中 阿 含 經 KINH TRUNG A HÀM 
              Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & 
              Trúc Phật Niệm,  Việt Dịch & Hiệu Chú: 
              Thích Tuệ Sỹ
             | 
          
        
      
     
    10. PHẨM LÂM
    116. KINH CÙ-ĐÀM-DI[1]
    Tôi nghe như vầy.
    Một thời Đức Phật du hóa Thích-ki-sấu, tại Ca-duy-la-vệ, vườn Ni-câu-loại[02], 
    cùng với chúng Đại Tỳ-kheo đồng thọ hạ an cư.
    Bấy giờ, Cù-đàm-di Đại Ái[03] 
    đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi qua một bên mà bạch 
    rằng:
    “Bạch Thế Tôn, nữ nhân có thể đắc quả Sa-môn thứ tư[04] 
    được chăng? Do nhân duyên này nữ nhân có thể ở trong Pháp Luật chân chánh 
    này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo được chăng?”
    Đức Thế Tôn nói:
    “Thôi! Thôi! Cù-đàm-di, người chớ nên nghĩ rằng ‘Nữ nhân có thể ở trong 
    Pháp Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà 
    học đạo’. Cù-đàm-di, như vậy mà người đã tự cạo bỏ đầu tóc, khoác áo ca-sa[05], 
    nguyện suốt đời tịnh tu phạm hạnh!” Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái bị Phật ngăn 
    cản, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra.
    Bấy giờ các Tỳ-kheo khâu vá y của Đức Phật, Đức Thế Tôn ở Thích-ki-sấu 
    không bao lâu, sau khi trải qua ba tháng thọ hạ an cư xong và đã khâu vá y 
    rồi, Ngài khoác y, cầm bát, sửa soạn du hành nhân gian. Cù-đàm-di Đại Ái 
    nghe tin các Tỳ-kheo khâu vá y của Đức Phật, Đức Thế Tôn ở Thích-ki-sấu 
    không bao lâu, sau khi trải qua ba tháng thọ hạ an cư xong và đã khâu vá y 
    rồi, Ngài khoác y, ôm bát, sửa soạn du hành nhân gian. Sau khi nghe tin, bà 
    Cù-đàm-di Đại Ái lại đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi 
    ngồi qua một bên mà bạch rằng:
    “Bạch Thế Tôn, nữ nhân có thể đắc quả thứ tư được chăng? Do nhân duyên 
    này, nữ nhân có thể ở trong Pháp Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ gia 
    đình, sống không gia đình mà học đạo được chăng?”
    Đức Thế Tôn cũng lại nói:
    “Thôi! Thôi! Cù-đàm-di, người chớ nên nghĩ rằng ‘Nữ nhân có thể ở trong 
    Pháp Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà 
    học đạo’. Cù-đàm-di, như vậy mà người đã tự cạo bỏ đầu tóc, khoác áo ca-sa, 
    nguyện suốt đời tịnh tu phạm hạnh!”
    Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái bị Phật ngăn cản lần thứ hai, cúi đầu đảnh lễ 
    sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra.
    Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn ở Thích-ki-sấu, sau khi trải qua ba tháng thọ hạ 
    an cư xong và đã khâu vá y rồi, Ngài khoác y, ôm bát du hành nhân gian. 
    Cù-đàm-di Đại Ái nghe tin Đức Thế Tôn ở Thích-ki-sấu sau khi trải qua ba 
    tháng thọ hạ an cư xong và đã khâu vá y rồi, Ngài khoác y ôm bát mà du hành 
    nhân gian, Cù-đàm-di Đại Ái liền cùng các lão mẫu Xá-di[06] 
    đi theo sau Phật, tiến dần đến Na-ma-đề, trú tại tinh xá Na-ma-đề Kiền-ni[07]. 
    Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái lại đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật 
    rồi ngồi một bên mà bạch rằng:
    “Bạch Thế Tôn, nữ nhân có thể đắc quả thứ tư được chăng? Do nhân duyên 
    này, nữ nhân có thể ở trong Pháp Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ gia 
