tòa cao thuyết pháp mà nói như sau: "Tất cả hội
chúng ngồi lắng nghe cho rõ", thì phạm tội Ba dạ đề. Nếu không nói như thế
mà chỉ lo thuyết pháp thì không có tội. Thế nên nói (như trrên) .
23.
GIỚI: KHÔNG BẠCH TỈ-KHEO KHÁC TẠI CHÙA NI.
Khi
Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ các trưởng lão Tỷ kheo
theo thứ tự đi giáo giới Tỷ kheo ni, nhóm sáu Tỷ kheo liền suy nghĩ: "Các
trưởng lão Tỷ kheo theo thứ tự đi giáo giới Tỷ kheo ni, nhưng chúng ta thì
không được đi. Vậy ta hãy đi trước đến giáo giới Tỷ kheo ni". Lúc ấy có
người nói: "Ðức Thế Tôn chế giới: Tăng không sai thì không được giáo giới
Tỷ kheo ni".
Nhóm
sáu Tỷ kheo nói: "Chúng tôi biết làm pháp yết ma", bèn đem nhau ra
khỏi cương giới làm pháp yết ma đề cử nhau theo thứ tự, rồi đi đến tinh xá Tỷ
kheo ni, nói như sau: "Này các chị em hãy tập trung ni chúng lại trong sự
hòa hợp để tôi dạy bảo".
Lúc
ấy nhóm sáu Tỷ kheo ni liền nhanh chóng tập họp lại, nhưng trong ni chúng có
người biết pháp nói như sau: "Ai mà chịu nhận sự giáo giới của các kẻ làm
trái giới luật". Thế rồi nhóm sáu Tỷ kheo ni bèn tự ý tập họp lại bàn
chuyện thế tục, xong rồi liền giải tán.
Khi
đến giờ đi giáo giới, tôn giả Nan Ðà bèn khoác y, đi đến tinh xá Tỷ kheo ni,
nói như sau: "Các Tỷ kheo ni hãy tập họp hết lại, tôi sẽ giáo giới".
Lúc ấy các thiện Tỷ kheo ni liền tập trung lại trong sự hòa hợp, nhưng [347a]
nhóm sáu Tỷ kheo ni thì không đến. Nan Ðà bèn hỏi: "Chúng Tỷ kheo ni đã
hòa hợp chưa?".
-
Chưa .
- Ai
không đến?
-
Nhóm sáu Tỷ kheo ni không đến.
Ni
chúng cho sứ giả đi gọi, nhưng họ vẫn không đến, mà còn nói như sau:
"Trước đây chúng tôi đã nhận sự dạy bảo của nhóm sáu Tỷ kheo rồi".
Nan
Ðà nói: "Ni chúng không hòa hợp thì không được giáo giới". Nói xong
liền trở về tinh xá, đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi đứng hầu
một bên. Phật biết mà vẫn hỏi: "Ông đã giáo giới Tỷ kheo ni xong rồi
sao?". Nan Ðà bèn đem sự việc trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn . Phật liền bảo
đi gọi nhóm sáu Tỷ kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi lại sự việc trên:
"Các ông có việc đó thật chăng?".
- Có
thật bạch Thế Tôn .
- Này
nhóm sáu Tỷ kheo! Vì sao Tăng không sai mà giáo giới Tỷ kheo ni?
-
Chúng con đã nhận sự sai bảo xong rồi.
- Này
những kẻ ngu si! Ai sai bảo các ông?
-
Chúng con ra ngoài đại giới (làm yết ma) tự sai (đề cử) lẫn nhau .
- Từ
nay trở đi ta không cho phép ra ngoài đại giới (làm yết ma) sai bảo nhau đi đến
tinh xá Tỷ kheo ni.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại Thành Xá Vệ, Ðại Ái Ðạo Cù Ðàm Di lâm bệnh, tôn giả A
Nan đến viếng thăm, hỏi rằng: "Thân thể thế nào, bệnh có giảm không? Không
tăng thêm đấy chứ?".
-
Thưa tôn giả, bệnh hoạn khổ sở không thuyên giảm; lành thay mong tôn giả hãy
thuyết pháp cho tôi nghe.
- Ðức
Thế Tôn chế giới: không bạch với các Tỷ kheo trong đại giới thì không được
thuyết pháp cho Tỷ kheo ni.
- Hòa
nam (mô Phật).
-
Mong ni sư được an ổn .
Nói
thế xong, tôn giả liền trở về, đến thẳng chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân
Phật, rồi đứng hầu một bên. Phật biết mà vẫn hỏi A nan. A nan bèn đem sự việc
kể trên bạch đầy đủ với Thế Tôn.
Phật
nói: "Nếu ông thuyết pháp cho bà ấy nghe thì bệnh của bà ấy sẽ bớt, thân
thể sẽ được an lạc. Từ nay về sau Ta cho phép thuyết pháp cho Tỷ kheo ni đang
lâm bệnh". Thế rồi Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại Thành Xá
Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe
rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu
Tỷ kheo đến trú sứ của Tỷ kheo ni, muốn giáo giới, thấy có Tỷ kheo khác mà
không bạch - ngoại trừ lúc khác - thì phạm Ba dạ đề".
Giải
thích:
Lúc
khác: Tức là lúc lâm
bệnh .
Giáo: Dạy bảo .
Có
Tỷ kheo: Tỷ kheo
đang có mặt tại trú xứ đó không phải Tỷ kheo quen biết .
Không
bạch: Nếu nói:
"Tôi vào thôn xóm phi thời", hoặc nói: "Tôi rời bỏ người cùng ăn
chung (?)", thì không gọi là bạch .
Bạch: Phải nói như thế này: "Xin trưởng
lão ghi nhớ cho, tôi vào tinh xá Tỷ kheo ni để giáo giới". Người kia nên
đáp: "Chớ phóng dật".
Trừ
lúc khác (347b): Lúc
khác là lúc Tỷ kheo ni bị bệnh, thì Thế Tôn cho phép giáo giới mà không có tội
Ba
dạ đề: Như trên đã
nói .
Nếu
hai Tỷ kheo đang sống tại nơi hoang vắng mà một người muốn vào tinh xá Tỷ kheo
ni thì phải bạch với người thứ hai như sau: "Xin trưởng lão ghi nhớ cho,
tôi vào tinh xá Tỷ kheo ni để giáo giới". Người kia nên nói: "Chớ
phóng dật". Người nọ đáp: "Xin cúi đầu vâng lời".
