Khi thực hành thương yêu, chúng ta cần chú ý phân biệt giữa lòng thương
yêu chân thật với những cảm xúc sinh khởi từ tham ái. Đôi khi, những cảm
xúc này cũng tạo ra những động lực thôi thúc tương tự như lòng thương
yêu chân thật, nhưng điều khác biệt cơ bản nhất là chúng không mang lại
cho ta niềm vui và sự thanh thản, sáng suốt. Ngược lại, chúng luôn mang
đến những khổ đau và mê muội.
Tham ái, hay lòng ham muốn và luyến ái có rất nhiều đối tượng, trong đó
thì ái dục là đối tượng mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên, bất cứ đối tượng nào
của tham ái cũng đều làm phát sinh nơi chúng ta một sự khao khát chiếm
hữu, mong muốn được sở hữu và duy trì, bảo vệ sự sở hữu đó. Vì thế,
trong giáo lý về Mười hai nhân duyên,
[21] đức Phật
đã chỉ rõ mối tương quan tiếp nối nhau sinh khởi của các yếu tố: ái, thủ
và hữu. Trong đó, ái chính là tham ái, luyến ái, và thủ, hữu chỉ cho sự
khao khát chiếm giữ, sở hữu.
Trong kinh Pháp cú, kệ số 212, đức Phật dạy:
Do ái sanh sầu ưu,
Do ái sanh sợ hãi.
Ai thoát khỏi tham ái,
Không sầu, đâu sợ hãi?
[22]
Như vậy, chính tham ái đã gây ra cho chúng ta những “sầu ưu, sợ hãi”. Và
“sầu ưu, sợ hãi” lại chính là những nguyên nhân chủ yếu gây ra khổ đau
và mê muội. Vì thế, “thoát khỏi tham ái” thì tất yếu sẽ không còn “sầu
ưu, sợ hãi” nữa.
Nói “sầu ưu, sợ hãi” là muốn nói một cách tổng quát, dễ hiểu. Nếu xét
chi ly ra thì chúng ta còn có thể dễ dàng thấy được tham ái là đầu mối
trói buộc và thôi thúc hầu hết tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng
ta. Không có những trói buộc và thôi thúc này, chúng ta sẽ không thể bị
xô đẩy vào những khuynh hướng tội lỗi, xấu ác.
Trong khi những thôi thúc của lòng ham muốn luôn che mờ lý trí, làm
chúng ta mất đi sự sáng suốt và phán đoán độc lập, thì những mong muốn
“cứu khổ, ban vui” của một lòng thương yêu chân thật lại hoàn toàn không
giống như vậy. Mặc dù cũng tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy chúng ta
phải hành động để mang lại niềm vui và giảm nhẹ khổ đau cho người khác,
nhưng sự thôi thúc của lòng thương yêu không làm che mờ lý trí, ngược
lại nó giúp chúng ta càng trở nên sáng suốt và dũng mãnh hơn. Đây chính
là mối tương quan “bi, trí, dũng” vẫn thường được nhắc đến trong đạo
Phật.
Chúng ta hoàn toàn có thể chiêm nghiệm từ thực tế để thấy rõ được sự
khác biệt này. Khi chúng ta khao khát, thèm muốn một đối tượng, chúng ta
bị sự thôi thúc phải nỗ lực không ngừng để chiếm hữu đối tượng đó. Sự
thôi thúc này gây ra tâm trạng nôn nóng và bực tức, khiến cho đầu óc ta
trở nên mê muội, thiếu sáng suốt. Sự khao khát, thèm muốn càng mãnh liệt
thì chúng ta càng bị thôi thúc mạnh mẽ hơn, và do đó mà tâm trí ta càng
mê muội, tối tăm hơn. Với những kẻ nuôi tham vọng “đội đá vá trời” thì
tâm trí họ thậm chí còn có thể trở nên điên cuồng, không còn phân biệt
được đúng sai, phải trái gì nữa, chỉ biết làm mọi cách để thỏa mãn tham
vọng của mình. Và một khi hoàn toàn thất bại trong việc chiếm hữu đối
tượng – điều này rất thường xảy ra – thì chúng ta sẽ luôn phải ôm lấy sự
đau đớn, khổ sở và bực tức.
