QUYỂN 8 - Nước Ma-yết-đà - Phần một
Fascicle VIII - The Country of Magadha - (Part 1)
Nước Ma-yết-đà chu vi khoảng 1.630 km. Bên trong thành cư dân thưa thớt nhưng ngoài thôn ấp [vùng quê] rất đông dân. Đất đai màu mỡ, việc trồng lúa phát triển, có nhiều giống lúa lạ, hạt rất to, hương vị cực kỳ thơm ngon, màu sáng rất đặc biệt, dân địa phương gọi là gạo “dành cho bậc đại nhân”.
The country of Magadha is more than five thousand li in circuit and the capital 910c city is sparsely populated, while in the towns there are many registered families. The soil is fertile and good for farming. There is a special kind of rice of large grain with an unusual fragrance, whose luster and color are extraordinary. The people call it the rice for great personages.
Đất đai thấp trũng nên những khu dân cư thôn ấp phải chọn vùng đất cao. Từ sau đầu hạ đến trước trung thu, những vùng đất bằng nước chảy ngập tràn, có thể bơi thuyền.
The land is low and humid and the towns are located on tablelands. After the beginning of summer and before mid-autumn the plains are flooded and boats can be used.
Phong tục nơi đây thuần phác chân chất. Khí hậu ấm nóng. Người dân rất tôn trọng việc học và cung kính vâng theo Phật pháp. Có hơn 50 ngôi chùa, tăng sĩ hơn 10.000 vị, đa số tu tập theo giáo pháp Đại thừa. Đền thờ Phạm thiên có mấy chục nơi, người theo ngoại đạo rất đông.
The people are simple and honest by social custom and the climate is moderately hot. The inhabitants esteem learning and revere the buddha-dharma. There are over fifty monasteries with more than ten thousand monks, most of whom study Mahayana teachings. There are several tens of deva temples with numerous heretics.
Phía nam sông Căng-già có một thành cổ, chu vi khoảng 23 km, tuy hoang phế đã lâu nhưng dấu tích nền móng vẫn còn.
To the south of the Ganges River there is an old city over seventy li in circuit. Although it has been deserted for a long time the old foundations are still there.
Thuở xưa, khi con người có tuổi thọ vô lượng, thành này tên là Câu-tô-ma-bổ-la, vì vương cung nhiều hoa nên gọi tên như vậy. Cho đến khi tuổi thọ [trung bình của] con người là mấy ngàn tuổi thì đổi tên là Ba-trá-ly tử.
In the past, when the human life span was innumerable years, this city was called Kusumapura (known as Xianghuagongcheng, “Palace City of Fragrant Flowers,” in Chinese). The royal city was full of flowers, hence the name of the city. Later on, when the human life span was several thousand years, the name was changed to the city of Pataliputra (formerly mistranscribed as the city of Balianfu).
Ban sơ có người bà-la-môn học rộng tài cao, học trò đến mấy ngàn người được ông truyền dạy tài nghệ. [Một hôm] có nhóm học trò cùng nhau dạo chơi, trong đó có một người lộ vẻ bâng khuâng buồn bã. Bạn học theo hỏi: “Sao anh buồn bã thế?”
There was once a learned brahman of high talent who had several thousand disciples studying under him. Some of the disciples went out together on a pleasure trip. One of them paced up and down in a melancholy mood and his companions asked him why he was so sad.
Người ấy đáp rằng: “Tuổi đời đang độ hoa niên mà vẫn đơn độc một mình nơi xứ lạ, thời gian năm tháng chất chồng, việc học chưa thành tựu, nghĩ đến việc ấy nên lòng càng thêm buồn bã.”
He said, “I am in the prime of life yet I am still a vagabond, with only my shadow to accompany me, and, moreover, even though a long time has passed I have not made any achievement in learning. On account of this, my mind is heavily laden with sorrow.”
Bọn học trò liền nói đùa: “Vậy thì hôm nay bọn tôi sẽ đưa anh đi cưới vợ.”
His schoolmates said to him in jest, “In that case we shall now arrange a ceremony for you to get married.”
Rồi bọn họ chọn hai người đóng vai cha mẹ bên nhà trai và hai người đóng vai cha mẹ bên nhà gái, cùng đến ngồi dưới gốc cây ba-trá-ly (patali) và gọi đây là cây “nhà gái”. Cả bọn hái trái cây đang mùa, rót nước trong [thay rượu], [rồi đôi bên gia đình trai gái] cùng bàn bạc chuyện hôn nhân và xin định ngày giờ tốt để kết duyên. Lúc ấy, người đóng giả cha cô dâu đưa tay bẻ một cành hoa trên cây trao cho chàng rể và nói rằng: “Đây là người phối ngẫu cùng con, mong đừng từ chối.”
They then chose two people to act as the parents of the bridegroom and two people as the parents of the bride. The young man was then made to sit under apatali tree, which was thus called the Tree of the Son-in-Law. Seasonal fruit was gathered and pure water was served as wine to make a wedding feast to celebrate the nuptials. The mock father of the imaginary bride broke off a branch of the tree and handed it to the young scholar, saying, “This is your good spouse. I hope you will not refuse the offer.”
Người học trò [giả làm chàng rể lúc đó] thấy lòng hân hoan vui mừng vô hạn.
The scholar was happy and satisfied.
[Chơi đùa như vậy đến khi] mặt trời lặn, bảo nhau ra về, “chàng rể” thấy lòng lưu luyến muốn ở lại. Bạn đồng học đều cười nói: “Chỉ là chuyện vui đùa thôi mà. Xin anh hãy cùng bọn tôi đi về. [Nếu ở lại] trong rừng đầy thú dữ, e rằng sẽ hại mạng anh.”
When it was time for the party to return home at dusk the young man did not wish to leave the place and wanted to stay behind. The other disciples said to him, “We were merely making a mock ceremony. Please return home with us now, lest the fierce animals in the woods hurt you.”
Cuối cùng, chàng học trò ấy vẫn nhất định ở lại, đi tới đi lui mãi bên gốc cây. Màn đêm buông xuống rồi, chợt thấy ánh sáng lạ thường chiếu sáng trong vùng, có tiếng đàn sáo thanh nhã nổi lên, màn che trướng phủ hiện ra, bỗng chốc thấy một lão ông chống gậy bước đến chào hỏi, lại có một người phụ nữ dẫn theo một thiếu nữ, cùng rất nhiều người đi theo, chen chân đầy đường, thảy đều mặc y phục sang trọng, vừa đi vừa tấu nhạc. Khi ấy, ông già chỉ vào thiếu nữ và nói: “Đây là vợ của con.”
911a The scholar lingered at the place and walked about the tree. After sunset a strange light shone brightly in the wilderness and elegant music from wind and stringed instruments was heard. A row of tents was pitched and in a moment an old man, holding a staff, came to extend greetings to him. There was also an old woman approaching with a maiden, followed by a large number of splendidly dressed attendants amid the sound of music. The old man said to him, while pointing at the maiden, “This is your wife.”
Liền đó âm nhạc nổi lên, yến tiệc bày ra, cùng ca hát vui chơi trong bảy ngày.
The wedding festivities lasted seven days.
[Hôm sau,] những người bạn học ngờ rằng bạn mình đã bị thú dữ làm hại, nên quay lại chỗ ấy tìm kiếm, liền thấy người học trò ấy ngồi một mình dưới bóng cây, dáng vẻ như đang ngồi với khách quý, bạn bè gọi bảo đi về nhưng nhất định không nghe theo.
The other disciples, concerned that the scholar might be killed by wild animals, came to look for him. Then they saw him sitting alone under the shade of the tree, as if he were accompanying some guests of honor. They asked him to return with them but he refused.
Về sau, người học trò đó tự quay về trong thành, gặp gỡ thân hữu mới kể lại đầu đuôi câu chuyện. Mọi người nghe xong đều lấy làm kinh quái. Rồi người học trò ấy liền đưa các thân hữu cùng quay lại trong rừng. Đến nơi, thấy chỗ cây hoa ba-trá-ly giờ đã là một tòa nhà lớn, kẻ hầu người hạ qua lại tấp nập. Lão ông đích thân bước ra đón tiếp, bày tiệc tấu nhạc, đầy đủ lễ nghi tiếp khách.
Some time later he entered the city by himself to see his relatives and friends and told them what had happened to him. Those who heard the story were amazed. His friends went with him to the woods, where they saw a great mansion at the place of the flowering tree, with servants and slaves busily walking about. The old man received them politely and prepared a feast, along with a performance of music to entertain them, according to the etiquette between hosts and guests.
Những người thân hữu quay trở về thành liền kể lại cho mọi người xa gần đều biết chuyện.
When they returned to the city they told everything to people far and near.
Cuối năm đó, sau khi sinh được một đứa con trai, người học trò liền nói với vợ: “Ta muốn về quê nhưng không chịu được sự xa cách nàng, nhưng nếu ở lại đây thì cảm thấy cứ như sống nhờ ở đậu.”
After a year a son was born to the couple and the young scholar said to his wife, “I wish to go home but I cannot bear leaving you behind. If I remain here I will always make my lodging in the open wilderness.”
Người vợ nghe vậy rồi liền thưa lại với cha mình, ông liền bảo người học trò: “Người ta sống ở đời, hạnh phúc đâu nhất thiết phải ở nơi quê cũ? Nay ta sẽ làm nhà riêng cho con, đừng nghĩ ngợi gì khác.”
Having heard this, his wife told it to her father, the old man, who said to the young scholar, “For the enjoyment of life one need not go back to one’s native place. I shall build you a palace. Do not think otherwise.”
Nói rồi liền cho người làm ngay, chưa đến một ngày đã hoàn tất. Thành Hương Hoa cũ sau đó dời sang nơi này. Vì có đứa con trai của người học trò kia, nên thần linh giúp xây dựng thành mới. Từ đó về sau, do nhân duyên đó mà thành này có tên là Ba-trá-ly Tử.
Through the labor of spirits the palace was promptly completed. The old City of Fragrant Flowers was shifted to this place and, as the city had been constructed by spirits for the [infant] son, it was called the City of the Son of Patali (Phtaliputra).
Phía bắc thành này có một trụ đá cao khoảng 7-10 mét, là nơi [trước đây] vua Vô Ưu cho xây dựng địa ngục.
To the north of the old royal city there is a stone pillar several tens of feet in height, erected at the place where King Asoka made a hell.
Sau khi đức Thích-ca Nhập Niết-bàn, trong khoảng 100 năm đầu tiên, có vua A-du-ca là hậu duệ của vua Tần-tỳ-bà-la, đã dời đô từ thành Vương Xá về thành Ba-trá-ly, xây dựng thêm vòng thành bên ngoài, bao bọc thành cổ. Thời gian đã quá lâu, nay chỉ còn lại phần nền cũ mà thôi. Chùa chiền, đền thờ Phạm thiên cùng các ngọn tháp, dấu tích có đến mấy trăm nơi, nhưng chỉ thực sự tồn tại được vài ba chỗ.
In the one-hundredth year after the nirvana of Sakya Tathagata, King Asoka (known as Wuyou, “Not Feeling Sorrow,” in Chinese, formerly mistranscribed as Ayu), the great-grandson of King Bimbisara (known as Yingjian, “Hard Shadow,” in Chinese, formerly mistranscribed as Pinpisuo), moved his capital from the city of Rajagrha to Pataliputra. After the long passage of time only some old foundations still survive. Of the monasteries, deva temples, and stupas, there are several hundred remnant sites lying in ruins; only two or three remain intact.
Phía bắc thành này giáp với sông Căng-già, bên trong thành nhỏ có hơn ngàn nóc nhà.
Only in a small city situated to the north of the old palace and on the banks of the Ganges are there over a thousand households.
Thuở xưa, sau khi vua Vô Ưu lên ngôi, chính sách cai trị khắc nghiệt tàn bạo, cho xây dựng một địa ngục, tàn hại sinh linh. [Địa ngục này có] tường cao sừng sững bao quanh, mỗi góc tường đều có lầu canh xây cao lên, [bên trong] có lò lửa dữ, có đao kiếm sắc nhọn, đủ các công cụ hành hình, thiết kế tưởng tượng theo giống như [địa ngục] chốn âm phủ, rồi chọn kẻ hung ác làm chủ ngục. Ban đầu, hết thảy những người phạm tội trong nước, bất kể tội nặng hay nhẹ đều tống hết vào trong ngục mà hành tội. Về sau, bất cứ ai đi ngang qua địa ngục đều bị bắt giam, hành hạ đến chết, cho nên bịt miệng tất cả, [không ai bên ngoài có thể biết được tình trạng trong địa ngục].
When King Asoka first succeeded to the throne he was cruel and practiced tyranny. He established a hell to torture people, surrounded by lofty walls with watchtowers at the comers. Great furnaces of fierce fire and cutters with sharp points and keen edges, as well as other instruments of torture, were prepared in imitation of the hells and a savage and creel man was appointed to be the jailer. At first it was used for punishing all sorts of criminals of the country, regardless of the nature of their misdeeds. Later on all casual passersby were captured and put to death and all who had entered the hell were killed to prevent the secret from leaking out.
Lúc bấy giờ có một vị sa-môn vừa mới xuất gia, đi khất thực ngang qua cửa ngục, lập tức bị ngục tốt bắt giam, định sẽ sát hại. Vị sa-môn hoảng kinh, liền thỉnh cầu [ngục tốt cho mình] được sám hối [trước khi chết]. Ngay khi ấy bỗng nhìn thấy một người khác vừa bị trói dẫn vào ngục, chặt hết chân tay, cắt xẻo hình hài, rồi chỉ trong chớp mắt toàn bộ thân thể đã bị nát nhừ. Vị sa-môn nhìn thấy vậy càng thêm thương xót, [ngay lúc đó] thành tựu phép quán vô thường, chứng quả Vô học. Khi ấy, ngục tốt nói: “Đến lúc ông phải chết rồi!”
A newly admitted sramana once came to the gate of the hell in the course of making his almsround. The cruel jailer caught him and intended to kill him. Terror-stricken, the sramana asked permission to perform a confessional ceremony [before death]. He immediately saw a man who had been bound and sent into the hell, where he was dismembered and cut into pieces. Presently the broken body became rotten and decayed. The sramana was deeply touched by the sight and he gained the insight of impermanence and realized arhatship. The jailer said to him, “It is now time for you to die.”
Vị sa-môn đã chứng thánh quả, tâm dứt lìa sanh tử, tuy [bị ném] vào chảo nước sôi vẫn như nơi hồ nước trong mát, có hoa sen lớn hiện ra làm tòa ngồi. Chủ ngục kinh hãi vội vã báo lên nhà vua. Vua thân hành đến xem, hết sức tán thán sự thần dị đó. Khi ấy, chủ ngục nói: “Đại vương phải chết.”