Nếu
cả hai người muốn đi thì nên bạch với nhau rồi mới đi. Nếu một người đi rồi,
người còn lại muốn đi thì suy nghĩ thế này: "Nếu đi giữa đường gặp Tỷ
kheo, tôi sẽ bạch, hoặc vào thôn xóm thấy Tỷ kheo tôi sẽ bạch". Khi tới
cổng tinh xá Tỷ kheo ni, không nên vào liền, mà nên hỏi xem có Tỷ kheo trong đó
hay không đã. Nếu có thì mời họ ra tác bạch, bạch xong rồi mới vào. Nếu không
bạch mà bước một chân vào khỏi cổng thì phạm tội Việt tì ni. Nếu cả hai chân đã
vào khỏi cổng thì phạm tội Ba dạ đề.
Nếu
Tỷ kheo ni mời Tỷ kheo đến thọ trai, thì vị Thượng tọa trong chúng nên bạch như
sau: "Vào trú xứ Tỷ kheo ni để giáo giới". Nếu Thượng tọa đệ nhất
không rành đối đáp, thì đệ nhị Thượng tọa nên bạch. Nếu chư Tăng đã vào ngồi
(tại trú của ni), rồi Tỷ kheo ni đến hỏi việc này việc khác, mà trong chúng có
Tỷ kheo trẻ có biện tài đối đáp, thuyết pháp ngay khi ấy, thì không có tội.
Nếu
Tỷ kheo, Tỷ kheo ni ở hai phòng gần nhau, rồi Tỷ kheo tán tụng nho nhỏ mà Tỷ
kheo ni cách tường nghe được bèn hỏi: "Tôn giả nào tán tụng vậy?".
- Tôi
tán đấy .
- Tôn
giả tán tụng hay thật .
- Cô
muốn nghe lại không?
-
Muốn nghe .
Thế
rồi, Tỷ kheo liền tán tụng, thì phạm tội Ba dạ đề.
Nhưng
nếu Tỷ kheo ni bị bệnh mà Tỷ kheo tán tụng (kinh chú) thì không có tội. Nếu Tỷ
kheo ni ấy chết, rồi đệ tử của Tỷ kheo ni bảo Tỷ kheo rằng thầy mình đã chết,
thì Tỷ kheo nên dừng lại .
Nếu
tán tụng về lý vô thường cho cô ấy thì phạm Ba dạ đề.
Nếu
Tỷ kheo ni đảnh lễ dưới chân Tỷ kheo rồi Tỷ kheo chú nguyện rằng: "Mong cô
dứt hết đau khổ,được giải thoát", thì phạm tội Ba dạ đề; chỉ nên nói: "Lành
thay cô đã đến!". Thế nên nói (như trên).
24.
GIỚI: PHỈ BÁNG VỊ GIÁO THỌ NI.
Khi
Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên, nhóm sáu Tỷ kheo khoác y, ra
đứng trước cửa tinh xá Kỳ hoàn từ tờ mờ sáng, bỗng thấy Tỷ kheo đi giáo giới Tỷ
kheo ni ra cửa. Nhóm sáu Tỷ kheo trông thấy thầy ấy liền nói như sau: "Các
ông nay vào trong thành tha hồ buông thả các căn, chỉ vì thích ăn uống mà đi
chứ chẳng có lý do nào khác". Khi ấy Tỷ kheo đi giáo giới này lấy làm xấu
hổ. Các Tỷ kheo nghe thế, liền đem sự kiện ấy đến bạch với Thế Tôn [347c]. Phật
bèn bảo họ đi gọi nhóm sáu Tỷ kheo đến. Khi nhóm sáu Tỷ kheo đến rồi, Phật liền
hỏi: "Các ông có việc đó thật chăng?".
- Có
thật như vậy bạch Thế Tôn .
- Ðó
là việc xấu, phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy ; không thể dùng việc ấy để
nuôi lớn thiện pháp được.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
--"Nếu
Tỷ kheo nói với Tỷ kheo khác rằng: "Trưởng lão vì thức ăn mà giáo giới Tỷ
kheo ni", thì phạm tội Ba dạ đề".
Giải
thích
Thức
ăn: Như bún, bánh,
cơm, thịt, cá lại có thức ăn khác gọi là: sắc, thanh, hương, vị, xúc .
Giáo
giới: Như trên đã
nói .
Ba
dạ đề: Như trên đã
nói .
Nếu Tỷ
kheo nói với Tỷ kheo khác rằng: "Nay thầy vì việc ăn uống mà đi giáo giới
Tỷ kheo ni", thì phạm tội Ba dạ đề.
Nếu
nói: "Thầy vì thuốc men mà đi giáo giới Tỷ kheo ni", thì phạm tội
Việt tì ni.
Nếu
Tỷ kheo nói với các Tỷ kheo ni như sau: "Thầy Tỷ kheo kia vì việc ăn uống
mà giáo giới các cô đó", thì phạm tội Việt tì ni.
Nếu
Tỷ kheo nói với các Tỷ kheo ni như sau: "Thầy Tỷ kheo kia vì thuốc men mà
giáo giới các cô đó", thì phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám hối .
Nếu
Tỷ kheo nói với Tỷ kheo khác: "Thầy vì việc ăn uống mà đi giáo giới Thức
xoa ma ni, Sa di ni", thì phạm tội Việt tì ni.
Nếu
nói: "Vì việc thuốc men mà đi giáo giới", thì phạm tội Việt tì ni tâm
niệm sám hối .
Cũng
thế, cho đến đối với Ưu bà tắc, Ưu bà di mà nói rằng: "Thầy ấy vì sự ăn
uống mà giáo giới các người đó", thì phạm tội Việt tì ni.
Nếu
nói: "Thầy ấy vì thuốc men mà giáo giới các người đó", thì phạm tội
Việt tì ni tâm niệm sám hối. Thế nên nói (như trên) .
25.
GIỚI: NGỒI VỚI NI Ở CHỖ KHUẤT.
Khi
Phật an trú tại thành Xá Vệ nói rộng như trên, bấy giờ Tỷ kheo ni Thiện sinh -
vốn là vợ cũ của tôn giả Ưu Ðà Di - nói với tôn giả Ưu Ðà Di rằng: "Ngày
mai đến phiên tôi sẽ nhận được phòng ở, thầy có thể đến để chúng ta cùng nói
chuyện". Thế rồi, sáng hôm sau, trong khi các Tỷ kheo ni vào xóm làng khất
thực thì Ưu Ðà Di đi đến phòng của Tỷ kheo ni Thiện Sinh, ngồi xoài chân ra tại
chỗ khuất, kề cận nhau nói chuyện, khiến dục tâm phát sinh, nam căn khởi lên,
rồi họ nhìn chăm chú vào nó. Bất thần có một Tỷ kheo ni già bệnh, từ trong
phòng đi ra, trông thấy cảnh tượng ấy lấy làm hổ thẹn, liền trở về phòng. Ðoạn
bà đem việc ấy thuật lại với các Tỷ kheo ni. Các Tỷ kheo ni bèn khiển trách Tỷ
kheo ni Thiện Sinh: "Cô là người xuất gia, vì sao lại làm việc phi pháp
như vậy? thật là đáng xấu hổ!’.
