BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Đại Tạng No. 1425
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hán dịch: Tam Tạng Phật Đà La
người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời Đông Tấn, Trung Quốc
Việt dịch: Thích Phước Sơn
Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh
Sài Gòn, Việt Nam, PL 2543 (TL 2000)
Thành
kính đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri
Quyển thứ bảy
-ooOoo-
NÓI
RÕ PHẦN CÒN LẠI CỦA GIỚI TĂNG TÀN
9. GIỚI: XUYÊN TẠC ÐỂ HỦY BÁNG.
Khi Phật
an trú tại thành Xá Vệ, như trên đã nói, bấy giờ tôn giả Ðà Phiêu Ma La Tử được
chúng Tăng đề cử trông coi chín việc mà trên đã đề cập. Thế rồi, nhóm sáu
Tỉ-kheo nhận phòng xấu, thức ăn kém, nên tâm thường sầu khổ, bèn suy nghĩ:
"Nếu trưởng lão Ðà Phiêu Ma La Tử mà còn sống phạm hạnh lâu dài thì chúng
ta còn chịu khổ não. Nhưng Thế Tôn đã chế giới không cho phép vu khống người
khác phạm tội Ba La Di một cách vô căn cứ. Nay ta phải tìm chứng cứ của tội
lỗi". Nghĩ như thế rồi, họ bèn theo sát tôn giả Ðà Phiêu Ma La Tử, trong
những lúc đi, đứng, nằm, ngồi, đều theo sát hai bên. Hằng tháng vào các ngày
mồng 8, 14 và 15 các Tỉ-kheo-ni đến lễ Phật, khi ấy tôn giả Ðà Phiêu Ma La Tử
đang ngồi đối diện cách Phật không xa, nên các Tỉ-kheo-ni đến đảnh lễ chân Phật
rồi, bèn đến đảnh lễ tôn giả Ðà Phiêu Ma La Tử. (281b) Bấy giờ, có một
Tỉ-kheo-ni trong khi đảnh lễ bị gió thổi làm tung góc y của cô vướng trên đầu
gối của tôn giả, tôn giả liền dùng tay dở lên.
Thế rồi,
nhóm sáu Tỉ-kheo bèn nói: "Trưởng lão Ðà Phiêu, ông phạm tội Ba La
Di".
Ðà Phiêu
nói: "Tôi không có việc ấy".
Nhóm sáu
Tỉ-kheo lại nói: "Việc ấy tôi đã thấy, còn nghi ngờ gì nữa, có ai ăn trộm
mà lại nói mình là kẻ ăn trộm bao giờ".
Rồi họ
đem việc ấy nói tại chỗ vắng, chỗ nhiều người và chỗ chúng Tăng. Bấy giờ, Ðà
Phiêu bèn đem nhân duyên ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bảo đi gọi là nhóm
sáu Tỉ-kheo đến. Thầy liền đi gọi đến.
Phật liền
hỏi nhóm sáu Tỉ-kheo: "Có thật các ông vu khống Ðà Phiêu Ma La Tử phạm tội
Ba La Di một cách vô căn cứ chăng?"
Ðáp:
"Không phải vậy, bạch Thế Tôn! Có chứng cứ thật".
Phật nói:
"Có chứng cứ gì?". Nhóm sáu Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch
Thế Tôn, gặp ngày trai kỳ, các Tỉ-kheo-ni đến đảnh lễ Thế Tôn rồi họ sang đảnh
lễ Ðà Phiêu. Khi ấy gió thổi làm tung
chéo y của Tỉ-kheo-ni lên đầu gối của Ðà Phiêu. Ðà Phiêu bèn dùng tay nắm y của
cô ấy, đó là chứng cứ".
Phật nói:
"Này kẻ ngu si, đó chẳng phải là bằng chứng phạm tội Ba La Di. Ðó chỉ là
một việc nhỏ thuộc phạm vi khác". Thế rồi, Phật khiển trách nhóm sáu
Tỉ-kheo: "Các ông không từng nghe ta dùng nhiều nhân duyên ca ngợi việc
đem thân, khẩu, ý, từ ái, kính trọng những người tu phạm hạnh hay sao? Nay vì
sao đối với một Tỉ-kheo thanh tịnh vô tội, mà các ông lại muốn phá sự thanh
tịnh của họ, rồi đem một việc nhỏ thuộc phạm vi khác chẳng phải Ba La Di của
Tỉ-kheo mà vu cáo họ phạm tội Ba La Di? Ðó là việc phi pháp, phi luật, trái lời
Ta dạy, không thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp được".
Ðoạn, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá vệ phải tập họp lại tất cả, rồi vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng nghe lại:
-- Nếu
Tỉ-kheo vì sân hận, không vui, đem một việc nhỏ thuộc phạm vi khác chẳng phải
Ba La Di của Tỉ-kheo mà vu cáo họ phạm tội Ba La Di để phá hoại sự phạm hạnh
của họ; rồi sau đó, hoặc bị tra hỏi, hoặc không ai tra hỏi mà tự nói rằng:
"Chỉ vì sân hận nên tôi đem một việc thuộc phạm vi khác mà vu cáo",
thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.
Giải thích:
- Tỉ-kheo
sân hận không vui: Như trên đã nói.
- Thuộc
phạm vi khác: Trừ 4 Ba La Di, từ 13 giới Tăng Già Bà Thi Sa trở đi là
thuộc phạm vi khác.
- Những
việc nhỏ: Chúng học pháp và các oai nghi.
- Chẳng
phải Ba La Di của Tỉ-kheo mà vu khống là phạm Ba La Di: Việc đó không
thuộc Ba La Di, mà vu khống rằng phạm các giới trong 4 Ba La Di.
- Muốn
phá phạm hạnh của người ấy: Muốn làm cho người ấy không phải là
Tỉ-kheo, không phải là Sa môn, không phải là con dòng họ Thích. (281c) Muốn họ
làm Sa di, làm người thế tục, làm người giữ vườn, làm kẻ ngoại đạo.
- Sau đó, hoặc bị tra hỏi, hoặc không bị tra hỏi.
Tra
hỏi: Như hỏi: "Ông thấy việc gì? Việc dâm chăng? Việc trộm cắp
chăng? Cố ý giết người chăng? Không thật được pháp thượng nhân mà tự xưng được
pháp thượng nhân chăng? Thấy tại chỗ nào?"Ðó gọi là tra hỏi. Nếu không hỏi
như vậy thì gọi là không tra hỏi.
Nếu vì
sân hận đối với một Tỉ-kheo thanh tịnh vô tội mà đem một việc nhỏ thuộc phạm vi
khác vu khống họ phạm tội Ba La Di, thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.
(Phần còn
lại như trên đã nói rõ) Thế nên nói:
-
"Nếu Tỉ-kheo vì sân hận không vui mà đem một việc thuộc phạm vi khác, cho
đến "vì sân hận mà nói", thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa".
(Hết
giới Tăng tàn thứ 9.)
Khi Phật
an trú tại thành Vương xá, nói rộng như trên. Bấy giờ, Ðề Bà Ðạt Ða vì muốn phá
sự hòa hợp của Tăng đoàn, cho nên tìm đủ mọi cách để phá hoại việc của Tăng.
Ðối với
12 bài tựa của giới Kinh, 4 Ba la di, 13 Tăng già bà thi sa, 2 Bất định, 30 Ni
tát kì ba dạ đề, 92 Ba dạ đề, 4 Ba la đề đề xá ni, Chúng học pháp, 7 Pháp diệt
tránh, pháp Tùy thuận.v.v...
Những gì
Phật không chế, thì ông chế thêm; những gì Phật chế thì ông mở ra. Cho đến,
những pháp mà người tại gia, xuất gia cùng thực hành như 9 bộ kinh:
1- Tu Ða
La; 2- Kỳ Dạ; 3- Thọ Ký; 4- Già Ðà; 5- Ưu Ðà Na; 6- Như Thị Ngữ Kinh; 7- Bản
Sanh Kinh; 8- Phương Quảng; 9- Vị Tằng Hữu Pháp.
Ðối với 9
bộ Kinh này, ông liền tạo ra những câu khác, những chữ khác, những ý nghĩa
khác. Mỗi thứ đều có những lời văn khác để mà tụng đọc, cũng như dạy người khác
tụng đọc. Khi ấy các Tỉ-kheo nói với Ðề Bà Ðạt Ða: "Ông chớ tìm cách phá
sự hòa hợp của Tăng đoàn, chớ có kiên trì tìm đủ mọi cách để phá việc của Tăng,
cố ý tranh cãi. Trưởng lão nên hòa mình với Tăng. Vì sao vậy? Vì Tăng hòa hợp
vui vẻ, không tranh cãi, cùng học một giáo lý, như nước hòa với sữa, điều gì
như pháp thì nói là như pháp một cách rõ ràng, để cùng sống an lạc".
Sau khi
khuyên can lần thứ nhất như vậy mà không chấm dứt, rồi khuyên can lần thứ hai,
thứ ba cũng đều không đình chỉ, cho nên các Tỉ-kheo đem nhân duyên ấy bạch lên
Phật: "Bạch Thế Tôn! Ðề Bà Ðạt Ða vì muốn phá sự hòa hợp của Tăng, nên đã
kiên trì tìm đủ mọi cách để phá việc của Tăng. Từ bài tựa của giới cho đến 9 bộ
Kinh, ông đều đặt ra những chữ khác, ý nghĩa khác; (282a) mỗi thứ đều chế ra
những thứ văn từ khác, rồi tự mình tụng đọc và dạy người khác tụng đọc. Thế
nhưng, các Tỉ-kheo khuyên can lần thứ nhất không chấm dứt, rồi khuyên can lần
thứ hai, thứ ba cũng không chấm dứt".
Phật liền
nói với các Tỉ-kheo: "Nếu ông Ðề Bà Ðạt Ða ngu si này vì muốn phá sự hòa hợp
của Tăng, nên đã kiên trì tìm đủ mọi cách để phá việc của Tăng sự, cho đến đối
với 9 bộ Kinh làm ra những câu khác, chữ khác, ý nghĩa khác và mỗi thứ đều dùng
những văn từ khác, mà khuyên can đến lần thứ ba vẫn không chấm dứt, thì các ông
nên đến đó khuyên can ông ở chỗ vắng ba lần, rồi khuyên can ở chỗ đông người ba
lần, sau đó khuyên can giữa chúng Tăng ba lần, khiến cho ông ta bỏ việc
ấy".
Khi
Tỉ-kheo khuyên can ở chỗ vắng, thì nên nói như thế này: "Ông Ðề Bà Ðạt Ða
kia, có thật ông muốn phá sự hòa hợp của Tăng, kiên trì phá Tăng sự, đối với 9
bộ Kinh tạo ra câu khác, chữ khác, ý nghĩa khác, văn từ khác, rồi tự mình tụng
đọc và đem dạy người khác chăng?"
Nếu đáp:
"Có thật như vậy".
Thì nên
nói với Ðề Bà Ðạt Ða: "Ông chớ có phá sự hòa hợp của Tăng, kiên trì tìm đủ
mọi cách để phá Tăng sự. Trưởng lão Ðề Bà Ðạt Ða! Phá sự hòa hợp của Tăng là
tội ác rất nặng, phải đọa vào đường ác, rơi trong địa ngục, phải chịu tội đến
một kiếp. Ðề Bà Ðạt Ða, nay tôi vì lòng từ muốn ông được lợi ích, vậy phải nghe
lời tôi. Một lần khuyên can đã qua, còn hai lần khuyên can nữa, vậy ông có bỏ
việc ấy không?"
Nếu
trường hợp không bỏ, thì phải khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba cũng như thế.
Lại khuyên can ở chỗ đông người, cũng như vậy, nếu vẫn không chấm dứt, thì phải
đưa đến giữa chúng Tăng làm pháp Yết ma cầu thính (Xin trình bày).
Bấy giờ,
người làm Yết ma nói như sau:
"Xin
đại đức Tăng lắng nghe. Ông Ðề Bà Ðạt Ða vì muốn phá sự hòa hợp của Tăng, mà
kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự. Ðối với 12 bài tựa của giới cũng như 9
bộ Kinh, ông làm ra những câu khác, chữ khác, ý nghĩa khác, văn từ khác rồi tự
tụng đọc và dạy người khác. Các Tỉ-kheo đã khuyên can tại chỗ vắng ba lần, tại
chỗ nhiều người ba lần mà vẫn không chấm dứt. Nếu thời gian thích hợp với Tăng,
nay ở giữa Tăng nên khuyên can ba lần nữa khiến ông chấm dứt".
Bấy giờ,
Tăng nên hỏi Ðề Bà Ðạt Ða: "Có thật ông đối với 12 bài tựa của giới, cũng
như 9 bộ Kinh, làm ra những câu khác, chữ khác, ý nghĩa khác, văn từ khác, rồi
tự tụng đọc dạy người tụng đọc chăng? Thế rồi các Tỉ-kheo đã khuyên can ba lần
tại chỗ vắng, khuyên can ba lần tại chỗ nhiều người mà vẫn không chấm dứt
chăng?"
Nếu đáp:
"Có thật như vậy!", thì khuyên can giữa Tăng: "Này ông Ðề Bà Ðạt
Ða, đừng vì muốn phá sự hòa hợp của Tăng mà kiên trì tìm đủ mọi cách để phá
Tăng sự, rồi đối với 9 bộ Kinh, tạo ra câu khác, chữ khác, ý nghĩa khác, và văn
từ khác. Ông đừng phá sự hòa hợp của Tăng, vì phá sự hòa hợp của Tăng là một
tội ác lớn, là tội nặng, phải đọa vào đường ác, rơi trong địa ngục, phải chịu
tội khổ đến một kiếp. (282b) Ngày nay chúng Tăng vì lòng từ khuyên can, muốn
ông được lợi ích. Vậy hãy vâng lời chúng Tăng. Một lần khuyên can đã qua, còn
hai lần nữa, vậy ông bỏ việc ấy đi?".
Thế
nhưng, ông ta không bỏ, rồi tiếp tục khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba cũng
không bỏ. Cuối cùng, các Tỉ-kheo phải đem việc ấy bạch lên Thế Tôn: "Bạch
Thế Tôn! Chúng Tăng đã khuyên can ông Ðề Bà Dạt Ða tại chỗ vắng ba lần, tại chỗ
đông người ba lần, giữa chúng Tăng ba lần, mà vẫn không bỏ việc ấy".
