BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Đại Tạng No. 1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La
người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn
Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt Nam, PL 2543 (TL 2000)
Thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri
Quyển thứ ba mươi mốt
-ooOoo-
NẤU ĂN Ở CHỖ NGỦ VÀ TỰ NẤU ĂN.
Khi
Phật an trú tại tinh xá Khoáng Dã được Chư Thiên và người đời cúng dường. Bấy
giờ, nhà bếp được làm trong Tăng viện, nước vo gạo và nước bẩn rửa chén chảy ra
ngoài đường hẻm, bị người đời chê trách:
- Vì
sao chỗ ở và nhà bếp của Sa-môn Thích tử không cách biệt nhau?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền nói với các
Tỉ-kheo:
- Các
ông thật đáng bị người đời chê trách. Từ nay Ta không cho phép làm nhà bếp ở
trong chỗ ở để rồi nước vo gạo chảy ra bên ngoài. Phép làm nhà bếp không nên
làm ở phương Ðông, phương Bắc mà nên làm tại phương Nam, phương Tây. Nếu
Tỉ-kheo làm nhà bếp ở bên trong, để cho nước vo gạo chảy ra bên ngoài thì phạm
tội Việt tỳ ni.
Lại
nữa, khi Phật du hành tại nước Câu Tát La, đến thôn Bà la môn Ha Ðế, như sự
kiện cháo ở trên đã nói rõ, cho đến Phật không cho phép nấu ăn ở tại chỗ ngủ.
Lại
nữa, khi Phật du hành nước Câu tát la đến thôn Bà la môn Cố Thạch. Khi ấy có
một ông già hớt tóc cả hai cha con xuất gia, nghe Phật đến định nấu cháo, như
sự kiện cháo ở trên đã nói rõ, cho đến Phật không cho phép nấu ăn nơi chỗ ngủ
và tự nấu ăn.
Lại nữa,
khi Phật du hành đến nước Ương Cầu Ða La. Lúc ấy Phạm chí Chi Ni Da Loa Kế nghe
Thế Tôn đến, bèn làm phòng Tăng, nhà bếp, rồi sai người đến mời Phật. Phật bèn
bảo Ưu-ba-li:
- Ông
hãy đến sớm nơi đó nhận lấy nhà nấu ăn cho Tăng, chớ để quá lúc đầu đêm, nếu để
quá tức gọi là chỗ ở của Tăng, không được dùng làm nhà bếp.
Khi
ấy, Ưu-ba-li bạch với Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Ðược làm nhà bếp có mái lợp riêng biệt ra không?
-
Ðược.
-
Bạch Thế Tôn! Hợp chung hai phòng có mái lợp riêng được không?
-
Ðược.
- Hợp
chung hai phòng cùng một mái lợp được không?
-
Ðược.
-
Ðược dùng hai chỗ riêng có mái lợp riêng được không?
-
Ðược.
-
Ðược dùng một bên, hai bên, ba bên, tất cả đều riêng được không?
-
Ðược.
-
Cách con đường được không?
-
Ðược.
-
Dùng trên gác, dưới gác làm được không?
-
Ðược. Hoặc gốc cây (477b) ở tịnh địa, còn cành lá ở chỗ đất bất tịnh; hoặc gốc
cây ở chỗ đất bất tịnh, còn cành lá ở chỗ tịnh địa; hoặc gốc cây và cành lá đều
ở chỗ đất bất tịnh; hoặc gốc cây và cành lá đều ở chỗ tịnh địa.
Một
chỗ được lợp riêng biệt: Tăng được dùng chỗ này làm nhà bếp, như vậy cho đến
phòng riêng biệt được lợp riêng biệt, Tăng đều được dùng làm nhà bếp. Cũng như
một bên, hai bên, ba bên, tất cả đều được làm nhà bếp.
Cách
con đường: Hai bên đường thanh tịnh (hợp lệ), ở giữa không thanh tịnh, nếu để
bình sữa.v.v... ở giữa đường, nên xoi thủng hai đầu để sữa chảy vào tịnh địa
(chỗ hợp lệ) thì được phép lấy dùng. Nếu cái bao đựng lúa, bột, đậu để ngay
giữa đường thì được mở hai đầu để lấy. Nếu cải, hành, mía để ở giữa đường thì
được cắt lấy dùng, vẫn hợp lệ.
Trên
gác, dưới gác: Trên gác và dưới gác đều được dùng làm nhà bếp.
Gốc cây ở tịnh địa, cành lá ở chỗ bất tịnh: Nếu gốc cây mọc ở tịnh địa, còn cành lá
ở chỗ bất tịnh, mà trái rụng xuống đất, thì ngay khi ấy nên lấy đem cất vào trong
nhà bếp. Nếu không lấy để qua khỏi đầu đêm thì thành ra bất tịnh. (không hợp
lệ).
Gốc
cây ở chỗ đất bất tịnh, cành lá ở chỗ đất thanh tịnh: Cây mọc ở chỗ đất bất
tịnh, cành lá phủ ra chỗ đất thanh tịnh, nếu quả rơi xuống đất tức là thanh
tịnh, tùy lúc muốn lấy cứ lấy.
Cả
hai đều không thanh tịnh: Cây mọc ở chỗ đất bất tịnh, cành lá cũng phủ ra chỗ
đất bất tịnh, khi quả rơi nên nhặt đem cất vào trong nhà bếp. Nếu không lấy
ngay khi ấy để qua khỏi đầu đêm, tức là không thanh tịnh.
Cả
hai đều thanh tịnh: Cây mọc ở chỗ đất thanh tịnh, cành lá cũng phủ ra chỗ đất
thanh tịnh, khi quả rơi tức là thanh tịnh, tùy lúc muốn lấy thì lấy. Ðó gọi là
cả hai đều thanh tịnh.
Củ
cải, hành, rau mọc ở chỗ đất không thanh tịnh, nếu muốn hái nên hái đúng lúc
rồi đem cất vào trong nhà bếp; nếu không hái đúng lúc để qua khỏi đầu đêm tức
là không thanh tịnh.
Nếu
bọn trộm đến hái trộm rau quả, bị phát giác, chúng hoảng sợ bỏ rau quả chạy
thoát thân mà ta cần thì lấy liền rồi đem cất trong nhà bếp. Nếu nói rằng để
sáng mai mới lấy, thì đến khi qua khỏi đầu đêm tức là không thanh tịnh. Nếu
không hay khi chúng bỏ lại, hoặc sớm hoặc muộn mới trông thấy, thì nên lấy đem
cất trong nhà bếp. Nếu không lấy để qua quá đầu đêm, tức là không thanh tịnh.
Nếu
dưa, bầu mọc ở chỗ đất bất tịnh, thì khi hái nên đem cất vào trong nhà bếp. Nếu
không đem cất để qua khỏi đầu đêm tức là không thanh tịnh.
Tại
trú xứ của Tăng nếu có đàn việt đem cho thóc, mà thóc bị đổ ra chỗ đất bất
tịnh, thì nên hốt ngay khi ấy rồi đem cất vào trong nhà bếp. Nếu không hốt để
qua khỏi đầu đêm tức là không thanh tịnh.
Nếu
bạch y đem bánh bún, lương khô đến tinh xá xin ở lại trong đêm; (477c) đến sáng
hôm sau khi ra đi, đem cho Tỉ-kheo, tức là thanh tịnh. Nếu Tỉ-kheo suy nghĩ
rằng: "Ngày mai khi họ đi, ắt hẳn sẽ đem cho ta", thì khi họ đem cho
được xem là không thanh tịnh. Nếu họ đem rau quả đến xin ở lại cũng vậy. Nếu họ
chở lúa gạo đến, cất đầy kho nhà bếp, số còn lại hoặc để trong giảng đường,
trong nhà sưởi, trong nhà che giếng, trong nhà chất củi ở ngoài sân, nếu là chỗ
đất bất tịnh, thì đầu, giữa, cuối đêm tùy lúc đổâ xong dời đi liền. Nếu không
dời đi, để qua khỏi đầu đêm, tức là không thanh tịnh.
Nếu
muốn xây dựng chỗ ở mới thì Tỉ-kheo doanh sự nên dùng dây đo đạt rồi qui định
rằng chỗ ấy làm nhà bếp cho Tăng, chỗ ấy làm nơi ở cho Tăng, nên nói như sau:
"Trong đây, chỗ này làm nhà bếp cho Tăng", rồi sử dụng. Nếu không sử
dụng để qua khỏi đầu đêm tức là không thanh tịnh. Tùy theo mức độ cần thiết mà
qui định nhà bếp; khi qui định nhà bếp xong rồi mới qui định chỗ ở, phòng sưởi,
giảng đường, nhà ngõ, nhà tắm, nhà để củi, nhà che giếng.
Nếu
đàn việt nói:
-
Không nên qui định trước, nên đợi khi làm xong, thiết lễ trai phạn cho Tăng,
rồi Tăng tùy ý mà qui định", thì khi làm xong, Tăng nên nói như sau:
"Tăng dùng gác dưới, gác giữa và gác trên làm nhà bếp (khi đã qui định rồi
tức thành nhà bếp đồng thời ở cũng được)". Nếu vẫn chưa sử dụng, thì khi
trong nước loạn lạc, hoặc vua chưa lên ngôi sử dụng cũng được. Hoặc là lúc vị
vua cũ băng hà, vị vua mới chưa lên ngôi sử dụng cũng được. Nếu vẫn chưa sử
dụng mà trú xứ xóm làng bị hoang phế đến hai năm sử dụng cũng được. Ở đây, hoặc
xóm làng hoang phế, không phải trú xứ bị hoang phế, hoặc trú xứ hoang phế,
không phải xóm làng hoang phế, hoặc xóm làng hoang phế, trú xứ cũng hoang phế;
hoặc không phải xóm làng hoang phế, không phải trú xứ hoang phế. Nếu có những
thức ăn được cất ở đây mà không qui định tức là không thanh tịnh.
Ðó
gọi là nấu ăn ngay chỗ ngủ.
Tự
nấu ăn: Tỉ-kheo không được tự nấu ăn. Nếu bệnh thì nên sai tịnh nhân nấu, nếu
không có tịnh nhân mà có nồi đồng sạch không dính dầu mỡ thì nên rửa sạch, rồi
tự đốt lửa đun sôi, đoạn, bảo tịnh nhân bỏ gạo vào. Sau khi đã bỏ gạo vào,
Tỉ-kheo không được tự chụm lửa mà nên sai tịnh nhân chụm. Ðến khi nồi sôi mà
tịnh nhân muốn đi đâu, thì Tỉ-kheo được tiếp tục chụm cho chín, song, phải cẩn
thận đừng để những vật không cần dùng rơi vào trong đó. Khi nấu thịt cho săn
lại, nấu rau cho sầu đi cũng như vậy; khi đã nhận được rồi có thể tự nấu cho
chín. Sau cùng, khi nấu nước gừng cũng không được tự nấu mà phải bảo tịnh nhân
nấu. Nếu khất thực, thức ăn bị nguội thì được hâm lại cho nóng, không có tội.
Nếu tịnh nhân bị ốm thì nên sai tịnh nhân khác nấu cháo đưa cho. Nếu không có
tịnh nhân thì khi vo gạo sạch rồi được tự nấu. Nếu có cháo để dành, không được
đem ăn.
Ðó
gọi là nấu ăn tại chỗ ngủ và tự nấu ăn.
NHẬN THỊT SỐNG.