Tỷ
kheo ni Thiện sanh liền nổi sân lên, nói: "Kỳ quái thay! Kỳ quái thay! Ðó
là Tỷ kheo thân tình với tôi [348a] thường thường đến thăm tôi, nếu tôi không
tiếp chuyện vui vẻ thì ai làm việc đó? Ðó là phép nhà của tôi, có gì mà lấy làm
lạ!". Hễ các Tỷ kheo ni cật vấn đến đâu thì Tỷ kheo ni Thiện Sinh - vì có
tài biện luận - trả lời đến đó. Các Tỷ kheo ni bèn đem việc ấy bạch với Ðại Ái
Ðạo, Ðại Ái Ðạo liền bạch lên Thế Tôn. Phật bèn bảo gọi Ưu Ðà Di đến. Khi thầy
đến rồi, Phật liền hỏi: "Ông có việc đó thật căng?".
- Có
thật như vậy bạch Thế Tôn .
- Ðó
là việc xấu . Ông không từng nghe ta dùng vô lượng phương tiện ca ngợi phạm
hạnh, chê trách dâm dục hay sao? Vì sao ông lại làm một việc xấu bất thiện như
thế? Ðó là điều phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc ấy để
nuôi lớn thiện pháp được.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại Thành Xá Vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
--"Nếu
Tỷ kheo ngồi một mình với một Tỷ kheo ni tại chỗ vắng vẻ, trống trãi thì phạm
Ba dạ đề".
Giải
thích
Một
mình: Một Tỷ kheo
ngồi với một Tỷ kheo ni, dù cho có người khác mà người này cuồng si điên loạn,
hoặc đang ngủ, hoặc là loài phi nhân, súc sinh, thì tuy có những đối tượng như
thế cũng được xem như không có người thứ ba.
Chỗ
vắng vẻ: Tức nơi
hoang vắng.
Ngồi: (hai người) cùng ngồi.
Ba
dạ đề: Như trên đã
nói.
Nếu
Tỷ kheo ni mời một Tỷ kheo đến thọ trai, rồi một Tỷ kheo ni cùng ngồi với một
Tỷ kheo, một Tỷ kheo ni khác đi lại tiếp thức ăn, thì cứ mỗi lần Tỷ kheo ni
tiếp thức ăn đi khỏi, Tỷ kheo phạm một tội Ba dạ đề. Nếu Tỷ kheo ni ngồi thì
khi ấy Tỷ kheo nên đứng dậy, nhưng không được im lặng đứng dậy khiến cho Tỷ
kheo ni nghi ngờ mình định làm điều phi pháp mà nên nói: "Tôi muốn đứng dậy".
Nếu Tỷ kheo ni hỏi: "Vì sao đứng dậy?", thì nên đáp: "Ðức Thế
Tôn chế giới Tỷ kheo không được ngồi với Tỷ kheo ni". Nếu Tỷ kheo ni nói:
"Tôn giả cứ ngồi tôi sẽ đứng dậy". Thì khi ấy Tỷ kheo ngồi lại không
có tội.
Thậm
chí nếu Tỷ kheo cùng ngồi với Sa di ni tại các chỗ như trên gác, dọc đường trên
tấm ván, trên giày, hễ cứ mỗi lần Sa di ni di chuyển chỗ khác mà Tỷ kheo di
chuyển theo thì phạm một tội Ba dạ đề. Hoặc giả Sa di ni dưới bảy tuổi đi nữa,
thì Tỷ kheo cũng phạm tội Ba dạ đề.
Tỷ
kheo ngồi một mình với Tỷ kheo ni ở chỗ khuất thì phạm Ba dạ đề. (ý này ở trên
đã nói rồi).
Tóm
lại, nếu Tỷ kheo ngồi một mình với một Tỷ kheo ni tại tinh xá mà cửa hướng ra
đường, và ngoài đường người qua lại không gián đoạn ; hoặc giả ngồi tại chỗ che
khuất không trống trải, ngồi gần nhau chứ không xa, ngồi với một người chứ
không phải với nhiều người, không kể ngày hay đêm, thì tất cả giống như giới:
"thuyết pháp cho phụ nữ"đã nói rõ ở trước. Thế nên nói (như trên).
26.
GIỚI: HẸN ÐI CHUNG ÐƯỜNG VỚI NI.
[248b]
Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên ; bấy giờ nhóm sáu Tỷ kheo
cùng đi chung với nhóm sáu Tỷ kheo ni trên dọc đường, thì trời vừa chạng vạng
nên họ ngồi lại bên một hồ nước định tìm chỗ tạm trú . Khi ấy, Tỷ kheo ni bạch
với nhóm sáu Tỷ kheo: "Các tôn giả hãy ngối đây để con vào trong xóm tìm
chỗ tạm trú", nói xong, liền vào xóm tìm chỗ để nghỉ, thì được chủ nhà
bằng lòng cho nghỉ tạm. Do thế, Tỷ kheo ni bèn trở ra thưa với nhóm sáu Tỷ
kheo: "Thưa các tôn giả, con đã xin được chỗ trú chân rồi, chúng ta cùng
vào để nghỉ ngơi". Khi các Tỷ kheo vào an trú xong, cô lại bạch:
"Thưa các tôn giả con định vào trong thôn khuyến hóa thức ăn cho buổi sáng
mai". Thế rồi cô vào nhà có phụ nữ nói với họ: "Hai chúng phạm hạnh
Tỷ kheo, Tỷ kheo ni đều đã đến đây, các vị hãy sắm sửa thức ăn cho buổi sớm
mai, thức uống phi thời và dầu xoa chân". Các phụ nữ nghe thế rồi, người
thì chuẩn bị một phần cúng dường, kẻ thì sắm sửa hai phần cúng dường, ai nấy
đều sửa soạn các thức cúng dường. (Sáng hôm sau, các Tỷ kheo, Tỷ kheo ni) ăn
uống no nê, thứ gì còn lại thì mang đi hết. Khi đi dọc đường, họ cùng nhau cười
nói đùa giỡn, khiến cho dân chúng trông thấy thế đàm tiếu rằng: "Các vị
hãy xem kìa! Sa môn Thích tử đều còn trẻ tuổi mà cùng nhau cạo đầu (nói cười
với nhau) giống như bọn dâm nữ đùa cợt, thật là những kẻ bại hoại, nào có đạo
hạnh gì!".