Having achieved the fruit of sainthood the sramana had no discrimination between life and death. Even though he was thrown into a cauldron of boiling water it was just as if [he was] in a pond of cool water and a huge lotus flower sprang up for his seat. The jailer was surprised by the unusual spectacle and hurried to inform the king, who came to see the sight for himself and highly praised the spiritual protection. Then the jailer said, “Your Majesty must die.”
Chủ ngục đáp rằng: “Trước đây đại vương có ban lệnh cho người cai quản ngục, bất kỳ ai chỉ cần đi đến chỗ tường bao quanh ngục đều phải giết chết, nhưng không hề nói rằng khi đại vương vào đây thì khỏi phải chết.”
The jailer replied, “Your Majesty previously issued an order as a rule of the hell that whoever has entered the enclosure of the hell must be killed, and it did not say that the king should be excepted from the regulation.”
Vua nói: “Luật pháp đã định như vậy rồi, theo đúng lý thì không thể sửa đổi. Nhưng trước đây ta ban lệnh như vậy, lẽ nào lại riêng trừ ngươi ra? Ngươi sống được quá lâu rồi, đó là lỗi của ta.”
The king said, “Once a law is adopted it should not be altered. But did I make an exception for you when I laid down the rule? It is my fault that you have lived until now.”
Lập tức ra lệnh cho ngục tốt ném [tên chủ ngục] vào lò lửa. Chủ ngục đã chết, nhà vua ra khỏi ngục rồi liền [ra lệnh] phá tường cao, lấp hào sâu, hủy bỏ tù ngục, giảm nhẹ hình phạt.
He then ordered the lictors to cast the jailer into the big furnace and after the jailer’s death the king came out of the hell. He demolished the walls, filled up the trenches, abolished the hell, and thereafter showed leniency toward criminals.
Cách nơi xây địa ngục không xa về phía nam, có một ngọn tháp nền móng ngiêng lún, chỉ còn lại hình bình bát úp trên cùng, trang sức bằng trân bảo, lan can làm bằng đá. Đây là một trong 84.000 ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng. Nhà vua đã cho nhân công xây dựng tháp này ngay trong khuôn viên cung điện của mình. Trong tháp có một đấu xá-lợi Như Lai, thỉnh thoảng lại có sự hiển linh, đôi khi có hào quang tỏa sáng.
Not far to the south of the hell there is a stupa whose foundation has collapsed on one side so that it has the shape of an overturned almsbowl. It is decorated with gems and has stone balustrades. As it is one of the eighty- four thousand stupas built by King Asoka it was constructed by human labor in his palace. Inside it one don of the Tathagata’s relic bones is preserved, and they occasionally show spiritual manifestations and issue a divine light from time to time.
Sau khi vua Vô Ưu phá bỏ địa ngục thì gặp được Đại A-la-hán Cận Hộ (Upagupta). Ngài dùng phương tiện khéo léo dẫn dắt, tùy cơ nghi mà giáo hóa nhà vua.
Having abolished the hell, King Asoka met the great arhat Upagupta, who instructed him according to his capacity in an appropriate way.
[Một hôm, vua] thưa với ngài Cận Hộ rằng: “Trẫm nhờ phước báo đời trước mà được làm vua chốn nhân gian, nhưng buồn vì chướng duyên không [trực tiếp] được Phật giáo hóa. Nay [đối với] di thân xá-lợi của Đức Như Lai, trẫm muốn xây dựng lại những bảo tháp [để thờ phụng cúng dường].
The king said to the arhat, “I am lucky to be a lord of humans as a result of good deeds I have done in the past, but because of my spiritual hindrances I regretfully have not received edification from the Buddha. Now I wish to construct stupas for the veneration of the Tathagata’s relic bones.”
Ngài Cận Hộ nói: “Đại vương dùng oai lực phước đức của mình có thể tác động đến thần linh, dùng tâm thệ nguyện rộng lớn để hộ trì Tam Bảo. Tâm nguyện như vậy nay chính là lúc thích hợp.”
The arhat said, “With your power of bliss and virtue you can command various deities to work for you. It is my wish that you should protect the Triple Gem with great determination. Now is the time for you to do so.”
Nhân đó ngài Cận Hộ liền vì nhà vua nói rộng ra về nhân duyên [thuở xưa vua đã từng] cúng dường nắm đất [lên đức Phật] cũng như việc đức Như Lai đã có huyền ký về công việc xây dựng [tháp thờ này].
Then the arhat told the king in detail about the latter’s cause of offering a handful of earth [to the Buddha in a previous life] and about the merits of building stupas as predicted by the Tathagata.
Vua Vô Ưu nghe xong trong lòng hết sức vui mừng, [liền cho lập đàn tràng] triệu tập quỷ thần ban hiệu lệnh rằng: “Đấng Pháp vương dẫn dắt làm lợi lạc chúng sinh, muôn loài đều được mừng vui an ổn. Trẫm nay nhờ phước lành đời trước, được làm bậc tôn quý trong loài người, đối với xá-lợi di thân của đức Như Lai muốn xây dựng tháp báu để thờ phụng cúng dường. Nay hết thảy quỷ thần hãy đồng tâm hợp lực, trong khắp châu Thiệm-bộ này, bất cứ nơi nào có đủ 100.000 hộ dân đều phải được xây dựng tháp thờ xá-lợi Phật. Tuy rằng trẫm đã phát khởi tâm nguyện này, nhưng muốn thành tựu phải nhờ vào các ngươi. Lợi ích công đức thù thắng này cũng không chỉ riêng mình trẫm hưởng. Các ngươi mỗi người về chỗ của mình khởi sự công việc, khi hoàn thành báo cho trẫm biết để nhận lệnh.”
King Asoka was pleased to hear the prediction. He summoned the spirits and deities and issued an order, saying, “The King of the Dharma has instructed living beings for their happiness and, due to my good deeds done in the past, I am now the most honored person among humankind. In order to venerate the Tathagata’s relic bones stupas must be constructed. You spirits and deities should work with one heart to construct stupas for the Buddha’s relics at all places in Jambudvipa, which is inhabited by a hill koti of families. Though the project has been initiated by me, it depends upon you for its successful completion, and I have no intention of monopolizing the advantages of performing such superior good deeds. Each of you should go start the con-struction work and wait for further instructions. ”
Chư quỷ thần nhận lãnh thánh chỉ rồi về tại địa phương của mình bắt đầu xây dựng, sau khi hoàn tất đều đến thỉnh mệnh vua. Vua Vô Ưu đã cho mở các tháp có xá-lợi Phật ở 8 nước [để lấy xá-lợi ra], rồi phân chia lại và giao cho các vị quỷ thần [để mang về đặt trong các tháp mới xây]. Khi ấy, vua nói với ngài Cận Hộ: “Trong lòng trẫm có ý muốn cho tất cả các nơi cùng một lúc an trí xá-lợi Phật vào tháp. Tuy muốn như vậy nhưng thật không thể làm như ý muốn.”
Having received the edict, 911c the spirits and deities went away to start the construction work at their different places, and when the work was completed they all came to ask for further instructions.
After having opened the stupas built in eight countries and distributed the relic bones [taken out from them] to the spirits and deities, King Asoka said to the arhat, “My wish is to enshrine the relic bones in the various stupas at the same time. I hope to do this but I do not know how to fulfill my wish.”
A-la-hán Cận Hộ nói: “Bệ hạ hãy ra lệnh cho tất cả quỷ thần vào đúng ngày đã định, ngay khi thấy mặt trời bị che khuất bởi vật có hình dạng như bàn tay thì đồng loạt đưa xá-lợi Phật vào tháp.”
The arhat said, “Your Majesty can order the deities and spirits to enshrine the relics at the same instant on the appointed date when they see that the sun is eclipsed by an object in the shape of a hand.”
Vua y theo lời, ra lệnh cho chư quỷ thần. Chờ đúng ngày đã định, vua Vô Ưu trong lòng mong ngóng quan sát cảnh vật. Đúng vào giữa trưa, A-la-hán Cận Hộ vận sức thần thông đưa tay che mặt trời, tất cả những nơi đã xây dựng tháp đều nhìn thấy, liền ngay lúc ấy hoàn tất [việc an trí xá-lợi Phật].
The king imparted the instruction to the spirits and deities. On the appointed date King Asoka observed the sun, and at midday the arhat, through supernatural power, stretched out his arm and covered up the sun with his hand. The eclipse was seen by all everywhere the stupas were being constructed and at that moment they commenced work simultaneously.
Bên cạnh tháp này, cách đó không xa có một tinh xá, bên trong khuôn viên có một tảng đá lớn còn in lại hai dấu chân của đức Như Lai, chiều dài khoảng 60 cm, chiều ngang khoảng 20 cm, cả hai đều có luân tướng và cả mười ngón chân đều có hoa văn, lấp lánh sáng mường tượng như hình [vảy] cá, đôi khi phát ra ánh sáng.
Not far from the stupa is a temple containing a stone on which the Tathagata once stood and the traces of his footprints are still in existence. The two footprints have the wheel signs and the ten toes have floral ornaments. The fish patterns are visible and sometimes issue a bright light.
Thuở xưa, khi đức Như Lai sắp tịch diệt, trên đường đi về thành Câu-thi-na ở phương bắc, ngài dừng lại đứng trên tảng đá này, ngoái nhìn về nước Ma-yết-đà ở phương nam, nói với ngài A-nan: “Hôm nay ta lưu lại dấu chân nơi đây lần cuối cùng trước khi nhập Niết-bàn. Trăm năm sau sẽ có vua Vô Ưu lên ngôi trị vì thiên hạ, đóng đô ở vùng này, hộ trì Tam bảo, sai khiến được trăm vị quỷ thần.”
In olden times, when the Tathagata was about to enter nirvana he proceeded northward to the city of Kusinagara and looked back at the country of Magadha in the south. He was standing on this stone when he told Ananda, “I leave my last footprints here, looking back at Magadha while I am going to enter nirvana. One hundred years afterward there will be a King Asoka who will ride over the world and establish his capital at this place. He will protect the Triple Gem and command all kinds of deities to do him service.”
Đến khi vua Vô Ưu lên ngôi, quả nhiên dời đô về vùng này, liền cho bao bọc quanh tảng đá có dấu chân Phật này để bảo vệ. Vì ở gần hoàng cung nên vua thường đích thân đến đây cúng dường.
When King Asoka succeeded to the throne he shifted his capital to this place and built a city here, and protected the footprint stone with a shelter. As it was near the palace city the king always came in person to make offerings to it.
Về sau, vua các nước đều tranh nhau muốn đem tảng đá này về nước mình. Tuy tảng đá không lớn lắm, nhưng bao nhiêu người đều không thể di chuyển. Gần đây, vua Thiết-thưởng-ca hủy hoại Phật pháp, muốn phá bỏ chỗ tảng đá này, phá bỏ thánh tích, nhưng đục bỏ xong rồi, đường nét lại hiện ra như cũ, liền mang vất xuống sông Căng-già, rốt sau lại thấy tự nhiên trở về chỗ cũ.
Afterward various kings vied with one another in trying to bring the stone home. Although it was not very big they could not move it. Recently King Sasarika persecuted the buddha-dharma and went to the place of the stone, intending to destroy the holy object. He effaced the footprints with a chisel but they reappeared with the same traces and patterns. Then he threw the stone into the Ganges River but it immediately returned to its original place.
Cũng bên cạnh tháp này, có di tích nơi bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành và ngồi thiền.
The stupa beside the stone marks the place where the four past buddhas sat and walked up and down in olden times.
Kế bên tinh xá có dấu chân Phật, cách đó không xa, có một trụ đá lớn, cao hơn 10 mét, chữ khắc đã nhiều chỗ hư hao, nội dung đại luợc như sau: “Vua Vô Ưu có lòng tin vững chắc, đã ba lần đem châu Thiệm-bộ này cúng dường lên Phật Pháp Tăng, lại ba lần dùng các món trân bảo để tự chuộc lại.” Những lời [khắc trên đá] đại lược như vậy hiện vẫn còn.
Not far from the temple of the Buddha’s footprints there is a huge stone pillar more than thirty feet tall. The inscription on it has been partially erased but it says roughly that King Asoka was a staunch believer who offered Jambudvipa to the Triple Gem thrice and redeemed it thrice with valuable pearls and gems. Such are the fragmentary words that are still legible.
Phía bắc cố cung có một phòng bằng đá lớn, bên ngoài có hình dạng như ngọn núi cao, bên trong rộng khoảng 9-10 mét. Đây là nơi vua Vô Ưu vì người em xuất gia của mình mà sai quỷ thần làm ra.
To the north of the palace city is a great rock chamber with the appearance of a lofty hill and a space several tens of feet wide inside. It was constructed through the labor of deities and spirits by the order of King Asoka for his 912a younger brother, who was a monk.
Thuở ấy, vua Vô Ưu có người em cùng mẹ tên là Ma-hê-nhân-đà-la, sinh trong dòng tộc cao quý, lạm dùng y phục dành riêng cho vua, ăn chơi hoang phí, buông thả hung bạo, dân chúng đều ôm lòng oán thán.
King Asoka had a younger brother by the name of Mahendra (known as Dadi, “Great Ruler,” in Chinese). As he was born in a royal family he presumptuously put on the king’s robe and led a luxurious and dissolute life, treating people cruelly until they bore a grudge against him.
Vị lão thần quốc phụ có lời khuyên can vua, thưa rằng: “Hoàng đệ kiêu ngạo, tác oai tác quái ngày càng quá lắm. Theo như lời dạy của người xưa, phép nước có công bằng thì đất nước mới bình trị, người dân có an lòng thì nhà vua mới được yên ổn. Xin đại vương duy trì khuôn phép quốc gia, buộc phải thi hành pháp luật.”
The prime minister and other senior officials exhorted the king, saying, “Your younger brother has gone too far in riding roughshod over the people. As the saying goes, when the government is impartial the country will be in good order, and when the people live in harmony the ruler will be at peace. This precept has been handed down from ancient times. We hope that the code of the country will be maintained and that he will be put on trial according to the law.”
Vua Vô Ưu khóc nói với em rằng: “Ta kế thừa cơ nghiệp tiên đế, che chở hết thảy mọi sinh linh, huống chi với anh em ruột thịt, sao có thể không thương yêu chiếu cố! Bởi trước đây ta không uốn nắn dẫn dắt em, nên ngày nay mới sa vào phạm pháp. Nay đối với tiên linh ở trên, ta thật xấu hổ khiếp sợ, đối với bên dưới thì phải chịu sự thúc ép của thần dân chê trách.”