Khi
Phật ở nơi khoáng dã, lúc ấy nhóm sáu Tỉ-kheo cầm thịt khúc, cá sống, bị người
đời chê trách rằng:
- Vì
sao Sa-môn không chịu đi khất thực lại cầm thịt khúc, cá sống mà đi? Ðây là
hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Này
các Tỉ-kheo! Từ nay về sau, ta không cho phép nhận thịt sống. Nếu Tỉ-kheo bị
bệnh thì được sai tịnh nhân nấu thịt cho săn lại, rồi nhận lấy, đoạn tiếp tục
nấu cho đến khi chín. Nếu Tỉ-kheo đi kinh hành, ngồi thiền trong rừng, rồi thấy
dưới gốc cây có thịt con chương, con nai còn sót lại, khi ấy, mình thấy cần,
thì không được lấy mà nên báo cho tịnh nhân biết. Nếu mình tự lấy thì không
được tự ăn, mà nên cho người làm vườn hoặc là Sa di. Nếu thấy thịt do chim ưng
để lại cũng như vậy. Tỉ-kheo khi đi khất thực, nếu được thịt khô đã nướng chín
thì được nhận lấy. Có loài chúng sinh tên Câu Da không có ruột, nuốt thịt cục
vào rồi nhả ra, nếu cần thì Tỉ-kheo được phép lấy. Nhưng không được lấy thóc
sống như các loại: thóc gạo trắng, thóc gạo đỏ, đại mạch, tiểu mạch; tất cả đều
không được lấy. Nếu trên thân sinh ung nhọt, sảy, cần tiểu mạch để bôi, thì nên
sai tịnh nhân đem rửa sạch, rồi tự tay mình lấy đi nghiền nát để bôi lên mụt
nhọt, nhưng không được phép ăn. Nếu trong nhà bếp có lúa tẻ, lúa mạch đã xay
rồi mà Tỉ-kheo thấy cần thì được phép lấy, nhưng không được ăn. Nếu đậu mông
cụ, đậu ma sa, đậu lớn, đậu nhỏ, các loại tương tự như thế, khi Tỉ-kheo thấy
cần thì được dùng.
Ðó
gọi là nhận (thịt sống) và thóc.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy, vua Ba Tư Nặc có vườn Am Bạt La ra trái
sum xuê. Vua hỏi người giữ vườn:
- Các
Tỉ-kheo có thường đến ăn trái cây không?
- Ðại
vương không mời thì làm sao mà đến ăn?
-
Ngươi hãy đến mời các Tỉ-kheo đến ăn trái cây.
Người
giữ vườn liền đến chỗ các Tỉ-kheo, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, quì gối, chắp tay
bạch rằng:
- Ðức
vua mời chư Tăng đến ăn trái cây.
Các
Tỉ-kheo bèn đi đến vườn ấy ăn trái cây, lớp ăn lớp bỏ ngổn ngang dưới đất, lại
còn lấy đem về. Vì vậy người giữ vườn không thể dâng trái cây cho vua, vua hỏi:
- Vì
sao ngươi không đưa trái cây đến?
Người
giữ vườn bèn đem sự việc trên tâu đầy đủ lên nhà vua. Vua nghe thế trong lòng
không vui, bèn trách:
- Các
Tỉ-kheo chỉ nên ăn trái cây, vì sao hái vứt xuống đất lại còn đem cho người
khác?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo
(478b) ấy đến. Khi thầy đến rồi, Phật bèn hỏi lại đầy đủ sự việc trên:
- Ông
có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ông
chỉ cần ăn quả, vì sao lại hái vứt xuống đất rồi mang về để làm gì?
-
Bạch Thế Tôn! Con đem về cất để ăn.
- Vì
sao ông lại lấy về đem cất để mà ăn? Từ nay về sau, Ta không cho phép ăn trái
cây Am Bạt La.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Vương Xá trong vườn Am Bạt La của đồng tử Kỳ
Cựu. Lúc ấy, đồng tử Kỳ Cựu hỏi người làm vườn:
- Các
Tỉ-kheo có ăn trái cây Am Bạt La không?
- Ðức
Thế Tôn không cho phép.
Ðồng
tử Kỳ Cựu nghe thế đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi đứng hầu một
bên, bạch với Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Am Bạt La là trái cây đương mùa, xin Thế Tôn cho phép các Tỉ-kheo
được ăn nó.
- Từ
nay Ta cho phép được làm sạch vỏ trái cây rồi ăn.
Các
Tỉ-kheo bèn sai tịnh nhân gọt sạch vỏ trái cây mà ăn, bị tịnh nhân oán trách:
- Ăn
luôn cả vỏ cũng được, vì sao lại sai ta gọt sạch vỏ làm chi?
Các
Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật dạy:
-
Không cần phải gọt hết vỏ, chỉ cần dùng móng tay cạo sạch vỏ rồi ăn; nhưng
không được tự lấy rồi ăn, mà trước hết nên sai tịnh nhân dùng móng tay cạo sạch
rồi mới ăn.
Nếu
Tỉ-kheo đang đi trong vườn cây, thấy trái rơi xuống đất, mà mình cần, thì nên
sai tịnh nhân lấy.
Nếu
tự lấy thì không được tự ăn, mà nên cho người làm vườn, hoặc Sa di. Nếu trái
cây chín, rơi xuống đất vỡ ra, thì được xem là đã làm sạch vỏ, có thể lấy cạy
hạt ra rồi ăn.
Nếu
trái cây bị chim mổ, hoặc bị đụng nhằm vật gì mà nứt ra, dù nhỏ như dấu chân
muỗi, thì được xem là đã làm sạch vỏ, được phép cạy hạt bỏ rồi ăn.
Nếu
muốn ăn hạt, phải đem rang chín thì được phép ăn.
Nếu
lột vỏ sạch, không rang chín mà ăn cả hạt, thì phạm tội Ba-dạ-đề.
Nếu
rang chín, không lột vỏ sạch, thì được phép ăn cả vỏ và hạt.
Nếu
không rang chín, không lột vỏ sạch mà ăn, thì phạm một tội Ba-dạ-đề, một tội
Việt tỳ ni.
Nếu
làm cả hai việc thì không có tội. Ðó gọi là tự lấy rồi làm sạch vỏ để ăn.
Kệ
tóm tắt:
Tì
ni, xử đoán việc,
Chướng ngại, chẳng chướng ngại
Tỉ-kheo ni, tự nấu,
Nấu ăn nơi chỗ ngủ.
Nhận thịt sống và thóc,
Tự lấy, sau đem dùng
Gọt vỏ và rang chín,
Kết thúc phẩm thứ sáu.
VẬT NẶNG.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy các Tỉ-kheo đem bán giường nệm của chúng
Tăng, hoặc cho người khác mượn, hoặc đem về dùng riêng. Các Tỉ-kheo bèn đem sự
việc ấy đến bạch lên (478c) Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy
đến rồi, Phật hỏi:
- Ông
có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Từ
nay Ta không cho phép Tỉ-kheo đem bán giường nệm của Tăng, hoặc cho người mượn,
hoặc lấy dùng riêng. Nếu khi Tăng tập họp tất cả cũng không được phép bán, cho
người mượn, hoặc đem dùng riêng. Nếu ai đem bán, cho người mượn hay dùng riêng
thì phạm tội Việt tỳ ni.
Thế
nào gọi là vật nặng? - Chẳng hạn như giường nệm, đồ bằng sắt, đồ sành, đồ gỗ,
đồ bằng tre, như trong giới ăn trộm đã nói rõ. Ðó gọi là những vật nặng.
Nếu
đàn việt đem cúng dường cho Tăng giường nệm, câu chấp, thảm, gối xếp, đai thắt
lưng, dao con, muổng, lọng, quạt, giày da, ống đựng kim, nhiếp cắt móng tay,
bình tưới nước thì trong số này các vật nặng như giường nệm, câu chấp, thắt
lưng, gối xếp, thảm nên nhập vào vật của Tăng tứ phương, ngoài ra những vật nhẹ
khác đem chia. Nếu đàn việt nói: "Nên đem chia tất cả", thì theo ý
của đàn việt đem chia. Nếu họ nói: "Tất cả đều cúng dường cho Tăng tứ
phương", thì không được chia.
Nếu
trong lúc Tỉ-kheo đang đi trên đường, rồi người thế tục trông thấy sinh tâm
hoan hỷ, đem các vật linh tinh bố thí cho Tỉ-kheo, mà trong đó có những vật
nặng, thì nên đem cho tinh xá nào ở gần đường bằng cách bảo đàn việt mang các
giường nệm ấy cho Tỉ-kheo ở tinh xá mỗ. Nếu họ nói: "Tôi đã quyết ý bố thí cho thầy, còn hỏi tôi làm chi nữa?",
thì Tỉ-kheo nói: "Cũng có thể để ở đây cung cấp cho khách Tăng sẽ được
nhiều công đức". Họ nói: "Không thể được! Tôi đã quyết ý rồi",
thì nên nói: "Này lão trượng! Ðây là vật nặng khó mà đem đi, có thể bán ở
đây rồi lấy tiền đến đó mua cái khác được không?". Nếu đáp: "Tùy ý
tôn giả!", thì được bán lấy tiền mang đến đó, hễ tiền giường thì mua
giường, tiền nệm thì mua nệm; cũng thế, tất cả mọi thứ khác tùy nghi mà bán rồi
mua. Nếu họ nói: "Tất cả đều chia", thì phải tùy theo ý thí chủ mà
chia. Nếu họ nói: "Tất cả đều bố thí cho Tăng tứ phương", thì không
nên chia.
Khi
thí chủ mời có hai trường hợp:
- Một
là theo thứ lớp của Tăng.
- Hai là mời riêng cá nhân.
Nếu
nơi nào Tăng được các phẩm vật bố thí theo thứ tự của Tăng, thì phải nhập vào
cho Tăng. Nếu họ mời riêng mà nhận được vật, thì được phép dùng riêng. Nếu
giường nệm nhiều mà nồi chảo ít thì nên nói cho đàn việt biết, rồi bán bớt
giường nệm mua nồi chảo; hoặc nồi chảo nhiều thì đem bán bớt để mua giường nệm,
cũng như vậy. Nếu có đồ đựng bằng kim loại bị vỡ bể thì được đem nấu chảy đúc
cái mới lớn hơn. Ðó gọi là những vật nặng.
VẬT VÔ THƯỜNG (CỦA NGƯỜI CHẾT).
Khi
Phật an trú tại Khoáng Dã thì tôn giả A Nhã Kiều Trần Như đang ở tại Cự Ma Ðế.
Ðến giờ khất thực, Kiều Trần Như khoác y, cầm bát vào thôn khất thực. Khi đã
được thức ăn, thầy bèn đến nhà một người chăn nuôi, chồng tên là Cừ Ni, vợ tên
là Thi Bà Li để thọ trai. Bà vợ có lòng tin hoan hỷ, thường cung cấp sữa tươi,
sữa chua, sữa đóng váng cho thầy. (479a) Khi uống xong thầy liền trở về trú xứ,
rồi suy nghĩ: "Dùng cái khí cụ (cái thân) thống khổ này sống lâu ở đời để
làm gì? Ta chán ngán thân này quá". Thế rồi, thầy đem y bát để tại một chỗ
dưới gốc cây trong rừng, nằm gối đầu trên một hòn đá tròn hình con voi, nghiêng
về hông bên phải, tâm bất loạn, nhập Vô Dư Niết-bàn. Thi Bà Li biết thời giờ
thầy sắp đến, bèn dọn giường ghế, quét tước, bày biện sữa nước ra bàn chờ đợi.
Thế nhưng, đã quá giờ mà không thấy đến, Thi Bà Li suy nghĩ: "Sư phụ ngày
nào cũng đến, bữa nay vì sao không đến? Hay là bị ốm chăng? Hoặc là bị ác trùng
sát hại?". Ðoạn, bà liền đến xem thì thấy thầy đang nằm dưới gốc cây, suy
nghĩ: "Sư phụ vẫn còn đang ngủ", rồi đứng im lặng lắng nghe. Nhưng
không nghe hơi thở, bà dùng tay đặt nơi trái tim thì thấy thân thể đã lạnh
ngắt, liền thầm nhủ: "Kỳ thay! Ðã qua đời rồi, ta phải cúng dường xá
lợi!". Nghĩ thế, bà trở về nhà bảo chồng lấy búa chặt những cây củi tốt
chất thành đóng rồi hỏa thiêu nhục thân của thầy. Thế rồi, họ đứng một bên nhìn
xem, thì thấy có bốn con chim nhiều màu sắc khác thường từ bốn phương bay đến.