Các
Tỷ kheo nghe thế, liền đến bạch với Thế Tôn. Phật bảo gọi nhóm sáu Tỷ kheo đến.
Khi họ đến rồi Phật liền hỏi: "Các ông có việc đó thật chăng?"
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn .
- Ðó
là việc xấu, phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy ; không thể dùng việc đó để
nuôi lớn thiện pháp được. Từ nay trở đi ta không cho phép Tỷ kheo hẹn cùng đi
chung đường với Tỷ kheo ni.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại Tì Xá Ly nơi thành Xá Vệ, các Tỷ kheo an cư mùa hạ
xong định đến thăm viếng Thế Tôn. Các Tỷ kheo ni nghe tin ấy bèn hỏi các Tỷ
kheo: "Các đại đức định đi thăm viếng Thế Tôn, vậy ngày nào khởi
hành?". Các Tỷ kheo liền cho biết ngày khởi hành. Bản tính phụ nữ vốn
nhiều tình cảm cho nên tính ngày rồi đi tới trước dọc đường dừng lại đợi các Tỷ
kheo. Các Tỷ kheo thấy họ liền hỏi: "Các chị em định đi đâu đó?". Họ
đáp: "Ðịnh đến Kỳ Hoàn thăm viếng đức Thế Tôn". Các Tỷ kheo nghe thế
sợ (đi chung với họ) phạm giới, liền vội vã bỏ họ mà đi. Những Tỷ kheo ni còn
trẻ liền quấn y lại tức tốc chạy theo sau, còn những Tỷ kheo ni già yếu vì theo
không kịp chúng bạn nên bị bọn giặc cướp đoạt. Các Tỷ kheo ni bèn đem nhân
duyên ấy đến bạch với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo liền đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu
đảnh lễ chân Phật, đứng hầu một bên, rồi đem sự kiện trên bạch đầy đủ lên Thế
Tôn . Ðoạn bà than phiền: "Nếu các Tỷ kheo không giúp đỡ [348c] các Tỷ
kheo ni thì ai giúp đỡ?". Do thế, Phật dạy: "Từ nay về sau ta cho
phép khi nào có sự nguy hiểm thì Tỷ kheo được đi chung đường với Tỷ kheo
ni". Rồi Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải
tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi
cũng phải nghe lại:
--"Nếu
Tỷ kheo với Tỷ kheo ni hẹn nhau cùng đi chung đường thì phạm Ba dạ đề ; ngoại
trừ lúc khác".
Giải
thích:
Cùng
hẹn nhau: Hoặc hôm
nay, hoặc ngày mai, hoặc nửa tháng, hoặc một tháng .
Ðường
đi: Hoặc ba do tuần,
hoặc hai do tuần, hoặc một do tuần, hoặc một câu lô xá .
Ngoại
trừ lúc khác: Tức là
lúc có sự nguy hiểm thì đức Thế Tôn cho phép .
Nguy
hiểm: Có thể bị mất
mạng trong khoảnh khắc, hoặc bị mất của cải, hoặc bị hủy hoại phạm hạnh. Tuy
thật sự không có những việc ấy, nhưng nếu có nghi ngờ bị mất mạng trong giây
lát, bị mất của hoặc bị hủy hoại phạm hạnh (thì Phật cũng châm chước) .
Ba
dạ đề: Như trên đã
nói .
Nếu
Tỷ kheo cùng đi với một Tỷ kheo ni trên con đường trong phạm vi một thôn xóm,
thì phạm một tội Ba dạ đề. Nếu cùng đi nơi vùng hoang dã không có xóm làng,
trong phạm vi một câu lô xá, thì phạm một tội Ba dạ đề.
Nếu
Tỷ kheo cùng với mẹ, chị, em đã xuất gia làm Tỷ kheo ni cùng đi theo hành khách
trên một chiếc xe, khi hành khách dừng nghỉ rồi đi lại mà Tỷ kheo gọi Tỷ kheo
ni như sau: "Hãy lại nhanh lên kẻo không kịp với hành khách", thì
phạm Ba dạ đề.
Nếu
nói: "Ði đi chị em, chớ để lạc bạn bè"thì không có tội.
Nếu
Tỷ kheo ni dừng lại dọc đường để nghỉ, rồi Tỷ kheo gọi: "Lại lại đây chị
em", đó gọi là kỳ hẹn. Nếu đã dở lên một chân thì phạm tội Việt tì ni. Nếu
đã dở lên cả hai chân thì phạm tội Ba dạ đề. Nếu nói: "Ði đi kẻo không
theo kịp hành khách", thì không có tội.
Nếu
Tỷ kheo cùng đi đường với khách buôn, rồi khách buôn vào trong thôn xóm, Tỷ
kheo không biết họ đi đâu bèn chạy tìm, bỗng gặp Tỷ kheo ni, liền hỏi:
"Này chị em, chỉ đường giúp cho tôi với", đó gọi là cùng kỳ hẹn. Nếu
Tỷ kheo ni dở một chân bước tới thì phạm tội Việt tì ni. Nếu đã dở cả hai chân
thì phạm tội Ba dạ đề. Trái lại, nếu nói: "Ði đi chỉ đường giùm cho tôi
với", thì không phạm tội.
Nếu
đàn việt trong thôn mời Tỷ kheo đến thọ trai, mà Tỷ kheo không biết nhà họ ở
đâu, bèn đi tìm, bỗng gặp Tỷ kheo ni, liền hỏi: "Cô có biết nhà đàn việt ở
đâu không, chỉ chỗ cho tôi đến với?". Ðó gọi là kỳ hẹn. Nếu dở một chân
thì phạm tội Việt tì ni. Nếu đã dở cả hai chân thì phạm tội Ba dạ đề. Trái lại,
nếu nói: "Ði đi chị em, chỉ nhà đàn việt giúp tôi", thì không có tội.
Nếu
Tỷ kheo ni hẹn (với Tỷ kheo) mà không đến, thì phạm tội Việt tì ni. Nếu không
hẹn mà ngẫu nhiên đến, thì không có tội. Nếu cùng hẹn, cùng đến thì phạm tội Ba
dạ đề. Nếu không hẹn, không đến thì không có tội. Nếu cùng ra đi mà đến nơi
khác nhau, thì phạm tội Việt tì ni. Nếu xuất hành khác nhau mà đến cùng một
chỗ, cũng phạm tội Việt tì ni. Nếu cùng phát xuất [349a], cùng đến một nơi, thì
phạm tội Ba dạ đề. Nếu xuất hành khác chỗ, đến khác chỗ, thì không có tội. Thế
nên nói (như trên).