    đình, sống không gia đình mà học đạo được chăng?”
    Đức Thế Tôn nói lại lần thứ ba:
    “Thôi! Thôi! Cù-đàm-di, người chớ nên nghĩ rằng ‘Nữ nhân có thể ở trong 
    Pháp Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà 
    học đạo’. Cù-đàm-di, như vậy mà người đã tự cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, 
    nguyện suốt đời tịnh tu phạm hạnh!”. Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái bị Phật ngăn 
    cản lần thứ ba, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui 
    ra.
    Lúc bấy giờ, Cù-đàm-di Đại Ái chân cẳng bết bùn[08], 
    mình mẩy dính đầy bụi bặm, vô cùng mệt mỏi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc 
    lóc. Tôn giả A-nan trông thấy Cù-đàm-di Đại Ái chân cẳng bết bùn, mình mẩy 
    dính đầy bụi bặm, vô cùng mệt mỏi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc, liền 
    hỏi:
    “Cù-đàm-di, vì cớ gì mà chân cẳng bết bùn, mình mẩy dính đầy bụi bặm, vô 
    cùng mệt mỏi, đứng ngoài cửa buồn rầu khóc lóc như vậy?”
    Cù-đàm-di Đại Ái đáp:
    “Thưa Tôn giả A-nan, nữ nhân không được ở trong Pháp Luật chân chánh này 
    chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo”.
    Tôn giả A-nan nói:
    “Cù-đàm-di, hãy đứng dậy, để tôi đi đến Đức Phật thưa hỏi việc này cho”.
    Cù-đàm-di Đại Ái Đạo bạch:
    “Kính vâng, thưa Tôn giả A-nan”.
    Rồi Tôn giả A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, chắp 
    tay hướng Phật mà bạch rằng:
    “Bạch Thế Tôn, nữ nhân có thể đắc quả thứ tư được chăng[09]? 
    Do nhân duyên này nữ nhân có thể ở trong Pháp Luật chân chánh chí tín, lìa 
    bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo được chăng?”
    Đức Thế Tôn nói:
    “Thôi! Thôi! A-nan, người chớ nên nghĩ rằng ‘Nữ nhân có thể ở trong Pháp 
    Luật chân chánh này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học 
    đạo’. A-nan, nếu cho nữ nhân được ở trong Pháp Luật chân chánh này chí tín 
    lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì phạm hạnh này sẽ không 
    tồn tại lâu dài[10]. A-nan, ví 
    như gia đình có nhiều người nữ, ít người nam thì gia đình này có được hưng 
    thịnh lâu không?
    “Bạch Thế Tôn, không thể vậy”.
    “Cũng vậy, này A-nan, nếu có nữ nhân được ở trong Pháp Luật chân chánh 
    này chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì phạm hạnh 
    sẽ không được tồn tại lâu dài.
    “A-nan, ví như trong ruộng lúa dé, ruộng lúa tẻ có sanh cỏ uế[11] 
    thì ruộng lúa kia chắc chắn bị hư hại. Cũng vậy, này A-nan, nếu cho nữ nhân 
    được ở trong Pháp Luật chân chánh này chí tín lìa bỏ gia đình, sống không 
    gia đình mà học đạo thì phạm hạnh này sẽ không được tồn tại lâu dài”.
    Tôn giả A-nan lại bạch rằng:
    “Bạch Thế Tôn, Cù-đàm-di Đại Ái đã đem lại cho Thế Tôn nhiều lợi ích. Vì 
    sao? Vì sau khi thân mẫu Thế Tôn mất, Cù-đàm-di Đại Ái đã bảo dưỡng Đức Thế 
    Tôn”.
    Đức Thế Tôn nói:
    “Đúng vậy, A-nan! Đúng vậy, A-nan! Cù-đàm-di Đại Ái đã đem lại cho Ta 
    nhiều lợi ích, đã bảo dưỡng Ta sau khi thân mẫu Ta mất. Nhưng này A-nan, Ta 
    cũng đem lại cho Cù-đàm-di Đại Ái nhiều lợi ích. Vì sao? Này A-nan, 
    Cù-đàm-di Đại Ái nhờ Ta mà được quy y Phật, quy y Pháp, quy y Chúng Tỳ-kheo, 
    không nghi ngờ ba ngôi tôn quý và Khổ - Tập - Diệt - Đạo, thành tựu tín tâm, 