Thân chim bỗng dưng biến thành màu trắng rồi bay đi. Lúc ấy, người chồng là Cừ
Ni đứng đó tỏ vẻ đau khổ, không vui, suy nghĩ như sau: "Y bát của Tỉ-kheo này
phải đem nạp cho vua vì phép vua rất khó, sợ rằng sẽ đòi những thứ khác
nữa". Ðoạn, ông mang y bát đi đến nhà vua, tâu:
- Y
bát này là của Tỉ-kheo Kiều Trần Như đã qua đời, tôi xin nạp cho đại vương!
Vua
bèn định giá y bát ấy là năm tiền. Viên quan đoán sự nói:
- Vị
Sa-môn này đã qua đời, y bát nên đưa về cho Tỉ-kheo.
Thế
là người ấy mang về bạch với Tăng:
- Tôn
giả A Nhã Kiều Trần Như đã qua đời có y bát này còn để lại.
Các
Tỉ-kheo thấy thế biết là y bát của thầy, liền hỏi:
- Ông
có thấy điều gì khác nữa không?
- Có
thấy! Khi tôi hỏa thiêu, thấy bốn con chim có nhiều màu sắc khác thường...
Bấy
giờ, các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, rồi hỏi Ngài:
-
Việc ấy là thế nào, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là bốn thiên ma muốn đến xem thần thức, nhưng không thấy nên họ hóa thành màu
trắng mà bay đi.
- Y
bát này nên thuộc về ai, bạch Thế Tôn!
-
Ðương nhiên thuộc về Tăng.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy có thầy Tỉ-kheo bệnh nói với vị
Tỉ-kheo khác:
-
Trưởng lão chăm sóc giúp tôi, tôi sẽ cho trưởng lão y bát.
Thế
rồi, thầy Tỉ-kheo bệnh qua đời, các Tỉ-kheo tập họp định chia y bát của thầy
thì vị Tỉ-kheo nuôi bệnh liền nói:
-
Thầy Tỉ-kheo bệnh này lúc còn sống nói với tôi rằng: "Hãy chăm sóc giúp
tôi, tôi sẽ cho thầy y bát".
Các
Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền hỏi:
- Ðã
cho chưa?
-
Chưa cho, bạch Thế Tôn!
-
Chưa cho mà đã qua đời, phạm tội Việt tỳ ni. Còn người nuôi bệnh đương nhiên
không được lấy.
(479b)
Lại nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy có thầy Tỉ-kheo bệnh nói với
vị Tỉ-kheo khác: "Hãy chăm sóc giúp tôi, tôi sẽ cho trưởng lão y
bát", bèn cho y bát. Khi được rồi, vị ấy chưa tác tịnh mà đem để lại bên
cạnh người bệnh. Thế rồi, Tỉ-kheo bệnh qua đời; đoạn các Tỉ-kheo đem sự việc ấy
đến bạch lên Thế Tôn, rồi hỏi:
-
Việc ấy phải làm thế nào, bạch Thế Tôn!
- Ðã
tác tịnh hay chưa?
-
Chưa, bạch Thế Tôn!
-
Người kia không được nhận!
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy, có Tỉ-kheo bệnh nói với Tỉ-kheo
khác:
- Hãy
chăm sóc giúp tôi, tôi sẽ cho trưởng lão y bát.
Thầy
liền lấy cho. Khi được rồi, vị ấy tác tịnh, rồi đem để lại bên cạnh Tỉ-kheo
bệnh, cho đến Phật hỏi:
- Ðã
tác tịnh chưa?
- Tác
tịnh rồi, bạch Thế Tôn!
-
Người ấy đáng được nhận.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, có Sa di qua đời, các Tỉ-kheo bèn hỏi
Phật:
- Các
y bát vật dụng này thuộc về ai bạch Thế Tôn!
-
Thuộc về Hòa Thượng.
Lại
có trường hợp Tỉ-kheo nuôi bệnh thốt lời oán hận như sau:
- Tôi
nuôi bệnh bất kể nóng lạnh, làm bao việc cực nhọc, đi tìm xin thuốc thang cho
đến việc đi đổ bô đại tiểu, sự thật là như vậy thì ai đáng nhận được, chẳng lẽ
chúng Tăng được sao?
Các
Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
-
Tỉ-kheo nuôi bệnh kham khổ, nên cho ba y, bát, bồn chứa và những thuốc men còn
lại.
Bấy
giờ, tôn giả Ưu-ba-li biết đúng lúc, hỏi Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Tỉ-kheo bệnh được di chúc vật cho người khác không?
-
Ðược.
-
Ðược di chúc cho thuốc men không?
-
Ðược. Hoặc di chúc rằng: "Nếu không khỏi bệnh thì tôi sẽ cho, nếu bệnh qua
khỏi thì không cho". Hoặc di chúc: "Tôi đi đến thôn xóm ấy, nếu đi
không tới thì sẽ cho. Nếu đi đến đó tức là khỏi cho".
Hoặc
di chúc: "Tôi ra đi lần này nếu mà qua đời thì sẽ cho, nếu trở về thì khỏi
cho".
Hoặc
di chúc dứt khoát: "Dù sống hay chết thì lòng tôi cũng đã dứt khoát
cho", thì nên cho. Nếu di chúc cho nhiều người thì người sau cùng sẽ được.
Nếu
cho nhiều người thì người hiện diện sẽ được.
Khi
Tỉ-kheo qua đời hay nhập Niết-bàn, không nên đóng cửa liền. Nếu vị ấy có đệ tử
đồng hành, đệ tử y chỉ trì giới, đáng tin thì nên giao ổ khóa cho họ. Nếu họ
không đáng tin thì nên giao ổ khóa cho thầy tri sự, đợi đến khi cúng dường xá
lợi, lo việc ma chay xong mới đem y vật của vị ấy ra. Nếu đệ tử đồng hành, đệ
tử y chỉ của vị ấy trì giới, đáng tin, thì nên bảo họ đem ra. Nếu họ không đáng
tin thì nên bảo thầy tri sự đem ra. Nếu có một Tỉ-kheo nào đó, nói: "Y bát
của tôi cũng có trong này", thì phải quan sát. Nếu người ấy trì giới
(479c) đáng tin thì nên đưa. Nếu không đáng tin thì không nên đưa. Nếu có người
đáng tin làm chứng, thì nên đưa trước rồi Tăng mới nhận sau.
Nhận
lấy có ba cách: làm Yết-ma rồi nhận; chia phần rồi nhận; trao đổi cho nhau mà
nhận.
Làm
Yết-ma rồi trao: Người làm Yết-ma nên nói như sau:
- Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp vừa qua đời, vừa nhập Niết-bàn, những y
bát và các tạp vật khác của thầy nên chia cho Tăng hiện diện. Nếu thời gian của
Tăng đã đến, Tăng hiện diện làm Yết-ma cho Tỉ-kheo mỗ giáp. Ðây là lời tác
bạch.
Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp vừa qua đời, vừa nhập Niết-bàn, các y
bát và những vật dụng khác của thầy nên chia cho Tăng hiện diện. Nay Tăng hiện
diện đem y bát và các tạp vật khác trao cho Tỉ-kheo mỗ giáp. Các đại đức nào
bằng lòng đem y bát và các tạp vật khác trao cho Tỉ-kheo mỗ giáp thì im lặng;
ai không bằng lòng hãy nói.
Tăng
đã bằng lòng đem y bát và các tạp vật khác trao cho Tỉ-kheo mỗ giáp xong, vì
Tăng im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy.
Ðó
gọi là làm Yết-ma rồi trao.
Chia
phần rồi trao: Khi chia phần xong liền tuyên bố rằng:
- Mỗi
người hãy tự lấy phần mình.
Ðó
gọi là chia phần rồi trao.
Trao
đổi nhau mà nhận phần: Trao đổi lẫn nhau (giữa người này và người khác), đó gọi
là trao đổi nhau mà nhận phần.
Nếu
có bốn Tỉ-kheo ở trong thôn mà một người qua đời, thì ba Tỉ-kheo còn lại nên
chia nhau, nói như sau:
-
Thưa các trưởng lão! Tỉ-kheo mỗ giáp vừa qua đời, vừa Niết-bàn, có các y bát và
tạp vật khác này nên chia cho Tăng hiện diện, nhưng nơi này không có Tăng
(không đủ bốn Tỉ-kheo), chúng ta hiện diện nên chia nhau.
Nếu
trú xứ có ba Tỉ-kheo mà một người qua đời thì hai Tỉ-kheo còn lại nên chia
nhau, nói như sau: "... Nơi này không có Tăng, chúng ta hiện diện sẽ
được".
Nếu
trú xứ có hai Tỉ-kheo mà một người qua đời thì Tỉ-kheo còn lại được nhận, bằng
cách tâm nghĩ, miệng nói:
-
Tỉ-kheo mỗ giáp vừa qua đời, vừa nhập Niết-bàn, có y bát này nên chia cho Tăng
hiện diện, nhưng ở đây không có Tăng, vậy tôi hiện diện được quyền nhận.
Nếu
muốn cho vật dụng cho Tỉ-kheo nuôi bệnh, nên điểm danh để biết số người nhiều
ít. Sau khi đã biết, nên đem y bát và thuốc men còn lại của người mất cho họ.
Người làm Yết-ma nên nói:
- Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp vừa qua đời, vừa nhập Niết-bàn, y bát
của thầy nên chia cho Tăng hiện diện. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng đem y
bát và thuốc men còn lại này cho Tỉ-kheo nuôi bệnh là mỗ giáp. Ðây là lời tác
bạch.
Rồi
một lần làm Yết-ma cho đến: - Tăng đã bằng lòng cho Tỉ-kheo nuôi bệnh là mỗ
giáp y bát và (480a) thuốc men còn lại xong, vì im lặng. Tôi ghi nhận việc này
như vậy.
Trong
trường hợp nào người nuôi bệnh được nhận phần, trường hợp nào không được nhận
phần?
Trường
hợp không được nhận: Gồm có: Làm tạm thời không được nhận; bị sai làm không
được nhận; làm vì thích phước đức không được nhận; làm vì tà mạng không được
nhận.
Làm
tạm thời: Làm tạm thời chứ không phải làm chính thức, đó gọi là làm tạm thời.
Bị
sai làm: Tăng theo thứ tự sai làm thì gọi là sai làm.
Làm
vì thích phước đức: Vì mong muốn được phước đức mà nuôi bệnh, đó gọi là thích
phước đức.
Tà
mạng: Vì hy vọng (được phẩm vật) mà nuôi bệnh, đó gọi là tà mạng.
Trường
hợp đáng được: Phật dạy:
- Vì
muốn được lợi ích (cho người bệnh), ít nhất là đốt một ngọn đèn. Vì muốn cho
người bệnh được bình phục thì đáng được nhận phần.
Khi
làm Yết-ma xong, nên phán đoán bóng mặt trời. Nếu có Tỉ-kheo khách đến thì phải
biết là trước lúc Yết-ma hay sau lúc Yết-ma; hoặc gặp lúc chết mà không gặp lúc
Yết-ma; hoặc gặp lúc Yết-ma mà không gặp lúc chết; hoặc vừa gặp lúc chết, vừa
gặp lúc Yết-ma; hoặc không gặp lúc chết, cũng không gặp lúc Yết-ma.
Trong
đây, gặp lúc Yết-ma, không gặp lúc chết, vừa gặp lúc chết, vừa gặp lúc Yết-ma
thì được nhận phần. Trường hợp gặp lúc chết, không gặp lúc Yết-ma ; vừa không
gặp lúc chết, vừa không gặp lúc Yết-ma thì không được nhận phần. Nhưng nếu đi
tìm thuốc cho người bệnh, hoặc vì việc của tháp, của chúng Tăng mà đi vắng thì
nên cho phần.
Ðó là
cách xử lý vật của người chết.
YẾT-MA CÔNG NHẬN BỆNH CUỒNG SI.