27.
GIỚI: HẸN ÐI CHUNG THUYỀN VỚI NI.
Khi
Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên, bấy giờ nhằm ngày cát tường,
sáng sớm nam nữ tập trung, tại sông A-Kì-La để vui chơi, ăn uống ca hát. Hôm
đó, nhóm sáu Tỷ kheo thức dậy từ rạng đông, khoác y, đi đến chỗ nhóm sáu Tỷ
kheo ni, hỏi: "Hôm nay là ngày cát tường, các cô có thức ăn uống gì không,
chúng ta hãy cùng nhau đến sông đó tham quan?" Nhóm sáu Tỷ kheo ni nói:
"Chúng tôi đang chuẩn bị đây, đại đức hãy đi tìm xe thuyền đi". Nhóm
sáu Tỷ kheo liền đi tới vị quan giữ thuyền của vua mượn một chiếc thuyền đẹp và
các thứ trang trí, rồi họ mang các thực phẩm để lên thuyền, cùng với các Tỷ
kheo ni thuận theo dòng nước chèo đi, vui đùa bỡn cợt, khiến cho người đời chê
trách rằng: "Các vị hãy xem kìa! Những Sa môn thích tử này phóng túng vô
đạo, giống như người thế tục giao hoan với nhau. Ðó là những kẻ bại hoại, nào
có đạo hạnh gì!".
Các
Tỷ kheo nghe thế, liền đem sự việc ấy bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm
sáu Tỷ kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi: "Các ông có việc đó thật
chăng?".
- Có
thật như vậy bạch Thế Tôn.
- Ðó
là việc xấu. Từ nay không được hẹn ước với Tỷ kheo ni cùng đi chung thuyền.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, bấy giờ đàn việt ở bên kia bờ sông
A-Kì-La mời hai bộ Tăng Tỷ kheo, Tỷ kheo ni thọ trai. Ðến lúc qua sông, các Tỷ
kheo không cho các Tỷ kheo ni lên thuyền, hoặc một người đi một chiếc, hoặc hai
người một chiếc, mà không chở Tỷ kheo ni, nên ba, bốn chiếc thuyền rất nhẹ. Khi
các Tỷ kheo qua sông rồi, mới chở Tỷ kheo ni, và lúc đưa Tỷ kheo ni đến chỗ thọ
trai xong còn sắp xếp theo tuổi tác, nên mặt trời đã quá ngọ, do thế tất cả đều
không được ăn. Ðại Ái Ðạo Cù đàm di cũng không ăn được. Bà liền đi đến chỗ
Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi đứng hầu một bên. Phật biết mà vẫn hỏi:
"Cù đàm di, vì sao tiều tụy quá thế?" Ðại Ái Ðạo liền đem sự kiện
trên bạch đầy đủ với Thế Tôn. Phật bèn dạy: "Từ nay trở đi ta cho phép
cùng qua đò". Ðoạn Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại thành Xá
Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai
nghe rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu
Tỷ kheo hẹn ước với Tỷ kheo ni cùng đi chung thuyền xuôi hoặc ngược dòng sông,
ngoại trừ đi đò ngang, thì phạm Ba dạ đề".
Giải
thích:
Hẹn
ước: Như trên đã nói
.
Trừ
đi đò ngang: Ðức Thế
Tôn bảo là [349b] không có tội.
Ba
dạ đề: Như trên đã
nói .
Nếu
Tỷ kheo với Tỷ kheo ni hẹn ước nhau cùng đi chung một chuyến xe đò, trải qua phạm
vi một thôn, thì phạm một tội Ba dạ đề. Nếu đi qua vùng hoang dã không có xóm
làng thì qua phạm vi một Câu lô xá, phạm một tội Ba dạ đề.
Nếu
Tỷ kheo cùng Tỷ kheo ni đi chung một chuyến đò, khi đò dừng lại bên bờ sông, Tỷ
kheo ni xuống thuyền đi đại tiểu, rồi khi thuyền khởi hành, Tỷ kheo gọi Tỷ kheo
ni: "Này chị em hãy đến", thì gọi là ước hẹn. Nếu Tỷ kheo dở lên một
chân thì phạm tội Việt tì ni. Nếu dở hai chân thì phạm Ba dạ đề.
Nếu
hai bên cùng ước hẹn mà không đến, thì phạm tội Việt tì ni.
Nếu
không ước hẹn mà đến thì không có tội.
Nếu
cùng hẹn ước và cùng đến, thì phạm tội Ba dạ đề.
Nếu
không hẹn ước và không đến thì không có tội.
Bốn
trường hợp sau cũng như trên . Thế nên nói (như trên).
28.
GIỚI: ÐEM Y CHO NI KHÔNG PHẢI BÀ CON.
Khi
Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên, bấy giờ, có một Tỷ kheo chưa có
tuổi hạ, mặc chiếc y mới nhuộm đẹp đẽ, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân
Phật rồi ra đi. Trải qua bảy năm sau, thầy mặc một chiếc y cũ rách đi đến chỗ
Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi đứng hầu một bên. Phật biết mà vẫn hỏi:
"Này Tỷ kheo ngày trước ông chưa có tuổi hạ mà mặc một chiếc y mới nhuộm
đẹp đẽ, nay vì sao lại mặc chiếc y cũ rách như thế?".
Thầy
đáp: "Bạch Thế Tôn! Từ bảy năm nay hễ khi nào được y đẹp thì con đem cho
Tỷ kheo ni".
Thế
rồi, Phật nói với các Tỷ kheo: "Giả sử một Tỷ kheo thân quyến mặc chiếc y
cũ rách như thế, rồi đem một chiếc y đẹp cho Tỷ kheo ni thân quyến, thì Tỷ kheo
ni có nên nhận không?"các Tỷ kheo đáp: "Không nên nhận".
Phật
lại hỏi các Tỷ kheo: "Giả sử một Tỷ kheo thân quyến mặc chiếc y cũ rách
như thế, rồi đem một chiếc y đẹp cho Tỷ kheo ni thân quyến, thì Tỷ kheo ni có
nên nhận không?". Các Tỷ kheo đáp: "Không nên cho".
Thế
rồi, Phật dạy: "Từ hôm nay ta không cho phép Tỷ kheo đem y cho Tỷ kheo ni
không phải bà con".
