BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Đại Tạng No. 1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La
người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn
Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt Nam, PL 2543 (TL 2000)
Thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri
Quyển thứ hai mươi hai
-ooOoo-
NÓI RÕ PHẦN CÒN
LẠI CỦA PHÁP CHÚNG HỌC.
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ nhóm sáu Tỉ-kheo ngồi
tréo chân trong nhà bạch y, [403b] bị người đời chê cười: "Vì sao Sa-môn
Thích tử mà ngồi tréo chân trong nhà bạch y, giống như vương tử, đại thần? Ðây
là những kẻ bại hoại, chứ nào có đạo hạnh gì!" Các Tỉ-kheo bèn đem việc đó
đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu Tỉ-kheo đến. Khi họ đến, Phật
liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được ngồi tréo chân trong nhà bạch y.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
21.
"Cần phải học: Không được ngồi tréo chân trong nhà (bạch y)".
Tréo
chân: Bắp vế để trên bắp vế, đầu gối đặt trên đầu gối, bắp chân đặt trên ống
chân, gót chân đặt trên mu bàn chân. Không được ngồi tréo chân trong nhà bạch y
mà phải ngồi ngay ngắn hai chân bằng nhau. Khi Thọ trai tại tinh xá hay ở trước
Hòa Thượng, A-xà-lê, Tỉ-kheo trưởng lão không được ngồi tréo chân lên nhau. Nếu
bị bệnh thì được ngồi tréo chân, nhưng khi thấy Thượng Tọa thì phải ngồi lại
đoan chánh. Nếu bàn chân bị dính bùn nên ngồi tréo chân để gạt bùn, thì không
có tội. Nếu buông lung các căn ngồi tréo chân trong nhà bạch y tức là coi
thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế
nên nói: --"Cần phải học: Không được ngồi tréo chân trong nhà bạch
y".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ nhóm sáu Tỉ-kheo ngồi chống
nạnh trong nhà bạch y, bị người đời chê cười: "Vì sao Sa-môn Thích tử mà
ngồi chống nạnh trong nhà bạch y, giống như vương tử, đại thần, lực sĩ? Ðây là những kẻ bại hoại, chứ nào có đạo hạnh gì!".
Các
Tỉ-kheo bèn đem việc đó bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu Tỉ-kheo
đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được ngồi chống nạnh trong nhà bạch y.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
22.
"Cần phải học: Không được ngồi chống nạnh trong nhà bạch y".
Chống
nạnh: Hoặc chống nạnh một tay, hoặc chống nạnh cả hai tay. Không được ngồi
chống nạnh trong nhà bạch y.
Khi
Thọ trai tại tinh xá hay ở trước các Hòa Thượng, A-xà-lê, Tỉ-kheo trưởng lão
không được ngồi chống nạnh. Nếu vì già bệnh hay bị chứng phong thống đau lưng,
thì ngồi chống nạnh không có tội. Nếu bị ung nhọt, ghẻ lở phải dùng thuốc đắp
lên, rồi sợ nhớp y nên ngồi chống nạnh, thì không có tội. Nhưng khi thấy Thượng
Tọa đến thì phải thả tay xuống. Nếu buông lung các căn, ngồi chống nạnh trong
nhà bạch y, tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng
loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Không được ngồi
chống nạnh trong nhà bạch y".
[403c]
Khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, nhóm sáu Tỉ-kheo
ngồi trong nhà bạch y, vừa đung đưa cái chân, vừa múa tay, lại còn ngắt cỏ nữa,
nên bị người đời chê cười: "Vì sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên
múa, ngồi trong nhà bạch y mà tay chân không để yên? Ðấy là những kẻ bại hoại,
chứ nào có đạo hạnh gì!".
Các
Tỉ-kheo bèn đem việc đó bạch lên Thế Tôn. Phật bèn bảo gọi nhóm sáu Tỉ-kheo
đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được múa máy tay chân khi ngồi trong nhà bạch y.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
23.
"Cần phải học: Không được múa máy tay chân khi ngồi trong nhà bạch
y".
Không
được múa máy tay chân khi ngồi trong nhà bạch y: Khi ngồi không được động tay động
chân, múa tay múa chân, hay ngắt cỏ, mà phải ngồi chững chạc đoan nghiêm. Nếu
có ai hỏi thì trước hết phải giữ gìn oai nghi giới luật, tùy thuận mà đáp. Nếu
họ hỏi về bốn ngôi Tháp thì được dùng tay chỉ, nói: "Ðó là chỗ đản sinh,
đó là chỗ Thành đạo, đó là chỗ Chuyển pháp luân, đó là chỗ nhập
Niết-bàn.", thì không có tội. Nếu đàn việt muốn kiến tạo tinh xá cho
Tỉ-kheo, thì Tỉ-kheo nên xem xét địa hình địa thế, chỗ có thể làm, rồi đưa tay
chỉ, nói: "Chỗ này có thể xây tinh xá, chỗ này có thể xây giảng đường, chỗ
kia có thể làm nhà sưởi, chỗ nọ có thể xây tăng phòng", thì không có tội.
Nếu buông lung các căn múa máy tay chân khi ngồi trong nhà bạch y, tức là coi
thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế
nên nói: --"Cần phải học: Không được múa máy tay chân khi ngồi trong
nhà bạch y".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có đàn việt cúng dường
trai phạn cho chúng Tăng tại tinh xá ; khi họ bắt đầu dọn cơm thì nhóm sáu
Tỉ-kheo đòi nước rửa tay, rửa bát. Ðàn việt nghe thế, liền đặt thau cơm nóng
xuống đất, trách:
- Con
bỏ nhà đến chùa thiết trai cúng dường là mong chúng Tăng đồng lòng tịnh tâm để
cầu được phước, mà giờ đây khi mới dọn cơm thì lại đòi hỏi này kia. Người xuất
gia nên chú tâm mà ăn, chứ vì sao trong bữa ăn mà còn đòi hỏi nhiều thứ khác?
Các
Tỉ-kheo bèn đem việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau phải chú tâm nhận đồ ăn.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi [404a]
cũng phải nghe lại:
24.
"Cần phải học: Chú tâm nhận đồ ăn".
Khi
chú tâm ăn không được dùng hai tay ghì cái bát đặt trên hai bàn chân. Trước hết
phải rửa tay sạch, rồi lau bát, khi thức ăn được đưa đến nên chú ý mà nhận. Nếu
mình là người trực nguyệt trông coi việc ăn uống, nên phải đến sau, thì được
đòi nước rửa tay, rửa bát, không có tội. Nếu buông lung các căn không chú tâm
khi nhận đồ ăn, tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng
loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: "Chú tâm nhận
đồ ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có vị trưởng giả đến
tinh xá cúng dường trai phạn, nhóm sáu Tỉ-kheo trước hết nhận nhiều canh, sau
mới nhận cơm, khiến bát đầy tràn, canh chảy xuống đất, nên đàn việt chê trách:
- Tôi lấy phần cơm của vợ con để cúng dường cho chúng Tăng là mong Tăng dùng
cho hết, mà nay lại vứt xuống đất. Tôn giả có biết không, trong một hạt cơm này
chứa hàng trăm công sức!
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau phải nhận cơm và canh bằng nhau.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp lại
tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải
nghe lại:
25.
"Cần phải học: Nhận cơm và canh bằng nhau".
Nhận
cơm và canh bằng nhau: Không được lấy canh trước, lấy cơm sau mà phải lấy cơm trước
bỏ vào bát xong, mới lấy canh. Nếu tục lệ của nước đó dọn canh trước, dọn cơm
sau, thì nên dùng một cái tô để nhận. Nếu không có tô, thì nên dùng lá cây, hay
bát nhỏ để nhận. Nếu cũng không có lá cây thì được dùng bát để nhận canh. Nhưng
khi nhận cơm thì phải dùng tay đỡ, từ từ bỏ vào trong bát, không được để nó
tràn chảy ra ngoài. Nếu Tỉ-kheo bệnh cần dùng canh nhiều, thì lấy nhiều canh
không có tội. Nếu buông lung các căn không nhận cơm canh bằng nhau tức là coi
thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế
nên nói: --"Cần phải học: Nhận cơm canh bằng nhau".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo ăn xung quanh bốn phía bát để dành
chính giữa lại, nên bị người đời chê cười:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như kẻ phóng dật, moi xung quanh bốn phía bát mà
ăn, để chính giữa lại? Ðây là những kẻ bại hoại, nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được moi xung quanh bốn phía bát mà ăn.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập [404b]
họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi
cũng phải nghe lại:
26.
"Cần phải học: Không được moi xung quanh bát mà ăn".
Moi
xung quanh bát mà ăn: Moi bốn phía, để chính giữa lại.