Phật bèn
nói với các Tỉ-kheo: "Ông Ðề Bà Ðạt Ða này là kẻ ngu si, phá sự hòa hợp
của Tăng, kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự và đã khuyên can ở chỗ vắng
ba lần, ở chỗ đông người ba lần, ở giữa chúng Tăng ba lần mà vẫn không bỏ việc
ấy, thì Tăng nên làm pháp Yết ma cử tội (vạch tội)".
Các
Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao ông Ðề Bà Ðạt Ða này
không chịu nghe lời các Tỉ-kheo khuyên can mà tự chuốc lấy khổ não?".
Phật nói
với các Tỉ-kheo: "Không những ngày nay ông không nghe lời người khác, phải
tự chuốc khổ não mà trong thời quá khứ cũng đã từng có như vậy".
Các
Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Ðã từng có như vậy sao?".Phật đáp:
"Ðúng như vậy! Trong thời quá khứ, tại thành Ba La Nại, nước Già Thi có
một người Bà la môn đào một cái giếng tại nơi hoang vắng để làm phước thiện;
nhằm giúp những kẻ mục đồng, những người đốn củi và khách bộ hành tới đó uống
nước và tắm rửa. Bấy giờ, sắp đến lúc hoàng hôn, có bầy dã can đến đó uống nước
dưới giếng, chỉ có con dã can chúa không chịu uống nước dưới giếng mà đút đầu
vào trong lu để uống nước. Uống xong, nó bèn mang cả cái lu giơ cao đầu lên đập
vỡ chiếc lu. Nhưng miệng lu vẫn còn vướng vào cổ nó, đàn dã can bèn nói với dã
can chúa: "Nếu một chiếc lá cây ướt mà còn dùng được, người ta vẫn gìn giữ
nó, huống gì cái lu này rất có ích cho người đi đường".
Dã can
chúa nói: "Ta làm việc này vì cảm thấy trong lòng thích thú, đâu cần gì
biết đến việc khác".
Bấy giờ,
những người đi đường bèn nói với Bà la môn: "Cái lu của ông để trên giếng
đã bị vỡ rồi. Vậy ông hãy đặt lại cái lu khác ở chỗ cũ". Dã can phá như
vậy chẳng phải một cái lu mà đến 14 cái, mặc dù đàn dã can vẫn thường khuyên
can, nhưng dã can chúa vẫn không nghe lời. Thế rồi, Bà la môn bèn suy nghĩ:
"Ta đào giếng làm việc phước thiện nhưng không biết ai đã gây ra chướng
ngại nhỉ? Nay ta phải đến xem".
Khi đến
nơi, ông ta thấy rõ sự việc, bèn đem cái lu khác đặt lại trên giếng như trước,
rồi núp tại một chỗ khuất theo dõi, thì thấy các người bộ hành uống nước liền
đi, không ai phá lu cả. Ðến lúc mặt trời về chiều, ông bèn thấy bầy dã can đến
uống nước dưới giếng, chỉ có con dã can chúa là uống nước trong lu, rồi đập vỡ
lu. Thấy thế, ông bèn nghĩ: "Chính con dã can này gây ra tai họa đối với
việc đào giếng làm phước của ta".
Rồi ông
làm một cái thùng bằng gỗ kiên cố khó mà phá vỡ (282c), hễ đút đầu vào thì dễ
mà rút ra thì khó, đem đặt bên giếng, bèn cầm gậy núp ở chỗ khuất mà rình. Ông
thấy những bộ hành uống nước xong rồi đi. Vào lúc xế chiều, bầy dã can lại tụ
về uống nước giếng như lần trước. Chỉ có dã can chúa là uống nước trong thùng,
uống xong liền đập thùng xuống đất, nhưng không phá được. Khi ấy ông Bà la môn
bèn cầm gậy chạy tới đập chết dã can. Thấy thế, từ trên không trung một vị trời
bèn đọc kệ:
"Bạn
từ tâm khuyên can
Ương ngạnh không nghe lời
Kẻ ngu chuốc tai họa
Tự hại tính mạng mình
Thế nên dã can ngu
Gặp nỗi khổ thùng gỗ".
Phật bèn
nói với các Tỉ-kheo: "Dã can chúa thuở ấy, ngày nay chính là Ðề Bà Ðạt Ða;
còn bầy dã can khi ấy, ngày nay là các Tỉ-kheo khuyên can Ðề Bà Ðạt Ða. Các
Tỉ-kheo nên biết, trong thời quá khứ, ông ta đã không chịu nghe lời khuyên ân
cần của các bạn bè đến nỗi tự hại tính mạng; ngày nay cũng lại không chịu nghe
lời khuyên can của các Tỉ-kheo, nên sẽ rơi vào ác đạo, chịu khổ lâu dài".
Thế rồi,
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả,
rồi vì 10 lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe
lại:
--
"Nếu Tỉ-kheo phá sự hòa hợp của Tăng, bèn kiên trì tìm đủ mọi cách để phá
Tăng sự, đấu tranh với người khác. Rồi các Tỉ-kheo nói với Tỉ-kheo ấy:
"Trưởng lão, chớ phá sự hòa hợp của Tăng, kiên trì tìm đủ mọi cách để phá
Tăng sự, đấu tranh với người khác. Trưởng lão hãy hòa mình với chúng Tăng. Vì
sao phải thế? Vì Tăng phải hòa hợp, vui vẻ, không tranh chấp, cùng học một giáo
pháp, như nước hòa với sữa, điều gì như pháp thì nói là như pháp một cách rõ
ràng để cùng sống an lạc. Trưởng lão hãy bỏ động cơ phá Tăng ấy đi".
Khi
các Tỉ-kheo đã khuyên can Tỉ-kheo ấy như vậy, mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các
Tỉ-kheo phải khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba cho bỏ việc ấy. Khi khuyên can
đến lần thứ hai, thứ ba mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ, thì phạm tội Tăng Già Bà
Thi Sa".
Giải
thích
- Tăng
hòa hợp: Không biệt chúng. Các Tỉ-kheo tuy có tranh cãi, nhưng vẫn nói
chuyện với nhau, lại cùng ở trong một ranh giới, trong một chúng, một trú xứ,
cùng Bố tát, tự tứ, đó gọi là Tăng hòa hợp.
Thế thì,
đến chừng mực nào mới gọi là phá sự hòa hợp của Tăng, kiên trì tìm đủ mọi cách
để phá Tăng sự? Ðó là:
Nếu
Tỉ-kheo đối với mười hai việc trong bài tựa của giới, 4 pháp Ba La Di, 13 pháp
Tăng Già Bà Thi Sa, 2 pháp Bất định, 30 pháp Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề, 92 pháp Ba Dạ
Ðề, 4 pháp Ba La Ðề Ðề Xá Ni, pháp Chúng Học, 7 pháp Diệt Tránh, (283a) pháp
Tùy thuận.v.v..., Phật không chế mà chế ra, Phật đã chế liền khuếch đại, đó gọi
là phá sự hòa hợp của Tăng.
Lại nữa,
đối với các tội thuộc năm chúng, Phật không chế mà lại chế ra, Phật đã chế rồi
đem khuếch đại, đó gọi là phá sự hòa hợp của Tăng.
Lại nữa,
đối với các tội thuộc bốn chúng, Phật không chế mà chế ra, Phật đã chế mà khai
mở, đó gọi là phá sự hòa hợp của Tăng.
Lại nữa,
đối với các tội của ba chúng, các tội của hai chúng, các tội của một chúng như
4 Ba La Di, Phật không chế mà lại chế ra, Phật đã chế mà khai mở, đó gọi là phá
sự hòa hợp của Tăng.
Lại nữa,
đối với sáu pháp "Tác xả"như:
1- Yết ma
chiết phục; 2- Yết ma không nói; 3- Yết ma phát hỉ; 4- Yết ma Tẫn Xuất; 5- Yết
ma cử tội; 6- Yết ma biệt trú.
Trong sáu
pháp Yết ma tác xả này, những gì Phật không chế mà chế, những gì Phật đã chế
bèn khai mở. Ðó gọi là phá sự hòa hợp của Tăng.
- Tỉ-kheo
phá sự hòa hợp của Tăng: Như trường hợp Ðề Bà Ðạt Ða.
- Các
Tỉ-kheo: Hoặc một người, hoặc hai người, hoặc nhiều người, hoặc chúng
Tăng.
- Ba
lần khuyên can: Ba lần khuyên can ở chỗ vắng, ba lần khuyên can ở chỗ
nhiều người và ba lần khuyên can ở giữa chúng Tăng.
- Ba lần khuyên can ở chỗ vắng: Chẳng hạn hỏi: "Trưởng lão! Ông có thật phá sự hòa hợp của Tăng, kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự, cho đến đối với mười hai đoạn trong bài tựa giới Kinh Phật không chế mà chế ra, Phật đã chế mà khai mở chăng?"Nếu đáp: "Ðúng như vậy", thì vị Tỉ-kheo ấy bèn khuyên can: "Trưởng lão, ông chớ có phá sự hòa hợp của Tăng, kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự, đối với mười hai đoạn trong bài tựa giới kinh Phật không chế mà chế ra, Phật đã chế liền khai mở; phá Tăng là một tội lớn, sẽ đọa vào đường ác, rơi xuống địa ngục, chịu đau khổ lâu dài. Nay tôi có lòng từ khuyên can ông vì muốn được lợi ích. Ông hãy nghe lời tôi. Một lần khuyên can đã xong, còn hai lần nữa, ông có bỏ việc đó chăng?". Nếu không bỏ thì lần thứ hai, thứ ba cũng khuyên can như thế. Rồi lại khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần cũng như vậy. Nếu vẫn không bỏ thì đem đến giữa chúng Tăng làm phép Yết ma cầu Thính như sau:
"Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp này vì muốn phá sự hòa hợp của Tăng mà
kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự, đã khuyên can ở chỗ vắng ba lần,
khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần vẫn không chấm dứt. Nếu thời gian thích hợp
đối với Tăng, nay ở giữa Tăng hãy khuyên can ba lần để cho ông chấm dứt".
Thế rồi,
Tăng lại hỏi: "Trưởng lão, ông có thật vì muốn phá sự hòa hợp của Tăng mà
kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự cho đến những gì Phật không chế, ông
liền chế, những gì Phật đã chế, bèn khai mở chăng?"
Nếu đáp:
"Ðúng như thế", thì nên khuyên can: "Trưởng lão, nay chúng Tăng
khuyên ông, đừng vì muốn phá sự hòa hợp của Tăng mà kiên trì tìm đủ mọi cách để
phá Tăng sự, cho đến những gì Phật không chế, bèn chế; những gì Phật đã chế,
bèn khai mở; phá Tăng là việc đại ác, tội lỗi rất nặng, phải chịu khổ đau lâu
dài trong đường ác. Ngày nay chúng Tăng có lòng từ quở trách ông, ông hãy đình
chỉ ngay việc đó". (283b) Nếu không bỏ thì phải khuyên can đến lần thứ
hai, thứ ba cũng như thế. Khi khuyên can như vậy, nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ
thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.
- Tăng
Già Bà Thi Sa: Như trên đã nói.
Khi vị
Tỉ-kheo ấy được khuyên can ở chỗ vắng một lần mà không bỏ, thì phạm tội Việt Tỳ
Ni. Lần thứ hai, thứ ba cũng như thế. Khi khuyên can ở chỗ nhiều người, một lần
mà không chấm dứt thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Lần thứ hai, thứ ba cũng như thế.
Nhưng khi đến giữa Tăng khuyên can lần thứ nhất, nói chưa xong, thì phạm tội
Việt Tỳ Ni; nói xong, thì phạm tội Thâu Lan Giá. Khuyên can lần thứ hai, nói
chưa xong thì phạm tội Việt Tỳ Ni; nói xong thì phạm tội Thâu Lan Giá. Khuyên
can lần thứ ba, nói chưa xong, thì phạm tội Thâu Lan Giá; nói xong thì phạm tội
Tăng Già Bà Thi Sa.
Tội Tăng
Già Bà Thi Sa phát khởi từ lúc khuyên can ở chỗ vắng, khuyên can ở chỗ nhiều
người và khuyên can giữa chúng Tăng. Tất cả các tội Việt Tỳ Ni, các tội Thâu
Lan Giá gộp lại thành một tội Tăng Già Bà Thi Sa. Nếu giữa chừng mà đình chỉ,
thì tùy theo chỗ đình chỉ để trị tội. Thế nên nói:
"Nếu Tỉ-kheo vì muốn phá sự hòa hợp của Tăng mà kiên trì tìm đủ mọi cách để phá Tăng sự, cho đến ba lần khuyên can (ở giữa chúng Tăng) mà không bỏ, thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa".
(Hết
giới Tăng tàn thứ 10)
Khi Phật
an trú tại thành Vương xá nói rộng như trên. Bấy giờ, các Tỉ-kheo tác pháp Yết
ma cử tội Ðề Bà Ðạt Ða. Lần Yết ma đầu tiên xong, không có ai ngăn cản, đến lần
Yết ma thứ hai chấm dứt, cũng không có ai ngăn cản. Nhưng đến lần Yết ma thứ
ba, thì Ðề Bà Ðạt Ða nhìn vào mặt nhóm sáu Tỉ-kheo, nói như sau: "Này nhóm
sáu Tỉ-kheo! Các ông từ lâu phụng sự ta, cùng cộng tác với ta, nay chúng Tăng
làm Yết ma vạch tội ta đến lần thứ hai mà sao các ông vẫn im lặng? Ngày nay,
các ông đem ta bỏ vào giữa đám đông giống như dùng sữa chua phết lên bún, rồi
đem cho quạ, hoặc như dùng váng sữa bôi lên bánh, rồi đem cho Na Câu La, hoặc
như dùng dầu trộn với cơm, rồi đem cho dã can. Người tu phạm hạnh trông thấy kẻ
khác bị khốn đốn mà lại ngồi xem sao?"Lập tức nhóm sáu Tỉ-kheo liền đứng
dậy nói với (người làm Yết ma): "Như vậy, như vậy đó trưởng lão. Vị
Tỉ-kheo ấy nói đúng như pháp, nói đúng như luật. Ðiều gì Tỉ-kheo ấy nói thì
chúng tôi đều chấp nhận cả, những ý kiến của Tỉ-kheo ấy chúng tôi cũng đều công
nhận. Vị Tỉ-kheo ấy biết mới nói, chứ không phải không biết mà nói". Vì
lúc ấy có nhiều người ngăn cản, nên Yết ma không thành. Thế rồi, các Tỉ-kheo
bèn nói với nhóm Tỉ-kheo sáu người : "Các trưởng lão chớ trợ giúp Ðề Bà
Ðạt Ða phá sự hòa hợp của Tăng, cùng a dua, cùng đồng ý, mà nên cộng tác với
Tăng. Vì tất cả Tăng cần phải hòa hợp, hoan hỉ, không tranh cãi, cùng học một
giới pháp, như nước hòa với sữa, (283c) điều gì như pháp thì nói là như pháp
một cách rõ ràng, để được sống an lạc". Khuyên can lần thứ nhất như vậy mà
không từ bỏ; họ bèn khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba, vẫn ngoan cố không từ
bỏ. Thế nên, các Tỉ-kheo bèn đem nhân duyên ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật
liền nói với các Tỉ-kheo: "Nhóm sáu Tỉ-kheo này cùng với Ðề Bà Ðạt Ða ngu
si muốn phá hoại sự hòa hợp của Tăng, nên a dua, đồng ý với nhau, Tăng đã một
lần, hai lần, ba lần khuyên can vẫn không từ bỏ. Vậy các ông hãy đi tới chỗ
vắng khuyên can ba lần, rồi tới giữa chỗ đông người khuyên can ba lần; sau cùng
đến giữa Tăng chúng khuyên can ba lần, khiến cho bỏ việc ấy". Tỉ-kheo lãnh
giáo liền đi tới chỗ vắng hỏi nhóm sáu Tỉ-kheo: "Có thật chăng các ông
cùng với Ðề Bà Ðạt Ða ngu si phá sự hòa hợp của Tăng, cùng a dua, cùng đồng ý
kết làm bè đảng, rồi các Tỉ-kheo đã ba lần khuyên can vẫn ngoan cố không từ
bỏ?"...
