Nhẫn tâm bỏ đói giết mẫu thân,
		Quả báo ấy muôn đời phải chịu.
		Lúc đức Như Lai ở thành Xá-vệ, có người bà-la-môn kiếm sống bằng nghề 
		xin ăn, cuộc sống gia đình hết sức túng thiếu, khốn khổ. Do đó, vợ ông 
		cũng thường phải đi xin ăn. 
		Sau đó, người vợ mang thai. Song kì lạ hết sức, từ ngày đứa bé bắt đầu 
		hình thành trong bụng bà, suốt ngày bà chẳng xin được thứ gì cả. Sau 9 
		tháng, bà sinh ra một đứa con trai, không những vừa ốm vừa xấu xí, lại 
		còn bị gù lưng, nên cha mẹ liền đặt tên là Tiểu Đà Bối.
[21]
		Chỉ mấy ngày sau khi sinh, do nhân duyên nghiệp lực hiện tiền, dòng sữa 
		ngọt trong người mẹ cậu bỗng nhiên cạn khô, do đó phải dùng sữa bò cho 
		cậu bú, song cũng rất khó xin được sữa. Nhưng vì thân này là thân cuối 
		cùng để thọ nghiệp của cậu ta, nên khi chưa trả hết nghiệp báo thì sẽ 
		không thể chết. Vì vậy, cha mẹ vẫn cố gắng gượng chăm sóc nuôi nấng cậu 
		lớn lên trong cảnh dở sống dở chết như thế.
		Khi cậu đã khôn lớn, một hôm cha cậu bảo:
		– Gia đình mình sinh sống bằng nghề ăn xin, xưa nay hết sức vất vả rồi, 
		bây giờ con đã lớn cũng nên bắt đầu đi xin ăn.
		Thế là, Tiểu Đà Bối bắt đầu tự mình đi xin ăn. Nhưng do nghiệp lực, cậu 
		thường xuyên chẳng xin được thứ gì, mỗi khi đói đến lã người mới miễn 
		cưỡng xin được ít thức ăn chỉ vừa đủ để duy trì chút hơi tàn, cả thể xác 
		và nội tâm đều thống khổ vô cùng.
		Sau đó, cậu dần dần phát khởi niềm tin đối với giáo pháp giải thoát của 
		đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn. Sau khi được cha mẹ đồng ý, cậu theo một 
		thầy tỳ-kheo xuất gia, thọ giới. 
		Sau khi xuất gia, mấy ngày đầu cậu cùng đi khất thực chung với thầy, 
		cuộc sống cũng tàm tạm. Nhưng qua một thời gian, vị thầy liền bảo cậu đi 
		hóa duyên một mình.
		Thế là, Tiểu Đà Bối bắt đầu thực hành phương thức sinh hoạt của một vị 
		tỳ-kheo thực thụ, có khi cùng đi thọ nhận cúng dường với chúng tăng, có 
		khi vào thành hóa duyên một mình. Nhưng dù Tiểu Đà Bối có đi thọ cúng 
		cùng với chúng tăng, cũng thường không có đủ thức ăn, trong khi các thầy 
		tỳ-kheo khác lại được ăn uống đầy đủ. Có khi đến lượt Tiểu Đà Bối nhận 
		cúng thì cũng vừa đúng lúc thức ăn của thí chủ không còn; hoặc nếu không 
		như vậy thì lại gặp lúc thí chủ có việc gấp phải đi, đến chừng trở lại 
		thì Tiểu Đà Bối đã đi qua, thí chủ mới tiếp tục cúng dường cho các 
		tỳ-kheo phía sau. Nói chung, trong số chúng tăng thì tỳ-kheo Tiểu Đà Bối 
		là vị có cuộc sống khốn khổ nhất.
		Nhiều thầy tỳ-kheo biết được tình trạng như vậy rất thương xót, bèn đến 
		thỉnh vấn đức Như Lai:
		– Kính bạch đức Thế Tôn! Tỳ-kheo Tiểu Đà Bối thường không xin được thức 
		ăn, có khi các thầy tỳ-kheo trước sau đều được đầy đủ, song chỉ sót lại 
		riêng mình thầy, như vậy nên làm thế nào?
		Khi ấy, đức Như Lai liền chế định thêm một điều luật rằng: 
		“Khi cùng đi thọ nhận cúng dường, nếu thầy tỳ-kheo phía trước chưa được 
		thức ăn thì tỳ-kheo phía sau không được thọ nhận đồ cúng.”