Trước
hết nên nhận cơm để vào một bên bát, sau đó nhận canh, rồi trộn chung lại mà
ăn. Nếu có sữa, chất béo lẫn vào trong cơm, thì không được vì chuộng ngon moi
chỗ ngon ăn trước mà phải ăn theo thứ lớp. Nếu muốn cho ai, thì nên xắn một nửa
mà cho. Nếu buông lung các căn, moi xung quanh bát mà ăn, tức là coi thường
pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên
nói: --"Cần phải học: Không được moi xung quanh bát mà ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng. Khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo lùa thức ăn trong
miệng từ bên này qua bên kia mà ăn, nên bị người đời chê cười:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như kẻ phóng dật, như lạc đà, bò, dê, ợ thức ăn từ
trong bụng ra nhai lại? Ðây là những kẻ bại hoại, chứ nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem việc đó đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được lùa thức ăn trong miệng từ bên này qua bên kia mà ăn.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
27.
"Cần phải học: Không được lùa thức ăn trong miệng từ bên này qua bên kia
mà ăn".
Lùa
thức ăn trong miệng từ phía bên này qua phía bên kia: Ngậm một miếng cơm từ
phía má bên này chuyển qua phía má bên kia. Cần nhai bên nào thì nhai bên đó
xong rồi nuốt. Nếu Tỉ-kheo ăn bột, gạo tẻ thì có thể ngậm một bên, nhai một bên
không có tội. Nếu buông lung các căn lùa thức ăn trong miệng từ bên này qua bên
kia mà ăn, tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn
thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: Không được lùa thức ăn trong miệng từ bên này qua bên kia mà
ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo le lưỡi ra ăn, bị
người đời chê cười:
- Vì sao
Sa-môn Thích tử mà giống như kẻ phóng dật, như rắn, như chuột, như chó, như
mèo, le lưỡi ra ăn? Ðây là những kẻ bại hoại chứ nào có đạo hành gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được le lưỡi ra ăn.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp lại
tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi [404c] cũng
phải nghe lại:
28.
"Cần phải học: Không được le lưỡi ra ăn".
Le
lưỡi ra ăn: Le lưỡi ra để thức ăn trên lưỡi rồi mới ngậm miệng lại. Nếu người
trực nguyệt hay coi sóc việc ăn uống muốn biết thức ăn sống chín, mặn nhạt,
chua ngọt thì được bỏ thức ăn trong bàn tay, rồi dùng lưỡi nếm, thì không có
tội. Nếu bị bệnh thì được bỏ muối trong bàn tay rồi nếm, không có tội.
Nếu
buông lung các căn le lưỡi ra ăn, tức là coi Thường pháp cần phải học. Ngoại
trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải
học: Không được le lưỡi mà ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo và những miếng cơm lớn mà ăn, bị người đời chê cười:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như những kẻ phóng dật, như bò, như dê, như lạc
đà, như tù nhân đói khát, ăn những miếng cơm lớn? Ðây là những kẻ bại hoại, chứ
nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem việc đó bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu Tỉ-kheo
đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được ăn những miếng cơm lớn.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
29.
"Cần phải học: Không được ăn những miếng cơm lớn".
Không
được lớn, không được nhỏ, kiểu như dâm nữ và vài hột, ba hột mà ăn, mà phải ăn
miếng cơm vừa miệng. Nếu Tỉ-kheo ăn cơm tẻ thì và đầy miệng không có tội. Nếu
buông lung các căn ăn những miếng cơm lớn, tức là coi thường pháp cần phải học.
Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải
học: Không được ăn những miếng cơm lớn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo hả miệng chờ cơm
mà ăn, bị người đời chê cười:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như kẻ phóng dật, như rùa trạnh, ếch nhái, hả
miệng để chờ cơm? Ðây là những kẻ bại hoại, chứ nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem việc đó đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được hả miệng ra chờ cơm mà ăn.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
30.
"Cần phải học: Không được hả miệng ra chờ cơm mà ăn".
Không
được hả miệng chờ cơm mà ăn: Khi ăn, Tỉ-kheo phải ăn như cách ăn của voi chúa
trên núi tuyết, [405a] nghĩa là khi thức ăn vào miệng liền dùng cái vòi đẩy sâu
vào và chia đều ra trong miệng. Nuốt xong miếng ăn trước rồi mới đưa miếng ăn
sau vào, chứ không được hả miệng chờ thức ăn. Nếu miệng bị lở thì được hả miệng
chờ không có tội. Nếu buông lung các căn hả miệng chờ cơm để ăn tức là coi
thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế
nên nói: --"Cần phải học: Không được hả miệng chờ cơm để ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo hả miệng ra vò thức ăn ném vào, bị người đời chê cười:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như những kẻ dâm loàn, ném thức ăn vào miệng mà
ăn? Ðây là những kẻ bại hoại, chứ nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem việc đó bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu Tỉ-kheo
đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được ném thức ăn vào miệng.
Thế rồi,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp lại tất
cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe
lại:
31.
"Cần phải học: Không được ném thức ăn vào miệng".
Ném
thức ăn vào miệng: Không được vò cơm thành cục từ xa ném vào miệng. Nếu ăn các
loại như táo chua, nho, cho đến đậu rang, thì ném vào miệng mà ăn không có tội.
Nếu buông lung các căn ném thức ăn vào miệng, tức là coi Thường pháp cần phải
học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: Không được ném thức ăn vào miệng".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo cắn một nửa món
ăn, còn một nửa cất vào trong bát, bị người đời chê cười:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như kẻ phóng dật, cắn một nửa món ăn (mà ăn)? Ðây
là những kẻ bại hoại, chứ nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem việc đó đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được cắn một nửa món ăn mà ăn.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
32.
"Cần phải học: Không được cắn một nửa món ăn mà ăn".
Không
được cắn một nửa món ăn còn một nửa cất vào trong bát mà nên (bẻ) từng miếng
vừa miệng mà ăn.
Nếu
cục bột lớn thì nên dùng tay bẻ từng miếng cho vừa miệng.
Nếu
ăn trái dưa, mía hay củ cải thì được cắn ăn không có tội.
Nếu
ăn bánh cũng nên dùng tay bẻ từng miếng cho vừa miệng.
Nếu
buông lung các căn [405b] cắn một nửa món ăn tức là coi thường pháp cần phải
học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng điên thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: Không được cắn một nửa món ăn mà ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo ngậm đồ ăn mà
nói, bị người đời chê cười:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như kẻ phóng dật, như lạc đà, bò, dê, lừa, ngậm
thức ăn mà kêu rống? Ðây là những kẻ bại hoại, chứ nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được ngậm thức ăn mà nói.
Thế
rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp lại
tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải
nghe lại:
33.
"Cần phải học: Không được ngậm thức ăn mà nói".
Không
được ngậm thức ăn mà nói: Nếu đang ăn mà bị Hòa Thượng, A-xà-lê, Tỉ-kheo trưởng
lão gọi, mình nuốt chưa hết thức ăn mà tiếng nói không khác thường, thì được
lên tiếng đáp.
Nếu
không thể được thì phải nuốt cho hết cơm rồi mới lên tiếng đáp. Nếu người gọi
trách cứ, thì hãy đáp: "Vì trong miệng con có thức ăn nên không thể trả
lời ngay được".
Nếu
phóng túng các căn, ngậm thức ăn mà nói, tức là coi thường pháp cần phải học.
Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có
tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Không được ngậm thức ăn mà
nói".
Kệ
tóm tắt:
"Ngồi
tréo chân trong nhà,
Chống nạnh, động tay chân.
Chú ý, cơm bằng canh,
Dồn thức ăn hai má.
Le lưỡi, ngậm lớn miếng
Hả miệng, ném cơm vào.
Cắn ăn, ngậm cơm nói
Hết Bạt-cừ thứ ba".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá cúng
dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo dùng ngón tay vét bát
mà ăn, nên bị người đời chê trách rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử lại ăn như trẻ con, như tù nhân bị đói?
Rồi
họ hỏi:
- Tôn
giả ăn uống rất sung túc, vì sao lại phải vét bát? Ðây là những kẻ bại hoại,
nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được dùng ngón tay vét bát mà ăn.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
34.
"Cần phải học: Không được dùng ngón tay vét bát mà ăn".
[405c]
Không được dùng ngón tay vét bát mà ăn: Không được cong ngón tay lại để vét
bát. Nếu sữa, dầu, mật dính nơi bát thì không được co ngón tay lại vét bát mà
phải dùng ngón tay dồn lại rồi mới nhúm lại mà ăn.
Nếu
buông lung các căn, dùng ngón tay vét bát mà ăn, tức là coi thường pháp cần
phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loại thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: Không được dùng ngón tay vét bát mà ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo liếm tay mà ăn,
nên bị người đời chê trách: - Vì sao Sa-môn Thích tử mà giống như trẻ con, khi
được thức ăn liền liếm tay mà ăn?
Rồi
họ hỏi:
- Tôn
giả, con cúng một cách hào phóng cho Thầy ăn đầy đủ, vì sao lại liếm tay mà ăn?
Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc đó đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được liếm tay mà ăn.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
35.
"Cần phải học: Không được liếm tay mà ăn".
Không
được lật ngửa, lật sấp bàn tay để liếm mà ăn. Nếu sữa, dầu, mật, đường phèn
dính vào tay thì phải dùng tay vuốt vào miệng bát để dồn lại một chỗ, rồi mới
lấy ăn.
Nếu
buông lung các căn liếm tay mà ăn, tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại
trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải
học: Không được liếm tay mà ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo mút ngón tay mà
ăn, bị người đời chê trách rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như trẻ con, mút ngón tay mà ăn?
Rồi
họ hỏi:
- Con
cúng dường một cách hào phóng, vì sao Thầy lại mút ngón tay mà ăn? Ðây là hạng
người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được mút ngón tay mà ăn.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
36.
"Cần phải học: Không được mút ngón tay mà ăn".
Không
được mút ngón tay mà ăn: Nếu Tỉ-kheo ăn các Thứ như canh thịt, mỡ hay chất ngọt
dính vào ngón tay thì không được mút mà phải kê ngón tay vào thành bát vuốt cho
dồn lại một chỗ rồi lấy ăn.
Nếu
mật, [406a] đường phèn, muối dính vào đầu ngón tay thì được mút, không có tội.
Nhưng nếu buông lung các căn, mút ngón tay mà ăn tức là coi thường pháp cần
phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: Không được mút ngón tay mà ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo nhai thức ăn ra
tiếng, bị người đời chê bai rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà ăn giống như heo, chuột ăn? Ðây là hạng người bại hoại,
nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được nhai thức ăn ra tiếng.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
37.
"Cần phải học: Không được nhai thức ăn ra tiếng".
Nếu
buông lung các căn nhai thức ăn ra tiếng tức là coi thường pháp cần phải học.
Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: Không được nhai thức ăn ra tiếng".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có đàn việt đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo hút cơm ra tiếng
mà ăn, bị người đời chê bai rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như lạc đà, bò, lừa hút cơm mà ăn? Ðây là hạng
người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được hút thức ăn ra tiếng mà ăn.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
38.
"Cần phải học: Không được hút thức ăn mà ăn".
Nếu
ăn các thứ cháo lỏng, sữa tươi, sữa chua, canh, cơm thì không được húp thành
tiếng mà phải nuốt từ từ.
Nếu
buông lung các căn, húp thức ăn mà ăn tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại
trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải
học: Không được hút thức ăn mà ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo nuốt trộng thức
ăn nghe tiếng ừng ực, bị người đời chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà ăn nghe tiếng ừng ực giống như lừa, lạc đà ăn? Ðây là
hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem [406b] sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm
sáu Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được nuốt trộng thức ăn mà ăn.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
39.
"Cần phải học: Không được nuốt trộng thức ăn mà ăn".
Không
được nuốt trộng thức ăn nghe tiếng ừng ực. Nhưng nếu yết hầu bị bệnh nên nuốt
thức ăn nghe tiếng thì không có tội.
Nếu
yết hầu bị khô thì nên uống nước cho thông rồi mới nuốt thức ăn.
Nếu
buông lung các căn, nuốt trộng thức ăn, tức là coi thường pháp cần phải học.
Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: Không được nuốt trộng thức ăn mà ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo và cơm vào trong
miệng một nửa, rơi xuống đất một nửa, bị người đời chê trách rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà ăn uống đổ tháo giống như kẻ phóng dật?
Rồi
họ hỏi:
- Ðại
đức tưởng rằng những thức ăn này không tốn tiền mua sao? Con đã lấy phần của vợ
con đem cúng dường để cầu phước, một hạt gạo này tốn hàng trăm công sức mới
thành, cần phải ăn hết, vì sao lại để rơi xuống đất? Ðây là hạng người bại
hoại, nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được ăn uống làm đổ tháo thức ăn.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
40.
"Cần phải học: Không được làm rơi cơm khi ăn".
Khi
nhận thức ăn không nên để một hạt cơm nào rơi xuống đất, nhưng nếu tịnh nhân
sớt cơm rơi xuống đất thì không có tội. Khi đã và thức ăn vào trong miệng thì
đừng để rơi xuống đất, nhưng nếu lỡ rơi thì không có tội. Khi ăn cá, thịt, trái
cây, dưa, mía thì không được vứt bừa bãi vỏ, hạt, xác, xương dưới đất, mà phải
bỏ dồn đống một bên dưới chân.
Nếu
buông lung các căn làm rơi rớt cặn bã thức ăn tức là coi thường pháp cần phải
học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: Không được làm rơi cơm khi ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo vung tay ra, làm
bẩn y Tỉ-kheo ngồi bên cạnh. Vị ấy liền hỏi:
-
Trưởng lão! Vì sao mà vung tay ra, bị rít, ong, bò cạp cắn phải không?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
-
[406c] Từ nay về sau không được vung tay khi ăn.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
41.
"Cần phải học: Không được vung tay khi ăn".
Khi
vung tay thì không được hướng vào người ngồi bên cạnh mà vung. Nếu thức ăn dính
vào tay thì nên đưa tay về trước mặt mình mà rảy, hoặc rảy vào trong bát.
Nếu buông
lung các căn vung tay khi ăn tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm
trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: "Cần phải học: Không
được vung tay khi ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo nhìn vào bát của
người ngồi bên cạnh với tâm châm chọc. Nếu Thấy thức ăn ít, liền nói:
-
Thật là liêm khiết, có tiết độ ; nếu đã no rồi không dùng nữa thì hãy cho tôi.
Nếu
thấy cầm cái bát lớn, liền nói:
- Ôi!
Ðây là kẻ tham ăn, cái bát giống như cái chõ lớn, đàn việt cung cấp chỉ đủ cái
này thôi, bọn chúng tôi còn lấy đâu ra nữa!
Các
Tỉ-kheo nghe thế lấy làm hổ thẹn, bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật
liền bảo gọi nhóm sáu Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được nhìn vào bát của người bên cạnh với tâm châm chọc.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
42.
"Cần phải học: Không được nhìn trong bát của người bên cạnh với tâm xoi
bói".
Nếu
người trông coi việc ăn uống vì muốn biết nơi nào đã có, nơi nào chưa có thức
ăn mà xem, thì không có tội.
Nếu
đệ tử tùy tùng hay đệ tử y chỉ bị bệnh, mình xem trong bát của họ để biết thức
ăn có hợp với bệnh hay không, thì không có tội. Hoặc xem người ngồi trên, ngồi
dưới để biết thức ăn đã có hay chưa thì không có tội.
Nếu
buông lung các căn nhìn vào bát của người bên cạnh với tâm xoi bói tức là coi
thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế
nên nói: "Cần phải học: Không được xem trong bát của người bên cạnh với
tâm xoi bói".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ấy, một Tỉ-kheo để bát trước mặt, quay
lại nói chuyện với người ngồi bên cạnh. Nhóm sáu Tỉ-kheo bèn lấy bát để ở chỗ
khác. Khi người mang thức ăn đến, Thầy Tỉ-kheo không thấy bát, bèn sờ dưới đất
để tìm, khiến tay bị bẩn, liền hỏi đàn việt xin nước rửa tay. Khi ấy, đàn việt
bèn bỏ thố cơm xuống đất, cằøn nhằn:
- Con
bỏ cả việc nhà vì muốn tạo phước, cúng cơm cho chư Tăng, lẽ ra Tăng nên tề
chỉnh nhận lấy thức ăn. Thế mà giờ đây khi bưng cơm lên thầy mới xin nước rửa
tay. Người xuất gia [407a] phải giữ tâm đoan chính, nhìn vào bát mà ăn chứ. Ðây
là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!.
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau phải giữ tâm đoan chính nhìn vào bát mà ăn.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
43.
"Cần phải học: giữ tâm đoan chính nhìn vào bát mà ăn".
Giữ
tâm đoan chính nhìn vào bát mà ăn: Không được để bát trước mặt rồi nói chuyện
với người bên cạnh. Nếu có lý do cần nói chuyện với người bên trái, bên phải
thì tay trái phải cầm lấy vành bát. Khi thấy người mang thức ăn đến cách mình
ba người thì phải tráng bát sạch cầm chờ đến phiên mình. Nếu buông lung các căn
không giữ tâm đoan chính nhìn vào bát mà ăn tức là xem thường pháp cần phải
học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: giữ tâm đoan chính nhìn vào bát mà ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo đòi cơm, canh, bị
đàn việt chê trách rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử đến bữa ăn lại đòi cơm, đòi canh?
Rồi
họ hỏi:
- Này
tôn giả, con tự nguyện cúng dường thức ăn đầy đủ, vì sao lại kêu đòi ầm ĩ?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau Ta không cho phép đòi thức ăn.