Họ đáp:
"Ðúng như vậy".
Các Tỉ-kheo
liền khuyên can: "Này nhóm sáu Tỉ-kheo, chớ cấu kết với Ðề Bà Ðạt Ða để
phá sự hòa hợp của chúng Tăng, rồi cùng a dua, cùng đồng ý. Các ông phải hợp
tác với chúng Tăng. Vì tất cả chúng Tăng cần phải hòa hợp, hoan hỉ, không tranh
cãi, cùng học một giới pháp, như nước hòa với sữa, điều gì như pháp thì nói là
như pháp một cách rõ ràng, có vậy mới sống an lạc được. Các trưởng lão, phá sự
hòa hợp của Tăng là tội ác rất lớn, sẽ đoạ vào ác đạo, rơi xuống địa ngục, chịu
đua khổ lâu dài. Nay tôi vì từ tâm khuyên các ông, muốn cho các ông được lợi
ích. Vậy phải nghe lời tôi. Một lần khuyên đã xong, còn hai lần khuyên nữa, các
ông phải bỏ việc ấy đi". Nếu họ không bỏ, thì lần thứ hai, thứ ba cũng nói
như thế. Rồi lại khuyên can ở giữa đông người ba lần, cũng như vậy. Nếu vẫn
không từ bỏ, thì phải đến giữa Tăng làm pháp Yết ma cầu thính như sau:
"Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Nhóm sáu Tỉ-kheo này cùng với Ðề Bà Ðạt Ða phá sự hòa
hợp của Tăng, cùng a dua, cùng đồng ý với nhau, đã được khuyên can ba lần ở chỗ
vắng, khuyên can ba lần ở chỗ đông người, vẫn ngoan cố không bỏ. Nếu thời gian
thích hợp đối với Tăng, thì nên khuyên can ba lần ở giữa Tăng, khiến cho bỏ
việc ấy".
Thế rồi,
thầy Yết ma hỏi nhóm sáu Tỉ-kheo: "Có thật chăng các ông cùng với Ðề Bà
Ðạt Ða phá sự hòa hợp của Tăng, cùng a dua, cùng đồng ý và đã được khuyên can
ba lần ở chỗ vắng, được khuyên can ba lần ở chỗ đông người mà vẫn ngoan cố
không bỏ?".
Họ đáp:
"Ðúng như vậy". Các Tỉ-kheo liền khuyên can: "Này nhóm sáu
Tỉ-kheo! Các ông chớ cấu kết với Ðề Bà Ðạt Ða để phá sự hòa hợp của Tăng, rồi
cùng a dua, cùng đồng ý. Vì phá sự hòa hợp của Tăng là tội ác rất lớn, sẽ đọa
vào ác đạo, rơi xuống địa ngục, chịu đau khổ lâu dài. Nay Tăng có lòng từ
khuyên can các ông là vì muốn cho các ông được lợi ích. Vậy hãy vâng lời chúng
Tăng. Một lần khuyên can đã xong còn hai lần nữa, các ông hãy bỏ việc ấy".
Nếu như không chấm dứt, thì lần thứ hai, thứ ba cũng khuyên can như vậy. Thế
nhưng họ vẫn ngoan cố không bỏ.
Các
Tỉ-kheo liền đem việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm sáu
Tỉ-kheo đến, họ bèn đi gọi đến.
Bấy giờ,
Phật liền hỏi nhóm sáu Tỉ-kheo: "(284a) Có thật các ông cùng với Ðề Bà Ðạt
Ða ngu si cùng a dua, cùng đồng ý phá sự hòa hợp của Tăng, rồi các Tỉ-kheo đã
khuyên can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ đông người ba lần, khuyên can
giữa chúng Tăng ba lần mà vẫn không bỏ phải không?".
Ðáp:
"Có thật như vậy, bạch Thế Tôn!"
Phật bèn
khiển trách: "Này các Tỉ-kheo! Ðó là việc ác, các ông không thường nghe Ta
dùng nhiều nhân duyên để chê trách tính ương ngạnh, khó khuyên bảo và dùng
nhiều nhân duyên để khen ngợi tính nhu nhuyến dễ khuyên bảo hay sao? Các ông vì
sao lại ương ngạnh khó khuyên bảo? Ðó là việc phi pháp, phi luật, trái lời Ta
dạy; không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được".
Các Tỉ-kheo
liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao nhóm sáu Tỉ-kheo cùng cấu kết
với Ðề Bà Ðạt Ða cùng a dua, cùng đồng ý, để phải chịu đau khổ một cách oan
uổng?".
Phật nói
với các Tỉ-kheo: "Nhóm sáu Tỉ-kheo này không những ngày nay cùng a dua,
cùng đồng ý để phải chịu đau khổ oan uổng mà trong đời quá khứ cũng đã từng như
vậy".
Các
Tỉ-kheo bèn hỏi Phật: "Ðã từng có như vậy sao? Xin Thế Tôn hãy nói về việc
ấy".
Phật bảo
với các Tỉ-kheo: "Trong thời quá khứ tại thành Ba la nại, nước Già Thi có
năm trăm con khỉ đột sinh sống trong rừng tại một nơi hoang vắng, rồi chúng du
hành đến một cây Ni câu luật. Dưới cây này có một cái giếng. Trong giếng có
bóng trăng hiện ra. Con khỉ đột chúa khi thấy bóng trăng ấy, liền nói với đồng
bọn: "Mặt trăng hôm nay đã chết và rơi vào trong giếng, chúng ta phải cùng
nhau vớt lên, chớ để thế gian sống mãi trong tăm tối".
Thế rồi
chúng cùng nhau bàn bạc: "Vớt lên bằng cách nào đây?".
Ðoạn, khỉ
đột chúa nói: "Ta biết cách đem lên. Ta nắm cành cây, các ngươi nắm đuôi
ta, nối kết vào nhau, thì có thể vớt lên được".
Thế rồi,
các khỉ đột liền làm theo lời khỉ chúa, lần lượt nắm vào nhau, nhưng chưa tới
nước mà vì một chùm khỉ quá nặng còn cành cây thì yếu ớt nên bị gãy tiện. Thế
là, cả chùm khỉ đột đều rơi tõm vào trong giếng nước. Bấy giờ, thần cây liền
đọc kệ:
"Một
bầy thú lẩn thẩn
Ngu si nắm đuôi nhau
Tự mình gây khổ não
Làm sao cứu thế gian?".
Bấy giờ,
Phật liền nói với các Tỉ-kheo:"Con khỉ đột chúa thuở ấy, nay là Ðề Bà Ðạt
Ða, còn bầy khỉ đột lúc bấy giờ, nay là nhóm sáu Tỉ-kheo này. Ngày xưa đã từng
tùy thuận nhau mà chuốc lấy khổ não, rồi ngày nay cũng lại như thế".
Ðoạn, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Vương xá phải tập họp lại tất cả, rồi vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
--
"Nếu Tỉ-kheo đồng ý tương trợ nhau, hoặc một, hoặc hai, hoặc nhiều người
cùng nói, cùng ý kiến, muốn phá sự hòa hợp của Tăng (284b); khi các Tỉ-kheo
khuyên can Tỉ-kheo ấy, thì Tỉ-kheo đồng bọn nói: "Các trưởng lão chớ nói
về việc tốt xấu của Tỉ-kheo ấy, tại vì sao? Vì Tỉ-kheo ấy nói đúng pháp, nói
đúng luật. Những lời nói của Tỉ-kheo ấy chúng tôi đều chấp nhận, những ý kiến
và việc làm của Tỉ-kheo ấy chúng tôi đều chấp nhận. Tỉ-kheo ấy biết mới nói,
chứ không phải không biết mà nói".
Các
Tỉ-kheo phải khuyên can Tỉ-kheo đồng tình này như sau: "Các trưởng lão chớ
nên nói rằng: Tỉ-kheo ấy nói đúng pháp, nói đúng luật. Tại vì sao? Vì đó là
Tỉ-kheo nói phi pháp, nói phi luật. Các trưởng lão chớ nên trợ giúp việc phá
Tăng, mà nên vui vẻ tán trợ sự hòa hợp của Tăng. Tại vì sao? Vì Tăng hòa hợp,
hoan hỷ, không tranh cãi, cùng học một giới, như nước hòa với sữa, điều gì đúng
pháp thì nói là đúng pháp một cách rõ ràng thì mới sống an lạc. Các trưởng lão
nên bỏ việc phá Tăng ấy đi".
Nếu
Tỉ-kheo đồng bọn khi được các Tỉ-kheo khuyên can mà vẫn kiên trì không bỏ, thì
các Tỉ-kheo nên khuyên can lần thứ hai, thứ ba để ông ta bỏ việc ấy. Nếu khuyên
can đến lần thứ hai, thứ ba mà bỏ việc ấy thì tốt, nếu không bỏ thì phạm tội
Tăng Già Bà Thi Sa".
Giải
thích
- Tỉ-kheo:
Ở đây chỉ cho Ðề Bà Ðạt Ða.
- Tỉ-kheo
cùng nói, cùng ý kiến: Chỉ cho nhóm sáu Tỉ-kheo.
- Hoặc
một, hoặc hai, hoặc nhiều người cùng nói, cùng ý kiến: Hoặc có khi cùng
nói mà không cùng ý kiến, hoặc có khi cùng một ý kiến mà không cùng nói; hoặc
có khi cùng nói cũng cùng ý kiến; hoặc có khi không cùng nói cũng không cùng
một ý kiến.
- Cùng
nói mà không cùng ý kiến: Dùng lời nói để trợ giúp nhau, nhưng không
đồng ý kiến với người ấy; đó gọi là cùng nói mà không cùng một ý kiến.
- Cùng
ý kiến mà không cùng nói: Cùng chung ý kiến với người ấy mà không nói
giúp vào. Ðó gọi là cùng một ý kiến mà không cùng nói.
- Cùng
nói và cùng ý kiến: Hỗ trợ lời nói của người ấy, đồng thời cùng ý kiến
với họ. Ðó gọi là cùng nói cùng ý kiến.
- Chẳng
cùng nói cũng chẳng cùng ý kiến: Không tán trợ lời nói của người ấy,
cũng không cùng ý kiến. Ðó gọi là chẳng cùng nói cũng chẳng cùng ý kiến.
Trong
những trường hợp trên: Cùng nói chẳng cùng ý kiến và cùng nói cùng ý kiến, thì
đáng khiển trách.
- Cùng
nói và cùng chung ý kiến: Ðối với mười hai pháp (mười hai đoạn của bài
tựa giới kinh), Phật không chế mà chế ra, Phật đã chế mà khai ra, đó gọi là
cùng nói và cùng ý kiến. Lại nữa, đối với năm chúng tội, Phật không chế mà chế,
Phật đã chế bèn khai ra; đối với bốn chúng, ba chúng, hai chúng và một chúng
tội cũng thế, nghĩa là Phật không chế mà chế ra, Phật đã chế liền khai mở. Lại
nữa, đối với sáu pháp "Tác xả", Phật không chế mà chế ra, Phật đã chế
bèn khai mở. Ðó gọi là cùng nói cùng ý kiến. Trong trường hợp này, các Tỉ-kheo
nên khuyên can thầy Tỉ-kheo ấy rằng: "Trưởng lão đừng tham dự vào việc phá
sự hòa hợp của Tăng, rồi tìm đủ mọi cách để cùng nói và cùng đồng ý".
- Trong
khi các Tỉ-kheo khuyên can (284c) mà các Tỉ-kheo ấy vẫn kiên trì cố chấp vào
việc đó: Ðó là nhóm sáu Tỉ-kheo.
- Các
Tỉ-kheo: Hoặc là Tăng, hoặc là nhiều người, hoặc là một người vậy.
- Khuyên
can ba lần: Khuyên can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở giữa nhiều người
ba lần và khuyên can giữa chúng Tăng ba lần.
- Khuyên
can ở chỗ vắng: Chẳng hạn nói: "Các trưởng lão có thật tham dự vào
việc phá sự hòa hợp của Tăng, tạo phương tiện, cùng nói cùng chung ý kiến với
người đó chăng?"
Ðáp:
"Có thật như vậy!"
Lại nói:
"Trưởng lão! Ông chớ có tham dự vào việc phá sự hòa hợp của Tăng, rồi tạo
phương tiện cùng nói, cùng chung ý kiến với người đó. Vì phá Tăng là việc ác
rất lớn, sẽ rơi vào đường ác, chịu đau khổ lâu dài. Tôi nay vì từ tâm khuyên
can ông. Vậy ông nên bỏ việc đó đi. Lần khuyên can thứ nhất đã hết, còn hai lần
khuyên can nữa". Nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì lần thứ hai, lần thứ ba
cũng nói như thế. Khi khuyên can ở giữa nhiều người cũng như vậy. Rồi đến giữa
Tăng ba lần Yết ma khuyên can mà vẫn không đình chỉ, thì phạm tội Tăng Già Bà
Thi Sa.
