_ Kính bạch chư đại tỷ tăng. Ba mươi pháp ni-tát-kỳ ba-dật-đề này, nửa
tháng phải tụng đọc lại một lần, được rút từ trong Giới kinh ra.
1. Như có tỳ-kheo ni nào đã đủ bộ năm tấm y, nếu nhận y ca-hy-na cũng đã
xả, như có nhận thêm y được giữ trong vòng 10 ngày, rồi phải theo phép
tịnh thí mà xả bỏ. Như quá 10 ngày vẫn còn giữ y thừa, phạm vào tội
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
2. Như có tỳ-kheo ni nào đã đủ bộ năm tấm y, nếu nhận y ca-hy-na cũng đã
xả, lại xa rời một trong năm tấm y của mình mà đến ngủ chỗ khác, phạm
vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề, trừ khi đã xin chư tăng kết giới không mất
y.
3. Như có tỳ-kheo ni nào đã đủ bộ năm tấm y, nếu nhận y ca-hy-na cũng đã
xả, vì muốn vá sửa hoặc thay y mới nên mới thọ nhận vải may y không phải
thời. Khi nhận rồi phải nhanh chóng may thành y, như chưa đủ vải thì
được cất giữ trong một tháng để chờ xin cho đủ vải. Nếu quá một tháng,
phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
4. Như có tỳ-kheo ni nào nhận y từ một cư sĩ, vợ cư sĩ, phạm vào tội
ni-tát-kỳ ba-dật-đề, trừ trường hợp những người đó là bà con thân thuộc,
hoặc trường hợp y đã bị cướp, bị mất, bị cháy, bị nước cuốn trôi.
5. Như tỳ-kheo ni nào có y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị nước cuốn trôi,
lại có người cư sĩ hoặc vợ cư sĩ không phải là bà con thân thuộc đến
cúng dường rất nhiều y cho tùy ý thọ nhận. Tỳ-kheo ni đó chỉ nên nhận
vừa đủ, nếu quá mức, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
6. Như có tỳ-kheo ni nào, có người cư sĩ hoặc vợ cư sĩ vì mình mà định
mua y cúng dường, tỳ-kheo ni ấy trước không được thỉnh cúng dường tùy ý,
lại đến bảo họ nên mua y cúng dường theo ý mình, vì muốn tốt hơn. Nếu
nhận được y, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
7. Như có tỳ-kheo ni nào, có hai nhà cư sĩ hoặc vợ cư sĩ vì mình mà định
mua y cúng dường, tỳ-kheo ấy trước không được thỉnh cúng dường tùy ý,
lại đến bảo họ nên chung tiền lại để mua y cúng dường theo ý mình, vì
muốn tốt hơn. Nếu nhận được y, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
8. Như có tỳ-kheo ni nào, có thí chủ sai người mang tiền đến cúng dường
cho để may y. Tỳ-kheo ni ấy đáp rằng: “Tôi không thể nhận tiền này, như
tôi cần y, phải theo đúng pháp mới nhận.” Người kia hỏi: “Đại tỷ có
người giúp làm việc này không?” Đáp: “Có.” Tỳ-kheo ni liền chỉ đến người
có thể thay mình nhận tiền may y. Người kia chuyển tiền đến đó rồi báo
lại cho tỳ-kheo ni biết: “Tôi đã giao tiền may y cho người ấy, đại tỷ
sau này nên đến đó mà nhận y.”
Sau một thời gian, nếu không nhận được y, tỳ-kheo ni có thể đến chỗ
người nhận tiền may y để nhắc nhở, một lần, hai lần hoặc ba lần, dùng
lời nhắc cho người ấy nhớ.
Nếu vẫn không nhận được y, có thể đến lần thứ tư, thứ năm, thứ sáu,
nhưng chỉ được lặng thinh mà đến để người ấy tự nhớ ra, không được dùng
lời nhắc nhở nữa.
Nếu khi ấy mà nhận được y thì tốt, bằng không nhận được thì thôi không
đến nữa. Nếu còn đến đòi hỏi, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Nếu cuối cùng không nhận được y, tỳ-kheo ni nên tự đến, hoặc nhờ người
đến chỗ người đã cúng tiền may y mà báo cho biết rằng: “Trước đây người
có gởi cúng số tiền để may y cho tỳ-kheo ni ấy, nay tỳ-kheo ni ấy thật
không nhận được y. Người có thể đến lấy lại tiền, không nên để mất.” Như
vậy là đúng pháp.
9. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay nhận tiền, vàng, bạc, hoặc chỉ bảo sai
khiến người nhận lấy, hoặc nói là có thể thọ nhận, phạm vào tội
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
10. Như có tỳ-kheo ni nào mua bán các món đồ quý giá, phạm vào tội
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
11. Như có tỳ-kheo ni nào làm việc buôn bán, trao đổi các thứ, phạm vào
tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
12. Như có tỳ-kheo ni nào dùng bình bát chưa đủ năm lần hàn, không bị rỉ
chảy, lại muốn nhận bình bát khác tốt hơn. Nếu được bát mới, phạm vào
tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
Tỳ-kheo ni đã phạm điều này, nên mang đến trước chúng ni tăng mà xả bỏ
rồi sám hối. Chúng ni tăng nhận cho sám hối rồi, sẽ giao lại cho tỳ-kheo
ni ấy bình bát nào xấu nhất. Nên giữ lấy mà dùng cho đến khi hư bể, như
vậy mới đúng pháp.