Lại nữa,
khi Phật trú tại tinh xá của dòng họ Thích, nước Ca-duy-la-vệ, theo Thường lệ,
đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri vì năm lợi ích nên cứ năm hôm đi thị sát
phòng các Tỉ-kheo một lần. Thấy một Tỉ-kheo bị bệnh, gầy ốm tiều tụy, tuy biết
nhưng Phật vẫn hỏi:
- Này
Tỉ-kheo, Ông đau như thế nào đấy?
-
Bạch Thế Tôn, con bị bệnh đau đớn, chẳng có thích thú gì.
- Ông
không thể đòi thức ăn thích hợp với bệnh và thuốc thích hợp với bệnh sao?
-
Bạch Thế Tôn, vì Thế Tôn chế giới không được đòi thức ăn (nên con không dám
đòi).
- Từ
nay về sau Ta cho phép Tỉ-kheo bệnh được đòi thức ăn.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Ca-duy-la-vệ phải tập họp
lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng
phải nghe lại:
44.
"Cần phải học: Khi không bệnh không được vì mình mà đòi thức ăn".
Khi
không bệnh không được vì mình mà đòi cơm canh. Nếu có bệnh cần nhiều canh thì
đòi không có tội. Nhưng nếu buông lung các căn, không có bệnh mà vì mình đòi
thức ăn tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn
thì [407b] không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Tỉ-kheo không
bệnh không được vì mình mà đòi thức ăn".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo trước hết nhận cá
thịt canh rồi lấy cơm phủ lên trên. Người coi việc ăn uống thấy thế liền hỏi:
-
Trưởng lão đã nhận được cá thịt canh chưa?
- Lão
trượng, ông thấy đó thì biết, cần gì phải hỏi?
Người
coi việc ăn uống liền hỏi người đưa thức ăn:
- Vì
sao ông không đưa cá thịt canh chỗ này?
- Chỗ
nào chưa nhận được?
- Chỗ
này chưa được đây này.
- Con
đã đưa rồi vì sao nói là chưa được?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được dùng cơm phủ lên canh để mong được thêm canh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
45.
"Cần phải học: Không được lấy cơm phủ lên canh để mong được thêm
canh".
Nếu
Tỉ-kheo chờ người ta sớt thức ăn mà sợ nhớp y thì có thể (phủ cơm trên canh),
để hở một bên, nhưng không được phủ kín hết.
Nếu
phủ kín hết mà người đưa thức ăn hỏi đã nhận được chưa thì phải đáp là đã nhận
được rồi.
Nếu
buông lung các căn, lấy cơm phủ trên canh để mong được thêm canh tức là coi
thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế
nên nói: --"Cần phải học: Không được lấy cơm phủ trên canh để mong được
thêm canh".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn, nhóm sáu Tỉ-kheo dùng tay bẩn cầm
ly nước đưa người bên cạnh, khiến người ấy chê nhớp không cầm. Các Tỉ-kheo bèn
đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu Tỉ-kheo đến.
Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được dùng tay bẩn cầm ly nước.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế
giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
46.
"Cần phải học: Không được dùng tay bẩn cầm ly nước".
Khi
ăn, Tỉ-kheo nên giữ gìn tay trái cho sạch, dùng tay phải nhận lấy ly nước rồi
kê vào môi mà uống. Không được ngậm vành ly sâu vào miệng, cũng không được để
cho vành ly chạm vào mũi và trán. Không được uống hết mà nên để lại chừng một
ngụm, đổ đi, rồi dùng nước rửa cho sạch, đoạn đưa tiếp người ngồi dưới mình.
Nếu tay trái bị bệnh ghẻ, thì dùng tay phải gạt trên vành bát (cho hết thức ăn)
rồi lấy nước sạch rửa. Nếu rửa không sạch thì dùng chiếc lá để cầm ly nước mà
uống, uống xong như trên đã nói. Nếu buông lung các căn dùng tay bẩn cầm ly
nước tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì
không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Không được dùng tay bẩn cầm
lấy ly nước".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, có cư sĩ đến tinh xá
cúng dường trai phạn cho chúng Tăng, khi ăn xong, nhóm sáu Tỉ-kheo dồn cơm thừa
trong bát đổ xuống đất, nên bị đàn việt chê trách rằng:
- Tôn
giả cho rằng thức ăn này không có tiền mà mua được sao? Con đã lấy phần của vợ
con để làm việc phước đức, một hạt cơm tốn cả trăm công sức, vì sao lại đổ
xuống đất? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Từ
nay về sau không được đem cơm thừa trong bát đổ xuống đất.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
47.
"Cần phải học: Không được đem thức ăn thừa trong bát đổ xuống đất".
Khi
ăn, phải lượng cái bụng mà lấy thức ăn, không được lấy nhiều. Nếu tịnh nhân sớt
quá nhiều, thì trước khi ăn nên sớt bớt cho người bên cạnh. Nếu người bên cạnh
không lấy thì nên cho Sa-di và người làm vườn.
Khi
rửa bát, không được đổ một hạt cơm nào xuống đất. Nếu còn thức ăn thừa thì nên
đổ trên tấm ván hoặc trên lá cây. Nếu những hạt thức ăn quá nhỏ như bột không
thể dồn lại được thì không có tội. Nếu buông lung các căn đem đổ thức ăn thừa
trong bát xuống đất tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị
cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Không được
đổ thức ăn thừa trong bát xuống đất".
Kệ
tóm tắt:
"Vét,
liếm, nhai ra tiếng,
Nuốt trộng, làm rơi cơm.
Vung tay, nhìn bát khác,
Ðoan tâm, vì mình đòi.
Che canh, tay dơ, đổ,
Hết Bạt-cừ thứ tư".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
đứng thuyết pháp cho các đồng tử Ly-xa ngồi nghe, bị người đời chê bai rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên đứng thuyết pháp cho người ngồi
nghe? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Nhưng bọn đồng tử này
cũng không có tâm cung kính, khi thuyết pháp vi diệu như vậy lẽ ra phải mời vị
ấy ngồi trên giường, chứ sao lại để vị ấy đứng thuyết mà mình ngồi nghe?
Các
Tỉ-kheo [408a] bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi
Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi lại việc kể trên:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông đứng thuyết pháp cho người không bệnh ngồi nghe? Từ nay về sau
không được đứng thuyết pháp cho người ngồi nghe.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Tì-xá-li phải tập họp lại
tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải
nghe lại:
48.
"Cần phải học: Tỉ-kheo không được đứng thuyết pháp cho người ngồi nghe ;
ngoại trừ họ bị bệnh".
Bệnh:
(Khi người nghe có bệnh thì đứng thuyết pháp) đức Thế Tôn bảo là không có tội.
Thuyết:
Vì thính giả mà giảng giải nghĩa lý, phân biệt diễn thuyết để cho họ theo đó mà
tu hành.
Pháp:
Do Phật thuyết hoặc do Phật ấn chứng.
- Do
Phật thuyết: Do chính đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri trình bày.
- Do
Phật ấn chứng: Do các vị Thanh Văn thuyết, được Phật ngợi khen là có ý nghĩa,
đó gọi là ấn chứng.
Không
được đứng thuyết pháp cho người ngồi nghe, nhưng nếu họ bị bệnh (thì mình đứng
thuyết pháp) không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo vì việc của Tháp của chúng Tăng, đi đến nhà vua hay chủ đất, rồi họ
bảo: "Tỉ-kheo, thuyết pháp cho tôi nghe", thì không được bảo họ đứng
dậy, vì sợ họ sinh nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có người đứng, mình nên nghĩ là
thuyết pháp cho người đứng đó nghe, thì dù nhà vua ngồi nghe, mình vẫn không có
tội. Nếu buông lung các căn đứng thuyết pháp cho người không bệnh ngồi nghe tức
là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có
tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Tỉ-kheo không được đứng thuyết pháp
cho người ngồi nghe, ngoại trừ họ bị bệnh".
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà ngồi
thuyết pháp cho người nằm nghe, bị người đời chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, ngồi thuyết pháp cho người nằm
nghe? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Vả lại, những kẻ nghe
pháp không có tâm cung kính, Vì sao nghe thuyết pháp vi diệu như vậy mà lại nằm
nghe?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông lại ngồi thuyết pháp cho người không bệnh nằm nghe? Từ nay về sau
Tỉ-kheo không được ngồi thuyết pháp cho người nằm nghe, trừ khi họ bị bệnh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
49.
"Cần phải học: Tỉ-kheo không được ngồi thuyết pháp cho người nằm nghe, trừ
khi họ bị bệnh".
(Họ
bị) bệnh: Ðức Thế Tôn nói là không có tội.
Thuyết
pháp: Như trên đã nói.