- Tăng
Già Bà Thi Sa: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo ấy được khuyên can ở chỗ
vắng một lần mà không chấm dứt thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Lần thứ hai, thứ ba
cũng như vậy. Ðược khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần cũng như vậy. Nhưng nếu
ở giữa Tăng làm Yết ma khuyên lần đầu chưa xong mà không chấm dứt, thì phạm tội
Việt Tỳ Ni. Nhưng nếu nói xong (lần đầu) thì phạm tội Thâu Lan Giá. Lần Yết ma
thứ hai chưa xong mà không chấm dứt, thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Nếu nói xong, thì
phạm tội Thâu Lan Giá. Lần Yết ma thứ ba chưa xong mà không chấm dứt, thì phạm
tội Thâu Lan Giá. Nếu nói xong, thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.
Tội Tăng
Già Bà Thi Sa phát khởi từ khi khuyên can ba lần ở chỗ vắng (phạm tội Việt Tỳ
Ni) ba lần ở giữa nhiều người (cũng phạm tội Việt Tỳ Ni) và ở giữa chúng Tăng
phạm tội Thâu Lan Giá. Tất cả các tội ấy gộp lại thành một tội Tăng Già Bà Thi
Sa. Nếu giữa chừng mà đình chỉ, thì tùy theo đình chỉ ở chỗ nào mà theo đó trị
tội. Do đó đức Thế Tôn nói:
"Nếu Tỉ-kheo đồng tình hỗ trợ nhau, hoặc một, hoặc hai, hoặc nhiều người cùng nói, cùng ý kiến, rồi được Tăng khuyên can ba lần vẫn không bỏ, thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa".
(Hết
giới Tăng tàn thứ 11)
Khi Phật
an trú tại nước Câu xá Di, nói rộng như trên. Bấy giờ, trưởng lão Xiển Ðà ác
tánh, khó nói chuyện với thầy. Các Tỉ-kheo như pháp, như luật khuyên bảo, thì
thầy nói một cách bướng bỉnh: "Các trưởng lão chớ nói tôi hoặc tốt hoặc
xấu. Tôi cũng không nói các trưởng lão hoặc tốt hoặc xấu. Vì sao thế? Vì các
ông đều là dòng họ tạp nhạp, còn tôi là con nhà quan; ví như chim, quạ ngậm
những loại xương khác nhau cùng đậu tại một chỗ, thì làm sao khuyên bảo tôi về
các việc Phật Pháp Tăng. Từ khi tôi chấp nhận theo Bồ tát xuất gia, tôi thường
theo hầu ngài cho đến ngày nay, chỉ có Phật dạy tôi thì tôi mới vâng lời".
Khi ấy các Tỉ-kheo bèn nói với Xiển Ðà: "Trưởng lão! Các Tỉ-kheo đã khéo
nói về các việc vi phạm thuộc lãnh vực giới luật, (285a) thầy đừng có làm cho
mình thành người không ai có thể nói chuyện được, thầy nên làm người có thể nói
chuyện được. Trưởng lão! Thầy nên khuyên bảo các Tỉ-kheo đúng theo tinh thần
của giới luật và các Tỉ-kheo cũng theo đúng tinh thần của giới luật mà khuyên
bảo thầy. Vì sao vậy? Vì cùng nói chuyện, cùng bàn bạc, cùng khuyên nhủ, ai có
tội thì cùng phát lồ, có như thế chúng đệ tử của Như Lai mới lớn mạnh. Trưởng
lão hãy từ bỏ cái tật làm cho mình thành người không ai có thể nói chuyện được
đó đi".
Khuyên
can lần thứ nhất như vậy mà không bỏ, rồi khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba
cũng vẫn không bỏ, nên các Tỉ-kheo bèn đem nhân duyên ấy đến bạch Thế Tôn:
"Bạch Thế Tôn! Trưởng lão Xiển Ðà tự làm cho mình thành người không ai có
thể nói chuyện được, cho đến khuyên can ba lần vẫn không bỏ". Phật nói với
các Tỉ- kheo: "Ông Xiển Ðà này tự làm cho mình thành người không ai có thể
nói chuyện được, cho đến khuyên can ba lần vẫn không bỏ. Vậy các ông phải đi
đến chỗ vắng khuyên can ba lần. Nếu không bỏ, thì đến chỗ nhiều người khuyên
can ba lần. Nhưng nếu vẫn không đình chỉ thì phải đến giữa chúng Tăng làm pháp
Yết ma cầu thính, nên nói thế này:
"Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Trưởng lão Xiển Ðà này có tính xấu, khó cùng nói
chuyện. Các Tỉ-kheo như pháp khéo nói về các việc vi phạm thuộc lãnh vực giới
luật mà thầy lại tự làm cho mình thành người không ai có thể nói chuyện được.
Thế rồi
đã được khuyên can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần vẫn
không chấm dứt. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, nay nên khuyên can ở giữa
Tăng ba lần, khiến cho chấm dứt việc ấy".
Rồi
khuyên can ở giữa Tăng: "Trưởng lão Xiển Ðà! Có thật thầy có tính xấu khó
cùng nói chuyện, rồi các Tỉ-kheo như pháp như luật khuyên bảo mà thầy vẫn tự
làm cho mình thành người không ai có thể nói chuyện được, thậm chí đã được
khuyên can ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần mà vẫn không chấm dứt phải
không?" Nếu đáp: "Quả thật như vậy!", thì Tăng nên khuyên can:
"Trưởng lão! Thầy không nên có tính xấu khó cùng nói chuyện, nay các
Tỉ-kheo như pháp khéo nói về các việc vi phạm thuộc lãnh vực giới luật, thầy
đừng có tự làm cho mình thành người không ai có thể nói chuyện được", cho
đến: "Vì cùng nói chuyện, cùng bàn luận, cùng khuyên nhủ, ai có tội thì
cùng xuất tội, có như thế chúng đệ tử của Như Lai mới lớn mạnh". Nay Tăng
vì lòng từ khuyên can thầy là vì muốn được lợi ích. Một lần khuyên can đã xong,
còn hai lần khuyên can nữa thầy nên đình chỉ việc ấy". Nếu như không bỏ,
thì lần thứ hai, thứ ba cũng khuyên can như vậy. Thế nhưng thầy vẫn ngoan cố
không chấm dứt. Do đó, các Tỉ-kheo liền đem việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật
bảo: "Gọi Xiển Ðà đến đây".
Họ liền
đi gọi đến. Rồi Phật hỏi Xiển Ðà: "Có thật ông có tính xấu khó cùng nói
chuyện, thậm chí được khuyên can ở giữa chúng Tăng ba lần mà vẫn không chấm dứt
chăng?"Ðáp: "Có thật như vậy". Phật bèn khiển trách: "Xiển
Ðà, đó là việc xấu. Há ông không thường nghe ta dùng nhiều nhân duyên để chê
trách tính bướng bỉnh và khen ngợi tính không bướng bỉnh hay sao? Ðó là điều
phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy, không thể dùng (285b) việc đó để nuôi lớn
thiện pháp".
Thế rồi,
các Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao Tỉ-kheo Xiển Ðà này
lại tự phụ nói rằng: "Chỉ có Phật dạy, tôi mới nghe lời?". Phật liền
nói với các Tỉ-kheo: "Tỉ-kheo Xiển Ðà này không những ngày nay không chịu
nghe lời người khác, chỉ tin lời ta, mà trong thời quá khứ cũng đã từng như
vậy".
Các
Tỉ-kheo lại bạch với Phật: "Ðã từng có như vậy sao? Chúng con muốn được
nghe, mong Thế Tôn hãy nói".
Phật nói:
"Ðúng như vậy! Trong thời quá khứ có một trưởng giả ở thành Ba La Nại,
nước Già thi, ông ta có một đứa nô bộc tên A Ma Do tính tình hung ác. Bấy giờ,
trưởng giả cùng với những cậu con trai của các Bà la môn du hí tại viên lâm,
thì bọn người theo hầu đều ở cả bên ngoài cổng vườn. Khi ấy, A Ma Do đang ở
ngoài cổng vườn liền đánh bọn người theo hầu. Lúc ấy, mọi người theo hầu đều
báo lại với chủ mình. Thế rồi, những người con của các Bà la môn đều ra khiển
trách y. Nhưng A Ma Do không nghe lời họ, mà trả lời với những người con của
các Bà la môn rằng: "Ta không nghe lời các người. Khi nào chủ ta đến rầy
la ta, thì ta mới chịu nghe lời". Rồi y tiếp tục đánh không ngừng. Họ liền
đến báo với chủ của A Ma Do. Chủ của A Ma Do bình sinh có thiên nhãn, ông quan
sát thấy dưới chỗ đánh nhau có kho tàng vàng bạc, vì hung khí của chất vàng bạc
nên khiến chúng đánh nhau. Do vậy, ông bèn đến đó, la rầy tên nô bộc. Vì vậy, y
mới dừng lại".
Bấy giờ,
Phật liền nói với các Tỉ-kheo: "Ông trưởng giả thuở ấy đâu phải ai khác mà
chính là Ta đây, còn A Ma Do lúc đó, thì nay là Tỉ-kheo Xiển Ðà". Các
Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao ông Xiển Ðà này ỷ thế
Thế Tôn lăng mạ người khác?".
Phật nói:
"Này các Tỉ-kheo! Tỳ kheo Xiển Ðà không những ngày nay ỷ thế Ta khinh
thường người khác mà trong thời quá khứ cũng đã từng ỷ thế Ta khinh thường
người khác rồi".
Các
Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Ðã từng có như vậy sao?".
Phật nói:
"Ðúng như vậy. Trong thời quá khứ tại thành Ba La Nại, nước Già Thi có một
Bà la môn học rộng tên là Phất Lô Ê làm quân sư cho nhà vua. Ông thường dạy năm
trăm đồng tử học tập. Khi ấy, kẻ gia nô của ông vừa sinh được một bé trai tên
là Ca La Ha. Chủ nhà sai y phục dịch cho các đồng tử. Theo phép tắc của Bà la
môn thì những chủng tộc khác không được phép nghe (những giáo lý của họ), nhưng
vì tên nô bộc này gần gũi cung phụng các đồng tử, nên được ở gần họ. Do đó, khi
Bà la môn dạy các đồng tử, thì tên nô bộc sáng dạ này ghi nhớ hết những điều
ông giảng dạy. Thế rồi, một hôm, y có chút xích mích với các đồng tử, bèn bỏ
sang nước khác, mạo xưng mình là con trai của Bà la môn Phất Lô Ê, (285c) tên
Da Nhã Ðạt Ða, và nói với Bà la môn quân sư của quốc vương đó rằng: "Tôi
là con trai của Phất Lô Ê, quân sư của quốc vương Ba la nại, vừa mới đến đây,
muốn theo đại sư học giáo pháp của Bà la môn".
Thầy trả
lời rằng: "Có thể được!". Tên nô bộc này bản tính thông minh, trước
đã từng nghe, nay được nghe lại nên nghe đâu nhớ đó. Thế nên ông thầy rất vui,
bèn nói với y: "Ta có việc phải đi đến nhà vua, vậy ngươi hãy thay mặt ta
dạy dỗ năm trăm đồng tử môn đồ".
Vì ông
thầy Bà la môn này không có con trai mà chỉ có một cô con gái, nên suy nghĩ:
"Nay ta có thể gả con gái cho Da Nhã Ðạt Ða, vì nó ở trong nhà ta cũng như
con trai ta".
Nghĩ thế,
liền nói: "Da Nhã Ðạt Ða hãy nghe ta nói đây!".
Ðáp:
"Xin vâng lời!".
Thầy liền
nói: "Ngươi chớ trở về Ba la nại mà hãy ở lại nước này. Nay ta sẽ gả con
gái ta cho ngươi". Ðáp: "Xin vâng lời".
Ông bèn
gả con. Cô gái này cùng sống với chồng tại nhà mình, khiến gia đình dần dần trở
nên giàu có. Nhưng Da Nhã Ðạt Ða vốn là con người khó tính, cô vợ làm thức ăn
chua ngọt, mặn nhạt, sống chín không thể nào vừa miệng y, cho nên y thường ôm
lòng tức giận. Thấy thế, cô vợ thường suy nghĩ: "Phải chi có người nào từ
Ba la nại đến, ta sẽ theo họ học phương pháp nấu ăn, rồi ta áp dụng nấu nướng
cung phụng chồng ta".
Ông Bà la
môn Phất Lô Ê nghe được sự tình ấy, liền suy nghĩ: "Tên nô bộc Ca La Ha
của ta đã trốn sang nước khác, ta phải đến đó bắt về, may ra được lại nó".
Thế rồi, ông đi đến nước ấy. Lúc bấy giờ, Da Nhã Ðạt Ða cùng các học trò đang
đi đến công viên dạo chơi, giữa đường y bỗng thấy chủ cũ từ xa, nên hoảng sợ,
nói nhỏ với môn đồ: "Này các đồng tử! Các người hãy trở về, ai nấy lo việc
học bài".
Khi các
học trò đi rồi, y bèn đến trước mặt chủ, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, bạch với
chủ rằng: "Con đến nước này nói với họ rằng đại gia là phụ thân con, rồi
tôn vị quốc sư là Bà la môn học rộng làm thầy để học các Kinh điển cao cấp.
Thầy Bà la môn ấy bèn đem con gái gả cho con làm vợ. Hiện giờ mong đại gia chớ
nói rõ sự thật của con. Con sẽ phụng sự đại gia như đầy tớ đối với chủ".
Ông Bà la
môn này vốn là người hiểu rõ sự đời, liền đáp: "Ngươi thật là con ta, hà
tất phải nhiều lời. Nhưng phải tạo điều kiện để ta trở về sớm". Tên đầy tớ
bèn đưa ông về nhà giới thiệu với mọi người trong nhà: "Phụ thân tôi vừa
mới đến".
Người vợ
rất vui mừng, bèn sửa soạn các thức ăn uống dâng lên thiếch đãi. Sau khi ăn
xong, lựa lúc nhàn rỗi, cô bèn lén đảnh lễ dưới chân Bà la môn, hỏi rằng:
"Con phụng sự chồng con là Da Nhã Ðạt Ða, thường dâng các thức ăn uống,
nhưng chàng không vừa ý, (286a) xin đại gia chỉ dạy. Lúc còn ở nhà chồng con
thường ăn những thứ gì, để con làm các thức ẩm thực giống như khi trước".
Khách Bà
la môn bèn nổi giận, nhưng kiềm chế, suy nghĩ: "Cái thằng chết bầm, làm
khốn khổ con gái người ta như thế đó!", bèn nói với cô ấy: "Con hãy
sắp đặt cho ta trở về sớm, đến lúc sắp đi, ta sẽ dạy con một bài kệ. Khi con
đọc kệ ấy, sẽ khiến chồng con không thể nói nữa".