Khi
Phật an trú tại thành Vương Xá. Bấy giờ trưởng lão Kiếp Tân Na có hai người đệ
tử đồng hành, người thứ nhất tên Nan Ðề, người thứ hai tên Bát Già Nan Ðề mắc
bệnh cuồng si; khi Tăng làm Yết-ma có lúc họ đến, có lúc họ không đến, khiến
pháp Yết-ma của Tăng bị phá. Các Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn.
Phật nói với các Tỉ-kheo:
- Nan
Ðề, Bát Già Nan Ðề mắc bệnh cuồng si, khi Tăng làm Yết-ma, có lúc họ đến, có
lúc họ không đến, khiến pháp Yết-ma của Tăng bị phá, thì Tăng nên làm Yết-ma
công nhận bệnh cuồng si. Người làm Yết-ma nên nói như sau:
- Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Nan Ðề, Bát Già Nan Ðề mắc bệnh cuồng si, khi Tăng làm
Yết-ma, có lúc họ đến, có lúc họ không đến, khiến pháp Yết-ma của Tăng bị phá.
Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng cho Nan Ðề, Bát Già Nan Ðề pháp Yết-ma bệnh
cuồng si. Ðây là lời tác bạch.
Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Nan Ðề, Bát Già Nan Ðề mắc bệnh cuồng si, khi Tăng làm
Yết-ma, có lúc họ đến, có lúc họ không đến, khiến pháp Yết-ma của Tăng bị phá.
Tăng nay cho Nan Ðề, Bát Già Nan Ðề pháp Yết-ma công nhận bệnh cuồng si. Các
đại đức nào bằng lòng cho Nan Ðề, Bát Già Nan Ðề pháp Yết-ma công nhận bệnh
cuồng si thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Ðây là Yết-ma lần thứ nhất.
(lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế)
Tăng
đã bằng lòng cho Nan Ðề, Bát Già Nan Ðề pháp Yết-ma công nhận bệnh cuồng si
xong, vì Tăng im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy.
Khi
làm Yết-ma xong, nếu người ấy có đến hay không đến, pháp Yết-ma sẽ không bị
phá. Nếu bệnh cuồng si bớt, tâm trí trở lại như cũ (480b) thì được coi như đã
xả pháp Yết-ma.
Ðó
gọi là Yết-ma công nhận bệnh cuồng si.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy các Tỉ-kheo ở Chiêm Ba đấu tranh, cãi vã
nhau, cùng sống một chỗ mà bất hòa. Một Tỉ-kheo cử tội một Tỉ-kheo, hai Tỉ-kheo
cử tội hai Tỉ-kheo, nhiều Tỉ-kheo cử tội nhiều Tỉ-kheo. Thế rồi, các Tỉ-kheo
đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật dạy:
- Từ
nay Ta cho phép bày tỏ sự không đồng tình. Cách bày tỏ sự không đồng tình như
sau: Nếu Tăng làm Yết-ma phi pháp mà mình có khả năng thì nên ngăn cản, nói:
"Này các trưởng lão! Ðó là việc phi pháp, phi luật không nên làm".
Nếu người đó hung ác, có thế lực, sợ họ sát hại hoặc làm tổn thương phạm hạnh,
thì nên bày tỏ sự không đồng tình, nói như sau: "Ðây là Yết-ma phi pháp,
tôi không bằng lòng, xin bày tỏ sự không đồng tình". Nói như vậy ba lần.
Khi bày tỏ sự không đồng tình, không nên bày tỏ với đối phương mà nên bày tỏ
với người đồng ý với mình. Cũng không được làm với nhiều người mà chỉ được làm
chừng hai người, ba người; còn những người khác thì nên gởi dục đúng pháp rồi
bỏ đi. Nếu trong Tăng giải quyết việc một cách phi pháp mà không ngăn cản,
không gởi dục, không bày tỏ sự không đồng tình thì phạm tội Việt tỳ ni. Nhưng
nếu suy nghĩ: "Tùy nghiệp vận hành, như lửa cháy nhà, ta chỉ cứu lấy mình,
gắng giữ tâm đúng với pháp", thì không có tội.
Ðó
gọi là bày tỏ sự không đồng tình.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy trưởng giả Lộc theo thứ tự mời Tăng đến thọ
trai. Ưu-ba-nan-đà tới phiên mình đi đến nhà ấy. Trưởng giả hỏi:
-
Thầy muốn ăn ở đây hay đem đi?
-
Muốn đem đi.
Gia
chủ liền lấy bát của thầy bỏ đầy các thứ ẩm thực. Ưu-ba-nan-đà được thức ăn
rồi, bèn đem đến nhà dâm nữ, hỏi:
- Cô
muốn được thức ăn không?
-
Muốn được.
- Ðem
chén bát của cô lại đây.
Thế
là thầy sớt đồ ăn thức uống ra la liệt đầy bàn, rồi tiếp tục đi khất thực. Khi
ấy, con ông trưởng giả ăn xong, đi đến nhà dâm nữ, cô ta hỏi:
-
Chàng có muốn ăn không?
- Lấy
ra đây.
Cô ta
liền đem thức ăn trên bàn đưa cho chàng ấy. Khi thấy thức ăn, chàng ta biết
ngay, liền hỏi:
- Cô
được thức ăn này ở đâu vậy?
-
Chàng cứ ăn đi chứ hỏi làm gì! Các cậu thanh niên đem cho đó.
-
Không phải vậy! Tôi muốn biết xuất xứ đích xác.
Anh
ta cứ hỏi mãi, cô ấy đành phải khai:
- Sư
phụ Ưu-ba-nan-đà cho tôi đó.
Con
ông trưởng giả bèn chê trách:
- Ta
nghĩ rằng chúng Tăng là phước điền tốt, trái lại Ưu-ba-nan-đà lại cho rằng dâm
nữ là phước điền tốt.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Vương Xá, lúc ấy, có Tát bạc chủ Vô Úy cúng
dường cho Tăng hai tấm vải mịn. Ưu-ba-nan-đà nhận được từ trong Tăng rồi, đem
cho dâm nữ. (480c) Dâm nữ được rồi, mặc đi vào nơi thị tứ. Khi ấy, Tát bạc chủ
Vô Úy thấy thế biết ngay, liền hỏi:
- Cô
được loại vải này ở đâu vậy?
- Vì
cớ gì mà chàng hỏi? Các cậu thanh niên cho tôi đó.
-
Không phải vậy! Tôi muốn biết rõ xuất xứ.
Anh
ta cứ hỏi mãi, cô ấy đành khai:
- Tôn
giả Ưu-ba-nan-đà cho tôi đó.
Thế
rồi, Tát bạc chủ trách móc:
- Ta
nghĩ rằng chúng Tăng là phước điền tốt, trái lại Ưu-ba-nan-đà cho dâm nữ là
phước điền tốt.
Các
Tỉ-kheo nghe thế, đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi thầy đến rồi, Phật bèn hỏi:
- Ông
có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Ðó
là việc xấu. Vì sao ông phá hoại vật của tín thí? Từ nay Ta không cho phép phá
hoại vật của tín thí. Tín nghĩa là người ta cho với niềm tin, cho với tâm hoan
hỷ. Thí gồm có 8 loại, đó là thức ăn đúng giờ, thuốc uống ban đêm cho đến những
thứ hợp lệ và không hợp lệ. Phá nghĩa là dùng tâm tham dục đem cho dâm nữ, quả
phụ, đồng tử lớn tuổi, kẻ bất năng nam, Tỉ-kheo ni mang tiếng xấu, Sa di ni
mang tiếng xấu, ít nhất là vì tâm tham dục mà đem cho súc sinh, thì phạm tội
Việt tỳ ni.
Nếu
có người đến xin thức ăn của Tăng thì được cho chừng một vắt cơm. Nếu có nhiều
người thì nên chia cho bằng nhau. Nếu kẻ ấy có lòng tham dục thì không nên cho.
Nếu cha mẹ nghèo khổ không có lòng tin thì được cho ít nhiều tùy nghi. Nếu họ
có lòng tin thì nên cho hào phóng. Có hai trường hợp nên cho: vì lợi ích, vì
tổn hại.
1) Vì
lợi ích: hoặc đàn việt hoặc ưu bà tắc làm việc cho tháp, cho Tăng thì nên cho.
2) Vì
tổn hại: hoặc bọn cướp, hoặc nhà vua, hoặc kẻ hung ác nếu không cho thì chúng
có thể gây ra sự bất lợi, những hạng người này nên cho.
Ðó
gọi là phá lòng tin của thí chủ.
Khi
Phật an trú tại thành Vương Xá, lúc ấy, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà mang giày da thếp
vàng mà đi, bị người đời chê trách rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như vương giả, đại thần, người quí hiển, mang giày
da thếp vàng?.
Các
Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn, cho đến Phật nói:
- Từ
nay về sau, Ta không cho phép mang giày da thếp vàng.
Lại
nữa, vào những ngày Khánh tiết của người đời, nhóm sáu Tỉ-kheo người thì mang
giày da có nhiều màu sắc, người thì mang hai lớp giày, hẹn nhau đi ngắm cảnh,
bị người đời chê trách rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mang nhiều loại giày giống như vương giả, đại thần?
Có kẻ
thấy mang như thế oán ghét, bèn nói:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như kẻ hạ tiện, mang giày da hai lớp? Ðây là hạng
người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật dạy:
- Từ
nay về sau, (481a) Ta không cho phép Tỉ-kheo mang giày da hai lớp.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại rừng Thi Ðà, thành Vương Xá, lúc ấy, thân Thế Tôn có
chút ít bất hòa, đồng tử Kỳ Cựu liền đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân,
rồi bạch Phật rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Con nghe nói thân Thế Tôn bất hòa, nên uống thuốc tiêu hạ. Tuy
Thế Tôn không cần, nhưng vì chúng sinh, mong Thế Tôn hãy nhận món thuốc này để
cho chúng sinh đời sau thấy rõ nguyên lý: Người bệnh thì dùng thuốc, người bố
thí thì được phước báo.
Khi
ấy, Thế Tôn im lặng nhận lời. Kỳ Cựu lại suy nghĩ: "Không thể để Thế Tôn
uống thuốc như người thường, phải dùng thuốc ướp với hoa sen xanh rồi trao cho
Thế Tôn". Ðoạn, Thế Tôn ngửi hơi thuốc ba lần. Vì sức thuốc mạnh khiến Thế
Tôn đi đại tiện đến 18 lần, do thế, sắc diện kém vui. Bấy giờ, A-nan nói với
tôn giả Ðại Mục Liên:
- Thế
Tôn uống thuốc, không biết nơi nào có thức ăn hợp với bệnh của Ngài?
Khi
ấy, Mục Liên liền quan sát, thấy con của Nhị Thập Ức Thứ Nô ở nước Chiêm Ba,
hằng ngày nấu 500 món ăn, liền dùng thần lực đi đến đứng trước anh ta. Con của
Nhị Thập Ức thấy tôn giả Mục Liên uy nghi thần đức, trong lòng thán phục, hứng
khởi, cho rằng chưa từng có. Lúc ấy, Mục liên bèn đọc kệ:
Ðấng
Thiên Tôn kỳ diệu,
Tích lũy muôn công đức
Thân có chút bất hòa,
Cần thức ăn hợp bệnh.
Nay ông được lợi ích,
Sẽ gặt quả báo lớn.
Các đệ tử Thanh Văn.
So với đức Thế Tôn
Ví như hạt cải mòng
Sánh với núi Tu di.
Bấy
giờ, con ông trưởng giả nghe đọc kệ xong lòng đại hoan hỷ, tán thán: "Lành
thay! Nay được lợi ích này", bèn sửa soạn các món ăn thượng hạng, rồi mời
Mục Liên ở lại thọ trai. Khi ấy, Mục Liên suy nghĩ: "Ta vì đức Thế Tôn xin
thức ăn hợp với bệnh, vậy không nên ăn trước", liền nhận lấy thức ăn để
trên hư không, rồi mới ăn phần mình. Khi ấy, đồng tử Nhị Thập Ức nói với tôn
giả Mục Liên:
- Tôi
muốn biết Thế Tôn ăn trước rồi tôi mới ăn sau, làm sao biết được?