Nếu
Tỉ-kheo vì công việc của Tháp, của chúng Tăng, khi đi đến nhà vua hay chủ đất
mà họ bảo: "[408b] Tỉ-kheo, hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì không
được bảo họ đứng dậy, vì sợ họ sinh tâm nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có người
ngồi, thì mình nên nghĩ là thuyết pháp cho người ngồi đó nghe, dù vua (nằm)
nghe, mình vẫn không có tội. Nếu buông lung các căn, ngồi thuyết pháp cho người
không bệnh nằm nghe, tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị
cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Tỉ-kheo
không được ngồi thuyết pháp cho người nằm nghe, trừ khi họ bị bệnh".
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà ngồi
dưới giường nhỏ thấp thuyết pháp cho tướng quân Sư Tử ngồi trên giường cao
nghe, bị người đời chê trách rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, bản thân mình ngồi dưới giường thấp
nhỏ mà thuyết pháp cho người ngồi trên giường cao nghe? Ðây là hạng người bại
hoại, nào có đạo hạnh gì! Vả lại, tướng quân Sư Tử này không có tâm cung kính,
khi nghe pháp vi diệu như vậy vì sao lại ngồi trên giường cao, để cho Tỉ-kheo
ngồi dưới giường thấp thuyết pháp?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc đó bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông ngồi dưới giường nhỏ thấp thuyết pháp cho người ngồi trên giường
cao nghe? Từ nay về sau, mình ở dưới thấp không được thuyết pháp cho người ngồi
ở trên cao nghe, trừ khi họ bị bệnh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
50.
"Cần phải học: Tỉ-kheo không được ngồi dưới giường thấp mà thuyết pháp cho
người ngồi trên giường cao nghe, trừ khi họ bị bệnh".
Giường
thấp: Có hai loại: 1/ Giường ở dưới gọi là giường thấp ; 2/ Giường thô sơ xấu
xí cũng gọi là giường thấp.
Giường
cao: gồm hai loại: 1/ Giường cao lớn gọi là giường cao ; 2/ Giường đẹp đẽ lộng
lẫy cũng gọi là giường cao.
Bệnh:
(Khi thính giả bị bệnh thì Tỉ-kheo đứng thuyết pháp) đức Thế Tôn nói là không
có tội.
Thuyết
pháp: Như trên đã nói.
Không
được ngồi dưới giường thấp mà thuyết pháp cho người ngồi trên giường cao nghe,
nhưng nếu đó là người bệnh, thì không có tội.
Nếu Tỉ-kheo
vì công việc của Tháp, của chúng Tăng, đi đến nhà vua, đến chủ đất mà họ bảo:
"Tỉ-kheo, hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì khi ấy không được bảo họ
đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vì sợ họ sinh tâm nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có người ở
dưới thấp, thì mình nên nghĩ là thuyết pháp cho người đó nghe, dù vua ngồi trên
giường cao nghe, mình vẫn không có tội.
Nếu
buông lung các căn ngồi dưới giường thấp thuyết pháp cho người ngồi trên giường
cao nghe tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn
thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Tỉ-kheo không được ngồi
dưới giường thấp thuyết pháp cho người ngồi trên giường cao nghe, trừ khi họ bị
bệnh".
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
[408c] thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa mang giày da nghe, bị người đời chê
cười rằng: "Vì sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, thuyết pháp cho
người mang giày da nghe? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Vả
lại, các đồng tử này nghe thuyết pháp vi diệu mà không có tâm cung kính, không
chịu cởi giày da khi nghe pháp". Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch
lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật
liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông lại thuyết pháp cho người không bệnh mà mang giày da nghe? Từ nay
về sau không được thuyết pháp cho người mang giày da nghe, trừ khi họ bị bệnh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
51.
"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người mang giày da nghe, trừ khi
họ bị bệnh".
Giày
da: hoặc một lớp, hoặc hai lớp.
Thuyết
pháp: như trên đã nói.
Không
được thuyết pháp cho người không bệnh mà mang giày da nghe, nhưng nếu họ bị
bệnh thì Phật bảo là không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo vì công việc của Tháp, của Tăng... cho đến... có tịnh nhân ở bên cạnh
họ, thì mình nghĩ là thuyết pháp cho người đó nghe, dù vua nghe, mình vẫn không
có tội.
Nếu
Tỉ-kheo đang ở nơi đường hiểm, chỗ đáng kinh sợ, mà người bảo vệ nói: "Tôn
giả hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì người ấy dù mang giày da, mình
thuyết pháp cũng không có tội. Nếu buông lung các căn thuyết pháp cho người
không bệnh mà mang giày da nghe tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ
tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải học:
không được thuyết pháp cho người mang giày da nghe, trừ khi họ bị bệnh".
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa mang guốc gỗ nghe, bị người đời chê trách
rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên thuyết pháp cho người mang guốc
nghe? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Vả lại, các đồng tử này
cũng không có tâm cung kính, khi nghe diệu pháp như vậy lẽ ra phải cởi guốc, vì
sao lại mang guốc mà nghe?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông lại thuyết pháp cho người không bệnh mà mang guốc nghe? Từ nay về
sau không được thuyết pháp cho người mang guốc nghe, trừ khi họ bị bệnh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
52.
"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người mang guốc nghe, trừ khi họ
bị bệnh".
Bệnh:
Ðức Thế Tôn bảo là không có tội.
[409a]Guốc:
Gồm mười ba loại: 1/ Guốc vàng ; 2/ Guốc bạc ; 3/ Guốc ma-ni ; 4/ Guốc răng ;
5/ Guốc gỗ ; 6/ Guốc đa-la ; 7/ Guốc da ; 8/ Guốc Khâu-bà-la ; 9/ Guốc diên ;
10/ Guốc cỏ gai ; 11/ Guốc vỏ cây ; 12/ Guốc bà-ca ; 13/ Guốc cỏ. Gồm các loại
guốc như thế, đó gọi là guốc.
Thuyết
pháp: Như trên đã nói.
Nếu
Tỉ-kheo vì việc của Tháp, của Tăng, đi đến vua hoặc Chủ đất, mà họ bảo:
"Tỉ-kheo, hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì không nên bảo họ cởi
guốc ra, vì sợ họ sinh tâm nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có Tịnh nhân, thì mình nên
nghĩ là thuyết pháp cho Tịnh nhân nghe, dù vua nghe cũng không có tội. Nếu
buông lung các căn thuyết pháp cho người không bệnh mà mang guốc nghe tức là
coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội.
Thế nên nói: --"Cần phải học: Không được Thuyết pháp cho người mang
guốc nghe, trừ khi họ bị bệnh".
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa trùm đầu nghe, bị người đời chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viễn, thuyết pháp cho người trùm đầu
nghe? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Vả lại, bọn đồng tử này
cũng không có tâm cung kính, nghe diệu pháp như vậy lẽ ra phải gỡ bỏ khăn trùm
đầu, vì sao lại trùm đầu nghe pháp?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì sao
các ông lại thuyết pháp cho người không bệnh mà trùm đầu nghe? Từ nay về sau
không được thuyết pháp cho người trùm đầu nghe, trừ khi họ bị bệnh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
53.
"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người trùm đầu nghe, trừ khi họ
bị bệnh".
Bệnh:
đức Thế Tôn bảo là không có tội.
Trùm
đầu: trùm kín cái đầu hoàn toàn.
Thuyết
pháp: Như trên đã nói, nhưng được thuyết pháp cho người bệnh (trùm đầu) nghe,
không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo vì việc của Tháp, của Tăng, khi đi đến nhà vua hay chủ đất v.v... cho
đến nếu bên cạnh họ có Tịnh nhân, thì mình nên nghĩ là thuyết pháp cho người ấy
nghe, dù vua nghe cũng không có tội.
Khi Tỉ-kheo
đi đến những nơi đường hiểm đáng sợ mà người bảo vệ nói: "Tôn giả hãy
thuyết pháp cho Tôi nghe", thì dù người ấy đang trùm đầu, mình thuyết pháp
cho họ nghe cũng không có tội. Nếu buông lung các căn thuyết pháp cho người
không bệnh mà trùm đầu nghe tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm
trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Không
được thuyết pháp cho người trùm đầu nghe, trừ khi họ bị bệnh".
Khi
Phật an trú tại Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
[409b] thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa quấn khăn trên đầu nghe, bị người đời
chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, thuyết pháp cho người quấn khăn
trên đầu nghe? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Nhưng các đồng
tử này cũng không có tâm cung kính, nghe pháp vi diệu như vậy vì sao lại quấn
khăn trên đầu mà nghe?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông lại thuyết pháp cho người không bệnh mà quấn khăn trên đầu nghe? Từ
nay về sau không được thuyết pháp cho người quấn khăn trên đầu nghe, trừ khi họ
bị bệnh.
Ðoạn
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Tì-xá-li phải tập họp lại
tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải
nghe lại:
54.
"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người quấn khăn trên đầu nghe,
trừ khi họ bị bệnh".
Bệnh:
Ðức Thế Tôn bảo là không có tội.