King Asoka, in tears, said to his younger brother, “Since I succeeded to the throne I have put all living beings under my protection. As you are my brother from the same mother, how can I neglect to benefit you? But I did not guard and guide you in time so that you have now incurred the punishment for criminals. I am in fear of my ancestors above and forced by public criticism from below.”
Ma-hê-nhân-đà-la cúi đầu tạ tội, thưa rằng: “Là do em không tự mình cẩn trọng trong việc làm, dám phạm vào phép nước. Chỉ xin ban ơn tái sinh cho được sống thêm bảy ngày [rồi xin chịu tội].”
Mahendra bowed to the king apologetically and said, “I am so imprudent as to have infringed the law. I hope you will grant me seven days’ respite.”
[Vua liền hạ lệnh] đưa vào phòng tối, canh giữ nghiêm ngặt, rồi hằng ngày cho mang đến đủ các món ngon vật lạ, sơn hào hải vị không thiếu món gì. [Vừa hết một ngày,] người giữ phòng liền xướng lên thật to: “Đã qua một ngày, còn sáu ngày nữa.”
He was then confined in a dark chamber under strict custody but was provided with the best delicacies without negligence. [At the end of the first day] the guardian announced, “One day has passed and there are six more days.”
[Cứ như vậy, mỗi ngày đều xướng to nhắc nhở,] đến hết ngày thứ sáu [thì Ma-hê-nhân-đà-la đã] quá sức lo lắng sợ hãi [về sự chết], nên thân tâm đều nỗ lực gắng sức [tu tập] liền chứng được thánh quả, bay lên hư không, hiện các phép thần thông, bỗng dưng ra khỏi trần tục, tránh đi xa lên ở nơi núi cao khe sâu.
When the sixth day had passed, Mahendra, deeply worried and fearful, made vigorous efforts both physically and mentally [in spiritual cultivation], and thereupon he gained the fruit of sainthood, ascended into the air, and manifested miracles. Before long he left the world and went far away to live in a rocky valley.
Vua Vô Ưu liền đích thân tìm đến, bảo rằng: “Trước đây trẫm buộc phải làm theo phép nước, áp dụng hình phạt nghiêm khắc, thật không hề nghĩ đến việc do vậy mà ngài chứng được thánh quả. Nay đã không còn vướng mắc trói buộc gì, ngài có thể trở về sống trong nước.”
King Asoka went personally to see him and said, “I was bound by the law of the country so I had to inflict a severe penalty upon you. I did not think that you would elevate yourself and realize the fruit of sainthood. You are now free from trouble and you may return to our country.”
Ma-hê-nhân-đà-la nói: “Trước đây bị ràng buộc trong luới ái dục, tâm chạy theo âm thanh, hình sắc, nay đã ra khỏi được nơi nguy hiểm, lòng chỉ muốn vui nơi núi khe. Nguyện từ bỏ nhân gian sống lâu dài trong hang núi mà thôi.”
His younger brother said, “Formerly I was caught in the net of passions and my mind was fixated on [pleasurable pursuits]. I am now free from the city of perils and I take delight in staying in the mountains and valleys. I wish to relinquish the human world and always remain in the hills and vales.”
Vua nói: “Muốn tâm thanh tịnh cũng đâu cần phải lên núi cao vắng vẻ! Trẫm theo đúng ý ngài, sẽ làm ra chốn núi cao cây lớn.”
The king said, “If you wish to engage yourself in quiet meditation it is not necessary for you to live in remote mountains. In compliance with your wish, however, I will build a cave for you.”
Sau đó liền triệu tập quỷ thần đến nói rằng: “Ngày mốt đây trẫm sẽ chuẩn bị rất nhiều món ăn ngon quý, các ngươi hãy đến dự hội cùng ta. Mỗi vị mang theo một tảng đá lớn để tự làm chỗ ngồi cho mình.”
The king then summoned the spirits and deities and said to them, “I will prepare a grand banquet of delicacies on the day after tomorrow. You may all come to attend the feast but each of you should bring a large rock to serve as a seat.”
Các vị quỷ thần đều vâng lệnh, đúng ngày đến dự hội. Dự hội xong, vua bảo: “Các tảng đá ngồi nằm ngang dọc ngổn ngang, mỗi vị hãy tự mang đến xếp thành đống. Đừng để phải dùng đến sức người, hãy xếp sao cho thành một căn phòng trống.”
By the king’s order the deities came at the appointed time and, when the feast was over, the king told the deities, “The stone seats are in disarray so you should stack them up in proper order. I mean to make use of your labor to build a hollow chamber.”
Các vị quỷ thần vâng lệnh, ngay trong ngày đã làm xong. Vua Vô Ưu thân hành đến thỉnh Ma-hê-nhân-đà-la về ở nơi căn phòng đá ấy.
Under the king’s instruction the deities completed the work in a few days’ time. King Asoka then went to invite [his younger brother] to stay in the hill cave.
Phía bắc cung thành xưa, nằm về phía nam chỗ xây địa ngục, có một tảng đá to khuyết xuống như cái bồn. Đây là do vua Vô Ưu ra lệnh các vị quỷ thần làm ra, để những lúc tổ chức trai tăng dùng đựng thức ăn.
To the north of the old palace and south of the hell there is a large trough that was made by divine labor under the command of King Asoka. It is used for storing comestibles at the time of offering food to the monks.
Phía tây nam cung thành có một núi đá nhỏ, trong các khe núi rải rác có mấy chục động đá. Đây là do vua Vô Ưu đã vì ngài Cận Hộ và các vị A-la-hán khác mà sai khiến quỷ thần tạo ra. Bên cạnh có một đài cổ, chỉ còn lại phần nền với một ít đá chất chồng. Gần đó có hồ nước, sóng gợn lăn tăn, trong suốt như gương, người phương xa hoặc từ các nước láng giềng cho rằng đây là nước thánh, uống vào sẽ tiêu trừ được hết tội lỗi nhơ nhớp.
To the southwest of the old palace there is a rocky hill, around which there are several tens of caves that were excavated in the steep cliffs by divine labor under the command of King Asoka, for Upagupta and other arhats.
There used to be a lofty terrace beside the hill but it has collapsed, leaving only a pile of stones as the remnant foundation. In a pond there is rippling water as clear and reflective as a mirror. It is regarded as holy water by the people of neighboring and distant countries. If one drinks or bathes in the 912b water the soil will be washed away and one’s sins will be expiated.
Phía tây nam của núi đá nhỏ này có năm ngọn tháp, phần thân tháp bên trên đã nghiêng đổ, chỉ còn phần nền móng nhưng cũng rất cao, từ xa nhìn lại thấy chất chồng như gò núi, mỗi bề đều rộng đến 400-500 mét. Người đời sau đã xây lên những tháp nhỏ trên những nền tháp đổ nát này.
To the southwest of the hill there are five stupas whose lofty foundations have collapsed, but the remnant portions are still high. When viewed from a distance they seem to be verdant hillocks. Each side of the stupas has a space several hundred paces wide. People of later times constructed small stupas upon the big ones.
Sách Ấn Độ Ký chép rằng: “Ngày xưa khi vua Vô Ưu xây dựng xong 84.000 ngọn tháp rồi, vẫn còn dư năm đấu xá-lợi Phật, nên đặc biệt xây riêng năm ngọn tháp này, cách thức quy mô khác hẳn những nơi khác, thỉnh thoảng thường có những điều linh hiển, có ý nghĩa biểu thị năm phần pháp thân của Như Lai. Những kẻ thiếu niềm tin thì đồn đại rằng ngày xưa vua Nan-đà xây dựng [những tháp này] để chứa giữ bảy món báu. Về sau có vị vua không đủ tín tâm, nghe những lời đồn đại đó liền khởi tâm tham muốn, huy động quân binh đông đảo kéo đến đây, đích thân vua cho mở tháp đào đất. [Ngay khi đó] mặt đất chấn động, núi non nghiêng lở, mây che khuất mặt trời, bên trong tháp có tiếng sấm nổ lớn chấn động, quân lính té ngã, voi ngựa đều kinh hoảng bỏ chạy. Từ đó về sau [vua ấy] không dám dòm ngó đến nơi này nữa.”
It is said in the Record of India that in the old days, after King Asoka had built eighty-four thousand stupas, he still had five don of [the Buddha’s] relics. Therefore he constructed five more stupas in a different style from that of other places. Miracles occurred from time to time to testify to the fivefold spiritual body of the Tathagata. Some impious people discussed the matter in private, saying that these stupas were constructed by King Nanda of yore to store his seven kinds of treasures. Later a king of little faith heard about the rumor and, covetous of the treasures, he sent his troops under his personal supervision to excavate the stupas. But the earth quaked, the mountains collapsed, clouds enshrouded the sun, and the stupas issued a loud sound of thunder. The soldiers fell dead and the elephants and horses fled in fear. Since then no one has dared another attempt [to excavate] the stupas.
Hoặc có đoạn viết: “Những lời đồn đại tuy nhiều, nhưng chưa có gì xác đáng, cứ theo những ghi chép từ cổ xưa thì có thể tin là việc thật.”
Some people have said that there were different accounts of this matter, but this could not be unascertained. We may get the true facts by following the records of ancient books.
Phía đông nam cung thành cổ có chùa Quật-trá-a-hạm-ma, do vua Vô Ưu xây dựng.
To the southeast of the old city is Kukkutarama Monastery (known as Jiyuan, “Rooster Garden,” in Chinese), which was built by way of performing good deeds with veneration by King Asoka
Khi vua Vô Ưu mới vừa tin theo Phật pháp, đã theo đúng quy cách nghi thức xây dựng chùa này để trồng căn lành, cung thỉnh một ngàn vị tăng, có đủ thánh phàm, cúng dường đầy đủ bốn nhu cầu thiết yếu, chu cấp mọi vật dụng cần dùng cho tất cả. Chùa đổ nát hư hoại đã lâu nhưng nền móng, dấu tích vẫn còn.
when he first had faith in the buddha-dharma. He summoned one thousand monks, both ordinary people and saints, [to this monastery], offered them the four monastic requisites, and provided them with other articles for daily use. The monastery has been in ruins for a long time and only the foundations are still in existence.
Bên cạnh chùa có một ngọn tháp lớn, tên là tháp A-ma-lạc-ca, cũng là tên một loại trái cây dùng làm thuốc ở Ấn Độ.
Beside this monastery is a great stupa called Amalaka, which is the name of a sort of medicinal fruit {amalaka; myrobalan) of India.
Khi vua Vô Ưu bị bệnh [nặng] kéo dài, biết rằng mạng sống không cứu được, muốn xả bỏ trân bảo vào việc gieo trồng ruộng phước. Vị đại thần nắm quyền chấp chính ngăn cản không cho làm theo ý vua.
King Asoka, lying ill on his deathbed, knew that he was incurable and he intended to give up his gems and jewels for the performance of good deeds, but his influential ministers had seized power and would not allow him to do what he desired.
Một hôm, nhân lúc bữa ăn, vua giữ lại một trái a-ma-lạc rồi mân mê trong tay cho đến khi trái này bị dập nát hết một nửa. Vua cầm nửa trái a-ma-lạc trong tay, hỏi các quan rằng: “Hiện nay ai là chủ nhân châu Thiệm-bộ này?”
Later he kept an amalaka fruit from his meal and played with it until it had become half spoiled. Holding the fruit in his hand, he said to his ministers with a long sigh, “Who is now the lord of Jambudvlpa?”
Các quan đáp rằng: “Chỉ có đại vương thôi.”
The ministers said in reply, “Your Majesty is the sole lord of Jambudvlpa.”
Vua nói: “Không đúng. Trẫm nay không còn là chủ nhân nữa. Ta chỉ tự do làm chủ được nửa trái a-ma-lạc này mà thôi. Than ôi! Giàu sang phú quý ở thế gian này quá nguy hiểm, không khác gì cầm đuốc ngược gió. Cương vị [của ta đã từng] bao trùm thiên hạ, danh xưng [của ta] cao tột hơn tất cả, nay đến lúc lâm chung phải chịu thiếu thốn, bị cường thần bức bách. Thiên hạ chẳng phải của ta nữa, chỉ còn nửa trái a-ma-lạc này thôi.”
The king said, “No! I am not the lord now! I have sovereign power only over this half a fruit. What a pity! Worldly wealth and nobility are more easily extinguished than a candle burning in the wind. My position entitled me to control the whole country and my title is the highest of all designations, yet I am poor on my deathbed, under the command of powerfill ministers. Even though I have lost the empire I still possess half a fruit.”
Nói rồi bảo viên quan hầu cận rằng: “Hãy mang nửa trái a-ma-lạc này đến chùa Kê Viên cúng dường chúng tăng, y lời ta nói như thế này: “Vị chúa tể trước đây của châu Thiệm-bộ, nay là chủ nhân nửa trái a-ma-lạc này, xin cúi đầu trước chư tăng đại đức, xin các ngài thọ nhận sự cúng dường sau cùng này. Hết thảy những gì con sở hữu nay đều đã mất, chỉ còn lại nửa trái a-ma-lạc này là được chút tự do sử dụng. Xin chư tăng thương xót đến kẻ nghèo khó này, để con được tăng trưởng hạt giống lành.”
Then he ordered his attending official, “Take this half a fruit to Kukkutarama Monastery and offer it to the monks with the following message: ‘I, the former lord of the whole of Jambud- vipa, now the king of half an amalaka fruit, beg to pay homage in front of the monks of great virtue. I hope that you will accept my last alms. I have lost all that I once possessed, except for this half a fruit, which is somehow at my disposal. Please have pity on my poverty and let my seeds of blessedness grow and increase. ’”
Vị Thượng Tọa trong chúng tăng liền nói: “Đại Vương Vô Ưu trước đây rộng làm phước thiện, bây giờ thân đang có bệnh, kẻ gian thần chuyên quyền, trân bảo tích chứa lâu nay đều không còn là của vua nữa, chỉ có nửa trái a-ma-lạc này để cúng dường. Nay theo đúng ý vua, sẽ cúng dường đến khắp chúng tăng.”
The senior monk of the community said, “King Asoka used to be generous in almsgiving but he now suffers from a serious illness and treacherous ministers have usurped his power. His accumulated wealth is no longer his own property and he has only half a fruit to give as alms. By the king’s order we will distribute the fruit to all the monks.”
Sau đó ngài liền gọi vị tăng tri sự đến, bảo đem trái a-ma-la cho vào nồi canh nấu chung [để đại chúng đều được ăn]. Rồi lấy hạt của trái cây này, xây lên một ngọn tháp, [đặt vào để ghi nhận và lưu lại] sự cúng dường vô cùng trọng hậu trước đây cũng như tâm nguyện cúng dường cuối cùng của nhà vua.