Mục
Liên nói:
- Bát
đựng thức ăn trong chốc lát sẽ trở lại, là ta biết đã ăn rồi.
Thế
là, chỉ trong nháy mắt, Mục Liên đã đến chỗ Thế Tôn, dâng thức ăn lên Thế Tôn.
Thế Tôn ăn xong thì cái bát nương theo hư không trở về chỗ cũ. Lúc ấy, đồng tử
Nhị Thập Ức Thứ Nô từ xa trông thấy cái bát bay về, liền đứng dậy nghênh đón,
lấy đội lên đầu.
Bấy
giờ, vua Bình Sa đến thăm viếng Thế Tôn, nghe mùi thức ăn, bèn hỏi:
-
Bạch Thế Tôn! Ðó là mùi thơm gì vậy?
- Mùi
thức ăn đấy! Ðại vương có muốn ăn (481b) thức ăn còn lại của Như Lai không?
-
Muốn ăn, bạch Thế Tôn! Tôi sẽ được lợi ích rất lớn khi ăn thức ăn còn lại của
đức Như Lai.
Ðoạn,
nhà vua ăn xong, liền bạch với Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Từ ngày tôi sinh ra trong hoàng gia đến giờ chưa từng được thức
ăn như thế này. Bạch Thế Tôn! Ðây là thức ăn của cõi trời, của rồng, của Uất
đơn việt hay thức ăn của quỉ thần?
- Ðây
không phải là thức ăn của cõi trời, cho đến không phải của quỉ thần.
Thế
rồi, Thế Tôn vì nhà vua nói về dưới chân của đồng tử Nhị Thập Ức Thứ Nô có lông
màu vàng, dài bốn tấc, phước đức như vậy. Vua nghe xong, muốn đến đó xem liền
nhưng viên quan cận thần tâu với vua:
- Kẻ
đó là thần dân của đại vương, đại vương nên truyền lệnh y đến hầu, chứ không
nên thân hành đến đó.
Tức
thì vua sai sứ đến nói với cha mẹ của đồng tử rằng nhà vua muốn gặp đồng tử.
Cha mẹ bàn bạc:
- Vua
cho gọi thế này ắt là muốn tìm cách phạt tiền chúng ta đây. Chúng ta thà nạp
ngàn vạn bạc chứ không nên cho con đến nhà vua.
Liền
dùng xe chở vàng bạc châu báu đến chỗ nhà vua, tâu vua rằng:
-
Ðồng tử yếu đuối không thể tự đến được, nay xin chở những trân bảo của đồng tử
đến hiến dâng cho đại vương.
Nhà
vua liền nói:
- Ta
có sẵn vàng bạc, châu báu, đâu có cần những thứ này để làm gì. Ta chỉ muốn xem
thân hình của đồng tử mà thôi.
Vua
liền sai sứ giả đến đó truyền lệnh rồi sứ giả trở về tâu với vua:
-
Ðồng tử sống rất sung sướng, thân thể quá mềm yếu, không thể đi xe cộ được.
- Nếu
vậy, thì hãy trang bị thuyền rồi chở đến. Nếu tới chỗ nào thuyền đi không thông
thì hãy đào đất thành kênh, dùng hạt cải bỏ xuống cho trơn để kéo qua.
Thế
rồi, quân lính kéo thuyền đến sơn khẩu rồi rời thuyền lên bờ. Ðồng tử vì quá
mềm yếu phải dùng vải nệm trải trên đất để đi lên trên. Từ xa trông thấy Thế
Tôn đang ngồi trên đất, đồng tử dỡ bỏ vải nệm, dẫm trên đất mà đi tới. Thế Tôn
thấy vậy mỉm cười. Các Tỉ-kheo liền bạch với Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Vì cớ gì mà Thế Tôn mỉm cười?
- Các
ông có thấy đồng tử này không?
- Dạ
thấy, bạch Thế Tôn!
-
Ðồng tử này từ 91 kiếp trở lại đây, chân chưa từng dẫm lên đất, nay vì thấy Như
Lai, sinh tâm cung kính (nên mới đi trên đất), chứ chẳng phải do hết phước đức.
Ðồng
tử đi đến trước Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi sang một bên. Phật
liền tùy thuận thuyết pháp dạy bảo, khiến ông được lợi ích hoan hỷ, đắc pháp
nhãn thanh tịnh. Rồi Phật bảo đồng tử:
- Nếu
nhà vua đến đây thì ông hãy xuống đất ngồi xếp bằng dơ hai bàn chân ra.
Khi
vua tiến vào, đồng tử liền xuống đất ngồi xếp bằng dơ hai bàn chân ra. Lúc ấy,
quân hầu của vua rút gươm ra định bước tới, vua bèn khiển trách y. Ðồng tử thấy
vậy lòng sinh hoảng sợ, liền tâu với vua:
- Xin
đại vương cho phép tôi xuất gia!
-
Ngươi muốn xuất gia theo đạo nào?
-
Muốn xuất gia theo đạo Phật.
Vua
liền sai sứ đến nói với cha mẹ cho đồng tử xuất gia. Sau khi được cha mẹ cho
phép, (481c) đồng tử liền xin Phật xuất gia thọ Cụ túc. Các Tỉ-kheo bèn hỏi
Phật rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Ðồng tử này có nhân duyên gì mà 91 kiếp chân không dính đất?
- Trong
thời quá khứ cách nay 91 kiếp có đức Phật tên Tì Bát Thi Như Lai Ứng Cúng Chánh
Biến Tri ra đời. Lúc ấy có 90 người con trưởng giả mời Phật và 80.000 Tỉ-kheo
Tăng an cư trong ba tháng, mỗi người cúng dường mỗi ngày. Vị này là người cúng
dường sau cùng. Ông dùng lụa trắng trải trên đất cúng dường cho chúng Tăng, vì
vậy mà hưởng được phước báo sinh trong cõi trời người trải qua 91 kiếp chân
chưa từng dẫm trên đất. Con ông trưởng giả khi ấy, bây giờ chính là đồng tử Nhị
Thập Ức Thứ Nô vậy.
Ðồng
tử sau khi xuất gia, đi kinh hành trong rừng Thi Ðà không biết mỏi mệt, bàn
chân bị thương tích, máu chảy xuống đất. Phật thấy thế, tuy biết mà vẫn hỏi các
Tỉ-kheo:
- Ai
đi kinh hành chỗ này mà máu chảy ra như vậy?
-
Bạch Thế Tôn! Ðó là chỗ đi kinh hành của đồng tử Nhị Thập Ức Thứ Nô.
- Này
các Tỉ-kheo! Giả sử đồng tử Nhị Thập Ức Thứ Nô này đi kinh hành khiến cho núi
Tu di nát vụn như bụi bặm cũng không thể đắc đạo, huống gì bị thương tổn lớp
da.
Khi
đồng tử Nhị Thập Ức Thứ Nô nghe Phật nói như vậy, thầy liền đi đến một nơi
thanh vắng, ngồi kiết già, suy nghĩ: "Người tinh tấn không lười biếng
trong hàng Thanh Văn đệ tử Phật không ai hơn ta, vậy mà Thế Tôn nói là không
thể đắc đạo, chi bằng ta xả giới trở về nhà làm các công đức cúng dường Phật và
Tỉ-kheo Tăng". Phật biết được tâm niệm của thầy liền dùng thần túc đi trên
hư không đến ngồi trước mặt thầy, nói:
- Này
Tỉ-kheo! Nay ta hỏi ông, tùy ý mà đáp: Trước đây ông có biết đánh đàn không?
-
Biết đánh, bạch Thế Tôn!
- Khi
dây đàn thẳng quá thì âm thanh có trong trẻo không?
-
Không trong trẻo, bạch Thế Tôn!
- Khi
dây đàn chùn quá thì âm thanh có réo rắt không?
-
Thưa không, bạch Thế Tôn!
- Này
Tỉ-kheo! Khi dây đàn không thẳng quá, không chùn quá thì âm thanh có du dương
không?
- Rất
du dương, bạch Thế Tôn!
- Này
Tỉ-kheo! Tinh tấn thái quá thì tâm sinh căng thẳng, còn sống lè phè thì tâm
sinh dã dượi, không gấp gáp, không lè phè, tâm chuyên chú một chỗ sẽ soi tỏ mọi
thứ, như trong Kinh Tăng Nhất đã nói rõ. Này Tỉ-kheo! Ông đã có niềm tin, bỏ
hai mươi ức của cải mà xuất gia, vì sao sống trong chánh pháp còn khởi tâm tăng
thượng mạn để tự chuốc khổ não? Này Tỉ-kheo! Nhân vì ông, Ta cho phép các
Tỉ-kheo được mang giày da.
-
Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã cho phép các Tỉ-kheo mang giày da, nay con dần dần tập
đi rồi sẽ mang giày da.
- Từ
nay về sau, Ta cho phép (482a) Tỉ-kheo được mang giày da một lớp.
Khi
ấy, A-nan Bân Ðể Tỉ nghe Thế Tôn cho phép các Tỉ-kheo mang giày da một lớp liền
đem 500 đôi giày da đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi đứng sang
một bên, bạch với Phật:
-
Kính xin Thế Tôn nhận những đôi giày da này.
Phật
liền đọc kệ chú nguyện cho ông:
Ai bố
thí giày da
Cho phạm hạnh thanh tịnh,
Thân, khẩu, ý, ly ác
Ðược hưởng lạc nhân thiên.
Với phước báo đất vàng,
Trang hoàng các cung điện.
Ðược như ý thần túc,
Thanh tịnh không chướng ngại.
Thí ít được lợi nhiều,
Vì đó là phước điền.
Bậc trí nguyện trong sạch,
Sẽ được quả phúc tốt.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy, đức Thế Tôn cứ 5 hôm đi thị sát
phòng các Tỉ-kheo một lần. Ngài thấy các đôi giày da bỏ ngổn ngang trên đất,
tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi các Tỉ-kheo:
- Này
các Tỉ-kheo! Ðây là những giày dép gì mà bỏ ngổn ngang như vậy?
-
Bạch Thế Tôn! Ðó là những giày dép bị rách, nhưng vì sợ may chồng hai lớp nên
không dám vá lại.
- Ta
cho phép được vá lại.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy, có Tỉ-kheo ở phương Nam, đến lễ
bái Thế Tôn, trên đường đi giày bị hỏng khiến chân thầy bị chợt da, phải lê gót
mà đi, đến đảnh lễ Phật. Tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi:
- Tại
sao ông phải lê gót mà đi?
-
Bạch Thế Tôn! Con mang giày da một lớp đến giữa đường giày bị hỏng mà không dám
mang giày hai lớp nên chân bị lở.
- Từ
nay, Ta cho phép làm giày da Ni-mục-ha, khi mang Phước-la không được bọc phía
trước mà nên bọc phía sau. Phép làm giày da không được dùng sừng dê đen, sừng
dê trắng, thếp vàng, nạm châu ngọc lưu ly, thủy tinh, mã não và các loại giày
có màu sắc rực rỡ Ta không cho phép mang. Nếu được đôi giày da hai lớp còn mới
thì không được phép mang, nên bảo tịnh nhân mang đi ít nhất 5, 6 bước rồi mới mang.
Nếu được mà mang liền thì phạm tội Việt tỳ ni.
Ðó
gọi là phép dùng giày da.
Khi
Phật an trú trong vườn Am Bạt La của đồng tử Kỳ Cựu nơi thành Vương Xá, Ngài
giảng Kinh Sa-môn quả cho vua A Xà Thế nghe suốt đêm. Khi ấy, Ưu-ba-nan-đà ngồi
nghe lâu mệt mỏi bèn trở về phòng nghỉ, đến cuối đêm thức dậy, mang guốc mà đi,
vì tiếng guốc kêu lốc cốc khiến voi ngựa nghe được kinh hoảng kêu lên. Vua A Xà
Thế nghe vậy hoảng sợ liền trở về thành. Các Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch
lên Thế Tôn. (482b) Phật liền bảo gọi Ưu-ba-nan-đà đến. Khi thầy đến rồi, Phật
liền hỏi:
- Ông
có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn!