    phụng trì giới cấm, tu học bác văn, thành tựu hạnh bố thí, được trí tuệ, xa 
    lìa nghiệp sát, đoạn trừ nghiệp sát; xa lìa nghiệp không cho mà lấy, đoạn 
    trừ nghiệp không cho mà lấy; xa lìa nghiệp tà dâm, đoạn trừ nghiệp tà dâm; 
    xa lìa nghiệp nói dối, đoạn trừ nghiệp nói dối; xa lìa nghiệp uống rượu, 
    đoạn trừ nghiệp uống rượu.
    “A-nan, nếu có người nhờ người mà được quy y Phật, quy y Pháp, quy y 
    Chúng Tỳ-kheo, không nghi ngờ ba ngôi tôn quý và Khổ -Tập - Diệt - Đạo, 
    thành tựu tín tâm, phụng trì giới cấm, tu học bác văn, thành tựu bố thí, 
    được trí tuệ, xa lìa nghiệp sát, đoạn trừ nghiệp sát; xa lìa nghiệp không 
    cho mà lấy, đoạn trừ nghiêïp không cho mà lấy; xa lìa nghiệp tà dâm, đoạn 
    trừ nghiệp tà dâm; xa lìa nghiệp nói dối, đoạn trừ nghiệp nói dối; xa lìa 
    nghiệp uống rượu, đoạn trừ nghiệp uống rượu. Rồi, này A-nan, giả như người 
    này cúng dường người kia y phục, ăn uống, tọa cụ, thuốc thang, các vật dụng 
    cho cuộc sống, cho đến trọn đời, chẳng lẽ nào lại không được đền ơn[12].
    “Này A-nan, Ta vì nữ nhân mà tuyên bố tám pháp tôn sư[13], 
    nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
    “A-nan, ví như người thợ đánh cá và đệ tử của người thợ đánh cá đắp đập ở 
    khoảng nước sâu để giữ nước, không cho chảy ra ngoài; cũng vậy, này A-nan, 
    nay Ta vì nữ nhân mà tuyên bố tám pháp tôn sư, nữ nhân không được trái phạm, 
    nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
    “Tám pháp đó là những gì?
    “A-nan, Tỳ-kheo-ni phải cầu thọ giới Cụ túc nơi Tỳ-kheo. A-nan, Ta đã vì 
    nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ nhất. Nữ nhân không được trái phạm, nữ 
    nhân phải phụng trì suốt đời.
    “A-nan, Tỳ-kheo-ni cứ mỗi nửa tháng phải đến thọ giáo nơi Tỳ-kheo. A-nan, 
    Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ hai. Nữ nhân không được trái 
    phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
    “A-nan, nếu nơi trụ xứ không có Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo-ni không được thọ hạ 
    an cư. A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ ba. Nữ nhân không 
    được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
    “A-nan, Tỳ-kheo-ni sau khi thọ hạ an cư phải đối trước hai bộ chúng thỉnh 
    cầu chỉ rõ về ba sự kiện, thấy, nghe và nghi. A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà 
    tuyên bố pháp tôn sư thứ tư. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải 
    phụng trì suốt đời.
    “A-nan, nếu Tỳ-kheo không cho phép Tỳ-kheo-ni thưa hỏi thì Tỳ-kheo-ni 
    không được thưa hỏi Tỳ-kheo về Kinh-Luật hoặc A-tỳ-đàm. Nếu cho phép hỏi thì 
    Tỳ-kheo-ni mới được thưa hỏi về Kinh-Luật hoặc A-tỳ-đàm. A-nan, Ta đã vì nữ 
    nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ năm. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân 
    phải phụng trì suốt đời.
    “A-nan, Tỳ-kheo-ni không được nói điều trái phạm của Tỳ-kheo, nhưng 
    Tỳ-kheo được quyền nói điều trái phạm của Tỳ-kheo-ni. A-nan, Ta đã vì nữ 
    nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ sáu. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân 
    phải phụng trì suốt đời.
    “A-nan, Tỳ-kheo-ni nếu phạm Tăng-già-bà-thi-sa[14] 
    thì phải đối trước hai bộ chúng hành bất mạn trong vòng mười lăm ngày. 