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, bấy giờ có một Tỷ kheo từ phương Nam đến
có nhiều y bát, thầy có người chị xuất gia, nên thầy nhờ tôn giả A Nan dẫn đến
thăm chị mình. Tôn giả A Nan vốn tính tình dễ dãi liền đưa thầy đến trước cổng
tinh xá của Tỷ kheo ni để hỏi thăm Tỷ kheo ni mỗ giáp ấy có trong đó hay không.
Các Tỷ kheo ni liền hỏi lại: "Người gọi là ai vậy?", thì được đáp
rằng: "Tôi là Tỷ kheo A Nan và Tỷ kheo mỗ giáp". Tỷ kheo ni nói:
"Tôn giả hãy đợi một tí". Thế rồi, họ trải giường nệm, đoạn mở cửa ra
gọi: "Mời tôn giả vào". Hai người cùng vào an tọa, rồi chuyện vãn
thăm hỏi các Tỷ kheo ni, trong chốc lát liền cáo từ ra đi.
Khi
ấy vị Tỷ kheo kia nói với tôn giả A Nan: "Tôi từ xa đến đây là để thăm chị
tôi mà không thấy chị ra gặp tôi, không hiểu vì lẽ gì?". Tôn giả A Nan vốn
giỏi tướng pháp, nên nói với Tỷ kheo ấy: "Ông không hiểu vì ý gì mà chị
ông không ra sao?"
-
Không hiểu .
- Vì
y phục của chị ông rách rưới, xấu xí nên hổ thẹn [349c] mà không ra. Ông có
nhiều y vì sao không cho cô ấy?
- Vì
đức Thế Tôn chế giới không được cho y cho Tỷ kheo ni.
- Ông
hãy chờ đây để tôi đến xin Phật giúp cho ông.
Thế
rồi, A Nan liền đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi đứng qua một bên,
đem sự việc trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn, hỏi Phật có đồng ý cho phép Tỷ kheo
cho y cho Tỷ kheo ni bà con hay không. Phật bèn dạy: "Từ nay về sau, Ta
cho phép Tỷ kheo cho y cho Tỷ kheo ni bà con". Thế rồi, Phật truyền lệnh
cho các Tỷ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi
ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--"Nếu
Tỷ kheo cho y cho Tỷ kheo ni không phải bà con, ngoại trừ trao đổi, thì phạm
tội Ba dạ đề".
Giải
thích:
Y
của Tỷ kheo ni bà con:
Ðều như trên đã nói .
Ngoại
trừ trao đổi: Trường
hợp này Thế Tôn bảo là vô tội.
Ba
dạ đề: Như trên đã
nói .
Ngoài
ra như người lấy y của Tỷ kheo ni trong ba mươi điều trên kia đã nói. Thế nên
nói (như trên).
29.
GIỚI: MAY Y CHO NI KHÔNG PHẢI BÀ CON.
Khi Phật
an trú tại Thành Xá vệ, nói rộng như trên, bấy giờ Tỷ kheo ni Thiện Sinh vốn là
vợ cũ của tôn giả Ưu Ðà Di đem vải đã cắt xong đến nhờ Ưu Ðà Di may y. Ưu Ðà Di
liền nhận lấy đem may, khi may xong bèn thêu hình trai gái giao hợp vào đó rồi
xếp lại bỏ vào trong hộp trao lại cho Tỷ kheo ni. Tỷ kheo ni này nhận được y
liền đem về tinh xá, mở ra xem, thấy thế rất hoan hỷ, bèn đem khoe với các Tỷ
kheo ni khác: "Các cô hãy xem này, tôn giả Ưu Ðà Di có tài thêu thùa thật
là khéo léo".
Các
Tỷ kheo ni nghe thế bèn chê trách rằng: "Ðó là vật cần phải che giấu, vì
sao lại chỉ cho người ta xem?".
Các
Tỷ kheo ni thấy vậy liền đến bạch với Ðại Ái Ðạo. Ðại Ái Ðạo liền đem sự việc
ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bèn bảo gọi Ưu Ðà Di đến. Khi thầy đến rồi, Phật
liền hỏi: "Ông có làm việc đó thật chăng?".
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Ðó
là việc xấu, phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc ấy để
nuôi lớn thiện pháp được.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại
tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải
nghe lại:
--"Nếu
Tỷ kheo may y cho Tỷ kheo ni không phải bà con, phạm Ba dạ đề".
Giải
thích
Tỷ
kheo ni không phải bà con:
Như trên đã nói .
May
y: Hoặc tự may hoặc
sai người khác may đều phạm Ba dạ đề.
Ba
dạ đề: Như trên đã
nói .
Hơn
nữa, Tỷ kheo không được thêu y cho Tỷ kheo ni không phải bà con, nếu bắt đầu xỏ
kim thì phạm tội Việt tì ni, khi thêu xong rút kim ra thì phạm tội Ba dạ đề.
Hoặc sai người khác thêu cũng phạm tội như thế. Thế nên nói (như trên).
30.
GIỚI: ĂN THỨC ĂN DO NI CA NGỢI
[350a]
Khi Phật an trú tại Thành Xá Vệ, nói rộng như trên, bấy giờ có đàn việt ban đêm
đến mời các tôn giả Xá-Lợi-Phất, Ðại Mục Kiền Liên, Ly Bà Ða, Kiếp Tân Na, A
Nhã Kiều Trần Như.v.v., chỉ có tôn giả Ðại Ca Diếp vì không cho mời ban đêm,
nên sáng sớm đến giờ khất thực bèn khoác y, cầm bát vào xóm làng tuần tự khất
thực. Khi tôn giả đi đến cửa gia đình ấy, bà chủ nhà trông thấy rất hoan hỷ,
liền bước đến cúi đầu đảnh lễ dưới chân tôn giả, rồi đứng qua một bên, bạch
rằng: "Các đại đức nhận lời mời của gia đình con nên hôm nay tập trung về
đây, kính xin tôn giả cũng nhận lời mời của con".
Khi
ấy tôn giả Ca-Diếp liền suy nghĩ: "Ðây là gặp trực tiếp", bèn nhận
lời mời, rồi vào trong nhà ngồi, không đi đâu nữa . Bấy giờ, Tỷ kheo ni Thâu La
Nan Ðà khất thực ngang qua nhà ấy, trông thấy bà chủ nhà đang quét tước, soạn
chén bát và các phẩm vật cúng dường, liền hỏi: "Ưu bà di, bà đang làm gì
đấy?".