So the senior monk instructed the steward monk to cook the fruit in a thick soup and then collected the kernel, for which a stupa was built. Since the monks had received the king’s great beneficence it was fitting that they fulfill his last wish.
Phía tây bắc tháp A-ma-lạc-ca có một ngôi chùa cổ, trong khuôn viên có một ngọn tháp gọi là tháp Đánh chuông.
In an old monastery to the northwest of Amalaka Stupa there is a stupa known as Bell Striking.
Ban sơ, trong thành này có đến hàng trăm ngôi chùa, tăng chúng tu tập nghiêm túc, việc học pháp thanh tịnh cao khiết. Những kẻ học theo ngoại đạo đều phải im hơi lặng tiếng [không dám tranh biện].
Formerly there were about a hundred monasteries in this city. The monks were solemn and respectful and had great learning, and they had silenced the heretical scholars [in debate].
Về sau, chư tăng dần dần nối nhau viên tịch, những người hậu học không ai kế tục được sự nghiệp của thế hệ trước. Những người ngoại đạo truyền nối cho nhau, đào tạo nên rất nhiều kẻ có tài nghệ. Khi đó, họ liền triệu tập nhau lại, số đông lên đến hàng ngàn, hàng vạn, kéo nhau đến chỗ chư tăng, lớn tiếng bảo rằng: “Hãy đánh chuông lên triệu tập hết học giả của các người lại.”
In the course of time the monks eventually died and their successors failed to maintain the tradition of learning. The heretical teachers taught their students to become perfect in knowledge and they then summoned their schoolmates, thousands and myriads in number, to assemble at the monastic buildings, shouting aloud, “Strike the bell to call up all your scholars!”
Đám đông tăng sĩ học tập kém cỏi ngu xuẩn nên cùng tụ tập lại đánh chuông loạn xạ lên. Bọn ngoại đạo liền tâu lên vua xin [tranh biện để] phân tài cao thấp. Khi ấy, các bậc thầy ngoại đạo đều là kẻ cao tài thật học, còn tăng chúng tuy đông nhưng lời lẽ rất thô thiển, cạn cợt.
Groups of ignorant monks came together and wantonly sounded the bell and they reported to the king, requesting him to be the judge of the contest. The heretical teachers were highly talented scholars of good learning, and even though there were numerous monks their arguments were shallow and superficial.
Bọn ngoại đạo nói: “Chúng tôi tranh luận đã thắng. Từ nay về sau, tăng chúng ở các chùa không được đánh chuông để triệu tập đại chúng nữa.”
The heretics announced, “We are the winners of the debate. From now on no monastery should strike the bell to call assemblies.”
Nhà vua chấp thuận điều đó, theo như quy chế tranh luận đã có từ trước. Tăng chúng chịu sự sỉ nhục rồi rút lui, trong 12 năm sau đó không đánh tiếng chuông nào.
The king sanctioned the request, according to the precedent regulations of debate. Having been put to shame, the monks withdrew in disgrace and for twelve years they did not strike the bell.
Lúc bấy giờ, ở miền Nam Ấn có Bồ Tát Na-già-át-lạt-thụ-na, từ thuở thiếu thời đã nổi tiếng khắp nơi, lớn lên danh tiếng càng vang dội. Ngài dứt trừ ái dục, xuất gia tu học, nghiên cứu sâu xa giáo lý nhiệm mầu, đã lên đến quả vị Sơ địa [của hàng Bồ Tát]. Ngài có vị đệ tử lớn tên là Đề-bà (Deva), trí tuệ minh mẫn, căn cơ bén nhạy, một hôm thưa với thầy rằng: “Chư tăng học giả [Phật giáo] ở thành Ba-trá-ly chịu thua kém ngoại đạo, không được phép đánh chuông đã 12 năm rồi. Nay con muốn [đến đó] phá vỡ núi tà kiến, thắp lên ngọn đuốc Chánh pháp.”
At that time, Nagarjuna Bodhisattva (known as Longmeng, “Dragon Valor,” in Chinese, formerly mistranslated as Longshu, “Dragon Tree”) of South India had enjoyed a good reputation from his youth, and he enjoyed unique fame when he had grown up he. He renounced the world of lust and love and became a monk to cultivate his learning. He made a profound study of the wonderful principles and attained the first stage [of a bodhisattva]. He had a great disciple named Deva, a person of wisdom and cleverness with wits and good understanding. Deva said to his teacher [ Nagarjuna], “The scholars of Pataliputra were defeated in debate by the heretics, and time passes so quickly that twelve years have passed since they stopped striking the bell. I would venture to demolish the hill of erroneous views and light the torch of the Dharma.”
Bồ Tát Long Mãnh nói: “Ngoại đạo ở thành Ba-trá-ly là những kẻ học rộng, con không thắng được họ, nay ta sẽ đích thân đi.”
Nagarjuna said, “The heretics of Pataliputra are erudite scholars and you are no match for them. I must go in person.”
Đề-bà thưa: “Chỉ là phá đám cỏ mục, đâu cần phải dùng đến [sức mạnh] nghiêng đổ núi cao. Con xin nhận sự chỉ dạy của thầy để đến đó phá trừ ngoại đạo. Xin thầy [thử] đưa ra giáo nghĩa của ngoại đạo, con sẽ tùy theo đó phân tích biện bác, làm rõ chỗ hơn kém, sau đó [nếu thấy được] con mới tính chuyện đi.”
Deva said, “To cut off rotten grass is it necessary to overturn the whole mountain? Under your instruction I venhire to refute the heterodox scholars. May you, my great teacher, raise an argument in favor of the heretical theories and let me analyze the points against them, and we shall see who will be the winner before we plan our action.”
Bồ Tát Long Mãnh liền thử làm người bảo vệ giáo nghĩa ngoại đạo, còn Đề-bà tùy [theo ý nghĩa nêu ra mà] biện bác, phá bỏ. Sau bảy ngày [tranh biện] thì Bồ Tát Long Mãnh thất lý chịu thua, liền ngợi khen rằng: “Những lời sai lầm thật dễ thất lý, ý nghĩa tà vạy thật khó đứng vững. Nay con có thể đi, chắc chắn sẽ khuất phục được ngoại đạo.”
Nagarjuna then proposed a thesis of the heretical theories, and Deva refuted his teacher as the latter tried to maintain his viewpoints. At the end of seven days Nagarjuna had failed to uphold his proposition. He said with a sigh, “Erroneous views can be easily refuted and it is difficult to defend wrong theories. You may now go; you can surely defeat them.”
Bồ Tát Đề-bà vang danh khắp chốn nên ngoại đạo ở thành Ba-trá-ly nghe tin ngài sắp đến lập tức tụ tập lại, cùng tâu lên vua rằng: “Đại vương trước đây đã dự cuộc tranh biện, [kết quả] ra lệnh cho các sa-môn [vì đã thua] không được đánh chuông. Nay xin ra lệnh cho những người giữ cửa thành, nếu các vị tăng ở nơi khác đến đừng cho vào thành, vì sợ rằng họ sẽ cấu kết với nhau mà xem thường, sửa đổi quy chế từ trước.”
Deva Bodhisattva had always been a man of high renown. When the 913a heretics of Pataliputra heard about his arrival they assembled and hurriedly went to report to the king, saying, “Your Majesty has formerly condescended to hear our suggestion that a rule be made to prevent the monks from striking the bell. We pray that a decree be issued to order the guardians of the city gates not to allow a foreign monk from a neighboring country to enter the city, lest he conspire to recklessly overturn the former rule.”
Nhà vua chấp thuận thỉnh cầu của ngoại đạo, ra lệnh canh phòng các cửa thành nghiêm ngặt hơn. Bồ Tát Đề-bà đến nơi, không vào thành được. Khi nghe lệnh [ngăn cấm] rồi, ngài liền thay y phục khác, xếp y tăng-già-chi giấu trong bó cỏ, rồi vén cao quần đi thật nhanh, đầu đội bó cỏ, vào được bên trong thành.
The king consented to their proposal and ordered the guardians to keep strict watch. Thus when Deva arrived he was barred from entering the city. Hearing about he restriction, he changed his clothes, folded his samghati robe, and wrapped it in a bundle of straw. Holding the front piece of his long gown in hand, he hastily went into the city, carrying the straw bundle on his head.
Khi đã vào thành rồi, ngài vất bó cỏ, đắp y vào, đến chùa xin nghỉ lại. Vì chẳng mấy ai biết đến ngài nên cuối cùng ngài không có chỗ nghỉ lại, liền lên lầu chuông ngủ qua đêm. Vừa lúc sáng sớm, ngài liền đánh chuông thật lớn, chúng tăng đến xem mới biết là khách tăng [từ xa đến]. Chư tăng các chùa khác [nghe tiếng chuông] truyền nhau hưởng ứng, [cùng đánh chuông lên]. Vua nghe [tiếng chuông] sai người tra cứu, không tìm được ai là người đánh chuông trước. Khi tìm đến ngôi chùa ấy, mọi người đều chỉ ngài Đề-bà. Ngài Đề-bà nói: “Đánh chuông là để triệu tập chúng tăng, nếu có chuông mà không dùng thì treo lên làm gì?”
After entering the city and having cast away the straw, he put on his religious robe and came to this monastery to ask for lodging, but as he had no acquaintance there no one would provide him with a room. So he spent the night on the terrace of the bell and early next morning he struck the bell loudly. When the monks heard the sound of the bell they came out to see and found that the traveling monk [had struck the bell], as the other monasteries did the same in response to the call of this monastery. The king, having heard the sound, inquired into the matter but could not find out who was the first to strike the bell. When the king’s man came to the monastery the monks pointed out Deva, who said, “A bell is sounded for assembling the monks. If you do not strike it what is the use of hanging it there?”
Người của vua đáp rằng: “Trước đây tăng chúng tranh luận bị thua, cho nên cấm không được đánh chuông, cũng đã 12 năm rồi.”
The king’s man said, “Formerly the monks were defeated in a debate, so twelve years ago a rale was laid down to prohibit them from striking the bell.”
Bồ Tát Đề-bà nói: “Có việc ấy sao? Vậy hôm nay ta sẽ làm vang lại tiếng trống Pháp.”
Deva said, “Is that so? I wish to beat the drum of the Dharma again today.”
Sứ giả về báo lên vua rằng: “Có vị sa-môn lạ muốn rửa sạch mối nhục trước đây.”
The messenger reported to the king, saying, “A foreign sramana wishes to avenge a former shame.”
Nhà vua liền triệu tập các học giả [của ngoại đạo và Phật giáo], định ra quy chế rằng: “Nếu tranh luận thất lý, không bảo vệ được tông chỉ đưa ra thì phải lấy cái chết để tạ lỗi.”
The king then summoned the scholars and made a rule that one who loses an argument should pay with his life for the failure.
Liền đó, [các luận sư] ngoại đạo tranh nhau giương cờ gióng trống, xôn xao đưa ra các nghĩa lý khác nhau, mỗi người đều cố phô bày sự uyên bác của mình. Bồ Tát Đề-bà sau khi lên tòa ngồi để tranh luận, liền lắng nghe những gì họ nói trước, rồi mới tùy theo ý nghĩa để phân tích, bác bỏ. Chưa được 12 ngày thì phá trừ hết mọi luận thuyết của ngoại đạo.
Then the heretics displayed their flags, set out their drums, and boisterously talked on different theories, showing off their talent for eloquence. Having sat on the seat of discussion, Deva listened to their disputations and, aiming at their different views, he refuted them through analysis. In less than twelve days he vanquished all the heretics,
Đức vua và các vị đại thần ai ai cũng mừng vui hoan hỷ, liền cho xây dựng ngọn tháp này để biểu dương tài đức cao tột [của ngài Đề-bà].
to the delight of the king and his ministers, who built this spiritual stupa in memory of Deva’s supreme virtue.
Phía bắc tháp Đánh chuông có một nền nhà cũ, trước đây là chỗ ở của ông bà-la-môn hùng biện dựa vào quỷ mỵ.
To the north of Bell Striking Stupa is the old site of the dwelling place of the demon-eloquent brahman.
Thuở xưa, trong thành này có một ông bà-la-môn, dựng nhà tranh ở chỗ đầm hoang, chẳng giao tiếp gì với người đời, tế quỷ cầu phúc, cùng nương dựa với loài yêu quái. Ông có tài tranh luận cao thâm, biện biệt chặt chẽ, lời lẽ hay lạ thanh cao. Nếu có người đặt vấn đề tranh biện, liền buông rèm che rồi mới tranh biện. Học giả kỳ cựu cho đến những bậc tài cao đều không ai hơn được ông. Mọi người đều đồng lòng xem ông như bậc thánh.
Formerly there was a brahman of the city [of Pataliputra] who lived in a thatched hut in a desolate place, dissociating himself from the world. He worshiped demons to beseech them for blessedness and he conversed with evil spirits. He had brilliant ideas, talked volubly, and answered questions with elegant words. Whenever people held a heated debate with him he always retorted from behind a curtain. None of the learned scholars with high talent could excel him and the common people unanimously respected him as a saint.
Lúc bấy giờ có Bồ Tát A-thấp-phược-cũ-sa, trí tuệ trùm khắp, giáo lý thông suốt Ba thừa, có lần nói với mọi người rằng: “Ông bà-la-môn ấy, học vấn không có thầy truyền thụ, tài nghệ chẳng có căn cứ nào, sống nơi vắng vẻ mà danh tiếng một mình cao tột. Nếu không phải quỷ thần nương dựa, yêu mỵ bám theo, thì làm sao có thể được như vậy? Thường những kẻ biện luận mà do quỷ mớm lời thì khi nói chuyện không thể nhìn người khác, mà lời nói ra [người khác] đã nghe rồi thì không thể nhắc lại. Nay ta phải đến đó quan sát hành vi cử chỉ ông ấy xem thế nào.”
There was a bodhisattva named Asvaghosa (known as Maming, “Horse-neighing,” in Chinese), whose wisdom comprehended everything and whose way extended to the three vehicles. He often remarked on the matter, saying, “This brahman has no teacher to teach him and his arts are groundless and without ancient basis. He lives in seclusion, enjoying great renown all by himself. How could he be what he is unless he depends on deities and ghosts and is obsessed with evil spirits? One whose ability of eloquence is endowed 913b by a demon cannot speak face to face with another person and he cannot reiterate what he has said once. I must go there and see how he will behave.”
Sau đó, ngài Mã Minh liền đi đến lều tranh [của ông bà-la-môn] mà nói rằng: “Tôi kính nguỡng tài đức của ngài đã lâu, xin ngài vén rèm lên để tôi được đối diện tỏ bày chí hướng.”
