Trước khi vũ trụ này hình thành vốn không có hình tướng, chỉ
có cái trí giác, sáng suốt rỗng không, lặng lẽ soi chiếu, là
cội nguồn của trời đất. Sa xuống thành gốc, chảy lên thành
ngọn, là thủy tổ của muôn vật; quay về nguồn, trở lại gốc,
là tông chỉ của một pháp. Tìm theo cũng chẳng thấy phần
trước, xét kỹ cũng chẳng rõ phần sau, không thể lấy trí suy
xét mà biết, không thể dùng hình tướng mà thấy, duy chỉ có
bậc chân thánh do chỗ chứng đắc trong lòng mà tự biết được.
Xưa có một vị tăng hỏi ngài Hương Nham: “Thế nào là Đạo?”
Ngài đáp: “Rồng ngâm trong cây khô.”
Lại hỏi: “Thế nào là người trong đạo?”
Đáp: “Tròng mắt trong sọ khô.”
Nếu đạt được như vậy mới có thể bàn luận về Tam giáo. Cho
nên, trong bài luận Tam giáo nhất lý của cư sĩ Như Như có
viết:
Cứng tợ bông gòn, mềm tợ sắt,
Tháng sáu đương nóng, trời rơi tuyết,
Cây trụ lồng đèn gật đầu cười,
Người câm chiêm bao nói với ai?
Tam giáo xưa nay gượng đặt tên!
Thích-ca đóng cửa ở Ma-kiệt,
Khổng tử từng bảo: Lặng mà ghi.
Lão tử dạy: Lặng yên đại biện.
Mặc cho phá bể làm một nhà,
Chẳng khỏi rớt ra hai mặt nguyệt.
Lại nhớ lời cư sĩ Đông Pha:
Đem cả Tam giáo mà thổ lộ,
Sắc núi hẳn là thanh tịnh thân,
Tiếng suối thật là lưỡi dài rộng.
Nếu thấu hiểu rõ ràng như thế, thì chẳng những ngay trước
Pháp đường cỏ cao một trượng, mà cho đến khắp cõi pháp giới
cũng không còn một người nào có thể trồng cỏ nữa.
Từ trước, Phật Thánh ứng lòng từ, vận lòng bi, thương xót
người đời trôi giạt, chẳng khỏi bị nhận dưới đầu mây, bèn ở
nơi cửa thứ hai là chỗ cạn dần mà dạy dỗ họ, khiến họ bỏ
những việc xa cách lâu đời. Nếu Phật Thánh chẳng khai thông
cho người đời một nẻo đường, thì những người này ngày càng
giả dối, sẽ làm ma làm quỉ mà chẳng quay đầu lại được.
Bởi vậy cho nên ba vị thánh nhân đều sanh ra nhằm đời Hữu
Chu, chủ trương hòa hiệp Chánh giáo. Nho giáo dạy người đời
cùng lý tận tánh; Phật giáo dạy người đời minh tâm kiến
tánh; Đạo giáo dạy đời tu chân luyện tánh. Chỉ một việc ấy
là thật, nếu nói khác đi thì chẳng phải thật. Đó là tự nơi
lòng mọi người đều sẵn có Tam giáo, không thể hướng ra bên
ngoài mà tìm được, cũng như người cưỡi trâu mà đi kiếm trâu
thì không khi nào thấy được.
Người xưa có thơ rằng:
Một Phật, một Lão, một Khổng Khâu,
Ba ông trò chuyện đã bao lâu?
Chẳng hay nói việc năm nào đó?
Mãi đến hôm nay cười chẳng thôi!
Bài thơ không có một mảy ý vị ăn khói nuốt lửa, như vậy mới
không trái với Tam giáo!
Nếu nói “tu sửa tự thân, chấn chỉnh gia đình, giúp vua trị
dân”, đó chẳng qua là những việc thừa của nhà Nho mà thôi.
Nếu bảo “chứa tinh dưỡng thần, thành tiên bay cao”, đó chẳng
qua là vết thô của nhà Đạo mà thôi. Nếu nói “siêu sanh thoát
tử, lợi mình lợi người”, đó cũng chẳng qua là phương tiện
của nhà Phật mà thôi.