		Mặc dầu như vậy, tỳ-kheo Tiểu Đà Bối vẫn thường không xin được thức ăn, 
		mỗi khi vào thành hóa duyên thường phải ôm bát không trở về.
		Sau đó, có hai hôm thầy quét dọn hương thất của đức Thế Tôn. Hai ngày đó 
		thầy được ăn đầy đủ, thân thể cũng khỏe mạnh, tinh thần sảng khoái. Thầy 
		nhân đó liền phát tâm dũng mãnh tinh tấn, tức khắc đoạn trừ tất cả phiền 
		não, chứng đắc quả vị A-la-hán. Song, dù thầy đã chứng đắc quả A-la-hán 
		nhưng cũng vẫn phải lãnh thọ nghiệp báo đời trước còn sót lại.
		Thầy thầm nghĩ: “Hay là ngày nào mình cũng quét dọn giảng đường, cuộc 
		sống có thể tốt hơn một chút.” Nghĩ là làm, thầy liền đến nơi giảng kinh 
		của đức Thế Tôn. Rủi thay, ngày hôm đó đã có một vị tỳ-kheo khác quét 
		dọn trong ngoài giảng đường sạch sẽ rồi. Thầy đành phải đắp y ôm bát vào 
		thành hóa duyên, nhưng chẳng được gì cả. Ngày hôm sau, thầy cầm chổi đi 
		đến điện đường rất sớm, ai ngờ cũng đã có một vị tỳ-kheo quét sạch điện 
		đường rồi, thầy đành quay gót trở về liêu.
		Sau khi trở về, nghe nói trưa nay có vị đại thí chủ sẽ cúng dường đức 
		Như Lai và chúng tăng, thầy định bụng sẽ được cùng dự cúng. Nhưng ngờ 
		đâu thí chủ có việc gấp phải cúng dường trước thời gian đã định, vì 
		tỳ-kheo Tiểu Đà Bối ngồi thiền nên không hay biết. Khi đức Như Lai thọ 
		cúng xong, thí chủ cũng tức tốc ra về, hôm đó Tiểu Đà Bối lại chẳng có 
		gì ăn.
		Ngày thứ ba, thầy đặc biệt cầm chổi đến điện đường thật sớm, vừa đến nơi 
		đã thấy có một thầy tỳ-kheo đang quét, thầy chỉ còn cách vác chổi trở về 
		liêu. Thầy A-nan biết đã ba ngày rồi thầy Tiểu Đà Bối vẫn chưa có hạt 
		cơm nào vào bụng, do đó giới thiệu cho thầy một vị thí chủ, tới trưa cứ 
		việc ôm bát đến nhận cúng. Nhưng, gần đến giờ thì vị thí chủ ấy có việc 
		phải giải quyết gấp, vội vội vàng vàng ra đi, quên dặn lại người nhà về 
		việc trưa nay sẽ có một thầy tỳ-kheo đến nhận cúng. Do đó, lúc thầy Tiểu 
		Đà Bối đến hóa duyên chẳng có ai để ý thầy. Thầy A-nan vào thành hóa 
		duyên trở về, nghe nói A-la-hán Tiểu Đà Bối vẫn chưa ăn gì, thầy thương 
		quá liền đến bên an ủi:
		– Không nên lo lắng, ngày mai chính tôi sẽ cúng dường cho thầy.
		Sáng sớm ngày thứ tư, thầy A-nan ôm hai bát vào thành khất thực. Khi hóa 
		duyên đã đầy hai bát, thầy dùng một bát, còn một bát mang về cho thầy 
		Tiểu Đà Bối. Nhưng lúc đi đến rừng Kỳ-đà, đột nhiên có rất nhiều chó 
		hoang nhảy xổ ra, chồm lên xô đổ và ăn sạch thức ăn trong bát. Thầy 
		A-nan bất ngờ không biết phải làm sao, đành ôm bát không trở về. 
		Thầy A-nan thầm nghĩ: “Giả sử mình đi hóa duyên tiếp, thì về đến nơi 
		cũng đã quá ngọ. Quá ngọ thì bậc A-la-hán sẽ không ăn.” Như vậy, thầy 
		Tiểu Đà Bối vẫn không có cơm ăn. 
