Trên hành trình tâm linh trong đạo Phật, có hai tính chất của con đường tu tập phản ánh hai pháp tu tập khác biệt mà chúng ta nhất thiết phải hành trì. Mặc dù đức Phật đã dạy cả hai, nhưng các pháp này được trao truyền từ thầy sang trò qua nhiều thế kỷ theo hai dòng truyền riêng biệt. Tuy nhiên, cũng giống như hai cánh của một con chim, cả hai pháp tu này đều cần thiết khi ta dấn thân vào cuộc hành trình hướng đến giác ngộ, cho dù đó là hướng đến trạng thái giải thoát khổ đau cho riêng bản thân ta, hay trạng thái giác ngộ rốt ráo của quả Phật mà ta nỗ lực đạt đến để làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh.
Along our spiritual journey in Buddhism, there are two aspects of our path that reflect two distinct kinds of practice we must engage in. Though the Buddha taught both, they were passed along over the centuries from teacher to student in two separate lineages. However, like the two wings of a bird, they are both necessary as we embark upon our journey to enlightenment, be it a state free of suffering for ourselves alone or the ultimate enlightened state of Buddhahood we seek in order to benefit all sentient beings.
Cho đến lúc này, tôi đã tập trung phần lớn vào việc miêu tả “sự rộng lớn”. Pháp tu tập này thường được nói đến như là khía cạnh “phương tiện” và đặc biệt đề cập đến sự rộng mở trái tim, phát triển lòng từ bi và thương yêu, cùng với những phẩm tính như là sự rộng lượng bố thí và nhẫn nhục, vốn được phát triển từ một trái tim yêu thương.
Thus far, I have largely concentrated on describing “the vast.” This practice is often referred to as the “method” aspect and refers particularly to the opening of our heart, of our compassion and love, as well as those qualities such as generosity and patience that extend from a loving heart.
Ở đây, sự tu tập của chúng ta bao gồm phát triển những phẩm tính đức hạnh đồng thời giảm dần những khuynh hướng bất thiện.
Here our training involves enhancing these virtuous qualities while diminishing nonvirtuous tendencies.
Rộng mở trái tim có nghĩa là gì? Trước hết, ta hiểu rằng ý niệm về trái tim là một ẩn dụ. Trái tim được nhận hiểu trong hầu hết các nền văn hóa như là suối nguồn của lòng bi mẫn, thương yêu, cảm thông, đạo đức và trực giác, chứ không chỉ đơn thuần là một khối cơ bắp có chức năng đưa máu đi khắp cơ thể. Tuy nhiên, theo quan điểm của đạo Phật thì cả hai khía cạnh của con đường tu tập nói trên đều được hiểu là diễn ra trong tâm thức. Thật khôi hài khi cho rằng theo quan điểm đạo Phật thì tâm thức nằm giữa lồng ngực! [Vì thế, ta phải hiểu rằng] một trái tim rộng mở chính là một tâm hồn rộng mở. Sự thay đổi của trái tim cũng là sự đổi thay của tâm hồn. Dù vậy, nếu chỉ hiểu một cách tạm thời thì khái niệm về trái tim như trên cho ta một công cụ hữu ích khi cố gắng nhận hiểu sự khác biệt giữa hai khía cạnh “rộng lớn” và “sâu sắc” của con đường tu tập.
What does it mean to open the heart? First of all, we understand that the idea of the heart is a metaphorical one. The heart is perceived in most cultures to be the wellspring of compassion, love, sympathy, righteousness, and intuition rather than merely the muscle responsible for circulating blood through the body. In the Buddhist worldview, both aspects of the path, however, are understood to take place in the mind. Ironically, the Buddhist view is that the mind is located in the middle of the chest. An open heart is an open mind. A change of heart is a change of mind. Still, our conception of the heart provides a useful, if temporary, tool when trying to understand the distinction between the “vast” and “profound” aspects of the path.
