Khai tổ: Bồ Tát Long Thụ vào khoảng thế kỷ 2 – 3 ở Ấn Độ, tiếp theo là
Ka-na-đề-bà vào khoảng thế kỷ 3.
Cưu-ma-la-thập truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ 5.
Huệ
Quán truyền sang Nhật Bản vào năm 625.
Giáo lý căn bản: Trung luận và Thập nhị môn luận của Bồ Tát Long Thụ.
Bách
luận của Ka-na-đề-bà.
Tông chỉ: Phát triển giáo lý trung đạo, xem đó là cứu cánh rốt ráo của
thiền định, xóa bỏ mọi ý tưởng về có và không.
LỊCH SỬ
Học phái này lấy ba bộ luận là Trung luận, Thập nhị môn luận và Bách
luận làm tông chỉ, vì vậy nên gọi là Tam luận tông. Phần luận thuyết
trong ba bộ luận này khá bao quát, nên tạo ra cho Tam luận tông một phạm
vi giáo lý rộng hơn so với một số tông khác chỉ gói gọn tông chỉ trong
một bộ kinh hoặc luận duy nhất.
Tam luận tông nhấn mạnh giáo lý trung đạo, không nghiêng hẳn về một bên.
Một mặt, giáo lý của tông này khác hẳn với các tông thuộc Tiểu thừa. Một
mặt, tuy không thuộc hẳn về Đại thừa nhưng luận thuyết của tông này lại
có tính cách rất gần gũi với các tông thuộc Đại thừa. Vì thế, học thuyết
Tam luận tông vừa có thể chỉ ra những chỗ sai lầm hoặc thiếu sót của
Tiểu thừa, vừa có thể giúp cho người học đạo dễ dàng hơn trong việc tiếp
thu giáo lý Đại thừa.
Cũng như Câu-xá tông và Thành thật tông, Tam luận tông ngày nay không
còn nữa. Nhưng ba bộ luận kể trên vẫn còn lưu truyền, và tên tuổi của Bồ
Tát Long Thụ vẫn mãi mãi được những người học Phật nhớ đến.
Bồ Tát Long Thụ, vị khai tổ của Tam luận tông, cũng là vị Tổ sư thứ mười
bốn của Thiền tông Ấn Độ. Ngài sống vào khoảng cuối thế kỷ 2, đầu thế kỷ
3, nhưng chưa xác định được niên đại chính xác. Trong ba bộ của Tam luận
tông, ngài là tác giả của hai bộ. Các luận sư đồng thời đều khâm phục
tài biện luận của ngài. Mặc dù tinh thông cả Tam tạng kinh điển, nhưng
ngài nghiêng về tạng Luận nhiều hơn. Người đương thời gọi ngài là Phật
Thích-ca tái thế. Tương truyền rằng ngài cũng chính là tác giả của kinh
Na-tiên Tỳ-kheo, một tác phẩm có nội dung biện luận với nhiều ý nghĩa
rất thú vị đối với cả những người mới học đạo cũng như những bậc uyên
bác về Phật học.
[37]
Trong kinh Lăng-già, quyển 9,
[38] đức Phật có nói
trước về sự ra đời của Bồ Tát Long Thụ trong một đoạn kệ như sau đây:
Dịch âm:
Như Lai diệt độ hậu,
Vị lai đương hữu nhân.
Đại Huệ, nhữ đế thính!
Hữu nhân trì ngã pháp,
Ư nam đại quốc trung,
Hữu đại đức tỳ kheo
Danh Long Thụ Bồ Tát
Năng phá hữu, vô kiến.
Vị nhân thuyết ngã pháp,
Đại thừa Vô thượng pháp.
Dịch nghĩa:
Như Lai nhập Niết-bàn,
Về sau sẽ có người.
Đại Huệ, hãy nghe kỹ!
Có người giữ đạo ta.
Ở miền Nam Ấn Độ,
Sẽ có đại tỳ-kheo,
Là Bồ Tát Long Thụ.
Phá chấp hữu, chấp vô,
Vì chúng sinh thuyết pháp,
Pháp Đại thừa Vô thượng.