    A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ bảy. Nữ nhân không được 
    trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
    “A-nan, Tỳ-kheo-ni dù đã thọ giới Cụ túc lâu đến một trăm năm, nhưng đối 
    với trước Tỳ-kheo mới thọ giới Cụ túc vẫn phải khiêm cung cúi đầu làm lễ, 
    cung kính chắp tay thưa hỏi. A-nan, Ta đã vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư 
    thứ tám. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
    “A-nan, Ta đã vì nữ nhân tuyên bố tám pháp tôn sư này, nữ nhân không được 
    trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời. A-nan, nếu Cù-đàm-di Đại Ái 
    phụng trì tám pháp tôn sư này thì được ở trong Pháp Luật chân chánh mà xuất 
    gia học đạo, được thọ giới Cụ túc, làm Tỳ-kheo-ni”.
    Khi ấy Tôn giả A-nan nghe Đức Phật dạy, khéo léo nhận lãnh và ghi nhớ, 
    cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra, đi đến chỗ 
    Cù-đàm-di Đại Ái, nói rằng:
    “Cù-đàm-di, nữ nhân đã được phép ở trong Pháp Luật chân chánh này chí tín 
    lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo. Cù-đàm-di, Đức Thế Tôn đã 
    vì nữ nhân mà tuyên bố tám pháp tôn sư, nữ nhân không được trái phạm, nữ 
    nhân phải phụng trì suốt đời.
    “Tám pháp này là những gì?
    “Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni phải cầu thọ giới Cụ túc nơi Tỳ-kheo. Cù-đàm-di, 
    Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ nhất. Nữ nhân không được 
    trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
    “Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni cứ mỗi nửa tháng phải đến thọ giáo nơi Tỳ-kheo. 
    Cù-đàm-di, Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ hai. Nữ nhân 
    không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
    “Cù-đàm-di, nếu nơi trụ xứ không có Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo-ni không được thọ 
    hạ an cư. Cù-đàm-di, Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ ba. 
    Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
    “Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni sau khi thọ hạ an cư phải đối trước hai bộ chúng 
    thỉnh cầu chỉ rõ về ba sự kiện, thấy, nghe và nghi. Cù-đàm-di, Thế Tôn đã vì 
    nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ tư. Nữ nhân không được trái phạm, nữ 
    nhân phải phụng trì suốt đời.
    “Cù-đàm-di, nếu Tỳ-kheo không cho phép Tỳ-kheo-ni thưa hỏi thì Tỳ-kheo-ni 
    không được thưa hỏi Tỳ-kheo về Kinh-Luật hoặc A-tỳ-đàm. Nếu cho phép hỏi thì 
    Tỳ-kheo-ni mới được thưa hỏi về Kinh -Luật hoặc A-tỳ-đàm. Cù-đàm-di, Thế Tôn 
    đã vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ năm. Nữ nhân không được trái phạm, 
    nữ nhân phải phụng trì suốt đời.
    “Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni không được nói điều trái phạm của Tỳ-kheo, nhưng 
    Tỳ-kheo được quyền nói điều trái phạm của Tỳ-kheo-ni. Cù-đàm-di, Thế Tôn đã 
    vì nữ nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ sáu. Nữ nhân không được trái phạm, nữ 
    nhân phải phụng trì suốt đời.
    “Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni nếu phạm Tăng-già-bà-thi-sa thì phải đối trước hai 
    bộ chúng hành bất mạn trong vòng mười lăm ngày. Cù-đàm-di, Thế Tôn đã vì nữ 
    nhân mà tuyên bố pháp tôn sư thứ bảy. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân 