Ðoạn, cô
ta bèn nói với chồng: "Ông cụ Bà la môn từ xa đến, vậy hãy sớm tiễn ông ta
trở về".
Anh chồng
liền suy nghĩ: "Ðúng như vợ ta nói, phải sớm tiễn ông ta trở về, không
khéo ở lâu ngày lỡ nói năng sơ suất, sẽ tổn hại đến ta không ít".
Rồi anh
ta xuất ra nhiều tiền đưa cho vợ bảo sắm thức ăn và đích thân cung phụng để mua
chuộc tình cảm của chủ. Sau khi dâng thức ăn xong, cô vợ bèn đảnh lễ từ biệt
ông già và xin bài kệ ông đã hứa trước kia. Ông liền đọc bài kệ để dạy cho cô:
"Cô
độc tới tha phương
Lừa dối người thiên hạ
Trước ăn thức ăn thô
Ðâu có chê ngon dở?"
Rồi bảo:
"Nay ta dạy con bài kệ này, nếu khi nào nó giận dữ chê thức ăn dở, thì con
hãy đứng gần nó, quay lưng lại, đọc nhỏ cho nó nghe".
Dạy như
thế rồi, ông bèn trở về lại bản quốc. Khi Da Nhã Ðạt Ða tiễn chủ đi rồi, mỗi
lần đến bữa ăn, y lại nổi giận. Cô vợ bèn đứng bên cạnh chồng đọc lên bài kệ
ấy. Khi y nghe kệ rồi, lòng thấy không vui, liền suy nghĩ: "Ôi! Ông già
quái ác này, phanh phui chuyện xấu của ta".
Thế nên,
từ đó trở đi, y thường nói năng nhã nhặn, vì sợ cô vợ nói với người khác về sự
ám muội của mình.
Bấy giờ,
Phật liền nói với các Tỉ-kheo: "Bà la môn Phất Lô Ê của nước Ba La Nại
thuở ấy nào phải là ai khác mà chính là Ta đây, còn tên nô bộc Ca La Ha lúc ấy
thì nay là Tỉ-kheo Xiển Ðà vậy. Thuở ấy, Y đã từng ỷ thế Ta mà lăng mạ người
khác, thì nay y lại ỷ thế Ta mà khinh miệt tha nhân".
Ðoạn Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại Câu Xá Di phải tập họp lại tất cả, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại và chế giới:
--"Nếu
Tỉ-kheo nói những lời hung ác, rồi được các Tỉ-kheo như pháp như luật khuyên
can, bèn nói một cách bướng bỉnh: "Các ông chớ nói với tôi hoặc tốt hoặc
xấu, tôi cũng không nói với các ông hoặc tốt hoặc xấu", thì các Tỉ-kheo
phải khuyên can Tỉ-kheo này rằng: "Trưởng lão! Các Tỉ-kheo như pháp như
luật khuyên bảo, thầy chớ có bướng bỉnh mà nên vâng lời. Thầy cũng như pháp như
luật mà khuyên bảo các Tỉ-kheo. Vì sao vậy? Vì các đệ tử của đức Như Lai có chỉ
bảo lẫn nhau, khuyên can lẫn nhau. Ai có tội thì cùng (286b) phát lồ, thì thiện
pháp mới tăng trưởng".
Khi
các Tỉ-kheo khuyên can Tỉ-kheo ấy nên bỏ việc đó, nhưng nếu không bỏ thì phải
khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba. Nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phạm tội
Tăng Già Bà Thi Sa".
Giải
thích
- Tỉ-kheo
dùng những lời nói bướng bỉnh: Chỉ cho Tỉ-kheo Xiển Ðà.
- Các
Tỉ-kheo như pháp, như luật khuyên bảo: Ðó là: Bài tựa của giới, bốn
pháp Ba La Di, mười ba pháp Tăng Già Bà Thi Sa, hai pháp Bất Ðịnh, ba mươi pháp
Ni Tát Kỳ Ba Dạ Ðề, chín mươi hai pháp Ba Dạ Ðề, bốn pháp Ba La Ðề Ðề Xá Ni,
pháp Chúng học, bảy pháp Diệt Tránh, pháp Tùy Thuận; dùng các pháp luật này mà
khuyên bảo lẫn nhau. Lại dùng năm Chúng Tội, bốn chúng tội, ba Chúng Tội, hai
Chúng Tội, một Chúng Tội và sáu pháp Tác Xả để khuyên bảo lẫn nhau. Lại dùng
các tội Ba La Di, Tăng Già Bà Thi Sa, Ba Dạ Ðề cho đến tội Việt Tỳ Ni, có thật
chứ không phải không có thật, đúng lúc chứ không phải không đúng lúc, có lợi
ích chứ không phải không có lợi ích, nói nhã nhặn chứ không phải nói thô lỗ, vì
từ tâm chứ không phải cố ý vạch lỗi; đó gọi là như pháp, như luật khuyên bảo
lẫn nhau.
- Thầy
Tỉ-kheo ấy: Tức là Xiển Ðà.
- Các
Tỉ-kheo: Ðó là một người, nhiều người và chúng Tăng.
- Ba
lần khuyên can: Khuyên can ba lần ở chỗ vắng, khuyên can ba lần ở chỗ
nhiều người, và khuyên can ba lần ở giữa chúng Tăng.
- Chỗ
vắng: Người khuyên can ở chỗ vắng nên hỏi như sau: "Trưởng lão!
Thầy có thật dùng những lời nói ngang bướng, rồi các Tỉ-kheo như pháp, như luật
khuyên can, thì thầy tỏ ra ương ngạnh chăng?"Nếu đáp: "Có thật như
vậy", thì liền khuyên can: "Trưởng lão! Thầy chớ có dùng những lời
nói ngang bướng. Khi các Tỉ-kheo như pháp, như luật khuyên can thì thầy nên
nghe lời, thầy chớ có tỏ ra ương ngạnh..., cho đến "khuyên bảo lẫn nhau
thì thiện pháp được tăng trưởng. Tôi nay vì lòng từ khuyên bảo thầy nên bỏ việc
ấy đi. Một lần khuyên can đã xong, còn hai lần khuyên can nữa". Nếu không
bỏ, thì lần thứ hai, thứ ba cũng khuyên can như thế. Rồi lại khuyên can ở chỗ
nhiều người cũng như thế. Nhưng nếu vẫn
không chấm dứt, thì phải đem đến giữa Tăng làm pháp Yết ma cầu thính, tác bạch
như sau:
"Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Thầy Tỉ-kheo mổ giáp này dùng những lời nói ngang
bướng, rồi các Tỉ-kheo như pháp, như luật khuyên bảo vẫn không nghe lời. Ông đã
được khuyên can ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần mà vẫn không chấm
dứt. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, nay nên khuyên can ở giữa Tăng ba
lần khiến cho thầy chấm dứt việc ấy".
Bấy giờ,
Tăng liền hỏi: "Trưởng lão có thật dùng những lời nói ngang bướng, rồi các
Tỉ-kheo như pháp, như luật khuyên bảo mà không nghe lời, lại được khuyên can ở
chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần mà vẫn ngoan cố không nghe lời phải
không?" (286c) Nếu đáp: "Có thật như vậy", thì Tăng nên khuyên
can: "Trưởng lão chớ có tỏ ra ương ngạnh. Các Tỉ-kheo đã như pháp, như
luật khuyên can, cho đến "khuyên bảo lẫn nhau thì thiện pháp được tăng
trưởng". Nay Tăng vì lòng từ khuyên can thầy là muốn được lợi ích, vậy
thầy nên nghe lời chúng Tăng mà bỏ việc ấy đi. Tăng khuyên can một lần đã xong,
còn hai lần khuyên can nữa". Nếu không chấm dứt thì phải khuyên can đến
lần thứ hai, thứ ba, nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ, thì phạm tội Tăng Già Bà Thi
Sa.
- Tăng
Già Bà Thi Sa: Như trên đã nói. Nếu Tỉ-kheo ấy đã được khuyên can ở chỗ
vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần mà không chấm dứt thì mỗi lần khuyên can
phạm mỗi tội Việt Tỳ Ni. Khi khuyên can ở giữa Tăng lần đầu chưa xong thì phạm
tội Việt Tỳ Ni, khi Yết ma lần đầu xong thì phạm tội Thâu Lan Giá. Khi Yết ma
lần thứ hai chưa xong cũng phạm tội Việt Tỳ Ni, và khi xong thì phạm tội Thâu
Lan Giá. Nhưng khi Yết ma lần thứ ba chưa xong thì phạm tội Thâu Lan Giá và khi
nói xong thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.
Tội Tăng
Già Bà Thi Sa khởi đi từ lúc khuyên can ở chỗ vắng, cho đến khuyên can ở giữa
chúng Tăng có các tội Việt Tỳ Ni, Thâu Lan Giá, gộp tất cả các tội ấy thành một
tội Tăng Già Bà Thi Sa.
Nếu trường hợp đình chỉ nửa chừng, thì tùy theo đình chỉ ở chỗ nào trị tội ở chỗ đó. Thế nên đức Thế Tôn nói:
"Nếu
Tỉ-kheo tự mình nói những lời ngang bướng, cho đến khuyên can ba lần mà không
bỏ thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa".
(Hết
giới Tăng tàn thứ 12)
Khi Phật
an trú tại thành Xá vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, nhóm sáu Tỉ-kheo ở tại thôn
Ca Thi Hắc Sơn làm các việc trái oai nghi: thân trái oai nghi, miệng trái oai
nghi, thân miệng trái oai nghi.
- Thân
trái oai nghi: Hoặc chạy đi, chạy lại, hoặc nhảy nhót, đi lẩn quẩn, đi xà lui,
đi khúm núm, hoặc gõ bồn cười đùa, hoặc cõng nhau, dùng cái thân làm các trò
đùa như thế gọi là thân trái oai nghi.
- Miệng
trái oai nghi: Giả tiếng voi kêu, lạc đà kêu, trâu rống, dê kêu, tiếng ngắn,
tiếng dài, hoặc vểnh tai lên nghe; tạo ra các âm thanh như thế để đùa cợt.
- Thân,
miệng trái oai nghi: Vẽ loang lổ trên mình, nửa bên trắng, bôi mặt đen, nhuộm
tóc trắng, nhịp trống đánh đàn, gõ nhịp nhảy múa.v.v...
Bấy giờ,
các Ưu bà tắc đi đến các Tỉ-kheo muốn lễ bái, nghe pháp, trông thấy việc như
thế nên lòng không vui, liền nói: "Thưa thầy! Pháp của Sa môn là làm các
việc thiện, khiến cho những người không tin sinh niềm tin, những người đã tin
càng thêm tin tưởng, mà nay các thầy làm đều phi pháp, chỉ làm cho người không
tin càng thêm bất tín, người đã tin thêm tổn hại".
Nhóm sáu
Tỉ-kheo liền nổi giận nói: "Ngươi là thầy Ta, là Hòa thượng của ta chắc!
(287a) Ðó là điều nghịch lý. Lẽ ra ta phải dạy bảo ngươi, trái lại ngươi lại
dạy bảo ta!". Sự giận dữ ấy càng tăng mạnh, làm cho thân tổn hại, thân
miệng tổn hại.
- Thân
tổn hại: Họ đi vào nhà Ưu bà tắc lôi mấy đứa bé ra vả tát, đánh đấm, đập vỡ đồ
dùng, bẽ gãy chân bò nghé, đâm thủng mắt dê, rồi vào trong cửa hàng của họ tại
chợ đổ lộn xà ngầu các thứ: Thóc gạo, tiểu mạch, đại mạch, muối, bún, sữa, dầu,
sữa chua không còn phân biệt được nữa. Rồi họ ra ngoài đồng ruộng, những đám
lúa non cần nước thì họ xả nước cho khô, những đám không cần nước thì họ xả
nước vào cho ngập, cắt phá lúa non, đốt cháy lúa chín. Ðó gọi là thân tổn hại.
- Miệng
tổn hại: Ði đến nhà vua dèm pha người tốt, vu cáo kẻ lương thiện. Ðó gọi là
miệng tổn hại.
- Thân
miệng tổn hại: Núp vào chỗ khuất để hù nhát người khác, lôi kéo kẻ vô tội. Ðó
gọi là thân miệng tổn hại.
Do thế,
các Ưu bà tắc nổi giận nói: "Sa môn con dòng họ Thích mà làm các việc phi
pháp, từ nay trở đi chúng ta đừng cúng dường cho họ nữa".
Bấy giờ,
Tỉ-kheo ấy cầm bát đi khất thực, gia đình kia trông thấy thầy, vẫn cho thức ăn
như trước nên không đến nỗi vất vả lắm. Thấy thế, các Ưu bà tắc bèn giao ước
với nhau: "Sa môn con dòng họ Thích đã làm việc bạo ác như thế, từ nay
chúng ta đừng cho họ vào cửa nữa". Thế rồi, Tỉ-kheo ấy bèn đến những nhà
không có tín tâm khất thực. Ban đầu họ vẫn cho thức ăn, nhưng sau đó họ nghe
các Ưu bà tắc cắt đứt không cho thức ăn nữa, họ nghĩ: "Nhất định đó là kẻ
ác, vì sao ta lại cho thức ăn?". Do đó họ không cho vào cửa nữa.
Vì vậy
các Tỉ-kheo ấy bèn làm các việc thân tà mạng, khẩu tà mạng, thân khẩu tà mạng.
- Thân tà
mạng: Làm bình đựng nước, làm đồ dùng bằng gỗ để bán, làm bình đựng sữa, làm
túi da, dệt sợi, đan lưới, may áo, học làm bánh rồi đem bán, học bán thuốc, làm
liên lạc cho người, làm các việc như vậy để mưu sinh, đó gọi là thân tà mạng.
- Khẩu tà
mạng: Tụng đọc các chú thuật, như chú rắn, chú rồng, chú quỉ, chú bệnh, chú
nước, chú lửa.v.v.., làm các việc như vậy để mưu sinh, đó gọi là khẩu tà mạng.
- Thân
khẩu tà mạng: Tay tự nhiên bốc lửa, miệng niệm chú thuật, tay rưới sữa dầu, rải
tung những hạt cải, làm các việc như vậy để mưu sinh, đó gọi là thân khẩu tà
mạng.
Bấy giờ,
các Ưu bà tắc ở thôn Hắc Sơn đi đến thành Xá vệ để giải quyết các việc quan.