So he went to the [brahman’s] hut and said to him, “I have heard of your great fame with admiration for quite a long time. I hope you will lift the curtain so that I may express what is on my mind.”
Nhưng ông bà-la-môn vẫn cao ngạo ngồi yên phía sau bức rèm mà nói chuyện, nhất định không chịu đối mặt. Ngài Mã Minh trong lòng đã biết được [đây là] loài quỷ mỵ, vốn rất cao ngạo, liền cáo từ ra về, nói với mọi người rằng: “Ta đã biết được rồi! Nhất định sẽ đánh bại ông ta.”
The brahman remained arrogant, talking from behind his curtain, and would not speak face to face [with his visitor]. Asvaghosa realized that it was the demon who was so self-conceited. After the conversation ended he left and told the people, “I have come to know what is what and I am sure to defeat him.”
Ngài liền đến tâu lên nhà vua: “Xin đại vương cho phép một cuộc tranh luận so tài giữa tôi với vị bà-la-môn kia.”
Then he went to see the king and asked for permission to hold a sharp debate with the hermit.
Nhà vua nghe qua kinh hãi nói rằng: “Thầy chưa biết người ấy sao! Nếu thầy chưa chứng tam minh và có đủ lục thông, làm sao có thể tranh luận với người ấy?”
The king was surprised to hear this and said, “What sort of man are you? Unless you have gained the three clear insights or obtained the six supernatural powers, how could you contest with him?”
Nhà vua liền xa giá đích thân đến xem và giám sát cuộc tranh luận. Lúc bấy giờ, ngài Mã Minh liền luận giải những lời vi diệu trong Tam tạng, thuật rõ những ý nghĩa quan trọng của ngũ minh, lời lẽ dọc ngang cùng khắp, phân biện rõ ràng, luận giải cao xa mạch lạc.
Nevertheless, he ordered that his carriage be prepared and went in person to see the details of the controversy.
At that time Asvaghosa Bodhisattva discussed the subtle words of the Tripitaka and elucidated the general meanings of the five branches of knowledge. He talked eloquently and with great ease and his brilliant views were lucid and far-sighted.
Đến phiên ông bà-la-môn giảng thuật xong, Bồ Tát Mã Minh nói: “Ông nói sai lệch không đúng vấn đề tôi nêu ra, xin ông nhắc lại.”
After the brahman had stated his opinion, Asvaghosa said, “In your statement you lost the gist of my argument. Please repeat what you have said.”
Lúc đó bà-la-môn ngậm miệng không nói được gì. Bồ Tát Mã Minh quát lên: “Sao ông không trả lời tôi? Những điều ông nói như vậy đều là do quỷ mỵ mớm lời.”
The brahman remained silent and became tongue-tied, however. Asvaghosa rebuked him, saying, “Why do you not resolve my interrogation? The demon you serve should hasten to give you words.”
Ngài liền nhanh tay vén bức rèm che, nhìn vào để xem yêu quái. Bà-la-môn kinh sợ la lên: “Dừng lại, dừng lại!”
While saying this he hurriedly lifted the curtain, trying to get a look at the demon, but the brahman said in a flustered and fearful manner, “Stop! Stop!”
Ngài Mã Minh lùi lại nói rằng: “Sáng hôm nay người này đã mất hết danh tiếng rồi. Đây đích thật là: hư danh không thể tồn tại được lâu.”
Asvaghosa withdrew and remarked, “That fellow has lost his fame this morning. As the saying goes, false fame cannot last long.”
Nhà vua nói: “Nếu không phải bậc đại đức như ngài, thật không ai có thể thấy biết được kẻ tà đạo này. Trí tuệ sáng suốt phân biệt của ngài, quả thật soi sáng thêm người trước, người sau khó theo kịp. Nước ta đã có quy định từ xưa nay, phải biểu dương những bậc tài năng chân thật.”
The king said, “If not for your great virtue, who could have seen through his sinister fraudulence? According to the regular tradition of the country someone who has an unprecedented and unique capability of discernment should be commended for his perspicacity.”
Từ góc thành đi về phía tây nam, cách hơn 65 km có di tích của một ngôi chùa cổ, bên cạnh có ngọn tháp là di tích nơi bốn vị Phật quá khứ tọa thiền và kinh hành, thỉnh thoảng có hào quang tỏa sáng, đôi khi còn hiển thị điềm lành, dân chúng khắp gần xa đều đến đây cầu nguyện.
More than two hundred li away from the southwest comer of the city there are the remnant foundations of a monastery, beside which is a stupa that often issues a divine light and manifests spiritual signs. People come here from far and near to say prayers. This was a site where the four past buddhas sat and walked up and down in ancient times.
Từ [di tích] ngôi chùa cổ đi về hướng tây nam hơn 32 km thì đến chùa Đê-la-thích-ca. Kiến trúc chùa có ba tầng, chia ra làm bốn khu vực. Đài cao khoảng 7-8 mét, có hai lớp cửa luôn mở rộng. Chùa này do người cháu nhiều đời của vua Tần-tỳ-sa-la xây dựng. Nơi đây đã chiêu tập được nhiều bậc cao tăng thạc đức, những học giả từ xứ khác, những bậc tài cao học rộng, danh tiếng lẫy lừng từ phương xa. Từng đoàn từng đoàn, họ tiếp nối đi đến đây rồi ở lại cùng nhau tu học. Tăng sĩ lên đến hàng ngàn vị, tất cả đều tu tập theo Đại thừa.
Going southwest for more than one hundred li from the old monastery, I reached Tiladhaka Monastery. It consists of four courts, three-storied pavilions, lofty terraces, and gates that open wide, leading from one to another. All of these were built by the last descendant of King Bimbisara. He selectively invited people of high talent and widely summoned those of great virtue. Scholars of foreign countries and wise people from distant lands, one after another, came in groups of the same caliber and stayed [in this monastery]. There are thousands of monks, all of whom study Mahayana teachings.
Từ cổng giữa đi thẳng vào có ba ngôi tinh xá, bên trên trang trí hình luân tướng bằng đồng, có treo những quả chuông lắc, bên dưới là kiến trúc nhiều tầng tiếp nối, có lan can bao quanh bốn phía, các song cửa sổ và bậc thềm đều được mạ bằng đồng vàng sáng loáng, xinh đẹp nghiêm trang. Ngay giữa tinh xá là tượng Phật đứng, cao đến 10 mét, bên trái có tượng Bồ Tát Đa-la, bên phải có tượng Bồ Tát Quán Tự Tại. Cả ba tượng đều đúc bằng thâu thạch (hợp kim đồng), thần thái uy nghi, nghiêm trang huyền diệu, sự linh ứng hết sức sâu xa.
At the end of the path, facing the middle gate, are three shrines that are adorned with wheel signs on the roofs and have bells and chimes suspended in the air. On the terrace below there are spacious balustrades all around. The doors, windows, beams, outer walls, and stairs are embellished with gilt or copper ornaments in relief. In the middle shrine there is a standing statue of the Buddha, thirty feet in height, while in the left one is a statue of Tara Bodhisattva and in the right one a statue of Avalokitesvara Bodhisattva. All three stafties, cast in brass, are austere in appearance and spread far-reaching divine precepts.
Trong ba tinh xá này, mỗi nơi đều có một thăng xá-lợi Phật, thường có khi tỏa ánh sáng linh diệu, thỉnh thoảng lại có điềm lành hiện.
In each of the three shrines there is one sheng of [the Buddha’s] relic bones, which sometimes emit a divine light and show signs of unusual auspiciousness from time to time.
Từ chùa Đê-la-thích-ca đi về hướng tây nam khoảng 30 km thì đến một ngọn núi lớn, mây mù giăng phủ quanh đá núi vút cao, u tịch ẩn khuất, dường như chốn thần tiên cư ngụ. Nơi đây có nhiều rắn độc, rồng dữ làm hang ẩn trú nơi đầm sâu, cùng các loài chim dữ, thú bạo luôn lẩn khuất trong rừng rậm. Trên đỉnh núi có một tảng đá lớn bằng phẳng, bên trên xây lên một ngọn tháp cao khoảng 4 mét, là nơi ngày xưa đức Phật nhập định.
At a distance of over ninety li to the southwest of Tiladhaka Monastery I reached a great mountain where spirits and immortals dwell among the dense clouds and rocks lie in seclusion, venomous snakes and violent dragons lurk in the hollows of the marshes, fierce animals hide in the woods, and birds of prey perch on the trees. On the summit of the mountain is a large flat rock on which is built a stupa over ten feet high. This was a place where the Buddha once sat in samadhi.
Thuở xưa, đức Như Lai từng giáng hạ nơi đây, ngồi trên tảng đá này nhập định Diệt tận trải qua một đêm. Chư thiên, thần linh đến cúng dường đức Như Lai, cử nhạc trời, mưa xuống hoa trời. Lúc Như Lai xuất định [rời đi], chư thiên xúc cảm luyến mộ, dùng vàng bạc trân bảo xây nên ngọn tháp này. Sau khi Đại Thánh Như Lai tịch diệt một thời gian lâu thì trân bảo đều hóa thành đá. Từ xưa đến nay, con người chưa ai lên được đến đây, chỉ ở từ xa nguớc nhìn lên núi cao, thấy nhiều loài thú, rắn và mãnh thú tụ tập thành bầy đi nhiễu quanh tháp, chư thiên, chư thần linh cùng nhau xưng tán lễ bái.
Formerly the Tathagata once came here through supernatural power and sat on this rock in the samadhi of complete cessation for an entire night. The devas, spiritual beings, and saints made offerings to him, performed celestial music, and heavenly flowers rained down. After the Tathagata had emerged from the state of samadhi the heavenly beings, out of feelings of respect and admiration, constructed a stupa with gems, gold, and silver, but over the course of time the precious substances have turned into stone. Since ancient times nobody has ever visited the stupa. Looking from afar at the high mountain one can see strange beings, long snakes, and fierce animals circumambulating to the right around the stupa, and devas, immortals, spirits, and saints coming one after another to sing praise.
Sườn núi phía đông có một ngọn tháp, là nơi ngày xưa đức Như Lai đã dừng lại khá lâu để nhìn về trong nước Ma-yết-đà.
On a hillock to the east of the mountain is a stupa built at the place where the Tathagata once walked and stopped to look back at the country of Magadha.
Về hướng tây bắc của núi lớn, đi khoảng 10 km có một ngôi chùa nằm ven sườn núi, dựa lưng vào núi, nền móng cao rộng, lầu gác vươn cao lên bên ven núi. Chùa có hơn 50 vị tăng sĩ, đều tu tập theo giáo pháp Đại thừa. Chùa này là nơi ngày xưa Bồ Tát Cù-na-mạt-để hàng phục ngoại đạo.
At a spur of a hill over thirty li to the northwest of the mountain there is a monastery built on an elevated place backed by a ridge, with lofty pavilions excavated on the precipices. There are more than fifty monks, all of whom study the Mahayana teachings. This was the place where Gunamati (known as Dehui, “Virtue-wisdom,” in Chinese) Bodhisattva subdued the heretics.
Thuở ấy, trong núi này có ngoại đạo tên là Ma-đạp-bà (Madhava), noi theo giáo thuyết Tăng-khư (Samkhya) mà tu tập hành đạo. Vị này có học thức thông suốt cả nội điển và ngoại điển, lập luận đạt đến chỗ tột cùng của hai lẽ có, không, danh tiếng ít người theo kịp, là bậc tài đức được kính trọng đương thời. Đức vua quý trọng tôn kính, xem ông như báu vật của quốc gia, dân chúng đều kính nguỡng, luôn xem là bậc thầy của mình. Học nhân ở các nước láng giềng tin theo và kính ngưỡng đức độ, tụ họp thành đoàn kéo nhau đến học. Ông quả thật là người uyên bác thông đạt. Đức vua phong cho ông hai thành để làm thực ấp.
There was once on this mountain a brahman named Madhava, who was a follower of the theories of the Samkhya school and practiced the same accordingly. He was an expert in both Buddhist and heretical doctrines and could speak well on the principles of nonexistence and existence. His fame excelled that of his predecessors and his virtue won the respect of his con-temporaries. The king esteemed him as national treasure and the ministers and common people honored him as their personal teacher. Scholars of neighboring countries accepted his style of learning, respected him for his virtue, and regarded him as a pioneer. He was indeed a learned and erudite man. He lived on the fief of two cities in an abode surrounded by feudal lands.
Lúc bấy giờ, ở miền Nam Ấn có Bồ Tát Đức Tuệ, từ nhỏ đã thông minh mẫn tiệp, sớm thông đạt lý lẽ tinh vi, học thông Tam tạng, thấu triệt giáo lý Tứ đế. Khi nghe Ma-đạp-bà biện luận đến chỗ cực kỳ thâm sâu tinh tế [giáo thuyết ngoại đạo] nên muốn biện bác, liền sai học trò mang thư đến nói rằng: “Kính vấn an ngài Ma-đạp-bà luôn được an vui. [Nay xin báo trước với ngài là] tôi sẽ không nề lao nhọc khó khăn, tinh tấn học tập học thuật người xưa, sau ba năm sẽ phá tan danh tiếng của ngài.”
At that time Gunamati Bodhisattva of South India had been a person of intelligence since his childhood. He was exquisite in learning in his early days, had thoroughly mastered the Tripitaka, and perfectly understood the Four Noble Truths. When he heard that Madhava’s theories were most profound and abstruse he decided to frustrate his vainglory. He sent a disciple to the brahman with the following message, “I respectfully inquire after Madhava’s health and hope you are living in peace and happiness. It befits you to forget about fatigue and make a good review of your past learning. In three years I shall put an end to your good repute.”
Sang năm thứ hai rồi thứ ba, mỗi năm đều sai người mang thư báo trước như vậy. Đến lúc sắp sửa lên đường [tìm đến] lại viết thêm một lá thư nói rằng: “Năm nay kỳ hạn đã đến, việc học của ngài thế nào rồi? Nay tôi sẽ tìm đến, ngài nên biết trước như vậy.”
In the second and third years he repeated the message to the brahman. When he was about to start out on the journey [to see the brahman] he wrote another letter to him, saying, “The time is drawing to an end. How is the progress of your studies? You should know that I am coming soon.”
Ma-đạp-bà hết sức hoảng sợ lo lắng, liền bảo các môn nhân và người trong thành rằng: “Từ nay về sau không được cho sa-môn của đạo Phật ở trọ. Mọi người phải truyền bảo cho nhau đều biết [quy ước này], không được vi phạm.”
Greatly worried and afraid, Madhava warned his disciples and feudal tenants that from then on they should not take in any sramana or heathen, and he told them to pass the notice to all others and to not infringe the admonition.