- Từ
nay về sau, Ta không cho phép mang guốc.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Vương Xá, lúc ấy, có một Tỉ-kheo đang ngồi thiền
trong hang đá Thiên Ðế Thích, rồi một Tỉ-kheo khác mang guốc đi kinh hành ở
trước hang, khiến cho Tỉ-kheo ngồi thiền nghe tiếng guốc tâm không định được.
Các Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Thế rồi, Phật dạy:
- Từ
nay về sau, Ta không cho phép mang các loại guốc như: guốc vàng, guốc bạc, guốc
ngọc, guốc răng, guốc gỗ, guốc da guốc đuôi ngựa, guốc gai, guốc khâm bà la,
guốc có gù, guốc cỏ cứng, guốc vỏ cây; tất cả các loại guốc tương tự như thế
đều không cho phép dùng. Nếu ai xỏ chân vào guốc thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu
muốn rửa chân nên sắp ngang guốc ra rồi dẫm lên trên thì không phạm tội. Khi
Tỉ-kheo mang guốc da thì phải lót ở dưới một lớp đế. Nếu ai không lót ở dưới
một lớp đế thì phạm tội Tì ni tâm hối. Nếu ai mang guốc mà không có đế thì phạm
tội Việt tỳ ni.
Ðó
gọi là phép dùng guốc.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nhóm sáu Tỉ-kheo đi đến sông A Chi La để tắm, họ
dùng đá cọ để kỳ lưng, bị người đời chê trách rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử dùng đá cọ kỳ lưng giống như vương gia, bọn lực sĩ thi đấu?
Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Rồi Thế Tôn dạy:
- Từ
nay về sau, Ta không cho phép dùng đá cọ để kỳ lưng. Loại đá cọ này hoặc dùng
đá, dùng gạch, dùng gỗ để làm; các loại tương tự như thế đều không được dùng để
kỳ lưng. Nếu trong nước có cây trụ cũng không được đến cà lưng. Lúc tắm nên nhờ
một người khác kỳ cọ. Khi kỳ không được dơ cả hai tay lên một lúc, mà nên dùng
một tay che, rồi tuần tự kỳ cọ. Không được đứng tắm như người thế tục mà nên
ngồi tắm, đồng thời theo thứ lớp rửa bàn tay đến cánh tay. Nếu thân thể có cáu
bẩn, không được cầm cú để kỳ mà nên mở bàn tay ra kỳ. Nếu ai dùng đá cọ để kỳ
cọ tắm thì phạm tội Việt tỳ ni.
Ðó
gọi là phép tắm rửa.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đem theo các loại mạt hương
đến đầu sông A chi la để tắm. Lúc ấy, có đệ tử của ngoại đạo thấy thế, suy nghĩ:
"Bọn chúng ta hãy cùng nhau đến quấy nhiễu Ưu bà tắc đệ tử của Sa
môn". Nghĩ thế rồi liền đi tới đó, hỏi như sau:
-
Thầy của ai ít muốn, biết đủ?
Ưu bà
tắc nói:
-
Thầy của tôi ít muốn, biết đủ.
-
Thầy của tôi ít muốn, biết đủ.
-
(482c) Thầy của ngươi không tàm, không quí, uống rượu như lừa. Thầy của tôi mới
là ít muốn, biết đủ, có tàm quí.
- Tôi
muốn đánh cá với ông 500 đồng tiền cũ đấy.
-
Ðược thôi.
Thế
rồi, họ cùng nhau bàn bạc nên dùng thứ gì để thí nghiệm, và đã nhất trí dùng
mạt hương để thí nghiệm, nhưng nên đến thầy của ai trước thì đệ tử ngoại đạo
nói:
- Hãy
đến chỗ thầy tôi trước!
Ðoạn,
ông sai người đến dặn trước thầy mình:
- Khi
con đem mạt hương đến, thầy hãy hiện tướng ít muốn, biết đủ, cẩn thận đừng
nhận.
Thế
rồi, trong chốc lát họ bèn mang mạt hương đến thưa:
-
Mong các thầy thương xót nhận lấy mạt hương này!
- Tôi
là người xuất gia chẳng phải vương giả, đại thần, dùng loại mạt hương này để
làm gì?
Vì vị
ấy không nhận, họ bèn mang đến tinh xá Kỳ hoàn, thưa như sau:
- Xin
các thầy thương xót chúng tôi nhận lấy mạt hương này!
Do Ưu
bà tắc chất phác không nói trước nên các Tỉ-kheo bèn đánh kiền chùy, tập hợp
Tăng định chia mạt hương. Những người không đến thì có đệ tử nhận phần thế,
nói:
- Ðưa
phần Hòa Thượng, A xà lê tôi cho tôi.
Họ
lớn tiếng tranh nhau đòi như vậy om sòm. Ðệ tử của ngoại đạo thấy thế vỗ tay
cười lớn:
- Tôi
hơn ông rồi! Hôm nay tôi đã thắng cuộc.
Khi
ấy, Ưu bà tắc xấu hổ không nói nên lời, liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ
dưới chân, rồi đứng hầu một bên, trình bày lại đầy đủ sự việc trên với Phật.
-
Bạch Thế Tôn! Con không tiếc tiền, nhưng ngoại đạo thắng cuộc, nên con hổ thẹn.
Phật
liền thuyết pháp dạy bảo điều lợi ích khiến tâm ông hoan hỷ, cúi đầu đảnh lễ
chân Phật rồi từ giã. Bấy giờ, Thế Tôn liền đi đến chỗ có đông Tỉ-kheo, trải
tọa cụ ngồi, thuật lại đầy đủ sự việc trên cho các Tỉ-kheo. Ðoạn, Phật dạy:
- Này
các Tỉ-kheo! Từ nay Ta không cho phép dùng mạt hương.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Vương Xá, vì 5 việc lợi ích nên đức Như Lai cứ 5
hôm đi tuần hành qua phòng các Tỉ-kheo một lần, thấy Tỉ-kheo bị bệnh ghẻ nhọt,
tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi:
- Này
Tỉ-kheo! Thân thể ông có điều hòa, an lạc không?
-
Bạch Thế Tôn! Con bị bệnh ghẻ nhọt, nếu có mạt hương dùng tắm rửa thì sẽ lành
bệnh, nhưng Thế Tôn chế giới không cho dùng mạt hương, nên con phải chịu khổ
sở.
- Từ
nay Ta cho phép Tỉ-kheo bị bệnh được dùng mạt hương. Mạt hương gồm các loại:
mạt thi, mạt mã nhĩ, mạt bảy màu, mạt chiên đàn, mạt câu đa, mạt Am Bạt La, mạt
diêm phù thi lợi, mạt a thuần, mạt già tỉ la, đại loại các thứ như thế đều
không được dùng. Nhưng nếu Tỉ-kheo bị bệnh ghẻ nhọt, cần mạt hương thoa, rửa
cho lành bệnh thì được dùng không có tội. Ðồng thời cho phép dùng mạt hương ca
la (483a) mạt ma sa, mạt ma sấu la, mạt sa để, bùn đất. Ðó gọi là phép dùng mạt
hương.
PHÉP DÙNG GẬY VÀ TÚI BẰNG DÂY.
Khi
Phật an trú tại thành Vương Xá, lúc ấy, nhóm sáu Tỉ-kheo là Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà dùng cái túi bằng dây châu báu để đựng bát, rồi lấy dây đen buộc
túi vào gậy, quảy trên vai mà đi, bị người đời chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như vua, đại thần dùng cái túi bằng dây báu đựng
bát rồi quảy trên vai mà đi?
Có kẻ
ác ý còn chêm vào:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như bọn hạ tiện bị người ta sai khiến, dùng dây
đen buộc túi đựng bát vào gậy rồi quảy đi? Ðây là hạng người hạ tiện nào có đạo
hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Rồi Phật dạy:
- Từ
nay về sau, Ta không cho phép dùng gậy và túi bằng dây.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, Ðức Như Lai cứ 5 hôm đi tuần tra phòng
các Tỉ-kheo một lần. Ngài thấy Tỉ-kheo bị mụt nhọt ở tay, tuy biết mà vẫn hỏi:
- Này
Tỉ-kheo! Thân thể ông có điều hòa an lạc không?
-
Bạch Thế Tôn! Tay con mọc mụt nhọt cho nên bát bị vỡ mà Thế Tôn lại chế giới
không cho dùng gậy và túi bằng dây, vì thế mà không vui.
- Từ
nay về sau, Ta cho phép Tỉ-kheo bị bệnh được theo Tăng xin chứa gậy và túi bằng
dây, Tăng nên làm Yết-ma cho phép. Người xin nên trật vai áo bên phải, quì gối,
chắp tay nói như sau:
- Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Tôi là mỗ giáp vì tay bị mụt nhọt nên bát bị vỡ. Nay
theo Tăng xin pháp Yết-ma được chứa gậy và túi dây. Nguyện xin Tăng cho tôi
pháp Yết-ma. (lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế)
Thế
rồi, người làm Yết-ma nên nói:
- Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp vì tay có mụt nhọt nên bát bị vỡ, đã
theo Tăng xin pháp Yết-ma được chứa gậy và túi bằng dây. Nếu thời gian của Tăng
đã đến, Tăng cho Tỉ-kheo mỗ giáp pháp Yết-ma được chứa gậy và túi bằng dây. Ðây
là lời tác bạch. (Thế rồi bạch nhất Yết-ma cho đến) Tăng đã cho Tỉ-kheo mỗ giáp
pháp Yết-ma được chứa gậy và túi dây xong, vì Tăng im lặng. Tôi ghi nhận việc
này như vậy.
Khi
làm Yết-ma xong, muốn đi đâu thì tay cầm gậy và túi dây, chứ không được đặt
trên vai mà vác đi. Nếu cầm gậy thì phạm tội Việt tỳ ni tâm hối, cầm túi dây
cũng phạm tội Việt tỳ ni tâm hối. Nếu cầm gậy, túi dây và bát thì phạm tội Việt
tỳ ni. Nếu đi đường thì được cột đãy lọc nước vào đầu gậy rồi cầm trên tay mà
đi, nhưng không được đặt trên vai. Nếu không làm Yết-ma mà cầm gậy thì phạm tội
Việt tỳ ni; và cầm túi da cũng phạm tội Việt tỳ ni. Nếu cầm gậy và túi da thì
phạm hai tội Việt tỳ ni.
Ðó
gọi là phép cầm gậy và túi da.
(483b)
Kệ tóm tắt:
Vật
nặng, y người chết,
Cuồng si, không đồng tình.
Phá tín thí, giày da,
Guốc gỗ, kỳ cọ thân.
Mạt hương, gậy túi da,
Kết thúc phần thứ bảy.
PHÉP DÙNG TỎI.
Khi
Phật an trú tại thành Vương Xá, lúc ấy, cư sĩ Di Kỳ mời Tăng ăn tỏi. Nhóm sáu
Tỉ-kheo liền đi đến vườn, ăn tỏi, rồi bỏ lổn ngổn trên đất, lại còn mang về
tinh xá. Lúc ấy, cư sĩ đi tuần tra vườn tỏi, thấy thế liền hỏi người giữ vườn:
- Vì
sao như vậy?
Người
giữ vườn bèn thuật lại đầy đủ sự việc trên. Cư sĩ nói:
-
Tỉ-kheo chỉ nên ăn thôi, vì sao lại vứt bỏ đầy đất thế này? Lại còn mang đi cho
ai vậy?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Ðoạn, Phật nói với các
Tỉ-kheo:
- Từ
nay trở đi, Ta không cho phép ăn tỏi.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Vương Xá, lúc ấy, Thế Tôn đang thuyết pháp cho
đại chúng, thì có một Tỉ-kheo ăn tỏi nên ngồi ở cuối gió, vì sợ mùi hôi tỏa đến
các vị phạm hạnh. Phật biết mà vẫn hỏi các Tỉ-kheo:
- Ðó
là Tỉ-kheo nào mà ngồi riêng một chỗ như kẻ gây gỗ vậy?