Sau khi xong việc, họ bèn đi đến Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Phật rồi đứng qua
một bên, bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Chúng con là những Ưu bà tắc tại
thôn Hắc Sơn. Nhóm sáu Tỉ-kheo ở tại thôn này làm những việc phi pháp (nói rõ
như trên), kính xin Thế Tôn hãy kiềm chế họ, khiến họ không ở thôn này nữa thì
tốt".
(287b)
Bấy giờ Thế Tôn tùy thuận thuyết pháp dạy dỗ các Ưu bà tắc, khiến họ được lợi
ích, hoan hỉ, rồi họ đảnh lễ mà đi. Thế rồi, đức Thế Tôn bảo A Nan: "Ông
hãy đến thôn Hắc Sơn làm pháp Yết ma khu xuất nhóm sáu Tỉ-kheo".
A Nan
liền bạch với Phật: "Con không dám đi".
Phật hỏi:
"Vì cớ gì?".
A Nan
đáp: ‘ Bạch Thế Tôn! Nhóm sáu Tỉ-kheo tính tình thô tháo, hung bạo, nếu con đến
đó thì cũng giống như các nông phu trồng mía đang chở mía từ ruộng về nhà, bỗng
gặp lũ trẻ từ trong xóm đi ra, rồi chúng chạy ùa lại giựt lấy mía mà tìm một
chỗ khuất để ăn. Nhóm sáu Tỉ-kheo này cũng như vậy. Nếu nghe con đến, ắt họ sẽ
đón đường con làm những việc phi pháp; hoặc làm pháp Yết ma khu xuất con. Thế
nên con khó mà đi được".
Phật liền
bảo A Nan: "Vậy thì ông hãy đi cùng với ba mươi người nữa, thì có thể
chiết phục được họ".
Khi ấy, A
Nan cùng với ba mươi người thứ tự trước sau đi đến thôn Hắc Sơn. Lại có ba mươi
Tỉ-kheo khác nghe tôn giả A Nan tới thôn Hắc Sơn, bèn bảo nhau: "Tôi chưa
từng nghe pháp Yết ma khu xuất, vậy chúng ta nên theo A Nan đến thôn ấy để nghe
pháp Yết ma khu xuất". Thế rồi, họ kết hợp với ba mươi người trước thành
ra sáu mươi Tỉ-kheo, một đoàn vui vẻ cùng đi.
Khi ấy,
nhóm sáu Tỉ-kheo nghe tôn giả A Nan với sáu mươi người nữa cùng kết làm bè bạn
đi đến làm pháp Yết ma khu xuất họ, nên họ đâm ra sợ hãi. Do vậy Tam Văn Ðà Ðạt
Ða, Ma Ê Sa Ðạt Ða bèn chạy tới thôn Vương Ðạo; còn trưởng lão Xiển Ðà và Ca
Lưu Ðà Di đi một do tuần để đón tiếp tôn giả A Nan và sám hối rằng:
"Trưởng lão! Những việc làm của chúng tôi là bất thiện, phạm các tội lỗi,
từ nay trở đi chúng tôi không dám tái phạm nữa". Lúc bấy giờ, Tăng chúng
nhận sự sám hối ấy, rồi tôn giả A Nan đi tiếp đến thôn ấy. Ở đây, ngoài hai
người đã sám hối xong, hai người chạy trốn, còn những người khác đang ở đó, tôn
giả bèn làm pháp Yết ma khu xuất. Vì đức Thế Tôn không cho phép chúng (Tăng)
làm Yết ma với chúng (Tăng) mà chỉ cho phép chúng Tăng làm Yết ma với hai, ba
người mà thôi. Khi làm Yết ma, người làm Yết ma phải nói như sau:
"Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Các Tỉ-kheo mổ giáp này ở tại thôn này, thường có những
hành vi trái oai nghi mà không chấm dứt, người đạo kẻ tục đều biết cả. Nếu thời
gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nên làm Yết ma khu xuất các Tỉ-kheo mỗ giáp
có hành vi trái oai nghi này".
Rồi bạch
như sau:
"Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Các trưởng lão Tỉ-kheo mỗ giáp kia thường có các hành
vi trái oai nghi mà không chấm dứt, kẻ đạo người tục đều biết. Nay Tăng làm
pháp Yết ma khu xuất các Tỉ-kheo mỗ giáp ấy. Các đại đức nào đồng ý thì im lặng
(287c), ai không đồng ý hãy nói".
Khi Yết
ma xong lần thứ nhất tiếp đến làm Yết ma lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế.
Cuối cùng kết thúc:
"Tăng
đã làm xong pháp Yết ma khu xuất các Tỷkheo mổ giáp có các hành vi trái oai
nghi, vì Tăng đã đồng ý nên im lặng. Việc này cứ theo đó mà thi hành".
Các pháp
Yết ma miệng trái oai nghi cũng làm như thế. Ðồng thời, thân tổn hại, miệng tổn
hại, thân miệng tổn hại cũng làm như thế. Thân tà mạng, miệng tà mạng, thân
miệng tà mạng cũng như thế.
Sau khi
nói ba lần Yết ma, các Tỉ-kheo trong nhóm sáu Tỉ-kheo bị khu xuất bèn nói với
các Tỉ-kheo: "Tỉ-kheo Xiển Ðà, Tỉ-kheo Ca Lưu Ðà Di cũng làm điều phi
pháp, vì sao chỉ đuổi chúng tôi mà không đuổi họ?". Chúng Tăng bèn nói với
mấy người đó: "Vì hai Tỉ-kheo ấy đã đi một do tuần nghinh đón chúng Tăng
mà sám hối và chúng Tăng đã nhận sự sám hối của họ. Còn Tam Văn Ðà Ðạt Ða và Ma
Ê Sa Ðạt Ða thì đã chạy sang thôn Vương Ðạo trốn thoát. Trong khi các ông hiện
diện nơi đây, đã không nghinh đón chúng Tăng để sám hối, cũng không bỏ chạy,
cho nên phải làm Yết ma khu xuất".
Họ lại
nói: "Thưa trưởng lão! Tăng nay tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si,
cùng có tội như nhau mà kẻ thì bị đuổi đi, người thì không đuổi". Các
Tỉ-kheo bèn khuyên can: "Trưởng lão chớ đem điều phi lý mà hủy báng Tăng.
Tăng không tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si, cũng không phải đối với
những người đồng tội mà có người thì đuổi đi, người thì không đuổi đi".
Khi các
Tỉ-kheo khuyên can như vậy mà họ vẫn ngoan cố không chấm dứt, nên phải khuyên
can đến lần thứ hai, thứ ba, thế nhưng họ vẫn kiên trì không chấm dứt. Bấy giờ
tôn giả A Nan bèn tùy thuận thuyết pháp cho các Ưu bà tắc khiến họ hoan hỉ cúng
dường chúng Tăng trở lại như trước. Rồi tôn giả cùng đại chúng chuẩn bị trở về
lại Xá Vệ.
Khi ấy
các Tỉ-kheo bèn thưa với tôn giả A Nan: "Nay Tăng trở về hết, thì cảnh Già
Lam này giao cho ai trông coi?".
A Nan
hỏi: "Thế thì nên để ai ở lại trông coi?".
Các
Tỉ-kheo nói: "Nên để trưởng lão Xiển Ðà ở lại".
A Nan lại
nói: "Xiển Ðà trước đây đã có lỗi khiến người ta không tin, làm sao có thể
ở lại được?".
Tôn giả
bèn bổ nhiệm một Tỉ-kheo khác, rồi trở về thành Xá Vệ, đảnh lễ chân Thế Tôn,
đứng hầu một bên. Thế Tôn biết nhưng vẫn hỏi: "A Nan! Các ông đã làm pháp
Yết ma khu xuất tại thôn Hắc Sơn xong rồi ư?".
Ðáp:
"Ðã làm xong, bạch Thế Tôn! Tỉ-kheo Xiển Ðà và Ca Lưu Ðà Di đi cả một do
tuần nghinh đón chúng Tăng để sám hối, còn Tam Văn Ðà Ðạt Ða và Ma Ê Sa Ðạt Ða
thì chạy đến thôn Vương Ðạo. Ngoài ra, các Tỉ-kheo khác không tới sám hối, cũng
không bỏ chạy, nên chúng Tăng đã làm Yết ma khu xuất. Thế nhưng, họ thấy Xiển
Ðà và Ca Lưu Ðà Di không bị (288a) khu xuất, nên đã hủy báng chúng Tăng một
cách phi lý rằng: "Tăng tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si, cùng phạm
tội như nhau mà có người thì đuổi đi, người thì không đuổi".
Phật nói
với các Tỉ-kheo: "Nếu nhóm sáu Tỉ-kheo vô lý hủy báng chúng Tăng rằng:
"Tăng tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si, cùng phạm tội như nhau mà có
người thì đuổi đi, có người thì không đuổi", thì các ông nên khuyên can ở
chỗ vắng ba lần, chỗ nhiều người ba lần, rồi đến giữa chúng Tăng khuyên can ba
lần, khiến cho họ bỏ việc ấy.
Khi ở chỗ
vắng nên hỏi: "Các ông vì phân bì với Tỉ-kheo Xiển Ðà và Ca Lưu Ðà Di mà
vô lý hủy báng chúng Tăng rằng: "Tăng tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy
si, cùng phạm tội như nhau mà có người thì đuổi đi, có người thì không
đuổi", có phải thế chăng?".
Nếu đáp:
"Có thật như vậy", thì nên khuyên can ở chỗ vắng rằng: "Trưởng
lão! Chớ vô lý hủy báng chúng Tăng. Vì sao vậy? Vì chúng Tăng không tùy thương,
tùy giận, tùy sợ và tùy si, cũng không phải đối với những người cùng phạm tội
mà có người thì đuổi, có người thì không đuổi. Các ông chớ nói rằng chúng Tăng tùy
thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si. Trưởng lão! Nay tôi vì lòng từ khuyên can
các ông là vì muốn được lợi ích, vậy hãy bỏ việc ấy đi. Một lần khuyên can đã
xong, còn hai lần khuyên can nữa". Nếu họ không bỏ, thì lần thứ hai, thứ
ba cũng khuyên can như vậy. Rồi khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần. Nhưng nếu
vẫn không chấm dứt, thì nên đến giữa chúng Tăng làm pháp Yết ma cầu thính.
Người làm Yết ma nên nói như sau:
"Ðại
đức Tăng xin lắng nghe! Nhóm sáu Tỉ-kheo này đã vô lý hủy báng chúng Tăng, rồi
đã được khuyên can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần mà
vẫn không chấm dứt. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, nay ở giữa chúng Tăng
nên khuyên can ba lần khiến họ chấm dứt việc ấy".
Thế rồi ở
giữa chúng Tăng hỏi các Tỉ-kheo ấy: "Các ông có thật vô lý hủy báng Tăng,
rồi được khuyên can ba lần ở chỗ vắng, khuyên can ba lần ở chỗ nhiều người mà
vẫn không chấm dứt chăng?".
Nếu đáp:
"Có thật như vậy", thì Tăng nên khuyên
rằng: "Trưởng lão! Chớ vô lý hủy báng chúng Tăng. Vì sao thế? Vì Tăng không
có tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si, cũng không phải đối với những người
đồng phạm tội mà có người thì đuổi, có người thì không đuổi. Nay Tăng vì lòng
từ khuyên can các ông là muốn được lợi ích. Vậy các ông nên bỏ việc ấy đi. Một
lần khuyên can đã xong còn hai lần khuyên can nữa". Nếu họ không chấm dứt,
thì lần thứ hai, thứ ba cũng khuyên can như vậy. Thế nhưng họ vẫn ngoan cố
không chấm dứt. Do đó, các Tỉ-kheo bèn đem nhân duyên ấy bạch đầy đủ lên Thế
Tôn: "Nhóm sáu Tỉ-kheo đã được khuyên can ba lần ở chỗ vắng, cho đến
khuyên can ba lần ở giữa chúng Tăng mà vẫn ngoan cố không bỏ".
Phật bảo:
"Gọi nhóm sáu Tỉ-kheo đến".
Khi họ
đến rồi, Phật bèn hỏi nhóm sáu Tỉ-kheo: "Có thật các ông vô lý hủy báng
Tăng, rồi được khuyên can ở chỗ vắng ba lần, cho đến khuyên ở giữa chúng Tăng
ba lần màï vẫn ngoan cố không chấm dứt phải không?".
Ðáp:
"Có thật như vậy, bạch Thế Tôn!".
(288b)
Phật bèn nói với nhóm sáu Tỉ-kheo: "Ðó là việc ác. Các ông há chẳng nghe
Ta thường khen ngợi tính dễ khuyên bảo và chê trách tính khó khuyên bảo hay
sao? Nay vì sao các ông lại khó khuyên bảo, kiên trì không xả bỏ? Này nhóm sáu
Tỉ-kheo! Ðó là điều phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy. Không thể dùng việc đó
để nuôi lớn thiện pháp".
Khi ấy,
các Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Do đâu nhóm sáu Tỉ-kheo này
chỉ vì Xiển Ðà và Ca Lưu Ða Di không bị đuổi mà vô lý hủy báng chúng Tăng?"
Phật nói:
"Nhóm sáu Tỉ-kheo này không những ngày nay vô lý hủy báng chúng Tăng mà
trong thời quá khứ cũng đã từng vô lý hủy báng người khác".
Các Tỉ-kheo
hỏi: "Ðã từng có như vậy sao?"
Phật đáp:
"Ðã từng có như vậy!"
Các
Tỉ-kheo nói: "Xin Thế Tôn hãy kể lại, chúng con muốn nghe".
Phật nói:
"Trong thời quá khứ có một thành phố tên Ba La Nại, nước tên Già Thi. Bấy
giờ, trong nhà của vua có nuôi hai con chó, nhà vua dùng vàng, bạc làm dây buộc
chúng và dùng châu báu đựng thức ăn cho chúng. Ban đêm, người ta mở dây thả ra
để cho chúng giữ cửa ngõ. Bấy giờ, nhà vua bị chứng bệnh đau đầu, chữa trị đã
mười hai năm mà không bớt, nhưng sau đó đã tạm bớt. Rồi trong khi ngủ, nhà vua
nghe tiếng chó sủa khiến ông kinh sợ thức giấc, do đó, chứng đau đầu ngày càng
tăng thêm. Bấy giờ, vua liền hỏi người hầu cận: "Vừa rồi có tiếng gì vậy?"
Ðáp:
"Tiếng chó sủa đó".
Vua liền
nổi giận ra lệnh kẻ hầu cận đuổi hết các con chó đang có mặt (trong thành phố).