Lúc
ấy bà chủ nhà vì bận rộn các công việc nên không trả lời, đến nỗi cô hỏi đến
lần thứ hai, thứ ba bà vẫn không đáp. Thâu La Nan Ðà liền lên tiếng: "Nay
bà thật là tự kiêu quá lắm, tôi hỏi mấy lần mà vẫn không đáp".
Bà
chủ liền trả lời: "Hôm nay tôi mời các đại đức Thanh Văn Xá-Lợi-Phất,
Mục-Kiền-Liên.v.v., vì công việc túi bụi nên không thể trả lời".
Thâu-La-Nan-Ðà
liền nói: "Những người bà chọn hôm nay, trong đàn voi không chọn những con
voi lớn mà chọn những con voi nhỏ, trong đàn chim không chọn các con công mà
chọn các con quạ già. Các con voi lớn đó là: Xiển-Ðà, Ca-Lưu-Ðà-Di,
Tam-Văn-Ðà-Ðạt-Ða, Ma-Sẩn-Sa-Ðạt-Ða, Mã-Sư, Mãn-Túc và thị giả A-Nan. Nếu bà
nhờ tôi mời thì tôi sẽ mời giúp bà những đại đức như thế đó".
Lúc
ấy tôn giả Ðại-Ca-Diếp đang ngồi trong nhà liền lên giọng đằng hắng. Thâu-La-Nan-Ðà
nghe tiếng liền hỏi bà chủ: "Ðó là tiếng của ai vậy?".
Bà
chủ nhà đáp: "Ðó là trưởng lão Ðại-Ca-Diếp đấy".
Tỷ
kheo ni liền tán thán: "Bà được lợi ích rất lớn, vì đã mời được bậc đại
long tượng như vậy, nếu tôi mời thì cũng sẽ mời trưởng lão ấy".
Tôn
giả Ca Diếp nghe lời nói ấy rồi lòng không vui, liền hỏi cô: "Này cô em,
vừa rồi cô bảo đó là hạng voi nhỏ, quạ già, giờ sao nói long tượng đại đức? Nếu
lời nói trước là chân thực, thì lời nói sau là hư dối. Nếu lời nói sau là chân
thực thì lời nói trước là hư dối. Trong hai lời nói ấy lời nói nào trung
thực?"
Vì
Tôn giả Ðại Ca Diếp có uy đức đáng tôn kính, dùng hai câu hỏi cật vấn khiển
trách Tỷ kheo Ni, khiến cô hoảng sợ liền bỏ chạy, vấp ngã trên đất làm cho thân
thể bị thương tích. Xiển Ðà thấy vậy liền hỏi cô: "Cô xúc phạm ai mà đến
nỗi thân thể bị thương tích như vậy?".
-
[350b] Con xúc phạm Ðại Ca Diếp.
- Cô
đã xúc phạm người không đáng xúc phạm.
Các
Tỷ kheo nghe thế bèn đem sự kiện ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền nói với các
Tỷ kheo: "Trong trường hợp này không tán thán cũng đã có lỗi huống gì lại
tán thán. Từ nay về sau ta không cho phép Tỷ kheo nhận thức ăn do Tỷ kheo ni
tán thán mà được cúng dường .
Do
thế, tôn giả A-Nan nỗi tiếng phước đức tại thành Xá Vệ. Lại được Thế Tôn khen
ngợi thầy có ba sự đầy đủ: Tên họ bà con thành tựu, là bậc đa văn đệ nhất trong
hàng hữu học và là thị giả chu đáo đệ nhất. Vì vậy mà tại thành Xá Vệ có thôn
Phước đức, hễ ai trong thôn này làm nhà mới đều mời A-Nan, hoặc lúc xông đất,
hoặc lúc cạo đầu, lúc xỏ lỗ tai, tất cả đều mời A-Nan.
Khi
ấy có một trưởng giả mời A-Nan đến nhà dự lễ khánh thành. Thế nào là khánh
thành? Chẳng hạng khánh thành nhà mới, giường mới, dụng cụ mới, mới khép dầu,
đàn bà mới sinh con, mặc áo mới, dùng quạt mới.
Khi
A-Nan thọ trai có một Tỷ kheo khất thực đứng ở ngoài cửa. A-Nan liền bảo đàn
việt cúng dường thức ăn cho Tỷ kheo khất thực. Ðàn việt nghe A-Nan dạy rất hoan
hỷ, bèn lấy bát bỏ đày thức ăn mĩ vị đem ra cúng dường Tỷ kheo khất thực. Tỷ
kheo khất thực nhận thức ăn xong liền đứng đợi A-Nan. A-Nan ăn xong chú nguyện
rồi bước ra. Tỷ kheo khất thực thấy A-nan liền hỏi: "Tôn giả ăn
chưa?".
- Ăn
rồi .
- Ăn
có ngon không?
- Vì
sao thầy không ăn mà hỏi tôi ăn có ngon hay không ngon?
- Sở
dĩ tôn giả được ăn như thế này là do Tỷ kheo ni tán thán .
-
Thật như vậy sao?
-
Ðúng như vậy .
A-nan
liền lấy lông chim ngoáy vào cổ cho mửa ra. Thế nên ngày đó thầy bị mất ăn
khiến cho thân thể bị tiều tụy, thầy bèn đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân
Phật, rồi đứng hầu một bên. Phật biết mà vẫn hỏi: "A-Nan, vì sao thân thể
ông tiều tụy như thế?".
A-Nan
liền đem sự kiện trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn.
Phật
bèn hỏi: "Ông có biết việc ấy không?".
-
Bạch Thế Tôn, con không biết .
-
Biết mới có tội, không biết thì không có tội.
Các
Tỷ kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao Tỷ kheo khất thực kia
làm cho A-Nan không vui?"
-
Không những ngày nay ông ta làm cho A-Nan không vui mà ngày xưa cũng đã từng
làm, như trong Kinh Hiền Ðiểu Sinh đã nói rõ .
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, đến giờ khất thực, các trưởng lão Tỷ kheo
khoác y, cầm bát vào thành tuần tự khất thực, đi đứng cử động có hàng ngũ có uy
nghi. Khi ấy có một trưởng giả nói như sau: "Lành thay, nếu bố thí y phục,
thực phẩm, thuốc chữa bệnh cho những người xuất gia như vậy thì sẽ được lợi ích
rất lớn".
[350c]
Ông lại suy nghĩ: "Nếu ta có khả năng ta sẽ cúng dường những người như
vậy".
Bấy
giờ có một Tỷ kheo ni nghe thế liền nói với trưởng giả: "Lão trượng, ông
chỉ cần xuất tiền sắm thức ăn, tôi sẽ lo liệu giúp cho". Người đàn việt
này rất có tín tâm nên hoan hỷ đưa tiền cho cô.