Than ôi! Một chữ viết lại ba lần, chữ ô thành chữ yên rồi
thành chữ mã !Người đời sau truyền trao lầm lạc, đều chỉ nói
được chỗ hình tích thô phác của Tam giáo mà thôi. Thường chỉ
là theo chỗ trống không mà tiếp lấy tiếng đội, quên gốc theo
ngọn. Họ chỉ lấy chỗ tai nghe mắt thấy mà tiếp nhận, mà
giành phải so quấy thôi. Thậm chí dùng lời nói như ngọn giáo
mà đâm nhau, dùng văn từ như mũi tên mà bắn nhau! Thánh nhân
nói: “Ta là bậc đại hiền chăng? Vậy có ai mà ta chẳng bao
dung?” Huống chi, thánh nhân trong Tam giáo đều có tông môn,
mà chỗ cao viễn cùng tột chưa từng sai khác! Nhưng người đời
chẳng có lượng bao dung kẻ khác, lấy mình làm phải, cho
người là quấy. Gặp khi bàn đến chuyện sống chết của chính
bản thân mình thì lại thốt ra những lời rỗng tuếch quái gở!
Suốt ngày lấy giả làm thật, nhận giặc làm con. Cho đến mỗi
ngày thường nhận lấy ân điển, sức lực từ kẻ khác, khi hỏi
đến thì chẳng có lấy một lời chân chánh, một chút thấy biết
chân chánh! Đã không có chỗ thấy biết, chứng ngộ, thì một
ngày kia đến lúc ra đi biết đường nào mà thẳng tiến? Khi ấy
mới trở thành ngu si, mê muội, dù đọa lạc đến đâu cũng không
tự biết. Kiến giải như vậy chẳng phải là rỗng không quái gở
lắm sao?
Như thật giỏi luận về Tam giáo thì nên bỏ những điều cặn bã,
riêng tìm lấy một chỗ để quay mình, như vậy mới được. Ôi! Ta
đã biết lẽ ấy rồi! Như người muốn dời cái lu, ắt phải ở bên
ngoài. Nếu đứng vào trong lu thì làm sao dời đi được? Tự
mình đã vướng chìm vào trong sự phải quấy, rốt cuộc chẳng
đáng gọi là kẻ giỏi luận về Tam giáo!
Cần phải có được cái phương cách bắt lấy cá kình dài, cái cơ
phong bắt sống được cọp dữ, riêng thoát ra khỏi cái vẻ ngoài
của Tam giáo; cũng như trước phải ra khỏi hầm giếng, rồi sau
mới nói tới chuyện biển Đông! Nếu chỉ bo bo nhặt lấy đồ khạc
nhổ của tiền nhân, học những lời cũ ghi trên giấy mà muốn
nhận lấy điều này, bác bỏ điều kia thì chẳng khỏi bị thiên
hạ chê cười!
Kinh Thư nói rằng: “Biết chẳng phải là khó, thực hành mới
khó.” Khi sự già nua, bệnh tật còn chưa đến, ai ai cũng có
thể nói hay nói giỏi. Nào là giảng tâm nói tánh, chê bai cổ
nhân, luận huyền thuyết diệu, lỗi lạc hơn người. Đến khi
quan sát kỹ mọi hành vi trong ngày, há không có một niệm
tham lam, yêu thích, mừng vui, tức giận bám chặt trong lòng
đó sao? Há không có một ý nghĩ về rượu thịt, nữ sắc, tài khí
làm che mờ sự thấy biết chân chánh đó sao?
Đức Khổng tử dạy lặng nghe mà ghi nhận, xét một lẽ mà rõ
thông tất cả. Ngài Nhan Hồi muốn giữ lòng trong sạch, Khổng
tử dạy rằng đừng nghe bằng tai, chỉ nghe bằng tâm, nên suốt
ngày ngồi lặng thinh mà quên đi hết thảy. Lão tử dạy giữ lấy
một lý để trong sạch tinh thần, tự mình giữ lấy thể chất của
mình. Trang tử dạy giữ lòng không hệ lụy, như cánh chim bằng
bay một mạch chín muôn dặm từ biển Bắc qua biển Nam. Đức Thế
Tôn trong pháp hội cầm một cành hoa đưa lên mà chỉ có ngài
Ca-diếp nhoẻn miệng cười. Ngài Đạt-ma truyền pháp, Đạo Phó
được phần da, Huệ Khả được phần tủy. Chỉ e rằng những bậc
thánh trước kia chưa hẳn đã hành xử giống như các vị. Cho
nên đức Khổng tử dạy rằng: “Hãy làm trước, rồi sau mới nói
theo chỗ đã làm.” Chưa từng nghe như kẻ què chân giảng pháp,
chỉ nói được mà không làm được!
