Đức Thế Tôn truyền giới bằng thư,
		Thọ trì viên mãn tỳ-kheo ni giới.
		Lúc đức Như Lai ở thành Xá-vệ, có hai vị đại thần của quốc vương Tát-ca, 
		một vị tên là Trì Thú, một vị tên là Tài Thí. Hai người kết giao vô cùng 
		thân thiết, cùng giao ước sau này sẽ kết thông gia với nhau.
		Không lâu sau, phu nhân của đại thần Trì Thú hạ sinh một người con trai 
		tuấn tú, đặt tên là Tát-ca.
		Sau đó, phu nhân của đại thần Tài Thí cũng hạ sinh một người con gái 
		đoan trang xinh đẹp. Nhưng bé gái này vừa chào đời đã khóc mãi không 
		thôi, dỗ thế nào cũng không chịu nín. Mãi đến một ngày, nhân có trưởng 
		lão tỳ-kheo ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề đến nhà đại thần Tài Thí thuyết pháp, 
		chỉ trong lúc thuyết pháp em bé gái đó mới nín khóc. 
		Mấy lần thuyết pháp sau đó cũng như vậy, chỉ cần nghe âm thanh thuyết 
		giảng giáo pháp giải thoát của Phật-đà là em bé gái đó mới chịu nằm yên 
		thôi khóc.
		Đại thần Tài Thí thầm nghĩ, con gái mình thích nghe Phật pháp như vậy, 
		rất có căn lành. Hơn nữa, tên ông lại là Tài Thí, nên liền đặt tên cho 
		em là Pháp Thí Nữ. 
		Sau khi Pháp Thí Nữ lớn lên, sinh khởi được tín tâm rất lớn đối với 
		phương pháp giải thoát của đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, thường xuyên tận 
		dụng nhân duyên cha mẹ thỉnh tăng chúng đến cúng dường để được nghe đức 
		Như Lai thuyết pháp. Không lâu sau, cô phát tâm quay về nương tựa Ba 
		ngôi báu, vâng theo giới luật, tinh tấn nỗ lực thực hành giáo pháp, 
		chứng quả Bất hoàn,
[23] đầy đủ các loại thần thông 
		và thần biến. 
		Cô rất muốn xuất gia sống đời tỉnh thức, liền khẩn khoản xin với cha mẹ. 
		Cha mẹ cô khó xử vô cùng, cố giải thích với cô:
		– Con à, lúc con chưa ra đời, cha đã hứa gả con cho Tát-ca, con trai đại 
		thần Trì Thú rồi. Nếu đồng ý cho con xuất gia, cha mẹ biết ăn nói thế 
		nào với đại thần Trì Thú đây? 
		Pháp Thí Nữ liền thưa với cha mẹ:
		– Con đối với thế gian vốn không còn tham luyến, việc kết hôn đâu có ý 
		nghĩa gì?
		Cha mẹ cô suy nghĩ giây lát rồi nói:
		– Cha mẹ không dám đồng ý với yêu cầu của con. Nếu như quả thật con muốn 
		xuất gia, có thể cung thỉnh đức Như Lai và tăng chúng đến, cũng báo cho 
		Tát-ca biết để cùng đến, tới lúc đó con hãy quyết định!
		Đến ngày cung thỉnh tăng chúng thọ cúng, đức Như Lai và chúng tăng đắp 
		y, ôm bát bước đi những bước khoan thai đến nhà đại thần Tài Thí. Đại 
		thần Tài Thí đích thân dâng cơm nước ngon ngọt cúng dường. Sau khi đức 
		Thế Tôn và chúng tăng thọ trai xong liền truyền dạy giáo pháp giải thoát 
		phù hợp với căn cơ của họ.
		Chàng trai Tát-ca sau khi được báo tin liền dẫn một số tùy tùng đến bao 
		vây quanh nhà đại thần Tài Thí, chờ đợi Pháp Thí Nữ.
		Đức Thế Tôn thuyết pháp xong trở về tinh xá, Pháp Thí Nữ cũng đi theo 
		phía sau chư tỳ-kheo ni. Tát-ca thấy cô đi ra liền đuổi theo, định bắt 
		trở lại. Ngay lập tức cô hiện thân bay lên không trung, thị hiện đủ các 
		loại thần biến. 