Quấn
(khăn) trên đầu: Hoặc dùng vải quấn hoặc dùng lụa quấn.
Thuyết
pháp: như trên đã nói ; nhưng được thuyết pháp cho người có bệnh quấn khăn trên
đầu nghe, không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo vì công việc của Tháp, của Tăng đi đến nhà vua hay Chủ đất, rồi họ bảo:
"Tỉ-kheo, hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì không được bảo họ mở
khăn quấn đầu, vì sợ họ sinh tâm nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có Tịnh nhân thì nên
nghĩ là mình thuyết pháp cho người ấy nghe, dù vua nghe mình cũng không có tội.
Khi
Tỉ-kheo đang đi trên con đường nguy hiểm đáng sợ mà người bảo vệ nói: "Tôn
giả hãy thuyết pháp cho tôi nghe" thì người ấy dù đang quấn khăn trên đầu,
mình thuyết pháp cho họ nghe cũng không có tội.
Nếu
buông lung các căn thuyết pháp cho người không bệnh mà quấn khăn trên đầu nghe
tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không
có tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người
quấn khăn trên đầu nghe, trừ khi họ bị bệnh".
Khi
Phật an trú tại Thành Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa đang ngồi chòm hỏm ôm đầu gối nghe, bị người
đời chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, thuyết pháp cho người ngồi chòm hỏm
ôm đầu gối nghe? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Nhưng các đồng
tử này cũng không có tâm cung kính, khi nghe diệu pháp như vậy lẽ ra phải ngồi
ngay ngắn, vì sao lại ngồi chòm hỏm ôm đầu gối mà nghe pháp?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông lại thuyết pháp cho người không bệnh ngồi chòm hỏm ôm đầu gối mà
nghe? Từ nay về sau không được thuyết pháp cho người ngồi chòm hỏm ôm đầu gối
mà nghe, trừ khi họ bị bệnh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi [409c] cũng phải nghe lại:
55.
"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người ngồi chòm hỏm ôm đầu gối
mà nghe, trừ khi họ bị bệnh.
Bệnh:
đức Thế Tôn bảo là không có tội.
Ôm
đầu gối: Ôm tay, ôm y, ôm cả dây buộc.
Thuyết
pháp: Như trên đã nói. Nếu thuyết pháp cho người có bệnh nghe thì không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo vì việc của Tháp, của Tăng khi đi đến nhà vua hay chủ đất, cho đến câu
nếu bên cạnh họ có tịnh nhân, thì nên suy nghĩ là mình thuyết pháp cho Tịnh
nhân nghe, dù vua nghe mình cũng không có tội. Nếu buông lung các căn thuyết
pháp cho người không bệnh mà ngồi ôm đầu gối nghe tức là coi thường pháp cần
phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: Không được thuyết pháp cho người ngồi chòm hỏm ôm đầu gối nghe, trừ
khi họ bị bệnh".
Khi
Phật an trú tại thành Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa ngồi tréo chân mà nghe, bị người đời chê cười
rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, thuyết pháp cho người ngồi tréo
chân mà nghe? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Nhưng các đồng tử
này cũng không có tâm cung kính, khi nghe diệu pháp như vậy lẽ ra phải ngồi
nghiêm chỉnh, vì sao lại ngồi tréo chân?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông lại thuyết pháp cho người không bệnh ngồi tréo chân mà nghe? Từ nay
về sau không được thuyết pháp cho người ngồi tréo chân mà nghe, trừ khi họ bị
bệnh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
56.
"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người ngồi tréo chân mà nghe,
trừ khi họ bị bệnh".
Bệnh:
Ðức Thế Tôn nói là không có tội.
Ngồi
tréo chân: Ðùi vế để trên đùi vế, đầu gối đặt trên đầu gối, bắp chân đặt trên
bắp chân, gót chân để trên gót chân.
Thuyết
pháp: Như trên đã nói. Không được thuyết pháp cho người không bệnh ngồi tréo
chân mà nghe, nhưng nếu họ có bệnh thì thuyết pháp không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo vì việc của Tháp, của Tăng, đi đến nhà vua hay Chủ đất, rồi họ bảo:
"Tỉ-kheo, hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì không được bảo họ ngồi
lại nghiêm chỉnh, vì sợ họ sinh tâm nghi kỵ. Nếu bên cạnh họ có tịnh nhân thì
nên nghĩ là mình thuyết pháp cho tịnh nhân ấy nghe, dù vua nghe cũng không có
tội.
Nếu
buông lung các căn, thuyết pháp cho người không bệnh ngồi tréo chân mà nghe tức
là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có
tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người
ngồi tréo chân mà nghe, trừ khi họ bị bệnh".
Kệ
tóm tắt:
"Những
người ngồi và nằm,
Trên giường cao, mang giày,
Mang guốc cùng trùm đầu,
Quấn đầu, ngồi bó gối,
Và tréo chân, không Thuyết
Hết Bạt-cừ thứ năm".
[410a]
Khi Phật an trú tại thành Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa cầm dao nghe, bị người đời chê
cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, thuyết pháp cho người cầm dao nghe?
Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Nhưng các đồng tử này cũng
không có tâm cung kính, nghe diệu pháp như vậy lẽ ra phải nhất tâm, chấp tay,
vì sao lại như bọn đồ tể, cầm dao nghe pháp?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông thuyết pháp cho người cầm dao nghe? Từ nay về sau không được thuyết
pháp cho người cầm dao nghe.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập họp lại tất
cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe
lại:
57.
"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người cầm dao nghe".
Cầm:
dùng tay cầm.
Dao:
dao lớn, dao nhỏ, gươm.
Thuyết
pháp: Như trên đã nói, không được thuyết pháp cho người cầm dao nghe.
Nếu
Tỉ-kheo vì việc của Tháp, của Tăng đi đến nhà vua hay Chủ đất, rồi họ bảo:
"Tỉ-kheo, hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì không được bảo họ bỏ
dao, vì sợ họ sinh tâm nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có tịnh nhân, thì nên nghĩ là
mình thuyết pháp cho tịnh nhân, dù vua nghe mình cũng không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo đang đi trên con đường nguy hiểm đáng sợ, mà người bảo vệ nói:
"Tôn giả hãy thuyết pháp cho Tôi nghe", thì tuy người ấy đang cầm dao
mình thuyết pháp cũng không có tội.
Nếu
buông lung các căn thuyết pháp cho người cầm dao nghe tức là coi thường pháp
cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: Không được thuyết pháp cho người cầm dao nghe".
Khi
Phật an trú tại Thành Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa cầm cung tên nghe, bị người đời chê cười
rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, thuyết pháp cho người cầm cung tên
nghe? Vả lại, bọn đồng tử này cũng không có tâm cung kính, nghe pháp vi diệu
như vậy lẽ ra phải bỏ cung tên, vì sao lại cầm cung tên mà nghe pháp giống như
bọn thợ săn?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông thuyết pháp cho người cầm cung tên nghe? Từ nay về sau không được
thuyết pháp cho người cầm cung tên nghe.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, [410b] vì mười lợi
ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
58.
"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người cầm cung tên nghe".
Cầm:
dùng tay cầm.
Cung
tên: Vũ khí phòng vệ.
Thuyết
pháp: như trên đã nói ; không được thuyết pháp cho người cầm cung tên nghe.
Nếu
Tỉ-kheo vì việc của Tháp, của Tăng đi đến nhà vua hay Chủ đất, rồi họ bảo:
"Tỉ-kheo, hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì không được bảo họ bỏ
cung tên, vì sợ họ sinh tâm nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có tịnh nhân, thì nên
nghĩ là mình thuyết pháp cho tịnh nhân, dù vua nghe mình cũng không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo đang đi trên đoạn đường nguy hiểm đáng sợ mà người bảo vệ nói:
"Tôn giả hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì tuy người ấy cầm cung tên
mình thuyết pháp cũng không có tội.
Nếu
buông lung các căn, thuyết pháp cho người cầm cung tên nghe tức là coi thường
pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên
nói: --"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người cầm cung tên
nghe".
Khi
Phật an trú tại thành Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa cầm gậy nghe, bị người đời chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, thuyết pháp cho người cầm gậy nghe?
Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Vả lại, các đồng tử này cũng
không có tâm cung kính, tại sao nghe diệu pháp như vậy mà không bỏ gậy xuống,
lại cầm gậy nghe pháp?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông thuyết pháp cho người không bệnh mà cầm gậy nghe? Từ nay về sau
không được thuyết pháp cho người cầm gậy nghe, trừ khi họ bị bệnh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
59.
"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người cầm gậy nghe, trừ khi họ
bị bệnh".
Cầm
gậy: Tất cả các loại gậy.