Thế nên ngài Tuyết Phong dạy: “Hiểu biết rồi, cần phải hành
trì. Nếu chẳng hành trì thì sự hiểu biết ấy chỉ là cái trí
chết khô. Gặp khi đối mặt với sống chết, rốt cùng chẳng có
chút sức lực.” Cho nên biết rằng, chẳng do sự nói nhiều, chỉ
xem việc làm được thế nào mà thôi.
Từ xưa, Tam giáo phân ra như ba chân của cái vạc, chỗ dùng
nương nhau, chính như nước nhà dùng binh khí, há có thể bỏ
được sao? Nếu đời sau ai nấy đều quên mất cái tường ngăn
cách tình làng nghĩa xóm, thì mỗi khi gió mát thổi đến,
không ngày nào chẳng là ngày thái bình như đời Phục Hy,
Hoàng Đế!
Ta biết rằng ba vị Thánh nhân quyết chẳng có ý gây sự tranh
chấp thị phi, chỉ vì người đời nay khác người đời xưa, chỗ
kiến thức khác xưa, mà sự hành xử cũng khác xưa. Cho nên có
lời này:
Đầu miệng nói ra ngàn tiếng đạo,
Dưới chân khó mất chút bụi trần!
Cho nên, Thánh nhân không thể không đưa tay cứu vớt người
đời!
Đời nhà Tống có cư sĩ Vô Cấu là Trạng nguyên họ Trương, sau
khi thi đậu thường dạo chơi khắp các chốn thiền lâm, học
phép Tam-muội. Một sớm kia đến ra mắt thiền sư Diệu Hỷ bàn
về ý nghĩa “cách vật”. Ngài Diệu Hỷ nói: “Ông chỉ biết nghĩa
cách vật, chẳng biết nghĩa vật cách.” Trương công hỏi: “Sư
há không có phương tiện hay sao?” Ngài Diệu Hỷ liền thuật
chuyện Đường Minh Hoàng đến đất Thục chém bức chân dung quan
Thái thú châu Lãng. Nghe chuyện ấy, Trương công ngộ được ý
chỉ huyền diệu, bèn đọc kệ rằng:
Tử Thiều nói cách vật,
Diệu Hỷ nói vật cách.
Nên biết một xâu tiền,
Là hai lần năm trăm.
Như vậy quả là đủ mắt tri âm. Chỉ xem nơi công án này, há
Tam giáo có chỗ ngăn ngại người hay sao? Nếu chẳng vậy, hãy
nghe thêm bài kệ này:
Tam giáo từ xưa vẫn có nghe,
Lá vàng dỗ trẻ thôi khóc nhè.
Mở toang mây biếc, tùng ngàn thước,
Chặt đứt bụi hồng, nước một khe.
Tôi thường nói với đồ chúng rằng: “Nho giáo như giày dép
dưới chân, Đạo giáo như mão đội trên đầu, Phật giáo như y
phục mặc ngoài. Trong ba món ấy, không thể thiếu một món. Ví
như có người chân không giày dép mà gượng đi ngàn dặm, đầu
không đội mão mà ra mắt khách sang, hoặc để mình trần mà
triều kiến Thiên tử, như vậy há có thể gọi là quân tử hay
sao?
Như tôi đây cũng chẳng phải dễ gì thấu hết đạo lý của ba vị
Thánh nhân! Chỉ là may mắn được nếm qua đôi chút mùi vị,
khác nào như con ruồi uống nước biển. Nhân đó phác họa ra
văn này, đem theo mình mà chiêm lễ, để tỏ tấm lòng thành
trọn vẹn không chi khác. Việc trước thuật bài văn này là cầu
cho ai nấy đều lấy lại được tự tánh chân thật sẵn có của
mình. Vì cớ ấy mà soạn ra vậy thôi!