		Tát-ca thấy vậy cho là vô cùng hi hữu, liền sinh khởi tín tâm, do đó 
		ngưỡng vọng lên Pháp Thí Nữ đang ở trên hư không mà cầu xin:
		– Xin cô hãy đáp xuống, từ nay cô muốn làm gì tùy ý. Nhưng xin cô hãy từ 
		bi cứu vớt chúng tôi là những chúng sinh đang trôi lăn trong sinh tử 
		luân hồi. Tôi đồng ý để cô xuất gia, vả lại còn muốn cúng dường cho cô 
		nữa.
		Pháp Thí Nữ liền từ trên không trung đáp xuống, truyền dạy cho Tát-ca 
		giáo pháp giải thoát của Phật-đà. Sau khi nghe xong, Tát-ca hoan hỷ cáo 
		từ ra về.
		Pháp Thí Nữ đến kinh đường của ni chúng, thọ giới sa-di và 
		thức-xoa-ma-na. Tiếp đó cô muốn thọ giới tỳ-kheo ni, nhưng việc thọ giới 
		tỳ-kheo ni cần phải đến rừng Kỳ-đà, nơi chúng tăng cư ngụ. Vì tướng mạo 
		của cô đoan trang xinh đẹp không ai sánh bằng nên có rất nhiều chàng 
		trai luôn theo đuổi. Những người ấy nghe nói cô xuất gia, liền dùng vũ 
		lực nhiều lần uy hiếp kinh đường của ni chúng. 
		Chúng tỳ-kheo ni không dám bảo đảm có thể đưa cô đến rừng Kỳ-đà an toàn, 
		nhưng để cô ở lại trong chùa thì mỗi ngày đều có nhiều chàng trai đến 
		quấy nhiễu, cũng rất phiền phức. Vì thế, ni chúng bèn tạm đưa cô về nhà. 
		Tiếp đó, họ đến chỗ đức Thế Tôn, kể lại đầu đuôi sự việc và xin được 
		Ngài chỉ dạy.
		Đức Như Lai từ bi dạy:
		– Trong trường hợp này, đại chúng có thể dùng phương pháp gửi thư để 
		truyền giới.
		Sau đó, Ngài bảo một đệ tử mang thư đến cho Pháp Thí Nữ, trong thư viết: 
		“Vì có chướng ngại nghịch duyên không thể thọ giới, Thế Tôn đã chấp 
		thuận. Nay đức Thế Tôn và chúng tăng ở rừng Kỳ-đà niệm nghi quĩ,
[24] 
		con tại nơi đó quán tưởng cũng có khả năng được trọn đủ giới thể.”
		Nhân việc này, đức Như Lai chỉ dạy thêm cho chúng tăng:
		– Từ nay trở đi, đại chúng có thể dùng phương thức truyền giới bằng thư. 
		Sau này nếu có ai gặp chướng ngại nghịch duyên, có thể dùng phương thức 
		này để giúp họ thọ giới.
		Nhờ đó, tuy Pháp Thí Nữ không được thọ giới trước Phật nhưng cũng được 
		trọn đủ giới thể tỳ-kheo ni. 
		Tỳ-kheo ni Pháp Thí Nữ tinh tấn nỗ lực tu tập giáo pháp giải thoát của 
		Phật-đà, sau cùng phá trừ được phiền não trong Ba cõi, chứng đắc quả vị 
		A-la-hán. Cô đạt đến cảnh giới tu chứng không còn phân biệt, thấy vàng 
		và phân bò đều như nhau, hư không và bàn tay chẳng có sai khác; chư 
		thiên đều xưng tán công đức thậm thâm vi diệu của cô.
		Lúc đó, chúng tỳ-kheo bạch hỏi đức Thế Tôn:
		– Kính bạch đức Thế Tôn! Nhân duyên gì mà đời này sư cô Pháp Thí Nữ được 
		sinh vào gia đình quyền quí, sinh tâm hoan hỉ đối với Phật pháp, xuất 
		gia sống đời tỉnh thức và chứng đắc quả vị A-la-hán? Lại vì nhân duyên 
		gì mà được Phật chấp thuận truyền giới bằng thư? Ngưỡng mong đức Như Lai 
		giảng nói cho chúng con được rõ.