Vì sự ra đời của Bồ Tát Long Thụ đã được nói trước trong kinh, nên việc
ngài xiển dương giáo pháp Đại thừa, trước tác kinh luận cũng là điều dễ
hiểu.
Bồ Tát Long Thụ truyền pháp cho Ka-na-đề-bà, cũng thường được gọi tắt là
Đề-bà, làm tổ sư thứ mười lăm của Thiền tông Ấn Độ. Vị này tiếp tục soạn
thêm một bộ luận nữa là bộ Bách luận.
Trước khi soạn bộ Bách luận, Đề-bà nghĩ rằng: “Muốn cho chánh pháp được
truyền rộng, trước hết phải thu phục, giáo hóa nhà vua.” Nghĩ vậy, ông
liền tham gia vào quân đội của nhà vua. Chỉ trong một thời gian ngắn,
bằng tài năng vượt trội của mình, ông đã trở thành một vị soái tướng.
Ông chỉnh đốn quân ngũ, cải tiến quân luật thành giản tiện và rõ ràng,
khiến cho quân đội trở nên nghiêm minh và có tinh thần kỷ luật, luôn
phục tùng thượng cấp.
Nhà vua rất hài lòng, muốn ban thưởng cho ông, bèn hỏi rằng: “Khanh có
muốn điều chi không?” Ông đáp: “Tâu bệ hạ, kẻ hạ thần có học đạo lâu
năm, sự hiểu biết tưởng không đến nỗi cạn hẹp. Vậy hạ thần muốn xin bệ
hạ cho tổ chức một cuộc tranh biện giữa hạ thần với các vị luận sư của
những tông phái khác nhau trong nước. Xin bệ hạ đứng ra chứng kiến và
xác định việc hơn kém.” Nhà vua vui vẻ chấp thuận đề nghị ấy.
Đề-bà liền cho người lập một diễn trường giữa đô thị và niêm yết khắp
nơi một luận đề như sau:
1. Phật là bậc cao trổi hơn hết trong tất cả các bậc hiền triết.
2. Pháp Phật là chân chánh nhất trong tất cả các giáo pháp.
3. Tăng-già là đoàn thể tu tập vững chắc hơn hết trong tất cả các tổ
chức tu tập.
Ai có thể biện luận bác bỏ được ba điều trên, Đề-bà xin dâng nạp thủ
cấp.
Các luận sư của những giáo phái khác đều lấy làm bất bình. Họ tìm đến
xin tranh luận, và cam đoan rằng nếu thua thì họ cũng sẽ chịu mất đầu.
Nhưng Đề-bà đáp: “Mục đích của tôi chỉ là hiển bày chân lý và tỏ tình
hữu ái trong chốn nhân sanh, chứ không muốn hại mạng ai cả. Vì thế, tôi
chỉ có một yêu cầu là người nào thua tôi trong việc biện luận thì hãy
xuống tóc làm đệ tử của tôi.”
Các luận sư đều chấp nhận. Cuộc tranh biện bắt đầu. Lần lượt, từng người
đều bị Đề-bà khuất phục. Có người đuối lý ngay trong ngày đầu tiên, có
người cố tranh biện được đến ngày thứ hai, thứ ba... nhưng rồi cũng đều
bị khuất phục. Đề-bà trở thành người chiến thắng cuối cùng.
Được chứng kiến tất cả những cuộc tranh biện đó, nhà vua trở nên rất
nhiệt thành ủng hộ Phật pháp, luôn khuyến khích mọi người tu học. Ảnh
hưởng cũng lan rộng ra khắp nơi trong nước. Chỉ trong mấy tháng sau đó
đã có hơn một triệu người phát nguyện quy y Tam bảo.
Việc hoằng hóa đã thành tựu, Đề-bà từ bỏ tất cả để vào trong rừng sâu ẩn
cư, tu tập thiền định và ghi chép lại các bài thuyết pháp mà ông đã dùng
để khuất phục ngoại đạo. Do đó mà hình thành bộ Bách luận.