Khi phát khởi lòng thương yêu và nỗ lực quên mình vì người khác, chúng
ta không phải chịu đựng những áp lực tâm lý của sự thôi thúc do lòng ham
muốn. Ngược lại, ta luôn có được một sự thanh thản và sáng suốt trong
tâm trí cũng như một ý chí mạnh mẽ và quyết tâm mang lại niềm vui, giảm
nhẹ khổ đau cho người khác. Và nếu như có thất bại trong việc cứu giúp
người khác, ta cũng chỉ sinh khởi một tấm lòng bi cảm, lân mẫn chứ không
hề bị nhấn chìm trong khổ đau và bực tức.
Khác biệt cơ bản giữa lòng thương yêu chân thật và sự luyến ái chính là
ở ý thức chiếm hữu. Khi sự thôi thúc trong lòng ta xuất phát từ nỗi khao
khát chiếm hữu một đối tượng, đó chính là biểu hiện của luyến ái. Ngược
lại, nếu sự thôi thúc đó là hoàn toàn vô tư, chỉ nhằm giúp ta thực hiện
được những hành vi “cứu khổ, ban vui”, đó chính là biểu hiện của lòng
thương yêu chân thật.
Trong thực tế, khi chúng ta thương yêu và mong muốn chiếm hữu đối tượng,
tình yêu đó có rất nhiều khả năng sẽ mang lại khổ đau, sầu não. Và nếu
như ý muốn chiếm hữu của chúng ta hoàn toàn thất bại, có rất nhiều khả
năng là sự thương yêu đó sẽ hóa thành căm hận, bực tức. Đó chính là bản
chất của luyến ái. Ngược lại, nếu chúng ta có thể thương yêu và thật
lòng chúc phúc cho người mình yêu khi người ấy sánh vai cùng người khác,
tình yêu đó chắc chắn sẽ để lại trong ta những kỷ niệm đẹp khó quên thay
vì là làm cho ta đau đớn, khổ sở. Những hồi ức về một tình yêu như thế
chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều niềm tin và nghị lực chứ không
phải là những tiếc nuối, dằn vặt khổ đau. Bởi vì đó chính là biểu hiện
của một lòng thương yêu chân thật.
Lòng thương yêu chân thật luôn mang đến cho chúng ta sức mạnh, niềm tin
và sự vui sống. Những sức mạnh, niềm tin và sự vui sống đó luôn có khả
năng san sẻ cho người khác, và càng san sẻ thì nội lực của bản thân
chúng ta lại càng tăng thêm. Đúng như lời Lão Tử đã từng nói: “Càng cho
người khác thì mình càng được nhiều hơn.”
[23]
Ngược lại, sức mạnh của lòng ham muốn tạo ra nơi chúng ta là thứ sức
mạnh bạo phát bạo tàn và không có khả năng san sẻ cho người khác. Như
một bếp lửa nóng, không chỉ tỏa sức nóng ra chung quanh mà còn thiêu
cháy tất cả những gì ở bên trong nó. Cũng vậy, lòng ham muốn không chỉ
tạo thành sức mạnh gây tổn hại đến người khác, nó còn đốt cháy, hủy hoại
cả người nuôi dưỡng nó! Chính điều này giải thích vì sao việc nuôi dưỡng
lòng thương yêu luôn giúp chúng ta có thêm sức mạnh dài lâu, trong khi
sự nuôi dưỡng tham ái thì chỉ có sức mạnh nhất thời và khiến cho ta ngày
càng mỏi mệt, kiệt lực.