		Đức Như Lai từ hòa nhìn đại chúng, dạy rằng:
		– Đây đều là do nguyện lực đời trước của sư cô ấy. Trong Hiền kiếp này, 
		lúc đức Phật Ca-diếp còn tại thế, khi đó tuổi thọ con người lên đến 
		20.000 tuổi, tại vườn Lộc Dã ở Ấn Độ có một cô gái hết sức xinh đẹp. Khi 
		lớn lên, cô phát tâm xuất gia sống đời tỉnh thức trong giáo pháp giải 
		thoát của đức Ca-diếp Thế Tôn. Trong lúc chuẩn bị thọ giới tỳ-kheo ni, 
		cũng gặp phải một số chướng ngại nghịch duyên. Lúc đó, đức Phật Ca-diếp 
		từ bi chấp thuận phương thức thọ giới bằng thư cho cô, giúp cô thọ nhận 
		giới thể. Sau đó, cô tinh tấn nỗ lực tu trì, chứng đắc quả vị A-la-hán. 
		Sau khi chứng quả, cô hiển thị các loại thần biến, rồi nhập Niết-bàn.
		Khi ấy, vị tỳ-kheo ni là thầy của cô, người đã chuyển thư cho cô, vẫn 
		chưa được chứng quả. Vị này liền đem nhục thân của cô xây tháp, dùng các 
		loại hoa hương, phẩm vật tốt đẹp để cúng dường. Đến khi sắp lâm chung, 
		vị tỳ-kheo ni này phát nguyện:
		“Con cả đời xuất gia sống đời tỉnh thức, nghiêm trì giới luật, tuy chẳng 
		đạt được thành tựu gì to lớn lắm, nhưng nhờ công đức ấy cũng xin nguyện 
		sau này được sinh trong giáo pháp của đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, trở 
		thành vị tỳ-kheo ni được đức Như Lai đặc biệt chấp thuận truyền giới 
		bằng thư, tiếp nhận trọn đủ giới thể, cũng giống như vị đệ tử đời này 
		của con, vả lại còn sinh khởi tâm hoan hỉ với Phật, xuất gia sống đời 
		tỉnh thức, chứng đắc quả vị A-la-hán.”
		Vị tỳ-kheo ni ấy nay chính là Pháp Thí Nữ. Bởi cô đã phát nguyện như 
		vậy, nên nay được ở trong giáo pháp của ta xuất gia sống đời tỉnh thức, 
		chứng quả, vả lại còn là vị tỳ-kheo ni được ta chấp thuận truyền giới 
		bằng thư, được trọn đủ giới thể.
		Chúng tỳ-kheo lại thỉnh vấn đức Như Lai:
		– Kính bạch đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà đời này Pháp Thí Nữ có 
		tướng mạo xinh đẹp, khiến cho rất nhiều nam nhân gây chướng ngại, làm cô 
		khó khăn trong việc thọ trì Phạm hạnh? Ngưỡng mong đức Như Lai nói rõ 
		nhân duyên đó cho chúng con tường tận.
		Đức Thế Tôn ôn tồn đáp:
		– Này các tỳ-kheo! Không chỉ đời này, mà đời trước mỗi khi cô ấy thọ trì 
		tịnh giới đều bị chướng ngại nghịch duyên. Rất lâu xa về trước, có người 
		con trai của một lái buôn cưới được người vợ rất tâm đầu ý hợp, cùng 
		nhau hưởng thụ đời sống tốt đẹp. Suốt ngày người chồng chỉ tham luyến 
		sắc đẹp của vợ mình, say đắm trong tình dục, không thèm để ý đến bất cứ 
		chuyện gì.
		Người lái buôn lấy làm lo lắng vì thấy con trai không lo gì đến việc 
		buôn bán làm ăn trong gia đình, nhưng bất luận khuyên răn thế nào, đều 
		chẳng có tác dụng. Sau đó, người lái buôn đành phải nghiêm khắc sai 
		người con trai ấy đến một nơi rất xa để buôn bán. 