Ka-na-đề-bà truyền pháp cho ngài La-hầu-la-đa làm tổ sư đời thứ 16 của
Thiền tông Ấn Độ. Một trong các đệ tử của ngài La-hầu-la-đa là
Tân-già-la (Piṅgalanetra - người Trung Hoa gọi là Thanh Mục) sau đó
truyền giáo pháp Tam luận tông cho hai vị vương tử nước Sa-xa
[39]
là Tu-lợi-da-bạt-đà và Tu-lợi-da-tô-ma. Cả hai vị này đều rời bỏ hoàng
cung, xuất gia làm tăng sĩ. Về sau, ngài Cưu-ma-la-thập trên đường du
học có dừng lại ở nước Sa-xa một năm, nhân đó được hai vị
Tu-lợi-da-bạt-đà và Tu-lợi-da-tô-ma truyền dạy giáo pháp.
Khoảng đầu thế kỷ 5, ngài Cưu-ma-la-thập sang Trung Hoa, chuyển dịch các
bộ Trung luận, Thập nhị môn luận và Bách luận cùng với nhiều kinh văn
khác sang Hán văn. Từ đó giáo lý Tam luận tông được truyền ở Trung Hoa,
xem ngài Cưu-ma-la-thập là tổ khai sáng. Khi đến Trường An, ngài đã được
63 tuổi. Ngài lưu lại nơi đây từ năm 401 đến năm 412, chuyên tâm dịch
kinh điển và giảng thuyết giáo pháp Đại thừa.
Giáo pháp Tam luận tông được truyền về sau đến thời ngài Cát Tạng thì
được chấn hưng mạnh mẽ. Cát Tạng vốn là người gốc An Tức, thuộc Ấn Độ
nhưng tổ tiên vì tránh kẻ thù nên di cư sang sống tại vùng Giao Quảng.
[40]
Sau lại dời đến ở đất Kim Lăng rồi mới sinh ra Cát Tạng vào năm 549. Từ
nhỏ ngài đã có căn lành, được cha đưa đến gặp ngài Chơn Đế. Ngài Chơn Đế
vừa gặp đã biết là bậc pháp khí về sau, nên mới đặt tên cho là Cát Tạng.
Cha ngài sau cũng xuất gia, pháp danh là Đạo Lượng.
Cát Tạng 7 tuổi đã xuất gia, theo học với ngài Pháp Lãng. Năm 14 tuổi đã
được Pháp Lãng dạy cho học bộ Bách luận. Từ đó về sau học một biết mười,
thông tuệ hơn người. Sau khi thọ Cụ túc giới càng được rất nhiều người
kính phục theo học. Trần Quế Dương Vương lúc bấy giờ hết sức tôn kính,
đặc biệt đối đãi như bậc thánh tăng.
Nhà Trần suy sụp, quân Tùy đánh lấy Kiến Khương, xã hội cực kỳ hỗn loạn.
Ngài không sợ nguy hiểm, đi khắp các tự viện thâu góp kinh luận Phật
giáo, vì sợ binh lửa hủy hoại mất đi. Đến khi chiến tranh tạm yên, ngài
lại bỏ công đọc lại và chỉnh lý tất cả những kinh luận đã thâu góp được.
Cũng nhờ vậy mà học lực của ngài trở nên uyên bác không ai sánh bằng.
Sau ngài đến ở chùa Gia Tường, hoằng dương chánh pháp. Người theo học
rất đông, lúc nào cũng có đến hơn ngàn người. Người bấy giờ tôn xưng
ngài là Gia Tường Đại sư. Ngài có trước tác bộ Tam luận huyền nghĩa,
[41]
giảng rõ yếu lý trong cả ba bộ luận của Tam luận tông, cùng với nhiều
chỗ kiến giải mới, nên người đời thường gọi là Tân Tam luận. Ngài viên
tịch vào năm 623.
Trong số đệ tử của ngài Cát Tạng, có một vị tăng người Cao Ly
[42]
tên là Huệ Quán, theo học với ngài ở chùa Gia Tường, nắm được yếu nghĩa
của Tam luận. Về sau, Huệ Quán mang giáo pháp Tam luận tông sang truyền
bá ở Nhật Bản, trở thành vị Sơ tổ của Tam luận tông tại Nhật Bản. Huệ
Quán cũng là người cùng với Khuyến Lặc khai sáng Thành thật tông ở Nhật
Bản.