Khía cạnh tu tập thứ hai là “trí tuệ”, cũng được biết như là “sự sâu sắc”. Trong khía cạnh này, chúng ta nói đến phạm vi của bộ não, nơi mà sự hiểu biết, phân tích và nhận thức phê phán là những khái niệm ngự trị. Trong pháp tu tập trí tuệ, chúng ta đào sâu sự nhận hiểu về vô thường, bản chất khổ đau của đời sống và thực thể vô ngã của chúng ta. Bất kỳ một điểm nào trong số những tuệ giác nội quán này đều có thể phải trải qua nhiều kiếp sống để nhận hiểu thấu đáo. Thế nhưng, chỉ bằng cách nhận ra được bản chất vô thường của sự vật thì ta mới có thể vượt qua được sự bám chấp vào chúng, cũng như vào bất kỳ ý niệm nào về sự thường hằng. Khi ta thiếu sự hiểu biết về bản chất khổ đau của cuộc đời, sự tham luyến của ta đối với đời sống sẽ gia tăng. Nếu ta nuôi dưỡng nhận thức sâu xa về bản chất khổ đau của cuộc đời, ta sẽ vượt qua sự tham luyến ấy.
The other aspect of practice is the “wisdom” aspect, also known as “the profound.” Here we are in the realm of the head, where understanding, analysis, and critical perception are the ruling notions. In the wisdom aspect of the path, we work at deepening our understanding of impermanence, the suffering nature of existence, and our actual state of selflessness. Any one of these insights can take many lifetimes to fully fathom. Yet it is only by recognizing the impermanent nature of things that we can overcome our grasping at them and at any notion of permanence. When we lack an understanding of the suffering nature of existence, our attachment to life increases. If we cultivate our insight into the miserable nature of life, we overcome that attachment.
Suy cho cùng, tất cả những khó khăn của chúng ta đều bắt nguồn từ một sự ảo tưởng căn bản. Ta tin vào sự hiện hữu sẵn có trong tự tánh của chính bản thân ta và tất cả các hiện tượng khác. Ta phóng tưởng một ý niệm về bản chất thật có và tự tồn tại của sự vật rồi bám chặt vào ý niệm ấy, trong khi sự thật là các hiện tượng không hề có bản chất như thế. Hãy lấy ví dụ về một chiếc ghế đơn giản thôi. Chúng ta tin, mà không hề nhận thức đầy đủ về niềm tin này, rằng thật sự có một điều như là “bản chất ghế”, tức là tính chất của một chiếc ghế, dường như đang tồn tại trong các bộ phận của chiếc ghế: những chân ghế, chỗ ngồi và chỗ dựa. Cũng theo cách như vậy, mỗi chúng ta đều tin là có một “cái tôi” có thực thể và tương tục hiện hữu khắp trong các bộ phận thể chất và tinh thần đã tạo nên chúng ta. Tính chất “có thực thể” này là hoàn toàn do chúng ta quy gán, thật ra tính chất ấy không hề tồn tại.
Ultimately, all our difficulties arise from one basic illusion. We believe in the inherent existence of ourselves and all other phenomena. We project, and then cling to, an idea of the intrinsic nature of things, an essence that phenomena do not actually possess. Let us take a simple chair as an example. We believe, without fully recognizing this belief, that there is such a thing as an essential chairness, a quality of a chair that seems to exist among its parts: the legs, seat, and back. In the same way, we each believe there to be an essential and continuous “me” pervading the physical and mental parts that make up each of us. This essential quality is merely imputed by us; it does not actually exist.
Sự bám chấp vào “cái tôi” có thực thể tự tồn tại này là một tri giác sai lầm căn bản mà ta nhất thiết phải loại trừ thông qua những tu tập thiền định thuộc phần trí tuệ. Tại sao vậy? Vì nó là gốc rễ của tất cả khổ đau. Nó là cốt lõi của mọi cảm xúc phiền não.
Our grasping at this inherent existence is a fundamentally mistaken perception that we must eliminate through meditation practices of the wisdom path. Why? Because it is the root cause of all our misery. It lies at the core of all our afflictive emotions.