		Sau khi ra đi, vì quá nhớ thương vợ, anh ta liền tìm cách nhờ một vị 
		tiên nhân bà-la-môn dùng phép thuật giúp anh thường xuyên trở về nhà 
		sống chung với vợ mà trong nhà không ai hay biết. Không lâu sau đó, vợ 
		anh mang thai. Nhưng rồi vị tiên nhân bà-la-môn từ chối không giúp anh 
		nữa. Từ đó anh không thể đi về, hai vợ chồng đành bặt vô âm tín.
		Khi người trong nhà biết vợ anh đã có thai, ai nấy đều sinh lòng ngờ 
		vực. Người mẹ chồng tra hỏi một cách hung dữ:
		– Con trai ta không có ở nhà, vậy rốt cuộc cái thai này là của ai?
		Cô con dâu kể lại chuyện người chồng thường xuyên trở về sống chung. 
		Nhưng cha mẹ chồng cô không ai tin được chuyện đó, liền đuổi cô ra khỏi 
		nhà. 
		Từ đó cô phải lưu lạc khắp đầu đường cuối chợ. Khi cô đến một thành phố 
		nơi đất khách quê người và chuyển dạ sinh con, quanh cô không có ai để 
		chăm sóc cả. Lúc đó, cô đau đớn đến nỗi ngất lịm đi. Trong lúc cô hôn 
		mê, có một con chó tên Quýnh-ba đến tha đứa bé mới sinh chạy đi mất. Khi 
		cô tỉnh dậy liền đi khắp nơi để dò hỏi tìm kiếm đứa bé, mới biết đứa bé 
		sau khi bị chó tha đi đã được một gia đình lái buôn trong vùng nhặt về 
		nuôi dưỡng. 
		Cô thầm nghĩ, tấm thân mình rày đây mai đó, tự lo sinh sống còn chưa 
		nổi, làm sao có khả năng nuôi dưỡng đứa con? Chi bằng tạm thời cứ để cho 
		gia đình người lái buôn ấy nuôi dưỡng, may ra con mình còn có được cuộc 
		sống sung sướng! Thế là, tuy lòng cô không nỡ rời xa song phải cố đè nén 
		nỗi đau tím ruột bầm gan, quay lưng bước đi.
		Ngày nọ, trong lúc cô đang đi xin ăn thì bị một tên thủ lãnh của bọn đạo 
		tặc nhìn thấy và để ý, muốn bắt cô về làm thiếp. Cô nghĩ bụng: “Nếu mình 
		làm vợ hắn, lương tâm nào cho phép. Mình là phụ nữ đã có chồng, chồng 
		mình vẫn luôn nghĩ nhớ đến mình; vả lại, mình là cư sĩ đã quay về nương 
		tựa Ba ngôi báu, phát nguyện giữ tròn năm giới cấm, nhất định không thể 
		phạm vào việc tà dâm.” 
		Nghĩ như vậy rồi, chờ khi trời tối cô liền hóa trang thành ma quỉ quậy 
		phá trong phòng của tên tướng cướp, làm cho hắn sợ run cầm cập, quì xin 
		tha mạng. Cô liền dọa hắn không được đụng vào người đàn bà vừa mới bắt 
		về. Hắn sợ sệt rối rít vâng lời. Hôm sau, hắn liền mang bán cô vào kỹ 
		viện.
		Tại đây, vì không muốn phải rơi vào con đường ô nhục, cô đành phải tiếp 
		tục hóa trang thành ma quỷ mỗi đêm để hù dọa các kỹ nữ, bảo họ không 
		được ép cô tiếp khách. Các kĩ nữ đều ngỡ là ma quỷ thật nên sợ hãi vâng 
		lời, miễn cưỡng nuôi cô trong kỹ viện mà không dám để cô tiếp khách. Thế 
		nhưng nhiều ngày sau đó, tin đồn về việc trong kỹ viện có ma quỷ lan 
		rộng ra ngoài, khiến cho rất nhiều khách làng chơi không còn dám đến kỹ 
		viện đó nữa. Từ đó, việc làm ăn buôn bán bị đình trệ, suy sụp. Các kỹ nữ 
		đều muốn tống cô đi nơi khác, nhưng lại sợ mạo phạm với ma quỷ. Vì thế, 
		họ đành phải để cô lưu lại kỹ viện trong một thời gian khá dài.