13. Như có tỳ-kheo ni nào được người cúng dường sợi vải, tự mình mang
đến thợ dệt nhờ dệt lại thành vải để may y, phạm vào tội ni-tát-kỳ
ba-dật-đề. Trừ trường hợp người thợ dệt ấy là bà con thân thuộc.
14. Như có cư sĩ hoặc vợ cư sĩ nhờ thợ dệt vải để may y cúng dường cho
tỳ-kheo ni. Vị tỳ-kheo ni ấy trước không được nhận thỉnh tùy ý, lại tìm
đến người thợ dệt và nói rằng: “Tấm y đó là làm cho tôi. Ông hãy dệt cho
thật tốt. Hãy dệt cho rộng rãi, bền chắc, nhuyễn mịn, tôi sẽ thưởng cho
ông.” Tỳ-kheo ni ấy nói rồi cho tiền thợ dệt, dù chỉ trị giá một bữa ăn,
nhận được y rồi là phạm tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
15. Như có tỳ-kheo ni nào, trước đem y thí cho một tỳ-kheo ni khác, sau
lại vì sự giận hờn mà đòi lại, hoặc bảo người khác đòi, nói rằng: “Trả y
cho tôi, chẳng cho cô nữa.” Tỳ-kheo ni kia trả y, tỳ-kheo ni này nhận y
lại rồi, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
16. Như tỳ-kheo ni vì mắc bệnh, có thể cất dùng các món để làm thuốc như
váng sữa, dầu, sữa tươi, mật, đường, trong vòng 7 ngày. Nếu quá 7 ngày
mà dùng, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
17. Khi còn mười ngày nữa mới mãn hạ an cư, có thí chủ vì việc gấp đến
cúng dường y. Tỳ-kheo ni biết việc cúng dường gấp, có thể thọ nhận. Nhận
rồi được cất giữ theo thời gian quy định, như cất giữ quá lâu, phạm vào
tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
18. Như có tỳ-kheo ni nào, biết là đồ vật cúng dường cho chúng tăng mà
muốn lấy làm của mình, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
19. Như có tỳ-kheo ni nào đã nói mình cần món gì, sau lại nói là cần món
khác, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
20. Như có tỳ-kheo ni nào biết thí chủ nguyện cúng dường cho chúng tăng
để dùng vào một mục đích, lại mang dùng vào mục đích khác, phạm vào tội
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
21. Như có tỳ-kheo ni nào quyên góp tài vật cho một việc gì, sau lại
dùng vào việc khác cho chúng tăng, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
22. Như có tỳ-kheo ni nào thọ nhận của thí chủ cúng dường để làm một
việc gì, sau lại đổi sang làm một việc khác không theo ý thí chủ, phạm
vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
23. Như vị tỳ-kheo ni nào nhân danh chúng tăng để quyên góp tài vật làm
việc gì, sau lại làm một việc khác, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
24. Như có tỳ-kheo ni nào cất giữ thêm bình bát, phạm vào tội ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
25. Như có tỳ-kheo nào cất giữ nhiều đồ vật tốt đẹp, phạm vào tội
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
26. Như có tỳ-kheo ni nào đã hứa với tỳ-kheo ni khác sẽ cho vị ấy bệnh
y, rồi sau lại không đưa cho, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
27. Như có tỳ-kheo ni nhận y phi thời, lấy làm y phải thời, phạm vào tội
ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
28. Như có tỳ-kheo ni nào cùng với tỳ-kheo ni khác trao đổi y, sau vì
giận ghét mà đòi lại, hoặc khiến người khác đòi, nói rằng: “Y của cô trả
cho cô, y của tôi lấy về cho tôi, không đổi nữa”, phạm vào tội ni-tát-kỳ
ba-dật-đề.
29. Như có tỳ-kheo ni nào nhận y dày nặng giữ ấm mùa đông, giá trị không
được quá bốn xấp vải. Nếu quá, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
30. Như có tỳ-kheo ni nào nhận y mỏng nhẹ dùng mùa hè, giá trị không
được quá hai xấp rưỡi vải. Nếu quá, phạm vào tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề.
_ Kính bạch chư đại tỷ. Tôi đã thuyết xong ba mươi pháp ni-tát-kỳ
ba-dật-đề, xin hỏi chư đại tỷ, trong chúng đây có được thanh tịnh hay
chăng?
Người thuyết giới lập lại câu hỏi này ba lần. Nếu có ai nhớ ra mình đã
phạm vào các giới này thì phải tự nhận. Nếu không thì tất cả đều yên
lặng.
_ Kính bạch chư đại tỷ, vì các vị đều lặng yên, nên xem như trong chúng
tăng đây hết thảy đều thanh tịnh. Việc này xin được hiểu như vậy.