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Đức Tuệ chống tích trượng đi đến, vào thành của Ma-đạp-bà. Người trong thành vâng theo quy ước, không cho ở trọ. Những người bà-la-môn còn nặng lời mắng chửi nói rằng: “Bọn cạo tóc, ăn mặc khác biệt, tại sao các người phải khác với mọi người? Nên đuổi đi cho nhanh, đừng cho ở đây.”
At that time Gunamati Bodhisattva came with his pewter staff to of Madhava’s fief but the tenants, in keeping with the prearrangement, refused to give him lodging. The brahman reproached him, saying, “With a tonsured poll and dressed in a unusual costume, what a strange figure you are! It befits you to go away quickly and not stay here!”
Bồ Tát Đức Tuệ vì muốn phá trừ ngoại đạo, đang cần ở trọ lại trong thành, nên khởi tâm từ, hạ mình nói rằng: “Các vị tu hành thanh tịnh theo chân lý thế gian, còn ta tu hành thanh tịnh theo chân lý thắng nghĩa. Hai bên đều tu hành thanh tịnh như nhau, sao lại chống đối nhau?”
Gunamati wished to defeat the brahman and desired to stay in the latter’s feudal land, so he said in polite language with a mind of compassion, “You people are pure ascetics following the worldly truth, while I am a pure ascetic practicing the superior truth. Since we all are pure ascetics, why do you reject me?”
Bọn bà-la-môn không nói được nữa, xua đuổi ngài ra khỏi thành, phải đi vào rừng rậm. Trong rừng này có nhiều thú dữ, đi từng bầy rất hung bạo. Có một cư sĩ, vì sợ thú dữ hại ngài liền lấy một bó cỏ khô [đốt lên] và cầm gậy đi đến nói rằng: “Miền Nam Ấn có Bồ Tát Đức Tuệ từ xa đã đưa tin báo trước sẽ đến đây tranh luận, vì vậy nên chủ nhân thành này sợ mất thanh danh, liền đặt thêm quy chế nghiêm ngặt, cấm không cho chứa chấp sa-môn trong thành. Tôi sợ ngài bị thú dữ làm hại nên đến đây cùng đưa ngài đi. Mong ngài đi đường được an ổn, đừng lo nghĩ chuyện gì khác.”
The brahman would not speak with him but instead drove him away. Having been driven out of the feudal land Gunamati entered a great forest in which packs of fierce animals wrought havoc.
A pure believer, fearing that Gunamati might be hurt by the animals, came with a torch and a staff in hand and said to the bodhisattva, “A Gunamati Bodhisattva of South India whose fame has spread far is coming to hold a debate. Thus the lord of the fief, fearing that his good name might be lost in the polemic, issued a strict order to his people to not give overnight lodging to any sramana. Fearing that he may be harmed by wild animals, I have come here to help him. He may go his way in safety without worry.”
Bồ Tát Đức Tuệ liền đáp: “Nói thật cho ông biết, chính ta là Đức Tuệ.”
Gunamati said, “I must tell you, pure believer, that I am Gunamati.”
Người cư sĩ nghe như vậy rồi càng thêm cung kính hơn nữa, thưa rằng: “Nếu quả đúng vậy, ngài nên gấp rút đi khỏi nơi đây.”
Having heard these words the pure believer showed still deeper respect to Gunamati and said to him, “If that is the case, you should quickly leave here.”
Hai người ra khỏi khu rừng rậm và dừng nghỉ nơi đồng trống. Người cư sĩ đốt lửa, mang cung tên canh phòng chung quanh cho đến qua đêm, rồi thưa với ngài Đức Tuệ: “Bây giờ ngài có thể đi ngay được rồi, ở lại đây e rằng có người biết được sẽ đến mưu hại.”
So they came out of the dense forest and halted in an open marshland, where the pure believer built a fire. Holding a bow in his hand he walked all around. When the night had passed he said to Gunamati, “You should go now, lest people get wind of you and come to injure you.”
Bồ Tát Đức Tuệ liền từ biệt, nói rằng: “Thật không dám quên công đức của ông.”
Gunamati said with thanks, “I will never forget your kindness.”
Sau đó lập tức lên đường, tìm đến cung vua, nói với người giữ cửa rằng: “Có sa-môn từ xa tìm đến, xin nhà vua cho phép tranh luận cùng Ma-đạp-bà.”
He then went to the palace and said to the gatekeeper, “Asramana coming from a great distance wishes to obtain the permission of the king to hold a debate with Madhava.”
Vua nghe qua kinh ngạc, nói: “Người này thật ngông cuồng.”
Having heard this announcement, the king was amazed and said, “This man must be crazy!”
Liền sai sứ đến chỗ Ma-đạp-bà truyền đạt ý chỉ của vua: “Có vị sa-môn lạ đến đây muốn tranh luận [cùng ngài], nay trẫm đã cho dọn dẹp sạch sẽ luận trường và thông báo khắp xa gần đều biết, mọi người đang chờ đợi, xin ngài đến ngay.”
Then he ordered a messenger to go to the place of Madhava to declare his edict, saying, “A strange sramana has come and begged to hold a debate [with you]. The ground for the argumentation has been swept clean and an announcement has been sent out far and near. I hope you will kindly attend the meeting with your gracious presence.”
Ma-đạp-bà hỏi sứ giả: “Có phải là luận sư Đức Tuệ ở Nam Ấn không?”
Madhava asked the messenger, “Is the man the sastra master Gunamati of South India?”
Sứ giả đáp: “Đúng vậy.”
The messenger said, “Yes.”
Ma-đạp-bà nghe vậy hết sức không vui, nhưng không thể từ chối nên phải đi đến luận trường. Nhà vua cùng các quan đại thần, dân chúng, các danh gia vọng tộc đều đã tụ họp, mong muốn được nghe cuộc đàm luận tranh biện giữa hai bậc cao nhân.
Madhava was greatly displeased to hear this but he could not decline the invitation, so he went to the venue of contention. The king and his ministers, as well as scholars, common people, and nobles, gathered at the meeting, wishing to listen to the learned discussion.
Trước tiên, Bồ Tát Đức Tuệ nêu lên tông chỉ ý nghĩa [luận thuyết] của mình. [Ngài trình bày cho đến] khi trời sắp tối thì Ma-đạp-bà viện lý do tuổi già, trí óc đã chậm lụt không thể ứng đáp nhanh, xin được về nhà yên tĩnh suy nghĩ rồi sẽ quay lại trả lời.
Gunamati put forward his proposition first, but up until sunset Madhava refused to offer a retort, on the excuse that because of his his advanced age he could not give a prompt reply but had to leave and quietly ponder the question before returning to give his refutation.
Như thế, cứ mỗi lần vấn đề tranh luận được [ngài Đức Tuệ] nêu ra, Ma-đạp-bà đều nói để về [suy nghĩ rồi sẽ trả lời], nhưng đến sáng hôm sau lên tòa ngồi tranh luận thì không đưa ra được lý lẽ nào khác, cho đến ngày thứ sáu [thì khi về nhà] thổ huyết mà chết. Trước khi chết nói với vợ rằng: “Bà có tài luận thuyết cao, đừng quên mối nhục này.”
For every new point [raised by his opponent] he always said that he must leave before making a reply. The next morning, after he had taken his seat in the discussion, he could not utter a word in refutation and on the sixth day he died, vomiting blood. On his deathbed he said to his wife, “You are a woman of great talent and you must not forget the shame I have suffered.”
[Do vậy,] Ma-đạp-bà đã chết nhưng [người vợ giấu kín] không phát tang, lại mặc y phục nghiêm trang đẹp đẽ đi đến chỗ tranh luận. Mọi người thấy vậy đều bàn tán xôn xao, nói rằng: “Ma-đạp-bà nghĩ mình là người tài cao, thấy xấu hổ khi tranh luận với ông Đức Tuệ này nên cho vợ đến thay thế. Như vậy thì ai hơn ai kém đã rõ ràng rồi.”
Madhava’s death was kept 914b secret and his wife, attired in gorgeous dress, came to the meeting. The people in the assembly made a hubbub and said among themselves, “Madhava is self-conceited and is too shy to face Gunamati, so he has sent his wife to come to the meeting. It is apparent who is superior and who is inferior.”
[Khi ấy,] Bồ Tát Đức Tuệ liền nói với người vợ Ma-đạp-bà: “Người có thể chế ngự được bà đã bị ta chế ngự rồi.”
Gunamati Bodhisattva said to Madhava’s wife, “The one who can subjugate you has been subjugated by me.”
Người vợ của Ma-đạp-bà [nghe như vậy] biết là khó thắng [ngài Đức Tuệ] nên [lặng lẽ] thối lui.
The woman then beat a hasty retreat in the face of these difficulties.
Nhà vua [chứng kiến sự việc, liền] hỏi: “Câu nói của ngài có ý nghĩa ẩn mật gì mà khiến cho bà ấy phải lặng lẽ rút lui như thế?”
The king said [to Gunamati], “What secret words did you say that made the woman go away in silence?”
Bồ Tát Đức Tuệ nói: “Đáng thương thay! Ma-đạp-bà đã chết rồi. Bà vợ ông ấy muốn đến đây tranh luận với tôi.”
Gunamati said, “What a pity! Madhava is dead! His wife came with the intention of holding the debate with me.”
Vua hỏi: “Làm sao ngài biết? Xin giải thích cho ta được rõ.”
The king said, “How do you know this? Please tell me.”
Ngài Đức Tuệ đáp: “Khi vợ ông ấy đến đây, sắc diện đầy vẻ tang tóc, lời nói thì nghe thanh âm ai oán, do vậy mà biết là Ma-đạp-bà đã chết. Tôi nói ‘người có thể chế ngự được bà’ là ý muốn nói đến chồng bà ấy.”
Gunamati said in reply, “When she came she had a sorrowfill look of mourning and her voice betrayed her feelings of grief and sadness. That is how I knew that Madhava had died. By saying ‘the one who can subjugate you,’ I was referring to her husband.”
Vua sai người đi xem thì thấy quả đúng như vậy. Đức vua tự thấy hối tiếc nói rằng: “Phật pháp thật huyền diệu, luôn có các bậc tài đức kế thừa không dứt, gìn giữ đạo vô vi, sinh linh đều được nhờ ơn giáo hóa. Nay y theo điển chế quốc gia từ trước, trẫm xin mãi mãi tán dương thánh đức.”
The king then sent someone to see what had happened and he found that the situation was just as had been described. The king said in self-reproach, “The buddha-dharma is abstruse and wonderful and has brilliant sages coming forth in succession; nonaction is the way that benefits living beings. According to the original institutions and regulations of our country, I shall praise and honor people of virtue in the usual manner.”
Bồ Tát Đức Tuệ nói: “Tôi vốn ngu muội, chỉ biết nương theo Chánh đạo, sống trong sạch [theo giới luật], luôn giữ tâm chân chánh biết đủ, biện luận chỉ là để làm lợi ích muôn loài. Cho nên muốn dẫn dắt [kẻ sai đường], trước tiên phải bẻ gãy sự kiêu ngạo khinh mạn của họ, sau đó mới dùng phương tiện nhiếp hóa, mà nay chính là thời điểm thích hợp đó. Xin đại vương hãy đem những thành ấp và dân cư đã phong Ma-đạp-bà chuyển sang đời đời con cháu truyền nối đều sung vào làm người phụ việc công quả cho chùa chiền, đó chính là lưu lại cho đời sau một bài học răn dạy, tốt đẹp vô cùng. Riêng với người cư sĩ đã theo giúp đỡ bảo vệ tôi, xin cho được hưởng phúc ở đời, chuyện ăn mặc, vật dụng [đều được chu cấp] giống như chư tăng, nhằm khuyến khích những kẻ có lòng tin trong sạch cũng như xưng tán tuyên dương công đức đó.”
Gunamati said, “Stupid as I am, I practice the Way and abide by chastity; I observe the precepts of contentment and self-restraint and study the means to help others. Whenever I attempt to induce someone [to the right path] I always first suppress his arrogance and then convert him in an appropriate way. Now it is time for me to request Your Majesty to assign all the tenants of Madhava’s fiefs to become [monks] in the monastery for innumerable generations, so as to leave an example for people in the future and transmit the fame of these good deeds forever. As for the pure believer who gave me protection, I hope he will live blissfully in the world and enjoy the same provisions that are given to the monks, in order to persuade people to have pure faith, as well as to exalt his profound goodness.”
[Nhà vua chuẩn thuận đề nghị của ngài Đức Tuệ,] sau đó còn cho xây dựng ngôi chùa này để ghi nhớ và biểu dương công tích của ngài.
Thus this monastery was constructed for the glorification of this superior event.
Thuở ấy, sau khi Ma-đạp-bà tranh luận thất bại, có khoảng mười mấy người tín đồ [ngoại đạo] bỏ đi sang nước láng giềng, báo cho các ngoại đạo [ở đó] biết về sự sỉ nhục này, rồi chiêu mộ những người tài giỏi, tìm đến [ngài Đức Tuệ] để rửa mối nhục trước.
When Madhava was first vanguished in the debate, dozens of brahmans fled to take refuge in a neighboring country, and they informed the brahmans of that land about the shameful affair. They recruited brilliant scholars and returned home to seek vengeance for the former insult.
Khi ấy, đức vua đã hết sức trân quý kính trọng ngài Đức Tuệ nên đích thân đến thưa rằng: “Nay những người ngoại đạo không tự luợng sức, liên kết cùng nhau, dám khua trống đòi tranh luận [với ngài]. Xin đại sư [lên tiếng] phá trừ ngoại đạo.”
As the king respected Gunamati, he went in person to invite the latter, saying, “Some heretics who overrate their own abilities have organized a party, formed cliques, and ventured to sound the drum to demand that a debate be held. I hope that you, Venerable Sir, will crush these heretics.”
Ngài Đức Tuệ nói: “Xin nhà vua cứ triệu tập những người muốn tranh luận.”
Gunamati said, “The debaters may be called to an assembly.”
Liền đó, những người ngoại đạo [nghe tin ngài Đức Tuệ chịu đến tranh luận] đều vui mừng khích lệ nhau: “Chúng ta hôm nay nhất định sẽ thắng.”
The heretical scholars were delighted to hear this and said among themselves in consolation, “We shall certainly win the case today!”
Lúc bấy giờ, [sau khi] những người ngoại đạo trình bày nêu cao nghĩa lý, lập luận của họ, Bồ Tát Đức Tuệ nói: “Những người ngoại đạo này đã từng trốn đi phương xa, theo như quy chế nhà vua đã đặt ra trước đây thì đều bị xem là hèn hạ, ti tiện. Sao ta có thể cùng những người [hèn hạ] như vậy tranh luận được?”