Họ bèn theo lệnh đuổi hết chúng đi. Bấy giờ, có một con chó hỏi người đuổi nó:
"Vì sao đuổi tôi?"
Người
đuổi đáp: "Nhà vua vừa hơi bớt bệnh, thì trong giấc ngủ nghe tiếng chó sủa
khiến vua kinh hãi thức giấc, nên bệnh lại gia tăng, do đó mà đuổi ngươi".
Chó lại
hỏi: "Tất cả chó đều bị đuổi hết phải chăng?"
Ðáp:
"Ðều đuổi hết".
Lại hỏi:
"Hai con chó trong nhà của vua cũng bị đuổi chăng?"
Ðáp:
"Hai con chó trong nhà của vua không bị đuổi".
Chó liền
giận dữ nói: "Ông vua này vô đạo, tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy
si".
Rồi nó
đọc kệ:
"Nếu
bảo chó nguy hại
Thì nên đuổi tất cả
Mà nay không đuổi hết
Thế là vua vô đạo
Nhà mình nuôi hai con
Không đuổi mà đuổi ta
Mới biết ác vương này
Tùy thương, giận, sợ, si".
Phật nói
với các Tỉ-kheo: "Chó của nhà vua thuở ấy nay là Tỉ-kheo Xiển Ðà và Ca Lưu
Ðà Di, còn các con chó khác nay là những Tỉ-kheo còn lại trong nhóm sáu
Tỉ-kheo. Khi ấy, do thấy hai con kia không bị đuổi mà chúng bị đuổi nên đã vô
lý phỉ báng, ngày nay bị đuổi lại cũng như thế".
Vì hai
Tỉ-kheo Xiển Ðà và Ca Lưu Ðà Di không bị đuổi nên các Tỉ-kheo kia vô lý hủy
báng Tăng (288c), do đó các Tỉ-kheo bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao
mọi người muốn cử Tỉ-kheo Xiển Ðà làm tri sự mà A Nan không đồng ý?"
Phật nói
với các Tỉ-kheo: "Không những ngày nay Tỉ-kheo Xiển Ðà muốn làm tri sự mà
A Nan không đồng ý, mà trong thời quá khứ cũng đã từng muốn được cử làm vua mà
A Nan không đồng ý".
Các
Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Ðã từng có như vậy sao?"
Phật nói:
"Ðúng như vậy!"
Các
Tỉ-kheo bạch: "Chúng con muốn được nghe, mong Thế Tôn hãy kể lại".
Phật nói:
"Trong thời quá khứ, tại một ngọn đồi dưới chân núi Tuyết có một chỗ nắng
ấm, nhiều loài chim qui tụ về đó cùng bàn bạc: "Ngày nay, chúng ta hãy cử
một con chim làm vua để cho các con chim sợ uy, không dám làm việc phi
pháp".
Các con
chim nói: "Tốt! Nhưng ai nên làm vua?"
Có một
con chim nói: "Nên cử Hồng hộc".
Một con
chim khác nói: "Không được! Vì sao? Vì nó có cẳng cao, cổ dài, giá như khi
chúng ta phạm tội, thì nó sẽ mổ đầu chúng ta".
Cả bầy
đều bảo là đúng như vậy. Lại có một con nói: "Nên cử thiên nga làm vua, vì
sắc lông trắng tuyệt, nên mọi con chim đều kính trọng". Các con chim lại
nói: "Con này không thể được, nhan mạo tuy trắng, nhưng cổ dài lại gấp
khúc. Chính cổ mình đã không thẳng, thì làm sao sửa kẻ khác cho ngay chánh
được".
Rồi nó
lại nói: "Chỉ có con công đủ màu sắc, ai xem cũng thấy vui mắt, nên có thể
làm vua".
Con khác
lại nói: "Không thể được? Vì sao thế? Vì bộ lông tuy đẹp nhưng không biết
hổ thẹn, mỗi lần múa là nó để lộ ra những chỗ xấu, cho nên không thể
được".
Một con
khác nói: "Nên cử con chim cú trọc đầu làm vua. Tại vì sao? Vì ban ngày
thì ngủ yên còn ban đêm thì siêng năng hoạt động, bảo vệ chúng ta, nên có thể
làm vua".
Cả đàn
đều nói: "Ðược!".
Bấy giờ,
có một con oanh vũ, đậu ở gần đó, có trí tuệ, suy nghĩ: "Qui luật của loài
chim là ban đêm ngủ nghỉ, mà đặc tính của con cú trọc này ban đêm lại không ngủ
nghỉ, bắt mọi con chim phải vây quanh hầu hạ, ngày đêm canh gác túc trực không
được ngủ nghỉ, rất là khổ cực. Nhưng nếu ta nói ra thì nó sẽ nổi giận vặt hết
bộ lông ta, còn như không nói thì các loài chim phải chịu khốn khổ lâu dài. Ta
thà bị vặt lông chứ không thể để lẽ phải bị chà đạp", bèn đến trước muôn
chim trương đôi cánh, cung kính nói với đàn chim rằng: "Xin nghe tôi đọc
một bài kệ". Bấy giờ, đàn chim bèn đọc bài kệ đáp:
"Có
trí biết nghĩa rộng
Hà tất kể tuổi tác
Ngươi tuy tuổi còn thơ
Nhưng có trí, cứ nói!"
Khi oanh vũ nghe bầy chim đọc kệ, liền nói kệ:
Nếu nghe theo ý tôi
Chớ cho cú làm vua
(289a) Vì vẻ mặt lúc vui
Trông cũng thấy khiếp sợ
Huống gì khi giận dữ
Bộ mặt không coi được".
Bấy giờ,
bầy chim đều nói: "Ðúng như oanh vũ nói". Rồi cùng nhau bàn bạc:
"Con oanh vũ này thông minh trí tuệ, nên cử làm vua", bèn suy tôn
oanh vũ làm vua.
Thế rồi,
Phật nói với các Tỉ-kheo : "Chim cú trọc thuở ấy, nay là Tỉ-kheo Xiển Ðà,
còn chim oanh vũ nay là A Nan. Khi ấy con này đã ngăn cản con kia không cho làm
vua, thì nay cũng lại ngăn cản không cho làm tri sự".
Rồi Phật
truyền lệnh cho các Tỉ-kheo cư trú tại thành Xá vệ phải tập họp lại tất cả, dù
ai nghe rồi cũng phải nghe lại, rồi chế giới:
--
"Nếu có các Tỉ-kheo sống tại thành phố hoặc thôn xóm mà làm những việc xấu
khiến ai cũng thấy cũng nghe; làm vẩn đục tín tấm của người khác, ai cũng thấy,
cũng nghe, thì các Tỉ-kheo nên nói với những Tỉ-kheo ấy: "Các Trưởng lão!
Các vị đã làm những việc xấu khiến ai cũng thấy, cũng nghe; làm vẩn đục tín tâm
của người khác, ai cũng thấy, cũng nghe. Các Trưởng lão! Các vị hãy đi khỏi nơi
này, không nên ở đây nữa".
Thế
rồi, những Tỉ-kheo này nói với các Tỉ-kheo: "Các đại đức Tăng tùy thương,
tùy giận, tùy sợ và tùy si. Tại sao? Vì có các Tỉ-kheo đồng tội như nhau mà có
người thì đuổi, có người thì không đuổi".
Các
Tỉ-kheo nên nói với những Tỉ-kheo ấy: "Các Trưởng lão! Các vị chớ nên nói
rằng: "(Tăng tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si. Có các Tỉ-kheo đồng
tội như nhau, mà có người thì đuổi, có người thì không đuổi)". Tại vì sao?
Vì Tăng không tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si. Này các Trưởng lão! Các
vị đã làm những việc xấu khiến ai cũng thấy, cũng nghe; làm vẩn đục tín tâm của
người khác, ai cũng thấy, cũng nghe. Các vị hãy đi khỏi nơi này, không được ở
đây nữa".
Những
Tỉ-kheo ấy khi được các Tỉ-kheo khuyên can, nếu vẫn kiên trì không bỏ, thì các
Tỉ-kheo nên khuyên can lần thứ hai, thứ ba cho họ bỏ việc ấy. Khuyên can lần
thứ hai, thứ ba mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.
Giải
thích
- Các
Tỉ-kheo: Hoặc là chúng Tăng, hoặc là nhiều người, hoặc là một người
nương tựa tại thành phố hay tại xóm làng.
Thế nào
là nương tựa vào xóm làng?: Nếu Tỉ-kheo ở nơi xóm làng ấy được y phục, ẩm thực,
giường chõng, thuốc trị bệnh.v.v.. thì gọi là nương tựa mà sống. Nếu không được
các thứ y phục, ẩm thực, giường chõng, thuốc trị bệnh.v.v... mà chỉ có nương
tựa vào xóm làng để khỏi các tai nạn, thì cũng gọi là nương tựa mà sống. Nếu
Tỉ-kheo không nương tựa vào xóm làng để tránh tai nạn, mà chỉ nương tựa nơi
ranh giới của xóm làng, thì cũng gọi là nương tựa mà sống.
- (289b) Người
khác: Các nhà Sát đế lợi, Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đa la, đó gọi là người
khác.
- Làm
vẩn đục: Nếu các Tỉ-kheo làm các việc phi phạm hạnh như uống rượu, ăn
phi thời tại các xóm làng thì chưa phải là làm vẩn đục tín tâm của người khác.
- Làm
vẩn đục tín tâm của người khác: Nếu có người trong xóm làng trước đây
có tín tâm cúng dường chúng Tăng, kiến tạo chùa tháp mà Tỉ-kheo làm cho họ thối
thất đạo tâm, thì gọi là làm vẩn đục tín tâm của người khác.
- Làm
các việc xấu: Thân trái oai nghi, miệng trái oai nghi, thân miệng trái
oai nghi; Thân tổn hại, miệng tổn hại, thân miệng tổn hại; thân tà mạng, miệng
tà mạng, thân miệng tà mạng, đó gọi là làm việc xấu.
- Làm
các việc xấu khiến vẩn đục tín tâm của người khác, ai cũng thấy, cũng nghe:
Làm các việc xấu tại nơi xóm làng khiến ai cũng thấy, cũng nghe, rồi các
Tỉ-kheo nói với những Tỉ-kheo ấy: "Này các trưởng lão! Các vị đã làm những
việc xấu, ai cũng thấy, cũng nghe, làm vẩn đục tín tâm của người khác, ai cũng
thấy, cũng nghe. Nay chớ có ở đây nữa".
Các
Tỉ-kheo ấy liền nói lại: "Này các trưởng lão! Tăng tùy thương, tùy giận,
tùy sợ và tùy si, có các Tỉ-kheo đồng tội mà người thì đuổi đi, người thì không
đuổi".
Rồi các
Tỉ-kheo nói với những Tỉ-kheo ấy: "Này các trưởng lão! Các vị chớ nên nói
như thế. Vì Tăng không tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si. Các vị hãy bỏ
việc ấy đi".
- Những
Tỉ-kheo ấy kiên trì không bỏ, lại còn vô lý hủy báng Tăng: Ðó là nhóm
sáu Tỉ-kheo.
- Các
Tỉ-kheo: Hoặc là Tăng, hoặc nhiều người, hoặc là một người.
- Ba
lần khuyên can: Khuyên can ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần
và ở giữa chúng Tăng ba lần.
- Khuyên
can ở chỗ vắng: Hỏi ở chỗ vắng: "Các trưởng lão! Các vị có thật vô
lý hủy báng Tăng rằng: "Tăng tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si. Có
các Tỉ-kheo đồng phạm tội mà người thì bị đuổi, người thì không bị đuổi, có
phải thế chăng?" Nếu đáp: "Thật như vậy", liền khiển trách:
"Các trưởng lão chớ dùng những lời vô lý hủy báng Tăng. Vì sao thế? Vì
Tăng không tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si, cũng không phải đối với
những người đồng tội mà có người thì đuổi, có người thì không đuổi. Tôi nay vì
lòng từ khuyên can các vị, là vì muốn được lợi ích. Vậy các vị hãy chấm dứt
việc ấy đi. Một lần khuyên can đã xong, còn hai lần khuyên can nữa". Nếu
không bỏ thì phải khuyên can lần thứ hai, thứ ba, rồi khuyên can ở chỗ nhiều
người ba lần. Nhưng nếu vẫn ngoan cố không bỏ, thì phải đến giữa Tăng làm pháp
Yết ma cầu thính, nói như sau:
"Xin
đại đức Tăng lắng nghe! Các Tỉ-kheo mỗ giáp vô lý hủy báng Tăng và đã được
khuyên can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần, nhưng vẫn
ngoan cố không chấm dứt. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, nay nên khuyên
can ba lần ở giữa Tăng, để cho chấm dứt việc ấy".
Tăng nên
hỏi: "Các trưởng lão! các vị có thật vô lý hủy báng Tăng rằng: "Tăng
tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si (289c).v.v.. cho đến được khuyên can ở
chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần mà vẫn ngoan cố không bỏ
phải không?". Nếu đáp: "Có thật như vậy", thì Tăng nên khuyên
can: "Các trưởng lão! Các vị chớ vô lý hủy báng chúng Tăng. Vì cớ sao? Vì
Tăng không tùy thương, tùy giận, tùy sợ và tùy si, cũng không phải đối với
những người đồng tội mà có người thì đuổi, có người thì không đuổi. Nay Tăng vì
lòng từ khuyên can các vị, là muốn được lợi ích. Một lần khuyên can đã xong,
còn hai lần khuyên can nữa. Các vị nên bỏ việc ấy đi". Nếu không bỏ thì
khuyên can đến lần thứ hai, thứ ba. Nhưng nếu vẫn không bỏ thì phạm tội Tăng
Già Bà Thi Sa.
- Tăng
Già Bà Thi Sa: Như trên đãnói. Những Tỉ-kheo ấy được khuyên can ở chỗ
vắng ba lần mà không chấm dứt thì mỗi lần khuyên can phạm mỗi tội Việt Tỳ Ni.
Rồi khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần cũng như thế. Ðến khi khuyên can ở giữa
chúng Tăng, lần đầu chưa xong thì phạm tội Việt Tỳ Ni; nói xong thì phạm tội
Thâu Lan Giá. Lần khuyên can thứ hai, nói chưa xong thì phạm tội Việt Tỳ Ni;
nói xong thì phạm tội Thâu Lan Giá. Lần khuyên can thứ ba nói chưa xong phạm
tội Thâu Lan Giá, nói xong thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa.