Khi hiểu được điều này, chúng ta sẽ thấy rằng có những hiện tượng nghịch
lý thường gặp trong cuộc sống thật ra không có gì khó hiểu. Chẳng hạn,
trong cuộc sống hàn vi khốn khó thì anh em bằng hữu lại rất thân thiết
nhau, chia sẻ nhau từng cộng rau, hạt muối... nhưng khi giàu sang quyền
thế, ăn ngon mặc đẹp thì người ta lại dễ dàng trở mặt đốp chát với nhau,
tranh chấp nhau từng ly từng tý, chẳng ai chịu nhường ai. Nghịch lý ở
đây là, vì sao lúc đói thiếu người ta lại dễ san sẻ những gì mình đang
có – dù là rất ít – cho người khác, nhưng lúc dư thừa lại chỉ muốn khư
khư giữ chặt tất cả, không muôn chia sớt với bất cứ ai, ngay cả những
người đã từng thân thiết với mình?
Vấn đề ở đây là, trong những hoàn cảnh quá thiếu thốn thì lòng ham muốn
hầu như không có đối tượng để nảy sinh và phát triển, nên trong tình cảm
anh em, bằng hữu gắn bó chỉ tồn tại duy nhất một lòng thương yêu chân
thật, sẵn sàng chia sẻ cho nhau. Ngược lại, khi trở nên giàu sang quyền
thế, trước mắt người ta luôn hiện ra vô số những đối tượng của lòng ham
muốn, mà như đã nói thì những đối tượng này lại không bao giờ có giới
hạn cuối cùng! Vì thế, người ta dễ trở nên mù quáng vì ham muốn, chỉ
muốn chiếm hữu ngày càng nhiều hơn – cho dù đã có quá nhiều – và không
còn khả năng san sẻ bất cứ điều gì cho người khác!
Chính do nơi thực tế này mà những làng quê nghèo khó lại thường là những
nơi dân tình chất phác, thuần hậu, thương yêu nhau, trong khi những chốn
phồn hoa đô hội lại chính là những nơi con người rất dễ nảy sinh đủ mọi
tội lỗi, sẵn sàng lường gạt lẫn nhau!
Cũng tương tự như vậy, có những con người thuở hàn vi rất tốt bụng, tử
tế, nhưng khi được giao trong tay quyền cao chức trọng thì lại rất dễ
biến chất, tha hóa, trở thành những kẻ xấu xa nhất trong xã hội. Sự sa
đọa của họ không phải do thiếu thốn, mà hoàn toàn là do đã bị khống chế
bởi lòng ham muốn.
Khi hiểu được những khác biệt như vừa nêu trên, chúng ta sẽ luôn giữ
được một tâm hồn trong sáng ngay cả trong những điều kiện vật chất cám
dỗ, bằng vào việc phát khởi lòng thương yêu chân thật. Một khi suối
nguồn yêu thương đã dạt dào tuôn chảy thì ngọn lửa ham muốn chắc chắn sẽ
nhanh chóng lụi tàn mà không thể thiêu đốt đi những bản chất tốt đẹp của
chúng ta.
CHÚ THÍCH
[1] Chấp ngã: nhận thức rằng có một “cái ta” tồn
tại độc lập trong vạn hữu.
[2] Ngay khi tôi đang viết những dòng này thì
nhân loại vẫn còn bó tay trước hiểm họa HIV/AIDS, và dịch cúm A H5N1 ở
gia cầm đã xuất hiện ở 6 nước châu Âu sau khi hoành hành tại nhiều nước
thuộc châu Á, châu Phi... và rất có khả năng chúng sẽ biến thể để lây
lan từ người sang người, gây ra một trận đại dịch toàn cầu.
[3] Vô ngã (無我): không có ta, ở đây cần hiểu là
không có một “cái ta” tồn tại riêng lẻ, đối lập với thế giới bên ngoài.
[4] Thánh nhân hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại
kỳ thân nhi thân tồn.
[5] ...dĩ kỳ vô tư... cố năng thành kỳ tư.
[6] Theo bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Minh
Châu.
[7] Nhân chi sơ tánh bản thiện.” Trích từ Tam tự
kinh, một bộ sách vỡ lòng của người học chữ Hán.
[8] Nguyên văn: Ngã hữu tam bảo, trì nhi bão
chi. Nhất viết từ, nhị viết kiệm, tam viết bất cảm vi thiên hạ tiên.