Thuyết
pháp: Như trên đã nói, không được thuyết pháp cho người không bị bệnh mà cầm
gậy nghe, trừ khi họ có bệnh thì không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo vì việc của Tháp, của Tăng, đi đến nhà vua hay Chủ đất mà họ bảo:
"Tỉ-kheo hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì không được bảo họ bỏ gậy,
vì sợ họ sinh tâm nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có tịnh nhân thì nên nghĩ là mình
thuyết pháp cho tịnh nhân, dù vua nghe mình cũng không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo đang đi trên đoạn đường nguy hiểm đáng sợ mà người bảo vệ nói:
"Tôn giả hãy thuyết pháp cho tôi
nghe", thì tuy người ấy đang cầm gậy, mình thuyết pháp cũng không có tội.
Nếu
buông lung các căn thuyết pháp cho người không bệnh mà cầm gậy nghe tức là coi
thường pháp cần phải học. [410c] Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có
tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người cầm
gậy nghe, ngoại trừ họ bệnh".
Khi
Phật an trú tại thành Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa cầm dù nghe, bị người đời chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, thuyết pháp cho người cầm dù nghe?
Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Vả lại, các đồng tử này cũng
không có tâm cung kính, khi nghe diệu pháp như vậy lẽ ra phải bỏ dù đi, vì sao
lại cầm dù nghe pháp?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông lại thuyết pháp cho người không bệnh mà cầm dù nghe? Từ nay về sau
không được thuyết pháp cho người cầm dù nghe, trừ khi họ có bệnh.
Ðoạn
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
60.
"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người cầm dù nghe, trừ khi họ bị
bệnh".
Bệnh:
đức Thế Tôn bảo là không có tội.
Dù:
Dù bằng vỏ cây, dù bằng lá đa-la, bằng lá đa-lê, bằng thanh tre, bằng nhiều nếp
gấp, bằng lông đuôi công, nói chung các loại có thể che mưa nắng như vậy đều
gọi là dù.
Thuyết
pháp: như trên đã nói, không được thuyết pháp cho người không bệnh mà cầm dù
nghe, nhưng nếu họ có bệnh thì không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo vì việc của Tháp, của Tăng, đi đến nhà vua hay Chủ đất mà họ bảo:
"Tỉ-kheo, hãy thuyết pháp cho tôi nghe" thì không được bảo họ bỏ dù,
vì sợ họ sinh tâm nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có tịnh nhân, thì nên nghĩ là mình
thuyết pháp cho tịnh nhân, dù vua nghe mình cũng không có tội.
Nếu
thuyết pháp cho pháp sư, luật sư khi mưa, gió, lạnh, tuyết, hoặc nóng bức mà họ
cầm dù, thì không có tội.
Nếu
buông lung các căn thuyết pháp cho người không bệnh mà cầm dù nghe tức là coi
thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế
nên nói: --"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người cầm dù nghe,
trừ khi họ bệnh".
Khi
Phật an trú tại thành Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
đi sau các đồng tử Lê-xa mà thuyết pháp, bị người đời chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, đi sau mà thuyết pháp cho người đi
trước nghe? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Vả lại, các đồng tử
này cũng không có tâm cung kính, khi nghe diệu pháp như vậy lẽ ra phải đi sau
mà nghe.
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
-
[411a] Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông đi sau người không bệnh mà thuyết pháp cho họ nghe? Từ nay về sau
không được đi sau mà thuyết pháp cho người đi trước mình nghe, trừ khi họ bệnh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
61.
"Cần phải học: mình đi sau không được thuyết pháp cho người đi trước mình
nghe, trừ khi họ bị bệnh".
Bệnh:
Ðức Thế Tôn bảo là không có tội.
Ði
sau: Người kia đi trước, mình đi sau.
Thuyết
pháp: Như trên đã nói, không được đi sau người không bệnh mà thuyết pháp cho họ
nghe, trừ khi họ có bệnh thì không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo vì việc của Tháp, của Tăng đi đến nhà vua hay Chủ đất mà họ bảo: "Tỉ-kheo,
hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì không được bảo họ đi phía sau mình, vì
sợ họ sinh tâm nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có tịnh nhân, thì nên nghĩ là mình
thuyết pháp cho tịnh nhân, dù vua nghe cũng không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo đang đi trên đoạn đường nguy hiểm đáng sợ, mà người bảo vệ nói:
"Nơi này bọn cướp thường đón đầu đoàn bộ hành, để tôi đi trước, tôn giả đi
sau thuyết pháp cho tôi nghe", thì mình thuyết pháp không có tội. Nếu có
kẻ ác lườm mắt, cầm gậy dành đi trước bắt Tỉ-kheo đi sau thuyết pháp cho y
nghe, thì thuyết pháp không có tội.
Nếu
buông lung các căn đi sau thuyết pháp cho người không bệnh đi trước nghe tức là
coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội.
Thế nên nói: --"Cần phải học: Tỉ-kheo không được đi sau thuyết pháp cho
người đi trước mình nghe, trừ khi họ bệnh".
Khi
Phật an trú tại thành Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa cưỡi ngựa nghe, bị người đời chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, thuyết pháp cho người cưỡi ngựa
nghe? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh gì! Vả lại, các đồng tử này
cũng không có tâm cung kính, khi nghe diệu pháp như vậy lẽ ra phải xuống ngựa,
vì sao ngồi trên lưng ngựa mà nghe pháp?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông thuyết pháp cho người không bệnh mà cưỡi ngựa nghe? Từ nay về sau
không được thuyết pháp cho người cưỡi ngựa nghe, trừ khi họ bị bệnh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
62.
"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người cưỡi ngựa nghe, trừ khi họ
bị bệnh".
Bệnh:
Ðức Thế Tôn bảo là không có tội.
Cưỡi:
gồm có tám loại: Cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi bò, cưỡi lừa, ngồi trên thuyền, ngồi
trên xe, [411b] ngồi trên kiệu, ngồi trên cáng.
Thuyết
pháp: Như trên đã nói, không được thuyết pháp cho người không bệnh mà cưỡi ngựa
nghe, trừ khi họ bị bệnh, thì không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo vì việc của Tháp, của Tăng, đi đến nhà vua hay Chủ đất, rồi họ bảo:
"Tỉ-kheo, hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì không được bảo họ xuống
ngựa, vì sợ họ sinh tâm nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có tịnh nhân thì nên nghĩ
rằng mình thuyết pháp cho tịnh nhân, dù vua nghe mình cũng không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo đang đi trên đoạn đường nguy hiểm đáng sợ, mà người bảo vệ nói:
"Tôn giả, hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì dù người ấy ngồi trên
ngựa, mình thuyết pháp cũng không có tội.
Nếu
buông lung các căn, thuyết pháp cho người không bệnh cưỡi ngựa nghe, tức là coi
thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế
nên nói: --"Cần phải học: Không được thuyết pháp cho người cưỡi ngựa
nghe, trừ khi họ bị bệnh".
Khi
Phật an trú tại thành Tì-xá-li, nói rộng như trên. Bấy giờ Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà
ở ngoài lề đường thuyết pháp cho các đồng tử Lê-xa đang ở giữa đường nghe, bị
người đời chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà giống như diễn viên, mình ở ngoài lề đường mà thuyết
pháp cho người ở giữa đường nghe? Ðây là hạng người bại hoại, nào có đạo hạnh
gì! Vả lại, các đồng tử này cũng không có tâm cung kính, khi nghe diệu pháp như
vậy lẽ ra phải tránh sang bên lề đường để Tỉ-kheo ở giữa đường, chứ vì sao mình
lại ở giữa đường?
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà,
Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông lại ở ngoài lề đường thuyết pháp cho người ở giữa đường nghe? Từ
nay về sau không được ở ngoài lề đường thuyết pháp cho người ở giữa đường nghe,
trừ khi họ bị bệnh.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
63.
"Cần phải học: Không được ở ngoài lề đường mà thuyết pháp cho người ở giữa
đường nghe, trừ khi họ bệnh".
Bệnh:
đức Thế Tôn bảo là không có tội.
Ở
ngoài lề đường: Tỉ-kheo ở ngoài lề đường.
Ở
giữa đường: thính giả ở giữa đường.
Thuyết
pháp: như trên đã nói, không được ở ngoài lề đường thuyết pháp cho người không
bệnh ở giữa đường nghe, trừ khi họ bị bệnh thì không có tội.
Nếu Tỉ-kheo
vì việc của Tháp, của Tăng đi đến nhà vua hay Chủ đất mà họ bảo: "Tỉ-kheo,
hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì không được bảo họ tránh ra ngoài lề
đường, vì sợ họ sinh tâm nghi ngờ. Nếu bên cạnh họ có tịnh nhân, thì nên nghĩ
là mình thuyết pháp cho tịnh nhân, dù vua nghe mình cũng không có tội.
Nếu
Tỉ-kheo đang đi trên đoạn đường nguy hiểm đáng sợ, mà người bảo vệ nói:
"Tôn giả hãy ở ngoài lề đường, để tôi ở giữa đường, nếu có bọn cướp xuất
hiện, tôi sẽ chống cự chúng. Tôn giả hãy thuyết pháp cho tôi nghe", thì
tuy người ấy ở giữa đường, mình thuyết pháp cũng không có tội.