		Thầy Mục-kiền-liên nghe nói đã 4 ngày rồi mà thầy Tiểu Đà Bối vẫn chưa 
		có gì để ăn, trong lòng cảm thấy thương xót vô cùng, cũng muốn giúp thầy 
		ấy hóa duyên.
		Ngày thứ năm, thầy Mục-kiền-liên cũng mang hai bát vào thành hóa duyên. 
		Khi nhận đầy hai bát, thầy dùng một bát, còn một bát mang về. Nhưng về 
		đến vườn Kỳ-đà thì đột nhiên xuất hiện một bầy quạ, nhanh như chớp xà 
		xuống ăn sạch cơm trong bát Thầy Mục-kiền-liên tự nghĩ: “Nếu vào thành 
		hóa duyên tiếp, khi về cũng đã quá ngọ.” Thầy đành ôm bát không trở về. 
		Như vậy, thầy Tiểu Đà Bối vẫn chẳng có gì ăn. 
		Thầy Xá-lợi-phất nghe nói thầy Tiểu Đà Bối chịu đói đã 5 ngày rồi, liền 
		đến chia sẻ, dự định ngày mai sẽ đi hóa duyên cho thầy.
		Ngày thứ sáu, thầy Xá-lợi-phất cũng ôm hai bát vào thành hóa duyên, nhận 
		đầy hai bát. Thầy dùng một bát, còn bát kia mang về. Nhưng vừa đến rừng 
		Kỳ-đà, do nghiệp lực của thầy tỳ-kheo Tiểu Đà Bối quá nặng nên lại xuất 
		hiện một bầy phi nhân giật bát chạy đi, trong nháy mắt chẳng còn thấy 
		đâu cả. Thầy Xá-lợi-phất thấy đi hóa duyên tiếp cũng đã quá ngọ, đành ôm 
		bát không trở về. A-la-hán Tiểu Đà Bối vẫn không có gì ăn. Thầy 
		Xá-lợi-phất lại an ủi:
		– Bất luận thế nào, ngày mai nhất định tôi sẽ cúng dường cho thầy.
		Hôm sau đã là ngày thứ bảy Tiểu Đà Bối phải nhịn đói, thầy Xá-lợi-phất 
		lại vào thành hóa duyên. Khi đã nhận đầy hai bát, thầy dùng một bát, còn 
		bát kia mang thẳng đến liêu của tỳ-kheo Tiểu Đà Bối. 
		Nhưng khi ấy đột nhiên toàn bộ cửa đều bị đóng kín, không thể vào được. 
		Thầy Xá-lợi-phất liền vận thần thông hiện vào, đánh thức thầy Tiểu Đà 
		Bối dậy rửa mặt thọ cúng. Nhưng, thầy Tiểu Đà Bối vừa đưa tay ra, bát 
		liền rơi xuống đất, rồi rơi thẳng xuống kim cang đại địa, là cõi nằm sâu 
		cách mặt đất đến 40.000 do-tuần. 
		Thầy Xá-lợi-phất tức khắc vận thần thông lấy bát lên, rồi đưa cho thầy 
		Tiểu Đà Bối ăn; nhưng vị này vừa múc lên muỗng thứ nhất, đưa đến miệng 
		liền bị phi nhân giật chạy; đến muỗng thứ hai lại cũng cùng chung cảnh 
		ngộ như muỗng thứ nhất. 
		Thầy Xá-lợi-phất thấy vậy thương quá nên đích thân dùng thần lực múc cơm 
		đút cho thầy Tiểu Đà Bối ăn. Nhưng miệng thầy Tiểu Đà Bối bỗng dưng ngậm 
		cứng lại, làm cách gì cũng không há ra được. 
		Thầy Xá-lợi-phất lại tiếp tục hiện thần biến muốn làm cho miệng thầy 
		Tiểu Đà Bối há ra, song cũng đành bất lực. 
		Qua một lúc giằng co, mặt trời đã hơi chếch bóng, qua khỏi giờ ngọ. Lúc 
		này, theo giới luật thì vị tỳ-kheo không được ăn gì cả, miệng thầy Tiểu 
		Đà Bối lại mở ra được như bình thường. 
		Thầy Xá-lợi-phất đành chịu thua, liền hỏi thầy Tiểu Đà Bối xem có cần gì 
		khác không. Thầy Tiểu Đà Bối đáp:
		– Tôi khát nước, xin cho tôi một chút nước!