    phải phụng trì suốt đời.
    “Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni dù đã thọ giới Cụ túc lâu đến một trăm năm, nhưng 
    đối với trước Tỳ-kheo mới thọ giới Cụ túc vẫn phải khiêm cung cúi đầu làm 
    lễ, cung kính chắp tay thưa hỏi. Cù-đàm-di, Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên 
    bố pháp tôn sư thứ tám. Nữ nhân không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì 
    suốt đời.
    “Cù-đàm-di, Thế Tôn đã vì nữ nhân tuyên bố tám pháp tôn sư này, nữ nhân 
    không được trái phạm, nữ nhân phải phụng trì suốt đời. Cù-đàm-di, Thế Tôn 
    nói như vầy, ‘Nếu Cù-đàm-di Đại Ái phụng trì tám pháp tôn sư này thì được ở 
    trong Pháp Luật chân chánh mà xuất gia học đạo, được thọ giới Cụ túc, làm 
    Tỳ-kheo-ni”.
    Khi ấy, Cù-đàm-di Đại Ái bạch:
    “Thưa Tôn giả A-nan, cho phép tôi nói ví dụ này, người trí tuệ nghe dụ 
    này phải hiểu rõ nghĩa lý. Thưa Tôn giả A-nan, giả sử có thiếu nữ Sát-lợi, 
    Phạm chí, Cư sĩ hay Công sư đoan chánh, đẹp đẽ, tắm gội sạch sẽ, lấy hương 
    xoa khắp thân, mặc y phục mới, dung mạo trang sức bằng đủ thứ anh lạc, nếu 
    có người nghĩ tưởng đến thiếu nữ ấy, mong muốn cho được lợi ích và phước 
    lành, được an ổn khoái lạc, liền đem tràng hoa sen xanh, tràng hoa chiêm 
    bặc, tràng hoa Tu-ma-na, tràng hoa Bà-sư, hoặc tràng hoa A-đề-mưu-đa trao 
    tặng thiếu nữ ấy, thiếu nữ ấy vui mừng, hai tay nhận lãnh, đem cài lên đầu 
    mình. Cũng vậy, thưa Tôn giả A-nan, Đức Thế Tôn đã vì nữ nhân mà tuyên bố 
    tám pháp tôn sư này, tôi nguyện suốt đời nhận lãnh phụng trì”.
    Bấy giờ Cù-đàm-di Đại Ái ở trong Pháp Luật chân chánh xuất gia học đạo, 
    được thọ giới Cụ túc mà làm Tỳ-kheo-ni.
    Cù-đàm-di Đại Ái, về sau trở thành Đại Tỳ-kheo-ni, cùng với các Trưởng 
    lão Thượng tôn Tỳ-kheo-ni, là những vị danh tiếng trong hàng vương giả, tu 
    hành phạm hạnh đã lâu, đồng đi đến chỗ Tôn giả A-nan cúi đầu làm lễ rồi đứng 
    một bên mà bạch rằng:
    “Thưa Tôn giả A-nan, nên biết, các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão Thượng tôn này 
    là những vị danh tiếng trong hàng vương giả, tu hành phạm hạnh đã lâu, còn 
    các Tỳ-kheo kia nhỏ tuổi, mới học đạo, xuất gia sau, vào nơi Pháp Luật chân 
    chánh này chưa được bao lâu, mong rằng các thầy Tỳ-kheo ấy đối với các 
    Tỳ-kheo-ni nên tùy theo lớn nhỏ mà cúi đầu làm lễ, cung kính chắp tay thưa 
    hỏi.
    Khi ấy Tôn giả A-nan nói:
    “Cù-đàm-di, hãy đứng dậy, để tôi đi đến Đức Phật thưa hỏi việc này”.
    Cù-đàm-di Đại Ái Đạo bạch rằng:
    “Kính vâng, thưa Tôn giả A-nan!”
    Rồi thì Tôn giả A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi 
    đứng một bên, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng:
    “Bạch Thế Tôn, hôm nay Cù-đàm-di Đại Ái cùng các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão 
    Thượng tôn là những vị danh tiếng trong hàng vương giả, tu hành phạm hạnh đã 
    lâu, đồng đi đến chỗ của con, cúi đầu đảnh lễ sát chân con rồi đứng qua một 
    bên, chắp tay mà nói với con rằng: ‘Thưa Tôn giả A-nan, các Tỳ-kheo-ni 
    Trưởng lão Thượng tôn này là những vị danh tiếng trong hàng vương giả, tu 
    hành phạm hạnh đã lâu, còn các thầy Tỳ-kheo nhỏ kia còn nhỏ tuổi, mới học 