(Đạo Đức Kinh, chương 67)
[9] Nguyên văn: Ký dĩ vi nhân kỷ dũ hữu; ký dĩ
dữ nhân kỷ dũ đa. (Đạo Đức Kinh, chương 81)
[10] Nguyên văn: Thắng nhân giả, hữu lực dã. Tự
thắng giả, cường giả (Đạo Đức Kinh, chương 33)
[11] Từ năng dữ lạc, bi năng bạt khổ.
[12] Từ năng dữ lạc, bi năng bạt khổ.
[13] Sáu pháp ba-la-mật, hay còn gọi là lục độ,
là sáu phương pháp tu tập của hàng Bồ Tát, được xem như phương tiện giúp
người tu tập đạt đến sự giải thoát. Sáu pháp này bao gồm: bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ.
[14] Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ
phước đức bất khả tư lương. Kinh Kim Cang, bản dịch Hán văn của ngài
Cưu-ma-la-thập.
[15] Tuy thường được gọi là kinh Phổ môn, nhưng
thật ra đây là phẩm thứ 25 trong bộ kinh Diệu pháp liên hoa, thường gọi
tắt là kinh Pháp hoa. Phẩm kinh này nói về Bồ Tát Quán Thế Âm và hạnh
nguyện của ngài.
[16] Tham khảo Chư kinh tập yếu, bản dịch tiếng
Việt của Đoàn Trung Còn, Phật học Tùng thư xuất bản năm 1970.
[17] Tham khảo thêm bản dịch tiếng Việt của
sách The Tibetian Book of the Death, nhan đề Người Tây Tạng nghĩ về cái
chết, Nguyên Châu & Nguyễn Minh Tiến dịch, NXB Văn hóa Thông tin.
[18] Ngoài việc được sử dụng trong nghi thức
Cầu an tại các tự viện, phần lớn Phật tử cũng thường tụng niệm phẩm kinh
này tại nhà mỗi khi muốn cầu được sự bình an cho cả gia đình.
[19] Tứ diệu đế, hay thường gọi là Tứ đế, là
bốn chân lý không ai có thể thay đổi hay phủ nhận, bao gồm: Khổ đế, Tập
đế, Diệt đế và Đạo đế. Giáo pháp Tứ diệu đế được đức Phật thuyết giảng
lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển cho 5 anh em ông Kiều-trần-như là những
đệ tử đầu tiên của ngài, và được ghi lại trong kinh Chuyển pháp luân
(Tương ưng bộ kinh, Tập 5 – thiên Đại phẩm, chương 12). Để biết chi tiết
hơn về Tứ đế, xin tìm đọc Vì sao tôi khổ, cùng một tác giả, NXB Tổng hợp
TP HCM.
[20] Phiền não thị đạo trường. Kinh Duy-ma-cật
sở thuyết, phẩm Bồ Tát. Xem bản dịch tiếng Việt của Đoàn Trung Còn và
Nguyễn Minh Tiến, NXB Tôn giáo.
[21] Thập nhị nhân duyên hay 12 nhân duyên,
theo nguyên ngữ tiếng Sanskrit là pratỵtya-samutpda và trong kinh tạng
Pli là paṭicca-samuppda, dịch sát nghĩa là duyên khởi hay nhân duyên
sanh, nhưng vì có 12 nhân duyên nên vẫn thư?ng gọi là Thập nhị nhân
duyên. Trong đó bao gồm: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục căn, xúc,
thọ, ái, thủ, hữu, sinh và lão tử. đức Phật đã chỉ rõ mối tương quan
tiếp nối nhau sinh khởi của các yếu tố: ái, thủ và hữu. Trong đó, ái
chính là tham ái, luyến ái, và thủ, hữu chỉ cho sự khao khát chiếm giữ,
sở hữu.
[22] Theo bản dịch Việt ngữ của Hòa thượng
Thích Minh Châu.
[23] Nguyên văn: Ký dĩ dữ nhân kỷ dũ đa. (Đạo
Đức Kinh, chương 81)