Ta chỉ có thể từ bỏ được ảo tưởng về tính chất “có thực thể” này bằng việc nuôi dưỡng phẩm tính đối trị trực tiếp với nó, đó là trí tuệ nhận ra được sự không tồn tại của tính chất ấy. Một lần nữa, ta nuôi dưỡng trí tuệ sâu sắc này cũng giống như ta nuôi dưỡng sự khiêm hạ để diệt trừ tận gốc sự kiêu mạn trong ta. Trước hết, chúng ta nhất thiết phải suy xét nhuần nhuyễn về cách thức sai lầm mà ta đang nhận thức chính bản thân mình cũng như mọi hiện tượng khác. Sau đó, ta có thể nuôi dưỡng một nhận thức đúng về các hiện tượng. Khởi đầu, nhận thức này có thể chỉ đơn thuần dựa theo lý trí, giống như những hiểu biết mà ta đạt được thông qua việc học hỏi và lắng nghe giáo pháp. Để nhận thức này trở nên sâu sắc hơn thì cần phải có những thực hành thiền định kéo dài hơn, như sẽ được miêu tả trong chương 11: “Sự an định”, chương 12: “Chín giai đoạn thiền định” và chương 13: “Trí tuệ”. Chỉ khi ấy thì nhận thức này mới thật sự có khả năng tác động đến quan điểm của ta về bản thân mình và các sự vật khác. Bằng cách trực nhận được rằng “cái tôi” này không hề có bản chất tự nó tồn tại, ta đánh bật được tận gốc nền tảng căn bản nhất của sự chấp ngã, vốn là cốt lõi của mọi khổ đau.
We can abandon this illusion of an essential quality only by cultivating its direct antidote, which is the wisdom that realizes the nonexistence of that quality. Again, we cultivate this profound wisdom, as we cultivate humility in order to uproot our pride. We must first become familiar with the improper way we perceive ourselves and other phenomena; we can then cultivate a correct perception of phenomena. Initially, this perception will be intellectual, as in the kinds of understanding one achieves through study or listening to teachings. To deepen this perception requires the more sustained meditation practices described in Chapter 11, “Calm Abiding,” Chapter 12, “The Nine Stages of Calm Abiding Meditation,” and Chapter 13, “Wisdom.” Only then is the perception able to truly affect our view of ourselves and other things. By directly realizing our lack of an inherent nature, we uproot the very basis of the self-grasping that lies at the core of all our suffering.
Phát triển trí tuệ là một tiến trình làm cho những suy nghĩ của ta tiến đến chỗ tương ưng với cách thức hiện hữu thật sự của sự vật. Qua tiến trình này, ta dần dần loại bỏ được những nhận thức sai lầm về thực tại đã có từ vô thủy đến nay. Điều này thật không dễ dàng. Chỉ riêng việc hiểu được ý nghĩa của những cách diễn đạt như “sự tồn tại nhờ vào tự tính” hay “bản chất thật có” của sự vật cũng đã đòi hỏi rất nhiều sự học hỏi và suy ngẫm. Việc nhận biết được rằng sự vật không hề tự tồn tại nhờ vào tự tính của chúng là một tuệ giác nội quán sâu sắc, đòi hỏi nhiều năm học hỏi và thiền định. Chúng ta nhất thiết phải bắt đầu bằng cách suy xét nhuần nhuyễn những ý niệm đó, và sẽ tìm hiểu sâu hơn trong phần sau của sách này. Tuy nhiên, ngay bây giờ chúng ta hãy trở lại với pháp tu phương tiện để tìm hiểu về ý niệm bi mẫn.
Developing wisdom is a process of bringing our minds into accordance with the way things really are. Through this process we gradually remove the incorrect perceptions of reality we have had since beginningless time. This is not easy. Merely understanding what is meant by the inherent or intrinsic existence of things demands much study and contemplation. Recognizing that things have no inherent existence is a profound insight, requiring years of study and meditation. We must begin by familiarizing ourselves with these notions, which we shall explore further later in this book. For the moment, however, let us return to the method aspect in order to explore the idea of compassion.