    đạo, xuất gia sau, vào nơi Pháp Luật chân chánh này chưa được bao lâu, mong 
    rằng các thầy Tỳ-kheo ấy đối với Tỳ-kheo-ni nên tùy theo lớn nhỏ mà cúi đầu 
    làm lễ, cung kính chắp tay thưa hỏi’”.
    Đức Thế Tôn nói:
    “Thôi, thôi! A-nan, hãy gìn giữ lời nói này. Hãy thận trọng, chớ có nói 
    điều đó. A-nan, giả sử người hiểu biết như Ta biết thì một câu cũng không 
    nên nói, huống nữa là đã nói như vậy.
    “A-nan, ví như nữ nhân không được ở trong Pháp Luật chân chánh, chí tín, 
    lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo, thì các Phạm chí, cư sĩ sẽ 
    lấy áo trải lên đất mà nói rằng: ‘Thưa Sa-môn tinh tấn, ngài có thể đi lên 
    trên này. Thưa Sa-môn tinh tấn, ngài đã làm việc khó làm, khiến cho chúng 
    tôi được lợi ích, phước lành, an ổn, khoái lạc lâu dài’.
    “A-nan, ví như nữ nhân không được Pháp Luật chân chánh, chí tín, lìa bỏ 
    gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì các Phạm chí, Cư sĩ sẽ đem đầu 
    tóc mình trải lên đất mà nói rằng: ‘Thưa Sa-môn tinh tấn, ngài có thể đi lên 
    trên này. Thưa Sa-môn tinh tấn, ngài đã làm việc khó làm, khiến cho chúng 
    tôi được lợi ích, phước lành, được an ổn, khoái lạc lâu dài’.
    “A-nan, ví như nữ nhân không được ở trong Pháp Luật chân chánh này chí 
    tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo, thì các Phạm chí, cư sĩ 
    nếu trông thấy Sa-môn, hai tay sẽ bưng các thức ăn ra đứng bên đường chờ đợi 
    mà nói rằng: ‘Thưa Tôn giả, xin thọ nhận món ăn này. Có thể mang đi tùy ý 
    thọ dụng để cho chúng tôi được lợi ích phước lành, được an ổn khoái lạc lâu 
    dài’.
    “A-nan, ví như nữ nhân không được ở trong Pháp Luật chân chánh này chí 
    tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo, thì các Phạm chí, cư sĩ 
    nếu trông thấy Sa-môn tinh tấn liền sanh tâm kính mến, dìu đỡ vào nhà, đem 
    các tài vật ra cúng dường Sa-môn tinh tấn mà nói rằng: ‘Thưa Tôn giả, xin 
    thọ nhận tài vật này. Có thể mang đi tùy ý thọ dụng để cho chúng tôi được 
    lợi ích phước lành, được an ổn khoái lạc lâu dài’.
    “A-nan, ví như nữ nhân không được ở trong Pháp Luật chân chánh này chí 
    tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo, thì dù cho mặt trời mặt 
    trăng này có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai 
    thần, nhưng đối trước đức oai thần của vị Sa-môn tinh tấn vẫn không thể sánh 
    bằng, huống nữa là đối với hàng dị đạo dở chết ấy!
    “A-nan, giả như nữ nhân không được ở trong Pháp Luật chân chánh này chí 
    tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo thì chánh pháp sẽ tồn 
    tại đến ngàn năm. Thế nhưng, giờ đây đã mất hết một nửa, chỉ còn lại có được 
    năm trăm năm.
    “A-nan, có năm việc nữ nhân không làm được. Nếu nói rằng nữ nhân được 
    thành Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, hoặc Chuyển luân vương, 
    Thiên Đế Thích, Ma vương hay Đại Phạm thiên, điều này nhất định không thể 
    có.
    “Nhưng có năm việc nam nhân làm được. Nếu nói rằng nam nhân được thành 
    Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, hoặc Chuyển luân vương, Thiên Đế 
    Thích, Ma vương hay Đại Phạm thiên vương, điều này chắc chắn có thật”.
    Phật thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật 
    thuyết, hoan hỷ phụng hành.
    -ooOoo-
    Chú thích:
    