Then the heretics expounded their theoretical principles. Gunamati Bodhisattva said, “These heretics here have taken refuge in a distant land and, according to the king’s former ordinance, they have become contemptible. How can I debate with them face to face?”
Bồ Tát Đức Tuệ có một đứa trẻ thường đi theo giúp mang tọa cụ, vốn từng [theo Bồ Tát] được nghe nhiều luận thuyết ngoại đạo, hết sức quen thuộc với những yếu chỉ tinh vi, nên thường đứng hầu bên cạnh để nghe những luận thuyết cao minh. [Khi ấy], Bồ Tát Đức Tuệ vỗ tòa ngồi, quay sang nói với đứa trẻ mang tọa cụ: “Con có thể tranh luận [với họ].”
At that time Gunamati had a page to serve him as a seat carrier, and that man often heard his master’s supererogatory disputations and had become adept in discussing the gist of subtle teachings. As he stood by the side of his master, listening to his eloquent talk, Gunamati clapped his seat and said, “Seat carrier, you may debate with them.”
Bọn ngoại đạo đều kinh hãi, hết sức lạ lùng với mệnh lệnh này. Khi ấy, đứa trẻ mang tọa cụ liền bắt đầu nêu vấn đề, ý nghĩa thâm sâu tuôn tràn như suối chảy, lý lẽ biện bác chính xác đi vào từng điểm tương ứng như tiếng vang dội lại. Chỉ sau ba vòng tranh biện thì ngoại đạo đuối lý, mất tông chỉ. Một lần nữa luận thuyết của họ lại bị bẻ gãy, vây cánh lại bị chặt bỏ. Từ lần tranh luận thất bại này về sau, [các ngoại đạo này] phải trở thành dân [phục vụ] trong thành ấp của nhà chùa.
All the people in the assembly were surprised by this. The page then began to raise questions. His words of deep meaning flowed like a spring and his clear eloquence echoed in the air. In three rounds the heretics were vanquished in the disputation, the sharpness of their tongues blunted and the shafts of the fletching of their arrows broken. Because they had been defeated in the 914c debate they were made feudal tenants of the monastery.
Từ chùa Đức Tuệ đi về hướng tây nam khoảng 6.5 km thì đến một ngọn núi nằm lẻ loi, nơi đây có một ngôi chùa, là nơi Luận sư Thi-la-bạt-đà-la đã thắng trong một cuộc tranh luận, được phong thành làm thực ấp và đã hiến xả [tất cả lợi tức] trong việc xây dựng chùa này. Ngọn núi nhỏ vút cao có hình dạng như một ngọn tháp, có an trí xá-lợi Phật [trên đó].
More than twenty li to the southwest of Gunamati Monastery is an isolated hill, with a monastery built by the sastra master Silabhadra (known as Jiexian, “Precept-virtue,” in Chinese) with the revenue of a city that was donated to him as a reward for a successful discussion. The shape of the isolated hill resembled a stupa for the preservation of the Buddha’s relics.
Luận sư là người thuộc hoàng tộc nước Tam-ma-đát-trá (Samatata), thuộc chủng tộc Bà-la-môn. Thuở nhỏ, luận sư là người hiếu học, có chí khí mạnh mẽ, đã đi khắp các nước vùng Ấn Độ để tìm cầu lẽ thật sáng suốt. Khi đến chùa Na-lạn-đà ở nước này, gặp Bồ Tát Hộ Pháp, nghe pháp khởi lòng tin và nhận hiểu được, liền xin xuất gia, suy ngẫm về trí tuệ rốt ráo, thưa hỏi về con đường giải thoát.
The sastra master, a brahman by caste, was the scion of the royal family of the country of Samatata. When he was young he was fond of learning and had a good character. He traveled to various parts of India in search of people of wisdom. When he came to Nalanda Monastery in this country he met with Dharmapala Bodhisattva, from whom he heard about the Dharma with faith and understanding, and under whose guidance he donned the dyed robe of a monk. He inquired into the consummate principles and sought the way of emancipation.
[Bồ Tát Hộ Pháp] đã thấu triệt chân lý, lại nghiên cứu thấu suốt những lời nhiệm mầu vi diệu [trong kinh điển], nên lúc bấy giờ nổi tiếng khắp nơi, vang xa đến cả những nước khác.
He mastered both the ultimate truth and the subtle theories. He was well known in his own time and his fame was high in foreign regions.
Bấy giờ, miền Nam Ấn có một ngoại đạo từng nghiên cứu đến những nghĩa lý cùng cực sâu xa, thấu triệt đến chỗ ẩn mật tinh tế, nghe danh tiếng của ngài Hộ Pháp liền khởi tâm kiêu mạn, hết sức ganh tỵ nên chẳng ngại núi sông cách trở, tìm đến đánh trống xin tranh luận, nói rằng: “Tôi là người Nam Ấn, được nghe trong nước của đại vương có một vị đại luận sư, tôi tuy không được sáng suốt lắm nhưng cũng xin được cùng vị ấy tranh biện cho rõ ràng.”
There was then in South India a heretic who sought into profound teachings and delved into what was kept secret, having a thorough comprehension of abstruse knowledge and a keen insight into subtle tenets. Hearing of Dharmapala’s high repute, he became deeply jealous and resentful. Despite the obstacles of mountains and rivers he came to beat the drum and demanded to hold a discussion with him. He said [to the king], “I am a man from South India. I have heard that in your kingdom there is a great scistra master. Although I am not clever I wish to have a full discussion with him.”
Nhà vua nói: “Đúng vậy, quả có [đại luận sư ở đây] như lời ông nói.”
The king said, “Yes, we have such a person, as you say.”
Vua liền sai sứ đến thỉnh ngài Hộ Pháp, nói rằng: “Có một ngoại đạo từ Nam Ấn, không nề xa xôi ngàn dặm, đến đây muốn cùng ngài tranh luận. Xin đại sư hạ mình quá bước, đến luận trường để cùng tranh luận.
Then he sent a messenger to invite Dharmapala, saying, “A heretic of South India has come from a distance of no less than one thousand li, wishing to hold a competitive discussion with you. I hope you will condescend to come to the debate ground.”
Ngài Hộ Pháp nghe xong liền xếp y chuẩn bị. Đệ tử là ngài Giới Hiền, nổi bật trong hàng hậu học, liền bước lên thưa hỏi: “Thầy định đi đâu gấp vậy?”
Having heard this message, Dharmapala tidied his robe and made ready to go. His disciple Silabhadra, an outstanding young man, stepped forward and said, “Why are you going in such a hurry?”
Ngài Hộ Pháp đáp: “Từ [Phật nhập diệt], mặt trời trí tuệ ẩn bóng đến nay, đèn Chánh pháp nối truyền vẫn lặng lẽ soi chiếu, nhưng nay ngoại đạo tụ họp nhiều như kiến, tà thuyết quấy nhiễu vo ve như ong, cho nên ta sẽ phá trừ luận thuyết của họ.”
Dharmapala said, “Since the Sun of Wisdom ceased to shine and the Lamp of Transmitting the Dharma became extinct, heretics have massed like ants and heterodox views have spread like wasps flying in swarms. Therefore I must go crush that debater.”
Ngài Giới Hiền thưa: “Con từng cung kính nghe qua phần nào [các luận thuyết], dám xin [thầy cho con] phá trừ luận thuyết ngoại đạo.”
Silabhadra said, “I have heard with respect your supererogatory discussions, with which I dare to defeat the heterodox follower.”
Ngài Hộ Pháp biết rõ tài trí của [Giới Hiền] nên liền chấp thuận. Lúc bấy giờ, ngài Giới Hiền chỉ mới 30 tuổi, tăng chúng đều xem nhẹ cho là còn ít tuổi, sợ khó một mình đảm nhận việc này. Ngài Hộ Pháp biết ý tăng chúng đều không thuận, liền giải thích rằng: “Điều thiết yếu là ở trí tuệ cao minh, không cần nói đến tuổi tác. Xét như hiện nay thì chắc chắn [Giới Hiền] có thể phá trừ được ngoại đạo.”
Knowing that he was a man of outstanding talent, Dharmapala gave his consent to the request. Sllabhadra was then just thirty years old and the assembly slighted him as being too young, fearing that it would be difficult for him to combat his opponent by himself. Knowing that the assembly was not content with the choice, Dharmapala said in explanation, “What is valued in a person is his good learning and intelligence, not his age. In view of the present situation [Sllabadhra] is sure to defeat the heretic.”
Đến ngày tập trung để tranh luận, mọi người xa gần đều rủ nhau kéo về, già trẻ cùng tụ họp, ngoại đạo [trình bày] mở rộng luận thuyết đến tận chỗ ẩn mật bí hiểm nhất. Ngài Giới Hiền theo đúng lý lẽ [ngoại đạo đưa ra], phân tích chỉ rõ những điểm sai trái, lời lẽ sâu xa cùng cực diệu huyền. Ngoại đạo đuối lý cạn lời, xấu hổ rút lui.”
On the day of the discussion young and old people coming from far and near gathered together. The heretic widely expounded his theories to the utmost extent, but Sllabhadra refuted him through reasoning in a most profound and abstruse way. Having exhausted his words, the heretic departed in shame.
Nhà vua muốn ban thưởng xứng đáng với công đức của ngài nên phong cho thành này làm thực ấp. Luận sư từ chối, nói rằng: “[Người xuất gia] đắp y hoại sắc, mọi sự tiêu dùng đều luôn biết đủ, tự giữ nếp sống thanh tịnh, đâu cần nhận phong ấp làm gì?”
As a reward for [Silabhadra’s] virtue the king wished to give him this city as a fief. The sastra master declined the offer, saying, “I am a monk dressed in the dyed robe, living in contentment and keeping myself in purity. What is the use of a fief for me?”
Nhà vua nói: “Đấng Pháp vương ẩn khuất, con thuyền trí tuệ [đang lúc] trầm luân, nếu không biểu dương [bậc trí đức] thì không lấy gì để khích lệ hàng hậu học sau này. Vì sự rộng truyền Chánh Pháp, xin ngài thương tưởng mà nhận cho.”
The king said, “The King of the Dharma has disappeared and the Ships of Wisdom have sunk, one after another. If there is no distinction [made to the worthy ones] how can we encourage scholars of the younger generation? In order to spread the right Dharma I hope you will kindly accept the gift.”
Luận sư từ chối không được nên phải thọ nhận phong ấp này, liền xây dựng một ngôi chùa, rồi vận dụng theo đúng quy cũ để đưa tất cả lợi tức từ thực ấp được phong vào cúng dường cho sự chi dụng của chư tăng.
Unable to decline the offer, sastra master Sllabhadra accepted the city as his fief. He constructed a monastery according to the regulations and provided daily necessities for the monks with the revenue from the city.
Từ ngôi chùa của ngài Giới Hiền đi về hướng tây nam khoảng 14-16 km, qua sông Ni-liên-thiền thì đến thành Già-da (Gaya), hết sức kiên cố hiểm trở. Dân cư rất ít, chỉ có khoảng hơn 1.000 gia đình bà-la-môn, là dòng dõi con cháu của đại tiên nhân nên không phải thần phục nhà vua, hết thảy mọi người đều tôn kính họ.
Going southwest for forty or fifty li from Sllabhadra Monastery, I crossed the Nairanjana River and reached the city of Gaya. This city is strongly built but only sparsely populated, having only some one thousand brahman families, the descendants of a great rsi. The king did not make them his subjects and the people honor them respectfully.
Cách thành này khoảng 10 km về hướng bắc, có một suối nước trong, người Ấn Độ tương truyền là nước thánh, uống vào sẽ tiêu trừ được tội lỗi nhơ nhớp.
More than thirty li to the north of the city is a clear spring, which is regarded in Indian tradition as holy water. [It is believed that] when one drinks the water or washes in it his or her sinful defilements are purified.
Phía tây nam thành, đi khoảng 1.5-2 km thì đến núi Già-da (Gaya), suối khe hang động âm u, núi cao nguy hiểm. Người Ấn Độ quen gọi là Linh sơn, từ xưa nay mỗi khi nhà vua nối ngôi đăng quang, hoặc viễn chinh thành công, hoặc đạt được thành tựu vượt hơn đời trước, đều lên đỉnh núi này để cáo bạch sự thành công của mình.
Five or six li to the southwest of the city is Gaya Mountain, with deep valleys and far-reaching streams among steep peaks and high cliffs. In India it is traditionally called Spiritual Mountain. Since ancient times whenever kings and monarchs ascended the throne, exerted influence on distant peoples, or excelled their predecessors in virtue, they all came to this mountain to make an announcement of their achievements.
Trên đỉnh núi có một ngọn tháp xây bằng đá, cao hơn 33 mét, do vua Vô Ưu xây dựng, tiềm ẩn sự linh thiêng soi xét, thỉnh thoảng có hào quang tỏa chiếu. Thuở xưa đức Như Lai đã thuyết giảng những kinh như kinh Bảo Vân ở nơi này.
On top of the mountain is a stone stupa more than one hundred feet high built by King Asoka. It has latent spiritual power and emits a divine light from time to time. This is the place where the Tathagata formerly preached the Ratnamegha-sutra and other scriptures.
Phía đông nam núi Già-da có một ngọn tháp, nơi đây là sinh quán của ngài Ca-diệp-ba. Từ đây nhìn về hướng nam lại có hai ngọn tháp, là nơi các ngài Già-da Ca-diệp-ba và Nại-địa Ca-diệp-ba thờ lửa [trước khi quy y Phật].
To the southeast of Gaya Mountain is a stupa built at the birthplace of Kasyapa, and to the south are two stupas built at the places where Gaya- Kasyapa and Nadi-Kasyapa worshiped fire.
Từ hai tháp này đi về hướng đông, qua con sông lớn thì đến núi Bát-la-cấp-bồ-đề.
At the place where Gaya-Kasyapa worshiped fire, crossing a big river to the east, one reaches Pragbodhi Mountain (known as Qianzhengjueshan, ‘‘Preenlightenment Mountain,” in Chinese, as the Tathagata ascended this mountain prior to his realization of perfect enlightenment).
Đức Như Lai sau sáu năm khổ nhọc tìm cầu vẫn chưa thành Chánh Giác, sau đó từ bỏ lối tu khổ hạnh, thị hiện thọ nhận bát cháo sữa, rồi đi từ hướng đông bắc, đưa mắt nhìn sang núi này, [thấy cảnh trí] vắng vẻ tĩnh mịch, muốn chứng thành Chánh Giác [ở nơi này], liền từ sườn núi phía đông bắc đi lên đỉnh núi. [Ngay khi ấy] mặt đất chấn động, núi cũng lay động nghiêng ngả. Sơn thần kinh hoảng vội thưa với Bồ Tát: “Núi này không phải nơi đất lành để thành Chánh Giác. Nếu [ngài] dừng lại nơi đây mà nhập định Kim cương, đất đai sẽ chấn động, núi non nghiêng ngả.”