[411c]
Nếu buông lung các căn ở ngoài lề đường mà thuyết pháp cho người không bệnh ở
giữa đường nghe, tức là coi thường pháp cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị
cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần phải học: Không được ở
ngoài lề đường mà thuyết pháp cho người ở giữa đường nghe, trừ khi họ
bệnh".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc muốn đi
đến hồ nước ở công viên phía đông để du ngoạn, bèn ra lệnh cho kẻ hầu cận:
-
Ngày mai, Trẫm cùng phu nhân thể nữ sẽ đi du ngoạn ở đông viên, các ngươi hãy
quét tước sạch sẽ, trang hoàng giường nệm chu đáo.
Khi
ấy, nhóm sáu Tỉ-kheo nghe được, liền đến trước vườn đó, nhổ nước miếng, nước
dãi trên cỏ non, rồi lấy lá cây gói những thứ bất tịnh thả nổi trong hồ nước.
Phu nhân thể nữ ở trong cung lâu ngày thường trông mong được đi du ngoạn, đến
hôm được theo vua ra đi, chẳng khác gì tù nhân ra khỏi ngục. Khi đến trong
vườn, thấy cỏ non mềm mại, ai nấy đều chạy xô tới, từ xa xí phần, nói:
"Ðây là phần của tôi. Ðây là phần của tôi", rồi ngồi trên những bãi
nước miếng, khiến y phục bị dơ bẩn. Do thế, họ chạy tới hồ nước để rửa tay và
gụt y, rồi họ lại thấy những chiếc lá gói lại đang nổi phập phều trên mặt hồ,
liền tưởng tượng: "Có lẽ các chàng thanh niên nghe chúng ta sắp đi dạo
chơi nên gói các hương thơm để tặng chúng ta chứ gì?"
Rồi
xúm tranh nhau, bảo: "Cái này của tôi. Cái này của tôi", giành lấy
các gói lá, khiến những thứ bất tịnh bắn ra, nhớp cả y phục.
Ðoạn,
họ bảo nhau: "Kỳ quá, kỳ quá! Ta tưởng là hương thơm, ai ngờ là đồ bất
tịnh", liền tâu với vua: "Thực là kỳ lạ! Trước đây đại vương đã ra
lệnh quét tước sạch sẽ mà giờ thì nhớp nhúa như vậy đó!"
Vua
bèn hỏi người giữ vườn: "Ai làm bẩn vườn này như thế?".
Người
giữ vườn tâu: "Hôm qua nhóm sáu Tỉ-kheo đến chơi trong vườn này khá lâu,
có lẽ họ làm bẩn chăng?".
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi lại đầy đủ sự việc kể trên:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông đại tiểu tiện và khạc nhổ trên cỏ tươi và trong nước? Từ nay về sau
không được đại tiểu tiện và khạc nhổ trên cỏ tươi và trong nước.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
64.
"Cần phải học: Không được đại tiểu tiện và khạc nhổ trên cỏ tươi.
65.
"Cần phải học: Không được đại tiểu tiện và khạc nhổ trong nước".
Không
được đại tiểu tiện và khạc nhổ trên cỏ tươi mà nên đại tiểu tiện nơi chỗ đất
không có cỏ. Nếu vào những tháng hạ, cỏ non mọc khắp nơi không có chỗ đất trống
thì nên đại tiện... tại những lối đi của lạc đà, bò, ngựa, lừa, dê. Nếu không
có những chỗ ấy thì nên (đại tiện) trên ngói, gạch, đá. Nếu cũng không có nữa
thì nên (đại tiện) trên những lá cỏ khô. [412a] Nếu cũng không có nữa, thì nên
dùng cành cây lót, đại tiện trên cành cây, rồi đem chôn xuống đất.
Khi
đi kinh hành, Tỉ-kheo không được nhổ trên cỏ tươi. Nơi đầu đường đi kinh hành
nên để ống nhổ trên ngói đá cỏ lá, dùng tro bỏ trong ống nhổ rồi mới nhổ vào.
Nếu đại tiểu tiện bị dơ tay chân thì được chùi trên cỏ tươi. Nước gồm có mười
loại như trên đã nói. Không được đại tiểu tiện, khạc nhổ trong nước mà phải đại
tiểu tiện trên đất. Nếu vào mùa mưa, nước bỗng dưng dâng lên ngập khắp nơi thì
nên đại tiện trên những mô đất. Nếu không có những mô đất thì nên dùng ngói đá
hay tre gỗ đại tiện trên đó, rồi mới đem bỏ xuống nước.
Nếu
đào đất làm cầu tiêu mà dưới đáy cầu có nước chảy ra, thì Tỉ-kheo không được đi
cầu trước mà phải bảo Tịnh nhân đi trước, rồi Tỉ-kheo mới đi sau, thì không có
tội. Nếu dưới đáy cầu có nước chảy thì phải dùng thanh gỗ đại tiện trên đó rồi
mới bỏ xuống nước.
Nếu
đại tiểu tiện, khạc nhổ bị bẩn tay chân thì được dùng nước rửa. Hoặc khi đại
tiểu tiện thì được rửa trôn trong nước, không có tội.
Khi
Tỉ-kheo xuống nước tắm, không được khạc nhổ trong đó. Nếu ở cách xa bờ thì phải
nhổ vào trong tay rồi đem vứt đi.
Nếu
buông lung các căn đại tiểu tiện khạc nhổ trên cỏ tươi tức là coi thường pháp
cần phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội.
Nếu
buông lung các căn đại tiểu tiện khạc nhổ trong nước tức là coi thường pháp cần
phải học. Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: Không được đại tiểu tiện khạc nhổ trên cỏ tươi. Cần phải học: Không
được đại tiểu tiện khạc nhổ trong nước".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ nhóm sáu Tỉ-kheo đứng
đại tiểu tiện, bị người đời chê cười rằng:
- Vì
sao Sa-môn Thích tử mà đứng đại tiểu tiện giống như bò lừa lạc đà? Ðây là hạng
người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!
Các
Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:
- Các
ông có việc đó thật không?
- Có
thật như vậy, bạch Thế Tôn.
- Vì
sao các ông lại đứng đại tiểu tiện? Từ nay về sau không được đứng đại tiểu
tiện.
Ðoạn,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà
chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
66.
"Cần phải học: Không được đứng đại tiểu tiện".
Nếu
gót chân bị dính bùn, sợ nhớp y, thì được đứng đại tiểu tiện không có tội. Nếu
gót chân bị đau, bị ghẻ, bị phù thũng thì được đứng đại tiểu tiện không có tội.
Nếu
buông lung các căn đứng đại tiểu tiện tức là coi thường pháp cần phải học.
Ngoại trừ tâm trí bị cuồng loạn thì không có tội. Thế nên nói: --"Cần
phải học: [412b] không được đứng đại tiểu tiện".
Kệ
tóm tắt:
"Cầm
dao, mang cung tên,
Cầm gậy và dù lọng,
Ði sau, người cưỡi ngựa,
Lề đường, trên cỏ tươi.
Trong nước, đứng tiểu tiện,
Hết Bạt-cừ thứ sáu".
Khi
Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, Phật nói với A-Nan:
-
Tăng đang có việc tranh chấp, ông hãy đến đó dập tắt sự tranh chấp ấy.
A-nan
liền bạch với Phật:
- Thế
nào là Tăng có sự tranh chấp phải tìm cách dập tắt?
Phật
dạy:
-
Nhóm sáu Tỉ-kheo biết Tăng đã dập tắt sự tranh chấp đúng pháp, đúng luật, đúng
Tì-ni, nhưng sau đó khơi dậy sự tranh chấp của các Tỉ-kheo, nói rằng: Việc đó
phi pháp, cho đến việc yết-ma đó không hợp lệ, như trong giới Ba-dạ-đề đã nói
rõ. Trong vô lượng việc thường làm của chư Tăng đệ tử đức Thế Tôn đều dùng bảy
pháp Diệt tránh này mà dập tắt. Ðó gọi là những việc thường làm, dùng bảy pháp
Diệt tránh này mà dập tắt. Thế nên nói: "Nếu Tỉ-kheo biết Tăng đã dập tắt
sự tranh chấp đúng pháp, đúng luật, mà sau đó còn khơi dậy, thì phạm tội
Ba-dạ-đề".
Bảy
pháp Diệt tránh đến đây là hết.
Pháp,
tùy thuận pháp như hai bộ Tì-ni đã đề cập. Tùy thuận nghĩa là tuân hành pháp
này vậy.
HẾT
PHẦN GIỚI BẢN CHÍNH.
LUẬT
MA HA TĂNG KỲ
Hết quyển thứ hai mươi hai.
-ooOoo-
Đầu trang | 00
| 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 |
20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 |
updated: 16-03-3002