      - [01] Tương đương Pāli 
      A.8.51 Gotamī-sutta. Biệt dịch No.60. Kinh nói về sự thiết lập Tỳ-kheo ni 
      tăng, do đó được kể trong tất cả Luật tạng. Tham chiếu, Luật Pāli, Cv. 
      10.1; Tứ Phần Luật 48 (Đại 22, tr.922), Ngũ Phần Luật 29 (Đại 22, tr.185), 
      và các luật khác.
 
      - [02]
    Xem cht. kinh trên.
 
      - [03] Cù-đàm-di Đại Ái 
      瞿 曇 彌 大 愛. Pāli: Mahāpajāpatī Gotamī.
 
      - [04] Tức quả vị A-la-hán. Ý 
      câu hỏi, theo bản Pāli, do A-nan nghĩ ra như la cơ sở để nữ được xuất gia 
      như nam. Xem đoạn dưới.
 
      - [05] Luật Tứ phần (nt): sau 
      khi Bà không được Phật cho phép nữ giới xuất gia, bà cùng với năm trăm 
      người nữ khác tự cạo tóc, mặc áo ca-sa và vẫn đi theo Phật khẩn nguyện 
      Ngài chấp thuận. Bản Pāli cũng vậy, Bà theo Phật đến Vesāli và tự cạo tóc 
      tại đây.
 
      - [06]
    Xá-di 舍 彌. Pāli: Sākiyānī, người nữ trong dòng họ Thích-ca.
 
      - [07] Na-ma-đề 那 摩 提; xem 
      cht. 2,3, kinh 185. Pāli nói: Phật đến Vesālī, tức rừng Mahāvana.
 
      - [08] Luật Tứ Phần (nt): bà 
      chạy bộ theo Phật, cho đến rách gót chân.
 
      - [09] Bản Pāli, A-nan nghĩ, 
      Phật không chấp nhận thỉnh cầu, ta hãy dùng cách khác, và hỏi như vậy 
      (yaṃnūnāhaṃ aññepi pariyāyena bhagavantaṃ yāceyyaṃ...).
 
      - [10] Trong bản Pāli, Phật 
      chỉ nói điều này sau khi đã chấp thuận cho nữ xuất gia.
 
      - [11] Hữu uế 有 穢, ruộng có 
      cỏ xấu mọc lan. No.60: bạc vũ, mưa đá. Tứ phần (nt) sương bạc. Pāli: 
      sālikkhette setaṭṭhikā nāma rogajāti, trong ruộng lúa có loại bệnh gọi là 
      “bạch chứng” (tức sương muối? Hay do một giống nấm ăn trắng cây?).
 
      - [12] Tứ phần (nt): Phật 
      vẫn chưa chấp thuận, Tôn giả A-nan hỏi về khả năng đắc Thánh quả của nữ 
      nhân, Phật xác nhận, rồi A-nan nói: “Nếu nữ nhân có thể đắc Thánh quả, họ 
      cũng có thể xuất gia”. Do đó Phật chấp thuận và thiết lập tám kỉnh pháp.
 
      - [13] Bát tôn sư pháp 八 尊 
      師 法, tức Bát kỉnh pháp. No.60: Bát trọng pháp Pāli: attha garu dhamma. 
      Trong bản Hán, garu: kính trọng; được hiểu là guru: tôn sư.
 
      - [14] Tăng-già-bà-thi-sa 僧 
      伽 婆 尸 娑. Thường dịch là Tăng tàn, với mười bảy điều khoản dành cho ni, nếu 
      vi phạm, bị bắt buộc phải sống biệt chúng một thời gian theo giới kinh quy 
      định. Pāli: saṅghādisesa