		Thầy Xá-lợi-phất mang đến một bát nước, nhưng do nghiệp lực, liền có rất 
		nhiều phi nhân hiện ra lấy tro bỏ vào bát nước, thành bát nước tro. 
		A-la-hán Tiểu Đà Bối biết đây là nghiệp chướng đời trước của mình, bèn 
		an nhiên uống vào một hớp nước tro, sau đó hiển thị thần biến mưa đá, 
		sấm chớp... rồi nhập Niết-bàn. Chư tỳ-kheo đem nhục thân của thầy xây 
		tháp cúng dường.
		Sau đó, chư tỳ-kheo đến thỉnh vấn đức Như Lai:
		– Kính bạch đức Thế Tôn! Thầy Tiểu Đà Bối trước đây từng gây tạo ác 
		nghiệp gì mà trong suốt bảy ngày, dù chúng tỳ-kheo thánh tăng đã cố hết 
		sức cũng không thể cứu được? Hơn nữa, tuy là thánh tăng A-la-hán nhưng 
		lại nhập Niết-bàn trong trạng thái đói khát? Ngưỡng mong đức Như Lai từ 
		bi nói rõ nhân duyên cho chúng con được rõ.
		Đức Như Lai nhìn khắp đại chúng một lượt rồi nói:
		– Đây đều là do sự chiêu cảm nghiệp lực đời trước của ông ấy. Tất cả 
		nghiệp lực của chúng sinh đều không thành thục ở bên ngoài đất, nước, 
		gió, lửa, mà thành thục ngay trong thân tâm của mình, do đó nên nói 
		rằng: “Dù trải qua trăm ngàn kiếp, nghiệp lành, dữ đã tạo ra đều không 
		mất, chỉ chờ hội đủ nhân duyên là phải tự nhận lấy quả báo.”
		Rất lâu xa về trước, có hai vợ chồng thí chủ kia, đều hoan hỉ bố thí 
		rộng khắp. Sau khi con của họ lớn lên, người chồng qua đời, vợ ông tiếp 
		tục làm công việc bố thí, song người con không đồng ý, nhiều lần phản 
		đối mẹ:
		– Lúc cha còn sống thường hay bố thí đã quá nhiều rồi. Chúng ta không 
		được tiếp tục làm như vậy. Mẹ không được mang tài sản trong nhà ra cho 
		người khác.
		Song người mẹ vẫn cứ phát tâm bố thí rộng khắp như cũ. Vì thế, người con 
		trai rất tức giận.
		Một hôm, anh ta tàn nhẫn nhốt mẹ vào trong phòng, không cho bà ăn, cũng 
		không cho uống, dự tính để cho bà phải chết đói. Mặc dầu người mẹ van 
		xin khẩn cầu đến ba lần, song anh vẫn không bà một hớp nước, miếng cơm, 
		cũng không thả bà ra ngoài, cứ như vậy liên tục đến 7 ngày. 
		Khi ấy, những bà con, bạn bè của người mẹ nghe biết được chuyện động 
		trời đó liền kéo đến trách mắng, buộc lòng anh phải thả mẹ ra. Lúc này 
		người mẹ chỉ còn chút hơi thở thoi thóp. Những người thân tộc liền hỏi 
		bà:
		– Bây giờ bà cần gì?
		Người mẹ gắng gượng nói:
		– Tôi muốn uống hớp nước!
		Người con trai nghe vậy liền nghĩ: “Nếu bỏ tro vào nước, bà ấy uống vào 
		nhất định sẽ chết ngay.” Nghĩ là làm, anh ta liền bỏ tro vào nước uống 
		của mẹ. Người mẹ vừa hớp vào liền ngạt thở và qua đời.
		Này các tỳ-kheo! Người con bất hiếu lúc đó, nay chính là Tiểu Đà Bối. 
		Bởi ông ấy đã từng dùng những thủ đoạn tàn nhẫn như vậy để sát hại mẹ, 
		nên đã bị đọa vào địa ngục đến trăm ngàn kiếp, và khi chuyển sinh đến 
		bất cứ nơi nào cũng đều bị chết vì đói. Tuy đời này là thân cuối cùng, 
		không còn phải luân hồi sinh tử nữa, nhưng vẫn phải uống một hớp nước 
		tro rồi mới nhập Niết-bàn.