Tội Tăng
Già Bà Thi Sa khởi đi (trừ ba tội Thâu Lan Giá do vô lý hủy báng chúng Tăng) từ
khi khuyên can ở chỗ vắng ba lần, khuyên can ở chỗ nhiều người ba lần và khuyên
can ở giữa chúng Tăng ba lần, gồm tất cả các tội Việt Tỳ Ni, các tội Thâu Lan
Giá gộp chung lại thành một tội Tăng Già Bà Thi Sa.
Nếu nửa
chừng mà đình chỉ thì tùy theo đình chỉ ở chỗ nào, trị tội ở chỗ đó. Thế nên
nói:
"Có các Tỉ-kheo nương tựa vào thành phố hoặc xóm làng mà sinh sống..., cho đến khi khuyên can lần thứ hai, thứ ba mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa".
(Hết
giới Tăng tàn thứ 13)
1.
GIỚI: NGỒI CHỖ KHUẤT VỚI NGƯỜI NỮ.
2. GIỚI: NGỒI CHỖ TRỐNG VỚI NGƯỜI NỮ.
Khi Phật
an trú tại thành Xá vệ nói rộng như trên. Bấy giờ, ông Bà la môn đồng hương,
bạn cũ của trưởng lão Ưu Ðà Di có cô con gái vừa về nhà chồng, ưu sầu, không
vui, nên cô sai người báo tin cho cha cô đến thăm, nếu không đi được thì nhờ
trưởng lão Ưu Ðà Di đến thăm cô. Người cha được tin bèn đến nói với Ưu Ðà Di:
"Con gái tôi vừa mới về nhà chồng, ưu sầu không vui, nên sai người nhắn tin
tôi, đồng thời cũng nhắn tin thầy (đến thăm). Tôi nay là người thế tục có nhiều
việc nên không thể đi được, xin thầy thỉnh thoảng đến thăm nó".
Ưu Ðà Di
nói: "Có thể được! Nếu ông không dặn dò, tôi cũng phải đến thăm, huống gì
ông đã dặn". Thế rồi, trưởng lão Ưu Ðà Di sáng sớm hôm sau khoác y đi đến
nhà ấy. Khi ấy cô ta đang đóng cửa mà ngồi. Ưu Ðà Di ở bên ngoài kêu: "Cô
Tuyết có ở nhà không?". Cô hỏi: "Ai đó?". Ðáp: "Tôi là Ưu
Ðà Di đây!". Cô nói: "Sư phụ! Thầy hãy vào. Sư phụ, (290a) thầy hãy
vào". Thầy bèn bước vào, ngồi ở trong phòng cùng nói chuyện vãng với cô.
Bấy giờ, bà mẹ chồng của cô là Tì Xá Khư Lộc Mẫu có ba mươi hai cậu con trai và
ba mươi hai cô con gái, và các nàng dâu bà đều có phước đức, thành tựu các
tướng tốt. Khi ấy bà thường dạy bảo con trai, con gái và các nàng dâu, khuyên
răn họ về cách đối xử với cha mẹ, bà con. Rồi bà đi tới trước phòng của cô ấy.
Bà vốn là người biết rõ lúc nào là đúng thời, nên không vào liền mà đứng trù
trừ ở ngoài cửa. Thế rồi, bà nhìn vào khe cửa, thấy trong phòng có người cạo
tóc, khoác y, đang nháy nhó thì thầm (với nàng dâu bà). Bà biết đó là người
xuất gia nhưng không biết là Tỉ-kheo hay Tỉ-kheo ni, liền gọi cô dâu. Cô dâu
ứng ngôn hỏi: "Ai đó?"
Ðáp:
"Ta đây".
Cô nói:
"Ðại gia xin mời vào".
Bà hỏi:
"Người ở bên ngươi là ai vậy?".
Cô đáp:
"Thầy Ưu Ðà Di đấy".
Ưu Ðà Di
nói: "Ưu Bà Di vì sao không bước vào?".
Lộc mẫu
liền bước vào, hỏi: "Thầy Ưu Ðà Di! Thầy ngồi đây sao?"
Ðáp:
"Ðúng vậy".
Bà thưa:
"Thưa thầy, chỗ ngồi này không được tỏ rõ, giả sử có điều gì mờ ám thì ai
có thể biết được! Con sẽ đem việc này nói với các thầy Tỉ-kheo".
Ưu Ðà Di
vặn lại: "Bà nói những gì?"
Tì Xá Khư
Lộc Mẫu nói: "Thấy Ưu Ðà Di cùng ngồi với phụ nữ".
Ưu Ðà Di
liền phản pháo: "Tôi cũng sẽ đến Phật nói về bà!".
Bà bèn
hỏi: "Thầy định nói điều chi?".
Ưu Ðà Di
nói: "Tôi thấy Tì Xá Khư Lộc Mẫu cùng ngồi với đàn ông".
Bà liền
hỏi: "Ðàn ông nào?".
Ưu Ðà Di
nói:"Ta chẳng phải đàn ông sao?"
Bà liền
nói: "Thưa thầy! Phật không cấm con cùng ngồi với đàn ông, nhưng thầy là
người xuất gia phải giữ gìn phép của Sa môn chứ?".
Ưu Ðà Di
giận dữ: "Than ôi! Ngươi đã não loạn ta không ít!", rồi đứng lên bỏ
đi.
Thế rồi,
thầy đi tới nơi khác và cùng ngồi với phụ nữ tại một chỗ trống. Còn Tì Xá Khư
Lộc Mẫu thì dạy bảo các con gái, con dâu xong rồi, bèn đi ra, lại thấy Ưu Ðà Di
cùng ngồi nói chuyện với phụ nữ tại một chỗ trống, bà liền đến bên Ưu Ðà Di
nói: "Ðó là việc bất thiện, không phải phép tắc của Sa môn. Vì sao thầy
lại ngồi với phụ nữ ở chỗ trống trải, tôi sẽ đem việc này nói với các Tỉ-kheo".
Ưu Ðà Di hỏi: "Bà nói việc gì?". Tì Xá Khư Lộc Mẫu nói: "Thấy Ưu
Ðà Di ngồi một mình với phụ nữ ở chỗ trống mà nói chuyện". Ưu Ðà Di liền
phản pháo: "Ta cũng sẽ đến Phật nói về việc của bà". Tì Xá Khư Lộc
Mẫu hỏi: "Thầy nói điều gì?". Ưu Ðà Di nói: "Tôi thấy Lộc Mẫu
cùng ngồi nói chuyện với đàn ông ở chỗ trống". Tì Xá Khư Lộc Mẫu hỏi:
"Người đàn ông nào?". Ðáp: "Ta chẳng phải (290b) đàn ông
chắc?". Tì Xá Khư Lộc Mẫu nói: "Tôi là người thế tục ngồi với đàn ông
thì Phật cho phép, còn thầy là Sa môn phải giữ gìn phép tắc chớ sao lại
thế?". Ưu Ðà Di nói: "Bà quấy rầy ta ở mọi chỗ". Nói như thế
rồi, liền đứng dậy đi.
Bấy giờ
Tì Xá Khư Lộc Mẫu bèn đem việc đó bạch với các Tỉ-kheo. Các Tỉ-kheo bèn đem
bạch đầy đủ với Thế Tôn. Phật bảo: "Gọi Ưu Ðà Di đến!". Họ liền gọi đến.
Phật bèn hỏi Ưu Ðà Di: "Ông có thật như thế chăng?"Ðáp: "Có thật
như thế, bạch Thế Tôn!". Phật liền khiển trách Ưu Ðà Di: "Ông là kẻ
ngu si. Ðó là một việc xấu, người thế tục còn biết phép tắc của người xuất gia
điều gì nên làm, điều gì không nên làm. Còn ông là người xuất gia mà lại không
biết phép tắc ngồi đứng, nói năng, điều gì nên, điều gì không nên. Há ông không
thường nghe Ta dùng nhiều nhân duyên chê trách việc tùy thuận dâm dục và khen
ngợi ly dục hay sao? Nay vì sao ông làm việc xấu như thế? Ðó là việc phi pháp,
phi luật, trái lời Ta dạy, không thể dùng nó để nuôi lớn thiện pháp". Rồi
Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Xá vệ phải tập trung lại tất
cả. Khi đã tập họp xong, Thế Tôn bèn đem nhân duyên ấy hướng đến các Tỉ-kheo nói
rộng về các nguyên nhân sinh khởi những sự lỗi lầm, khiển trách những lỗi lầm
đã sinh khởi, rồi tùy thuận thuyết pháp cho các Tỉ-kheo. Vì mười việc lợi ích
mà Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri chế giới cho các đệ tử, lập ra pháp Ba La Ðề
Mộc Xoa.
Mười việc
đó là:
1- Vì
nhiếp phục Tăng.
2- Vì nhiếp phục Tăng một cách triệt để.
3- Vì để cho Tăng được an lạc.
4- Vì để chiết phục kẻ không biết xấu hổ.
5- Vì để những ai có tàm quí được sống an lạc.
6- Vì để cho người không có lòng tin khiến họ tin tưởng.
7- Vì để người đã có lòng tin tăng thêm tin tưởng.
8- Vì muốn chấm dứt Lậu hoặc ngay trong hiện tại.
9- Vì để cho các Lậu hoặc chưa sinh khởi thì không sinh khởi.
10- Vì muốn cho chánh pháp được tồn tại lâu dài, mở cửa cam lồ cho chư thiên và
nhân loại.
Ðó gọi là vì mười việc lợi ích mà Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri chế giới cho các đệ tử; ai chưa nghe thì nghe, ai nghe rồi nên nghe lại:
--
"Nếu Tỉ-kheo ngồi một mình với người nữ ở chỗ vắng vẻ, che khuất, có thể
hành dâm được, rồi Ưu bà di khả tín tố cáo Tỉ-kheo ấy phạm một trong ba pháp:
Hoặc Ba La Di, hoặc Tăng Già Bà Thi Sa, hoặc Ba Dạ Ðề. Ðoạn Tỉ-kheo ấy tự nói:
"Tôi ngồi chỗ ấy", thì trong ba pháp kia phạm pháp nào trị phạt theo
pháp đó: Hoặc Ba La Di, hoặc Tăng Già Bà Thi Sa; hoặc Ba Dạ Ðề, phải tùy theo
lời tố cáo của Ưu bà di khả tín mà trị phạt đúng như pháp. Thầy Tỉ-kheo ấy là
người phạm pháp Bất Ðịnh thứ nhất.
Nếu
Tỉ-kheo ngồi một mình (290c) với người nữ tại chỗ trống, không thể hành dâm
được, rồi có Ưu bà di khả tín tố cáo Tỉ-kheo ấy phạm một trong hai pháp: Hoặc
Tăng Già Bà Thi Sa, hoặc Ba Dạ Ðề. Ðoạn Tỉ-kheo ấy tự nói: "Tôi ngồi chỗ
ấy", thì phải căn cứ vào lời tố cáo của Ưu bà di khả tín mà trị phạt
Tỉ-kheo ấy đúng như pháp: Hoặc Tăng Già Bà Thi Sa, hoặc Ba Dạ Ðề".
Giải
thích
(Xem lại
một số từ ngữ đã được chú thích ở trước)
- Chỗ
che khuất: Hoặc ở chỗ tối, hoặc chỗ có che chắn.
- Chỗ
có thể hành dâm: Chỗ nam nữ có thể giao hoan mà không sợ hổ thẹn.
- Một
mình: Chỉ có một nam, một nữ mà không có người khác; giả sử có người
khác mà đang ngủ, hoặc điên cuồng, hoặc trẻ con, phi nhân, súc sinh thì cũng
gọi là một mình.
- Ngồi
chung: Ngồi gần nhau.
- Ưu
bà di khả tín: Người thành tựu mười sáu pháp sau đây thì gọi là Ưu bà
di khả tín:
1- Qui y
Phật.
2- Qui y Pháp.
3- Qui y Tăng.
4- Không làm tổn thương lòng tịnh tín đối với Phật.
5- Không làm tổn thương lòng tịnh tín đối với Pháp.
6- Không làm tổn thương lòng tịnh tín đối với Tăng.
7- Tăng chưa được lợi ích có thể làm cho lợi ích.
8- Tăng đã được lợi ích có thể làm cho tăng trưởng.
9- Tăng chưa được danh dự thì có thể làm cho danh dự vang xa.
10- Tăng bị tiếng xấu có thể sớm trừ diệt.
11- Không hành động tùy theo sự thiên vị.
12- Không hành động tùy theo sự giận dữ.
13- Không hành động tùy theo sự sợ hãi.
14- Không hành động tùy theo sự mê muội.
15- Hướng đến sự ly dục.
16- Thành tựu thánh giới.
Những ai
thành tựu mười sáu pháp này thì gọi là người khả tín (đáng tin).
Nếu
Tỉ-kheo ấy tự nói rằng biết sự việc, nhưng không biết là mình có ngồi hay
không, thì nên trị phạt về sự việc. Nếu nói biết là mình có ngồi, nhưng không
biết về sự việc, thì nên trị phạt về lỗi đã ngồi. Nếu nói biết về sự việc cũng
biết là mình có ngồi, thì nên trị phạt cả hai. Nếu nói không biết về sự việc,
cũng biết là mình có ngồi hay không, thì nên căn cứ vào lời tố cáo của Ưu bà di
khả tín mà làm phép Yết ma mích tội tướng (tìm xem dấu hiệu của tội).
(Một số
từ ngữ đã giải thích ở trước)
- Chỗ
trống trải: Chỗ sáng sủa trống trải, không có gì che chắn, đó gọi là
chỗ trống trải.
- Chỗ
không thể hành dâm: Chỗ mà, nếu nam nữ giao hoan thì có thể công xúc tu
sĩ.
(291a)
Thế nên nói:
"Nếu
Tỉ-kheo ngồi một mình với một người nữ ở chỗ che khuất, kín đáo, có thể hành
dâm được..., cho đến bị Ưu bà di khả tín tố cáo, thì Tăng phải trị phạt Tỉ-kheo
ấy đúng pháp. Ðó gọi là pháp Bất Ðịnh thứ nhất.
Nếu
Tỉ-kheo ngồi một mình với người nữ ở chỗ trống trải, không thể hành dâm
được..., cho đến bị Ưu bà di khả tín tố cáo, thì Tăng phải trị phạt Tỉ-kheo ấy
đúng pháp. Ðó gọi là pháp Bất Ðịnh thứ hai.
(Hết hai pháp Bất Ðịnh)
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hết
quyển thứ bảy.
-ooOoo-
Đầu trang | 00
| 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 |
20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 |
updated:
15-03-3002