-
Bạch Thế Tôn! Vị Tỉ-kheo này ăn tỏi, sợ mùi hôi xông đến các vị phạm hạnh nên
phải ngồi ở chỗ cuối gió.
- Này
các Tỉ-kheo! Nếu Tỉ-kheo này không ăn tỏi thì có bị mất lợi ích của pháp vị cam
lồ như vậy không?
-
Thưa không, bạch Thế Tôn!
-
Tỉ-kheo này vì ăn tỏi mà bị mất pháp vị bất tử như vậy đó. Từ nay về sau, Ta
không cho phép ăn tỏi.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại tinh xá Ni Câu Luật của dòng họ Thích, nơi thành Ca
Duy La Vệ, cứ 5 hôm đức Như Lai đi thị sát phòng các Tỉ-kheo một lần. Ngài thấy
một Tỉ-kheo bị bệnh hoàng đãng gầy ốm, tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi:
- Này
Tỉ-kheo! Thân thể ông có điều hòa, sống an ổn không?
-
Bạch Thế Tôn! Con bị bệnh không được điều hòa, lúc còn ở đời con ăn tỏi thì
khỏi bệnh, nhưng nay Thế Tôn chế định không được ăn tỏi, do đó con không được
an lạc.
- Từ
nay Ta cho phép Tỉ-kheo bệnh được ăn tỏi, nên tùy thuận thi hành. Tỏi gồm có
loại người ta trồng, có loại mọc trên núi, đại loại các thứ như thế và tất cả
những thứ khác, hoặc sống, hoặc chín, hoặc lá, hoặc vỏ đều không được ăn. Nếu
bị ung thư hay mụt nhọt thì được dùng tỏi để đắp. Khi đắp tỏi thì không được ở
giữa chúng mà nên ở chỗ vắng vẻ. Khi đã khỏi bệnh thì phải tắm rửa sạch sẽ rồi
mới vào trong chúng Tăng. Nếu khi có bệnh mà thầy thuốc bảo: "Thưa trưởng
lão! Bệnh này phải uống tỏi mới bớt, nếu không uống thì không bớt", mà
không còn phương pháp nào khác để chữa trị, thì Ta cho phép uống. Khi uống tỏi
(483c) phải thi hành 7 ngày pháp tùy thuận như sau: Ở trong một căn phòng nhỏ;
Không được nằm trên giường nệm của chúng Tăng; Không được đi đại tiểu tiện nơi
phòng vệ sinh của Tăng; Không được rửa chân ở chỗ Tăng rửa chân; Không được vào
nhà sưởi, giảng đường và nhà ăn; Không được đi dự hội theo thứ tự do Tăng sai;
Không được đi vào chỗ Tăng đang ăn và phòng thiền; Không được vào trong chỗ
Tăng đang thuyết pháp, Bố tát; chỗ nào Tỉ-kheo đang hội hợp thì nhất thiết
không được đến; không nên nhiễu tháp, nếu tháp ở chỗ trống trải thì được lễ bái
từ xa ở dưới gió. Sau 7 ngày hành pháp tùy thuận, đến ngày thứ 8 phải tắm rửa,
giặt y phục, xông hương, rồi mới được vào trong Tăng. Nếu Tỉ-kheo không bệnh mà
ăn tỏi hay có bệnh mà ăn tỏi nhưng không hành pháp tùy thuận thì cả hai đều
phạm tội Việt tỳ ni.
Ðó
gọi là phép dùng tỏi.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, Ưu bà tắc Pháp Dự ở trong thành này thường mời
Tăng theo thứ lớp thọ trai. Khi Tỉ-kheo tới nhà, ông cật vấn nghĩa lý, ai giải
thích được thì ông rất hoan hỷ, tự tay dọn các thức ăn. Ai không đáp được thì
ông hủy nhục, sai nô tì dọn thức ăn thô sơ. Vì thế theo thứ lớp đến phiên Thượng Tọa đi thì không đi, liền bảo:
"Mời tiếp những người dưới", cho đến những người trẻ tuổi cũng đều
không muốn đi. Do vậy mà lời qua tiếng lại om sòm. Phật biết mà vẫn hỏi các
Tỉ-kheo:
- Vì
sao mà có lời qua tiếng lại om sòm như vậy?
-
Bạch Thế Tôn! Ưu bà tắc Pháp Dự thường mời chư Tăng thọ trai theo thứ lớp. Thế
rồi, người phải đi thì không đi, vì vậy mà có lời qua tiếng lại om sòm.
- Này
các Tỉ-kheo! Ưu bà tắc Pháp Dự khinh mạn các Tỉ-kheo, Tăng nên làm Yết-ma phú
bát (tẩy chay). Nếu Ưu bà tắc có 8 việc sau đây, thì Tăng nên làm Yết-ma phú
bát, đó là:
1-
Phỉ báng Tỉ-kheo ngay trước mặt.
2- Khiển trách Tỉ-kheo ngay trước mặt, nói như sau: "Ông là kẻ ác
hạnh".
3- Nổi giận mắng chửi Tỉ-kheo ngay trước mặt.
4- Cắt đứt lợi dưỡng của Tỉ-kheo.
5- Không thích làm việc chung với Tỉ-kheo.
6- Chửi Phật
7- Chửi Pháp
8 - Chửi Tăng.
Ðó
gọi là 8 việc Tăng nên làm Yết-ma phú bát. Người làm Yết-ma nên nói như sau:
- Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Ưu Bà tắc Pháp Dự này khinh mạn các Tỉ-kheo. Nếu thời
gian của Tăng đã đến, Tăng cho Ưu Bà tắc Pháp Dự - khinh mạn các Tỉ-kheo - pháp
Yết-ma phú bát. Ðây là lời tác bạch.
(Thế
rồi bạch tam Yết-ma cho đến)
Tăng
đã cho Ưu Bà tắc Pháp Dự - khinh mạn các Tỉ-kheo - pháp Yết-ma phú bát xong, vì
im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy.
Ðoạn,
nói về Ưu Bà tắc Pháp Dự, vốn thường cúng dường trai phạn cho chư Tăng rồi mới
ăn. Nhưng hôm ấy, đợi Tỉ-kheo đã quá giờ mà không thấy đến, ông liền đi đến chỗ
Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên, rồi bạch với Phật:
-
(484a) Bạch Thế Tôn! Vì cớ gì mà các Tỉ-kheo không đến thọ trai?
- Vì
ông khinh mạn các Tỉ-kheo, muốn cho ông được lợi ích, Tăng đã làm Yết-ma phú
bát đối với ông.
Khi
ấy, có một vị La Hán đang ở cách Phật không xa. Phật liền bảo Ưu Bà tắc:
- Ông
hãy đến hỏi vị Tỉ-kheo kia như sau: "Thế nào là muối? Muối có mấy thứ.
Ông
liền đi đến, chào:
-
Kính chào thầy!
Tỉ-kheo
đáp:
-
Lành thay cư sĩ.
Thế
rồi ông hỏi:
-
Thưa tôn giả! Thế nào gọi là muối? Muối có mấy loại?
- Tôi
đã biết ông là Ưu Bà tắc Pháp Dự, vốn khinh mạn các Tỉ-kheo, nên Tăng đã cho
ông pháp Yết-ma phú bát, chưa đủ rồi sao? Tôi đang ở đây an lạc ông lại đến đây
não loạn tôi. Muối chính là muối (còn hỏi gì nữa?
Nghe
Tỉ-kheo trả lời như thế, lòng ông cảm thấy chán nản, liền đi đến chỗ Phật. Phật
biết mà vẫn hỏi:
- Ông
hỏi về nghĩa lý của muối có được toại ý không?
-
Bạch Thế Tôn! Vị Tỉ-kheo ấy ít biết, chưa từng theo thầy để học, con hỏi muối
thì đáp là muối.
Lúc
ấy, cách Phật không xa, có một Tỉ-kheo pháp sư tên Phất Hi Lô, Phật liền bảo
Pháp Dự:
- Ông
hãy đến hỏi vị Tỉ-kheo kia về nghĩa của muối xem sao!
Thế
là ông đến đó, chào:
-
Kính chào thầy!
-
Lành thay đàn việt đến đây.
Ðoạn,
thầy mời ông ngồi. Tuy chưa hỏi nghĩa nhưng nghe thầy mời ngồi, ông đã thấy rất
hoan hỷ, liền đến ghế ngồi, rồi hỏi:
-
Thưa tôn giả! Muối có ý nghĩ gì?
- Ðó
là câu hỏi rất hay. Nay tôi sẽ giải thích về ý nghĩa của muối cho ông rõ. Muối
có hai phương diện: Vị và Tánh. Vị tức là như nước biển cùng một vị mặn. Tánh
thì gồm có: muối đen, muối đỏ, muối tân đầu, muối vị bạt già, muối tì lãm, muối
ca già, muối tư đa, muối tỉ ca. Nói tóm lược thì có hai loại, hoặc sống, hoặc được
nấu chín; đó gọi là muối.
Nghe
xong, lòng vui mừng khấp khởi, liền đi đến chỗ Phật cúi đầu đảnh lễ dưới chân,
rồi đứng qua một bên, bạch với Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Vị Tỉ-kheo ấy giải thích rất thấu đáo, phân biệt rành mạch, nói
nghĩa lý của muối rộng hẹp, ngược xuôi đều thông thạo.
- Ðó
là kẻ phàm phu, chưa hưởng được pháp vị trong giáo pháp của Ta; còn vị Tỉ-kheo
trước là A la hán, nhưng vì ông kiêu mạn nên không biết được chân ngụy, sẽ mãi
mãi làm những việc vô ích.
Pháp
Dự nghe Phật nói như thế tâm sinh hoảng sợ, cúi đầu đảnh lễ dưới chân rồi bạch
Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Nay con xin sám hối, kính mong Thế Tôn bảo các Tỉ-kheo từ nay về
sau, trở lại nhận sự cúng dường của con như trước.
- Ông
hãy trở về nhà tắm rửa, mặc y phục mới, rồi cùng với quyến thuộc đi đến giữa
chúng Tăng xin Tăng xả pháp Yết-ma phú bát, Tăng sẽ xả cho ông.
Vâng
lời Phật dạy, Pháp Dự trở về nhà tắm rửa, mặc y phục mới, rồi đi đến giữa Tăng
quì gối, chắp tay, nói như sau:
- Xin
đại đức Tăng (484b) ghi nhớ cho! Con là Ưu bà tắc Pháp Dự, khinh mạn Tỉ-kheo
Tăng; vì muốn cho con được lợi ích, Tăng đã làm pháp Yết-ma phú bát. Nay con đã
thấy lỗi, tùy thuận chấp hành, tâm đã nhu nhuyến. Kính mong Tăng thương xót xả
pháp Yết-ma phú bát cho con. (xin như vậy ba lần).
Thế
rồi, Tăng nên đem Pháp Dự đến đứng ở chỗ mắt thấy mà tai không nghe trong phạm
vi cương giới, rồi Tăng hiện tiền làm Yết-ma đối với vị đồ chúng không hiện
tiền. Người làm Yết-ma nên nói như sau:
- Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Ưu bà tắc Pháp Dự này khinh mạn Tỉ-kheo Tăng, vì muốn
cho ông ta được lợi ích, trước đây Tăng đã làm Yết-ma phú bát. Ngày nay ông đã
thấy lỗi, tùy thuận chấp hành, tâm đã nhu nhuyến, theo Tăng xin xả pháp Yết-ma
phú bát. Nếu thời gian của Tăng đã đến, Tăng xả pháp Yết-ma phú bát cho Ưu bà
tắc Pháp Dự. Ðây là lời tác bạch.
Thế
rồi bạch tam Yết-ma cho đến:
Tăng
đã xả pháp Yết-ma phú bát cho Ưu bà tắc Pháp Dự xong, vì Tăng đã bằng lòng nên
im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy.