		Ngoài ra, cũng trong Hiền kiếp này, lúc đức Phật Ca-diếp còn tại thế, 
		tuổi thọ con người đến 20.000 tuổi, có hai người con sinh đôi của một vị 
		thí chủ. Khi lớn lên, cả hai đều sinh khởi niềm tin lớn vào giáo pháp 
		của đức Ca-diếp Như Lai, nên cùng phát tâm xuất gia, trở thành đại pháp 
		sư, được rất nhiều người cung kính cúng dường.
		Trong hai anh em này, một người tâm địa thuần thiện, thường đem những 
		thứ mình có cúng dường lại cho chúng tăng, nhất là thường xuyên cúng 
		dường những vị xuất gia có cuộc sống tương đối khốn khó; còn người kia 
		không những không sinh tâm tùy hỉ mà còn hết sức phản đối:
		– Thầy không nên cúng dường tất cả những gì chúng ta có cho chúng tăng.
		Vị pháp sư thuần thiện liền khuyên:
		– Anh em chúng ta có cuộc sống sung túc, trong khi đó có rất nhiều vị 
		tăng phải sống khốn khó, vậy làm người xuất gia đầy đủ tâm từ bi, có lý 
		do gì mà không phát tâm cúng dường bố thí?
		Vị kia phản đối không kết quả, không còn biết nói sao, liền nghĩ kế 
		khuyên thầy tỳ-kheo thuần thiện cùng mình đi hoằng pháp ở nơi khác. Thế 
		là, tăng chúng không còn ai cúng dường, cuộc sống trở nên khốn khó. Họ 
		bèn cử người đến thỉnh hai vị đại pháp sư trở về.
		Sau khi vị pháp sư có tâm hẹp hòi nghe xong liền tức giận, mắng chửi 
		thậm tệ:
		– Chúng tăng vì muốn được chúng tôi cúng dường mà lẫn trốn đến nơi khác 
		cũng không chịu buông tha. Ta nguyền rủa các ông suốt ngày chẳng có gì 
		ăn uống, cho đến phải đói khát như ngạ quỉ.
		Vị pháp sư thuần thiện nghe vậy liền khuyên can:
		– Thầy không nên ác khẩu chửi mắng chúng tăng như vậy, hãy thành tâm sám 
		hối đi.
		Chính vị kia sau khi nói ra lời như vậy rồi cũng thấy mình không phải, 
		do đó sinh tâm vô cùng hối hận. Trước khi chết, thầy tha thiết phát 
		nguyện sâu xa rằng: 
		– Do nhân lành tu tập trong suốt đời này, xin nguyện cho nghiệp xấu ác 
		khẩu mắng chửi tăng chúng của con sẽ không thành thục; lại nguyện cho 
		sau này được xuất gia sống đời tỉnh thức trong giáo pháp giải thoát của 
		đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, sinh tâm hoan hỉ, chứng đắc quả vị 
		A-la-hán.
		Vị pháp sư hẹp hòi lúc đó, nay chính là tỳ-kheo Tiểu Đà Bối. Do quả báo 
		ác khẩu mắng chửi tăng chúng, ông phải chịu hậu quả 500 kiếp chuyển sinh 
		làm quỉ đói. Sau đó, dù chuyển sinh vào bất cứ cảnh giới chúng sinh nào 
		cũng đều phải chịu nghiệp chết đói. Song nhờ nguyện lực phát ra trước 
		khi chết, mong muốn được xuất gia sống đời tỉnh thức trong giáo pháp 
		giải thoát của đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, chứng đắc quả vị A-la-hán, 
		nên trong đời này Tiểu Đà Bối đã sinh khởi tâm hoan hỉ với đức Như Lai 
		và giáo pháp giải thoát, sau khi xuất gia lại phá trừ được phiền não 
		trong Ba cõi, chứng đắc quả vị A-la-hán.
		Đức Phật kể xong nhân duyên nghiệp quả của tỳ-kheo Tiểu Đà Bối, tất cả 
		chư tỳ-kheo đều sinh khởi niềm tin thanh tịnh vào giáo lý nhân quả, 
		nguyện đời đời kiếp kiếp không bao giờ phạm vào các điều ác, luôn tinh 
		tấn tu tập hết thảy các điều lành.