		Lúc đó, đứa con của cô cũng đã lớn lên. Mọi người đều gọi cậu là 
		Quýnh-ba, theo tên con chó đã tha cậu ngày trước. Quýnh-ba rất thông 
		minh, học hỏi thông đạt các môn học vấn thế gian. Sau khi cha mẹ nuôi 
		qua đời, cậu được thừa kế gia sản, rồi do công việc làm ăn buôn bán nên 
		cũng thường lui tới thành phố mẹ cậu đang sống.
		Người mẹ không lúc nào không nhớ đến đứa con bị chó tha đi ngày trước, 
		vẫn không ngừng dò la, theo dõi tin tức. Một hôm, nhờ bà gặp được một 
		người cùng buôn bán với Quýnh-ba nên mẹ con mới có cơ hội nhận được 
		nhau. Quýnh-ba lập tức đến kỹ viện rước mẹ về.
		Còn người cha của Quýnh-ba, sau nhiều năm buôn bán nơi đất khách quê 
		người đã tích lũy được một số tiền lớn, liền trở về quê nhà. Về đến nơi 
		chỉ thấy cha mẹ ra đón chứ không thấy người vợ yêu dấu của mình đâu cả, 
		liền hỏi cha mẹ. Cha mẹ anh liền thuật lại tường tận chuyện vợ anh ở nhà 
		tự nhiên có thai, đã bị đuổi ra khỏi nhà. Nghe xong, người chồng tội 
		nghiệp chỉ còn biết giậm chân kêu trời, liền nói với cha mẹ:
		– Đứa con cô ấy mang trong bụng đích thật là con của con đấy mà!
		Sau khi nghe biết ngọn nghành sự việc, nghĩ đến nỗi oan khuất và bất 
		hạnh của vợ, người chồng không kiềm chế được sự thương tâm quá đỗi nên 
		tâm trí bỗng chốc phát cuồng. Ông xé hết quần áo, bỏ nhà ra đi lang 
		thang khắp nơi, miệng luôn lẩm bẩm: “Lang-ba em yêu! Lang-ba em yêu của 
		anh!” Ông lang thang khắp nơi và vẫn ở trong tình trạng điên loạn nhiều 
		năm như vậy.
		Sau đó, khi nhân duyên đoàn tụ thành thục. Một hôm, ngoài cổng nhà 
		Quýnh-ba không biết từ đâu bỗng xuất hiện một người điên, miệng luôn lẩm 
		bẩm: “Lang-ba em yêu!”
		Quýnh-ba nghe vậy liền nói cho mẹ biết:
		– Không biết từ đâu bỗng xuất hiện một người điên ở trước nhà mình, luôn 
		miệng lảm nhảm mỗi một câu: “Lang-ba em yêu.”
		Người mẹ ngạc nhiên nói:
		– Lang-ba chính là tên của mẹ, để mẹ ra xem ông ấy có phải là cha con 
		không.
		Thế là bà vội vã chạy ra xem. Quả nhiên nhận ra người ấy chính là chồng 
		mình. Bà liền dẫn ông ta vào nhà và nói:
		– Anh ơi, Lang-ba chính là em đây!
		Vừa nghe câu nói ấy, ngay tức khắc người chồng khôi phục thần trí, nhận 
		ra được vợ. Từ đó gia đình được đoàn tụ, nỗi vui mừng đan xen với nhớ 
		nhung, cả nhà ôm nhau khóc. Đôi vợ chồng nhiều năm cách biệt đó, cuối 
		cùng lại được trùng phùng, cùng nhau an hưởng những năm tháng cuối đời 
		còn lại.
		Này các tỳ-kheo! Người phụ nữ đó chính là tiền thân của Pháp Thí Nữ. 
		Pháp Thí Nữ thuở ấy hết lòng nghiêm trì cấm giới, giữ hạnh thanh tịnh, 
		phải chịu nhiều chướng ngại nghịch duyên nhưng vẫn không thối chí. Mãi 
		đến đời này cũng có rất nhiều người gây chướng ngại, tạo nghịch duyên 
		cho cô.
		Sau khi đức Thế Tôn kể rõ nhân duyên tiền kiếp của tỳ-kheo ni Pháp Thí 
		Nữ, các vị tỳ-kheo đều hoan hỷ tin nhận.