Nếu
Tăng đã làm Yết-ma phú bát rồi thì Tỉ-kheo, Tỉ-kheo ni, Thức xoa ma ni, Sa di, Sa
di ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đều không được phép đến đó. Ðồng thời phải đem áo ca
sa máng trên cửa họ, rồi tuyên bố trong xóm rằng:
- Nhà
mỗ giáp này đã làm Yết-ma phú bát.
Nếu
có Tỉ-kheo khách đến thì nên nói:
- Gia
đình mỗ kia đã được làm Yết-ma phú bát, không nên đến đó.
Khi
làm Yết-ma phú bát không nên làm hấp tấp. Nếu họ nói: "Sa-môn không đến
nhà ta thì càng tốt", thì đối với hạng người ấy không nên làm. Nếu họ biết
hổ thẹn thì nên làm. Sau đó, nếu họ tự thấy lỗi tỏ ra tùy thuận, tâm nhu nhuyến
thì nên xả pháp Yết-ma.
Ðó
gọi là cách thức phú bát.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy, có Tỉ-kheo khất thực, một tay cầm bát, một
tay cầm túi đựng bát, bỗng có cơn gió lốc thổi đến khiến y thầy bị bay đi; rồi
thầy mặc nội y vào tinh xá Kỳ hoàn. Phật biết mà vẫn hỏi:
- Này
Tỉ-kheo! Y ông đâu rồi?
-
Bạch Thế Tôn! Bị gió lốc thổi bay mất rồi.
- Từ
nay về sau phải kết khuy để buộc y.
Thế
rồi, các Tỉ-kheo dùng vàng bạc làm khuy. Phật dạy:
- Tất
cả vàng bạc châu báu đều không được dùng làm khuy, mà nên dùng đồng, sắt, thiếc
hoặc gỗ, tre, rồi dùng chỉ kết khuy vào để buộc. Ta không cho phép Tỉ-kheo
không mặc y có khuy mà vào thôn xóm. Nếu không có vật gì để làm, thì nên dùng
kim khâu lại. Nếu cũng không có kim thì ít nhất dùng tay để nắm. Nếu y không có
khuy mà mặc vào thôn xóm thì phạm tội Việt tỳ ni tâm hối. Cũng vậy, nếu mặc đi
vào các nhà thì vào mỗi nhà phạm mỗi tội Việt tỳ ni tâm hối. Nếu có mà không
buộc (484c) thì phạm tội Việt tỳ ni tâm hối. Trường hợp không phạm: nếu đi vào
tinh xá của Tỉ-kheo ni, tinh xá của ngoại đạo, hoặc đàn việt tuyên bố:
"Tùy nghi sao cho tốt thì thôi", thì không có tội.
Ðó
gọi là phép kết khuy vào y.
PHÉP DÙNG ÐAI LƯNG.
Khi
Phật an trú tại thành Vương Xá, lúc ấy, có một Tỉ-kheo khất thực, một tay cầm
bát, một tay cầm túi đựng bát, bỗng một cơn gió thổi làm rơi y nội, thế là thầy
mặc thượng y đi vào tinh xá Kỳ hoàn. Phật biết mà vẫn hỏi:
- Này
Tỉ-kheo! Y an đà hội của ông đâu rồi?
-
Bạch Thế Tôn! Bị gió lốc thổi bay mất rồi.
- Từ
nay về sau nên buộc đai lưng.
Thế
rồi, các Tỉ-kheo làm đai lưng bằng những sợi vải rời, hoặc kết khuy, hoặc làm
đai rỗng bên trong. Phật dạy:
- Làm
đai bằng những sợi vải rời, hoặc kết khuy đều không được phép dùng. Còn đai
lưng rỗng bên trong thì nên khâu ở giữa, hoặc ken chặc, hoặc làm tròn đều được
buộc. Khi buộc, không được buộc bốn vòng hay một vòng mà nên buộc hai vòng cho
đến ba vòng. Nếu thân thể Tỉ-kheo mềm yếu, buộc không chịu nổi thì nên cầm đi,
khi đến đầu thôn nên lấy ra buộc để đi vào thôn, và lúc trở ra thì lại tháo ra.
Nếu không buộc đai lưng mà đi vào thôn xóm thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu có mà
không buộc thì phạm tội Việt tỳ ni tâm hối. Nếu buộc một vòng thì phạm tội Việt
tỳ ni. Nếu buộc hai vòng, ba vòng thì không có tội.
Ðó
gọi là phép dùng đai lưng.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, có Tỉ-kheo cầm cái đai không buộc chặt ở đầu, đi
vào giữa phố thị, cái đai xổ ra thầy bèn kéo lê trên đất mà đi, bị người đời
mỉa mai rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử lại kéo lê khúc ruột mà đi.
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- Từ
nay về sau ở đầu cái đai nên làm dây cột.
Thế
rồi, có Tỉ-kheo dùng vàng bạc làm dây buộc đai. Phật dạy:
- Tất
cả bảo vật không nên dùng làm dây buộc đai. Ở đầu đai nên cột hai hay ba lần,
không được cột một hay bốn lần. Nếu tất cả đai không làm dây cột thì phạm tội
Việt tỳ ni.
Ðó
gọi là phép dùng đai có dây cột.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy nhằm dịp lễ hội, nhân dân đổ ra đi xem;
nhóm sáu Tỉ-kheo hoặc cưỡi voi, cưỡi ngựa, có người cưỡi lừa đi xem, bị người
đời chê rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như vương gia, đại thần, cưỡi voi, cưỡi ngựa mà
đi?
Có
người thấy họ cưỡi lừa, bèn móc méo:
-
Sa-môn Thích tử này giống như sứ giả của kẻ hạ tiện, cưỡi lừa mà đi.
Các
Tỉ-kheo đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy:
- Từ
nay về sau Ta không cho phép cưỡi lừa, cưỡi ngựa.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại tinh xá trong vườn Am Bà La của đồng tử Kỳ Cựu nơi
thành Vương Xá; vì 5 việc lợi ích nên đức Như Lai cứ 5 hôm đi thị sát phòng các
Tỉ-kheo một lần. Phật thấy một Tỉ-kheo bị bệnh (485a) hoàng đãng, gầy ốm, tuy
biết nhưng Phật vẫn hỏi:
- Này
Tỉ-kheo! Bệnh ông tăng hay giảm, hơi thở có điều hòa không?
-
Bạch Thế Tôn! Con bị bệnh khổ sở, hơi thở không điều hòa.
- Ông
không thể đi đến nhà y sĩ Kỳ Cựu để khám bệnh sao?
- Vì
Thế Tôn chế giới không cho phép ngồi xe, ngựa, mà bệnh của con đau đớn nên
không thể đi bộ.
- Từ
nay về sau, Ta cho phép Tỉ-kheo bệnh được ngồi xe, ngựa. Ðược cưỡi các loại
như: cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi lừa, cưỡi lạc đà, cưỡi trâu, ngồi thuyền, ngồi
xe, ngồi kiệu. Tất cả các loại như thế nếu không có bệnh thì không được ngồi,
còn có bệnh thì được ngồi. Nhưng không cho phép cưỡi súc vật cái, mà nên cưỡi
súc vật đực. Nếu bệnh nặng không phân biệt được, thì cưỡi không có tội. Nếu có
nhân duyên đi xuôi ngược dòng nước hay đi ngang qua sông, nên suy nghĩ:
"Ta có duyên sự cần thiết", thì lúc ấy được cưỡi đi qua sông. Nếu
Tỉ-kheo không có bệnh mà ngồi xe, cưỡi ngựa thì phạm tội Việt tỳ ni.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy, nhóm sáu Tỉ-kheo cứ hai người, ba người
nằm chung một giường khiến giường nệm bị hư hỏng, bỏ lăn lóc dưới đất. Vì 5
việc lợi ích nên đức Như Lai cứ 5 hôm đi thị sát phòng của các Tỉ-kheo một lần,
thấy giường bị hư bỏ trên đất, tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi:
- Này
Tỉ-kheo! Giường hư này của ai mà bỏ ngổn ngang trên đất vậy?
Các
Tỉ-kheo bèn trình bày đầy đủ lại sự việc kể trên. Phật dạy:
- Từ
nay về sau, Ta không cho phép cùng ngủ chung giường.
Vấn
đề giường nệm như trên đã nói, một người nên nằm ngủ một giường. Nếu giường
ngồi thì hai người được kê ba giường sát nhau mà ngủ, nhưng khi ngay chân ra
không được để đầu gối lòi ra ngoài. Nếu nệm ngang thì cho phép ba người cùng
nằm ngang mà ngủ. Nếu nệm vuông thì hai người được lót ba nệm nằm chung mà ngủ,
nhưng khi duỗi chân ra, đầu gối không lọt ra ngoài. Nếu lót cỏ ở dưới thì mỗi
người được trải ngọa cụ ra để ngồi, nằm không phạm. Nếu trời lạnh thì được trùm
kín ở trên, ở dưới, nhưng không được nằm quá gần nhau mà phải để cách ở giữa
chừng một khuỷu tay, cũng không được nằm duỗi tay ra. Người lớn nhỏ cách nhau
ba tuổi hạ được ngồi cùng giường mà không được nằm ngủ cùng giường. Nếu nằm ngủ
cùng giường thì phạm tội Việt tỳ ni.
Ðó
gọi là phép nằm ngồi cùng giường.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy, nhóm sáu Tỉ-kheo cứ ba người, bốn người
cùng ngồi chung một giường, khiến giường ghế bị gãy nát. Ðức Như Lai vì 5 sự
lợi ích nên cứ 5 hôm đi thị sát phòng các Tỉ-kheo một lần. Thấy giường bị hư
hỏng nằm ngổn ngang trên đất, tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi:
- Này
Tỉ-kheo! Giường bị gãy này của ai mà bỏ ngổn ngang trên đất như vậy?
Các
Tỉ-kheo bèn thuật lại đầy đủ sự việc trên cho Thế Tôn. Phật dạy:
- Từ
nay về sau, Ta không cho phép cùng ngồi chung một giường.
Lại
nữa, khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, lúc ấy Thế Tôn hỏi Ưu-ba-li:
- Các
Tỉ-kheo có tụng Luật hay không?
- Có,
nhưng ít người tụng, bạch Thế Tôn!
-
(485b) Vì sao ít người tụng?
- Vì
Thế Tôn chế giới không cho phép cùng ngồi chung giường, các Tỉ-kheo mỗi người
ngồi một giường, vì thế nên ít người tham dự tụng Luật.
- Từ
nay về sau, Ta cho phép Tỉ-kheo cách nhau ba tuổi hạ được ngồi chung một
giường. Tỉ-kheo không có tuổi hạ được ngồi chung với Tỉ-kheo ba tuổi hạ. Cũng
vậy, cho đến Tỉ-kheo bảy tuổi hạ được ngồi với Tỉ-kheo mười tuổi hạ. Nếu giường
nằm thì được phép ngồi ba người. Nếu giường ngồi thì được phép ngồi hai người.
Nếu giường dài một khuỷu rưỡi tay thì hai người cách nhau ba tuổi hạ được phép
ngồi chung. Nếu cách nhau nhiều hơn thì nên nhường cho Thượng tọa. Nếu giường
nằm dài hơn ba khuỷu tay thì Tỉ-kheo cách nhau bốn tuổi hạ được phép ngồi chung.
Nếu cách nhau nhiều hơn thì không được ngồi chung. Nếu ngày đại hội nhiều người
tụ họp mà giường ghế ít thì được kê sát các giường vào nhau rồi buộc lại. Khi
buộc phải buộc cho chắc, đừng để giường nệm lung lay thì được ngồi chung. Nếu
tấm nệm dài ba khuỷu tay thì Tỉ-kheo cách nhau 4 tuổi hạ được ngồi chung. Nếu
cách xa hơn thì không được ngồi chung. Nếu rải cỏ trên đất rồi cùng ngồi (thì
không cần phân biệt tuổi tác) không có tội.
Ðó
gọi là phép cùng ngồi chung.
LUẬT
MA HA TĂNG KỲ
Hết quyển thứ ba mươi mốt.
-ooOoo-
Đầu trang | 00
| 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 |
20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 |
updated: 16-03-3002