Tỷ
kheo ni bèn nói: "Lão trượng, ông phải đi mời các Tỷ kheo".
Ông
thưa: "Tôi không biết, nhờ cô mời giúp cho". Tỷ kheo ni liền sắm sửa
các thức ẩm thực, xong rồi nói với đàn việt: "Lão trượng, các thức ăn đã
sửa soạn xong, ông hãy đến chỗ Tỷ kheo báo tin đã đến giờ".
Người
đàn việt nói: "Tôi không biết, nhờ cô đi đến các Tỷ kheo báo giờ giúp
cho".
Tỷ
kheo ni bèn đến tinh xá bạch: "Ðã đến giờ".
Thế
rồi các Tỷ kheo đi đến nhà đàn việt, an tọa chỉnh tề. Tỷ kheo ni bèn nói với
đàn việt: "Ông hãy bưng dọn thức ăn cúng dường lên".
Ông
ta nói: "Thưa cô, cô hãy dọn giúp tôi".
Các
Tỷ kheo liền suy nghĩ: "Bữa cúng dường này do Tỷ kheo ni tán thán mà có
chứ chẳng nghi ngờ gì nữa", liền đứng dậy ra về.
Họ đi
như vậy một người, hai người cuối cùng cả chúng đều ra về hết. Ðàn việt liền
hỏi Tỷ kheo ni: "Các tôn giả vì sao đi hết mà không trở lại?"
Cô ni
đáp: "Tôi không biết .Ông hãy đến chỗ Thế Tôn hỏi việc này. Phật sẽ nói
cho ông hay".
Ông ta
bèn đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, đứng hầu một bên, rồi đem sự việc
trên trình bày rõ đầu đuôi với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi các Tỷ kheo đến. Khi
họ đến rồi, Phật liền hỏi rõ sự kiện kể trên: "Các ông có việc đó thật như
vậy chăng?"
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
hôm nay trở đi ta cho phép (các Tỷ kheo thọ trai) ở nhà đàn việt cũ .
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
--
"Nếu Tỷ kheo biết thức ăn do Tỷ kheo ni tán thán mới có, mà ăn - ngoại trừ
đàn việt cũ - thì phạm Ba dạ đề".
Giải
thích:
Biết: Như trên đã nói .
Tán
thán: Khen ngợi đức
hạnh của người nào đó là cao quí .
Thức
ăn: Gồm có năm loại:
Mì, bún, cơm, cá, thịt .
Ngoại
trừ đàn việt cũ: (Tỳ
kheo thọ trai tại nhà đàn việt cũ) Ðức thế Tôn bảo là không có tội.
Ba
Dạ Ðề: Như trên đã
nói.
Tóm
lại có các trường hợp tán thán: Xướng đẳng cúng thời thán, hạ thực thời thán,
sơ tác thực thời thán, tác thực dĩ biện thán; hữu thỉnh thời thán.
Xướng
đẳng cúng thời thán:
Dọn thức ăn xong, báo tin giờ ăn đã đến, bỗng có Tỷ kheo khác tới, Tỷ kheo ni
liền nói vơí Ưu bà di: "Lại có Tỷ kheo đến". Ưu bà di liền nói:
"Lành thay, tôi hoan hỷ cho người đi mời còn không được huống gì tự nhiên
đến", thì trong trường hợp này không gọi là tán thán . Trái lại, nếu Tỷ
kheo ni nói: "Vị này sống ở nơi rừng vắng, đi khất thực, mặc y phấn tảo,
ngồi giữa trời, dùng nệm cỏ ...", [351a] dùng những lời ca ngợi như vậy để
được cúng dường mà Tỷ kheo ăn, thì phạm Ba dạ đề.
Hạ
thực thời thán: Vừa
mới ngồi ăn, bỗng có Tỷ kheo khác lại đến, thì cũng như trường hợp vừa nói
trên.
Tác
thực thời thán: Lúc
đang ăn thì có Tỷ kheo khác đến, trong trường hợp này cũng như trên đã nói.
Tác
thực dĩ biên thán:
Lúc ăn vừa xong thì có Tỷ kheo khác đến, Tỷ kheo ni liền nói với Ưu bà di:
"Lại có Tỷ kheo đến". Nếu Ưu bà di nói: "Lành thay, tôi cố sai
người đi mời mà còn không thể được, huống gì bỗng nhiên lại tới", thì
không gọi là tán thán. Hoặc giả Ưu bà di nói: "Phải cúng dường nhiều bún,
bánh, cơm, canh ngon lành một cách bình đẳng", cũng không gọi là tán thán.
Trái lại, nếu cô ni chê thức ăn ít, rồi bảo đàn việt: "Hãy đưa thêm thầy
ấy một nắm bún nữa", (mà Tỷ kheo ấy nhận lấy thức ăn) thì phạm Ba dạ đề.
Hữu
thỉnh thời thán: Nếu
Tỷ kheo nói với đàn việt: "Ðồ chúng của thầy ấy đa văn tinh tấn, nên mời
hết tất cả". Ðó gọi là tán thán để cúng dường thức ăn . Nếu cô ta nói:
"Vị thủ chúng kia đa văn tinh tấn, nên vì Tỷ kheo này mà mời thêm hai mươi
người nữa". Trong trường hợp này một người được tán thán, còn những người
khác không phạm (tức không phải được tán thán). Nếu gặp trường hợp tán thán để
mời thọ trai như thế, thì các Tỷ kheo nên hoán chuyển chỗ ngồi, chứ không nên
bỏ bàn ăn ra về. Nếu chỗ ngồi bên cạnh dơ bẩn không sạch, không thích đổi chỗ,
thì nên tâm niệm: "Thức ăn ta đang ăn trong bát này là của Tỷ kheo mỗ giáp
kia", nghĩ như vậy thì không có tội.
Nếu
Tỷ kheo ni nói vơi Ưu bà di: "Bà nên thường xuyên mời tôn giả mỗ giáp kia
đến cúng dường". Ðó gọi là tán thán. Trái lại, nếu nói: "Tôn giả kia
có thể thường đi khất thực", thì không gọi là tán thán. Thế nên nói:
"Tăng
không sai, trời tối,
Không bạch, vì thức ăn .
Cùng ngồi, cùng đi chung
Qua đò và cho y .
May y, tán thán thực
Xong phần ba bạt cừ".
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hết quyển thứ mười lăm.
-ooOoo-
Đầu trang | 00
| 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 |
20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 |
updated: 15-03-3002