After striving hard for six years he had not yet attained perfect enlightenment so he gave up austerities and accepted milk gruel. When the Tathagata came from the northeast to this mountain he saw that it was a quiet place and wished to gain enlightenment there. From the northeast ridge he climbed up to the summit of the mountain, and the earth quaked and the mountain trembled. The mountain god was frightened and told the Bodhisattva, “This mountain is not a blessed place for you to achieve enlightenment. If you stay here and enter the diamond samadhi the earth will sink and the mountain will topple over.”
Bồ Tát liền đi xuống bên hướng tây nam, đến lưng chừng núi gặp một hang đá lớn dựa lưng vào vách núi, quay mặt ra suối nước, ngài liền dừng ở đó mà ngồi kiết già. Đất đai lại chấn động, núi lại nghiêng ngả. Bấy giờ, chư thiên cõi trời Tịnh Cư từ trên không trung nói rằng: “Đây không phải nơi đức Như Lai thành Chánh Giác. Từ đây đi về hướng tây nam khoảng 4.5-5 km, cách nơi [ngài đã tu] khổ hạnh không xa, có một cây tất-bát-la, dưới [gốc cây] có tòa kim cương. Chư Phật từ trước đến nay đều thành Chánh Giác nơi tòa kim cương này. Xin [Bồ Tát] hãy đến đó.”
The Bodhisattva came down by the southwest side of the mountain. Halfway down the mountain there was a large cave with its back to the crag and its mouth opening on a brook in front. The Bodhisattva went in and sat cross-legged. The earth quaked again and the mountain trembled for a second time. At that time beings of the Heaven of Pure Abode chanted in the air, “This is not the place for the Tathagata to achieve enlightenment. Fourteen or fifteen li southwest from here, not far from the place where you practiced austerities, there is a pipal tree, under which is a diamond seat. It is on this seat that all the buddhas of the past and future sit to achieve perfect enlightenment. Please go there!”
Bồ Tát vừa đứng dậy thì con rồng trong hang đá liền lên tiếng: “Hang đá này thanh tịnh thù thắng, có thể chứng thành Chánh quả. Mong Bồ Tát từ bi đừng bỏ đi.”
But the dragon of the cave said, “This cave is a quiet and suitable place for you to attain sainthood. May you have compassion and not relinquish it.”
Bồ Tát biết rằng đây không phải nơi để chứng quả, nhưng muốn làm vừa ý con rồng nên để lại hình ảnh của mình rồi đi. (Hình ảnh này thuở trước kẻ hiền người ngu đều nhìn thấy được, nhưng cho đến nay thì có kẻ thấy người không.)
Knowing that this was not the place for him to realize buddhahood the Bodhisattva left his shadow in the cave to satisfy the dragon’s wishes and departed. (This shadow was formerly visible to both the wise and the ignorant but now only some people are able to see it.)
[Bấy giờ,] chư Thiên dẫn đường đi trước, đến chỗ cây bồ-đề. Về sau, khi vua Vô Ưu lên ngôi, những nơi còn dấu tích Bồ Tát lên núi, xuống núi đều xây tháp lên để ghi dấu, tuy kích thước [các tháp] có khác nhau nhưng sự linh ứng đều không khác, hoặc có hoa trời từ không trung rơi xuống, hoặc có hào quang chiếu sáng đến tận khe núi âm u. Mỗi năm, vào ngày mãn hạ an cư, kẻ tăng người tục từ khắp nơi cùng tụ họp đến đây lên núi cúng dường, ngủ lại đây hai đêm rồi mới về.
Preceded by heavenly beings, the Bodhisattva went to the bodhi tree. Later, after King Asoka rose to power, he built monuments and stupas at the sites where the Bodhisattva ascended and descended the mountain. Though these monuments differ in size they are the same in showing spiritual signs, either raining celestial flowers or emitting a light that illumi-nates the deep valleys. Every year at the end of the summer retreat monks and laypeople from different places come here to make offerings and spend two nights before going home.
Từ núi Tiền Chánh Giác đi về hướng tây nam khoảng 4.6-4.9 km thì đến cây bồ-đề [nơi Phật thành đạo], có bờ tường cao vững chắc được xây bằng gạch nung bao quanh, chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp, chu vi hơn 830 mét. Trong khuôn viên này trồng các loại cây lạ hoa quý che rợp bóng mát, mặt đất trải bằng cát mịn với cỏ lạ phủ xanh khắp nơi. Cổng chính phía đông mở ra nhìn thẳng xuống sông Ni-liên-thiền, cổng phía nam nối tiếp với một hồ lớn đầy hoa. Phía tây địa thế hiểm trở khó vượt qua. Cổng phía bắc thông qua một ngôi chùa lớn.
Going southwest from Pragbodhi Mountain for fourteen or fifteen li, I reached the bodhi tree. The surrounding walls are built high and strong out of brick; they are long from east to west and narrow from south to north, and are about five hundred paces in circuit. Exotic frees and famous flowers cast continuous shade on the ground, and fine sand and strange plants cover the earth with a green quilt. The main gate opens east toward the Nairanjana River and the southern gate is near a large flower pool. The west side is an inaccessible natural barrier, while the northern gate leads to a big monastery.
Bên trong phạm vi bao bọc của tường thành có rất nhiều thánh tích, san sát bên nhau, hoặc có xây tháp, hoặc dựng tinh xá, đều là do các vua và đại thần, các danh gia vọng tộc ở các nước khắp châu Thiệm-bộ này, đã thọ nhận Giáo pháp của đức Phật để lại nên xây dựng những nơi này để khắc ghi.
Inside the enclosure the sacred sites are connected with one another. The stupas or shrines were all built by monarchs, ministerial officials, and nobles of various countries of Jambudvlpa as memorials to their acceptance of the bequeathed teachings of the Buddha.
Ngay chính giữa khu vực có tường xây quanh bao bọc cây bồ-đề là tòa kim cương.
At the center of the enclosure of the bodhi free is the diamond seat,
Thuở xưa, lúc bắt đầu Hiền kiếp, tòa kim cương này xuất hiện cùng lúc với mặt đất, nằm giữa cõi đại thiên thế giới, bên dưới cùng chạm đến phần cấu trúc kim luân, phía trên lên khỏi mặt đất, hình thành từ chất kim cương, chu vi hơn 165 mét. Một ngàn vị Phật trong Hiền kiếp đều ngồi trên tòa này nhập định Kim cương, nên gọi là tòa kim cương. Vì là nơi chứng thánh quả nên cũng gọi là đạo tràng. Khi có động đất, chỉ riêng nơi [tòa này] là không hề lay chuyển.
which came into existence together with the great earth at the beginning of the bhadrakalpa. It is in the middle of the three-thousand great chiliocosm, reaching down to the golden wheel below the surface of the earth. It is made of diamond and is over a hundred paces in circuit. Because the one thousand buddhas of the bhadrakalpa all sit on it to enter the diamond samadhi, it is called the diamond seat, and because it is the place for realizing the sacred Way it is also called the bodhimanda (“seat for realizing buddhahood”). Whenever the earth quakes this spot alone remains stable.
Cho nên, khi Như Lai sắp thành Chánh Giác, đi qua khắp bốn góc quanh đây thì mặt đất đều rung chuyển chấn động, sau khi đến chỗ tòa kim cương này rồi thì mặt đất tự nhiên yên tĩnh không chấn động nữa.
Thus, when the Tathagata was about to attain enlightenment, the four comers of this seat trembled in the directions of where he had traveled to, but when he came here it was calm and quiet, without agitation.
Khi đã vào kiếp mạt, Chánh pháp dần dần suy vi, [tòa kim cương] này sẽ bị đất cát phủ lấp không nhìn thấy nữa. Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, vua các nước được nghe lại lời Phật dạy về kích thước của tòa Kim cương, liền cho xây dựng hai tượng Bồ Tát Quán Tự Tại ở hai mốc phía nam và phía bắc, ngồi quay mặt về hướng đông.
Since the beginning of the period of decline at the end of the kalpa, when the right Dharma started to deteriorate, this site was covered by sand and earth and was lost to view. After the Buddha’s nirvana the monarchs of various countries set up two sitting statues of Avalokitesvara facing east at the southern and northern limits of the enclosure, according to the Buddha’s description as they had heard from the tradition.
Được nghe các bậc kỳ cựu nói rằng: “Khi các tượng Bồ Tát này chìm lấp không còn thấy nữa thì Phật pháp sẽ dứt mất.” Hiện nay, tượng Bồ Tát ở góc phía nam đã chìm xuống đến quá ngực rồi.
Some old people said that when the statues of [Avalokitesvara] disappear and become invisible the buddha-dharma will come to an end. The statue at the south comer has already sunk down up to the chest.
Cây bồ-đề che trên tòa kim cương tức là cây tất-bát-la. Khi Phật còn tại thế, cây này cao hơn trăm mét, trải qua nhiều lần bị chặt phá, nay chỉ còn cao khoảng 15 -16 mét. Vì đức Phật ngồi dưới cây này thành bậc Chánh đẳng Chánh giác, cho nên gọi là cây bồ-đề. Thân, gốc màu trắng ngả vàng, cành lá xanh biếc, mùa đông cũng như mùa hạ đều không úa rụng, màu lá luôn sáng tươi không thay đổi. Mỗi năm đến ngày đức Như Lai nhập Niết-bàn, lá cây đều úa rụng, rồi không bao lâu lại mọc ra như cũ. Vào ngày đó, vua của các nước cùng kẻ tăng người tục từ nhiều nơi khác nhau, số đông đến ngàn vạn người, không ai triệu tập mà cùng kéo đến, đều dùng nước thơm, sữa thơm để tưới rửa [cho cây], lại tấu âm nhạc, bày hương hoa, đèn đuốc thắp sáng tiếp nối ánh mặt trời, tranh nhau cúng dường.
The bodhi tree at the diamond seat is a piped tree, which was several hundred feet tall in the time of the Buddha, and although it has been cut down or damaged several times it still remains forty or fifty feet high. Because the Buddha attained full enlightenment while sitting under this free, it is called 915c the bodhi tree (“tree of enlightenment”). The trunk of the tree is yellowish- white in color and its branches and leaves are always green; they never wither nor does their luster decrease, whether in winter or summer. Each year on the day of the Tathagata’s nirvana the leaves fade and fall but they grow out again very soon. On that day the monarchs of various countries and monks and laypeople from different places, thousands and myriads in number, gather here of their own will to water and bathe the tree with scented water and milk, accompanied by music. With arrays of fragrant flowers and lamps burning uninterruptedly, the devotees vie with each other in making offerings to the tree.
Sau khi đức Như Lai tịch diệt, đến lúc vua Vô Ưu vừa mới lên ngôi tin theo tà đạo, hủy phá thánh tích của Phật, huy động quân binh đích thân đến đây chặt phá, gốc thân cành lá đều chặt nát ra thành từng khúc ngắn, rồi mang qua phía tây cách đó khoảng 50 mét chất thành đống, lệnh cho những người bà-la-môn thờ lửa đốt lên để tế trời. Trong lúc lửa khói còn chưa hạ xuống, bỗng thấy sinh ra hai cây [bồ-đề] ngay trong lửa dữ, cành lá tươi tốt xanh biếc. Nhân đó nên gọi là cây bồ-đề tro, [vì mọc lên ngay trên đống tro]. Vua Vô Ưu nhìn thấy điều thần dị như thế liền hối lỗi, dùng sữa thơm tuới vào rễ cây còn sót lại, gần đến sáng hôm sau thì cây mọc trở lại như cũ. Vua thấy điều linh ứng lạ lùng càng thêm vui mừng, đích thân cúng dường và vui quá ở mãi quên về.
After the Tathagata’s demise, when King Asoka first ascended the throne he believed in heretical doctrines and he destroyed the sites left by the Buddha. He sent his troops and came in person to cut down the bodhi free. He chopped the roots, stalks, branches, and leaves into small pieces and had them heaped up at a spot a few tens of paces to the west, where fire-worshiping brahmans were ordered to bum the pile as a sacrifice to their god. Before the smoke and flames had dissipated, however, two trees with luxuriant and verdant leaves grew out of the furious fire; these trees were thus called ash bodhi trees. On seeing this strange sight, King Asoka repented his misdeeds and water the remnant roots with sweet milk. When it was nearly dawn the tree grew up as before. The king, greatly exhilarated to have seen this spiritual wonder, made offerings to the tree in person with such delight that he forgot to return home.
Vương phi vốn là người tin theo ngoại đạo, bí mật sai người đợi lúc quá nửa đêm lại chặt phá cây bồ-đề lần nữa. Đến sáng ra, vua Vô Ưu vừa định [đến gốc cây] kính lễ thì chỉ còn thấy gốc cây trơ trọi. Vua vô cùng sầu đau buồn giận, liền chí thành cầu nguyện, dùng sữa thơm tuới vào gốc, chưa được một ngày thì cây mọc lên như cũ. Vua càng thêm cung kính lạ thường, liền dùng đá xây tường bao quanh cao khoảng 3.5 mét, đến nay vẫn còn.
The queen, a heretical believer, secretly sent someone to cut down the tree after nightfall. When King Asoka went to worship the tree at dawn he was very sad to see only the stump of the tree. He prayed earnestly and watered the stump with sweet milk, and in a few days the tree grew up once again. With deep respect and astonishment the king built a stone enclosure to the height of more than ten feet around the tree, which is still in existence.
Gần đây, vua Thiết-thưởng-ca (Sasarika) tin theo ngoại đạo, ganh ghét hủy hoại Phật pháp, phá hoại chùa chiền, chặt phá cây bồ-đề này, muốn đào cả gốc rễ lên, nhưng đào sâu mãi đến dòng nước ngầm bên dưới mà vẫn chưa hết rễ cây, liền dùng lửa đốt rồi lấy nước mật đường mía đặc sệt đổ vào gốc, muốn cho cây chết rồi thối rửa đi, để dứt sạch hết mầm mống.
Recently King Sasarika, a heretical believer, denounced the buddha- dharma out of jealousy, destroyed monasteries, and cut down the bodhi tree [again]. He dug the ground so deep as to reach spring water but he could not get at the ends of the roots, so he set fire to bum it and soaked it with sugarcane juice with the intention of making it rotten and prevent it from sprouting.
Mấy tháng sau đó, vua nước Ma-yết-đà là Bổ-lạt-nã-phạt-ma, cháu nhiều đời của vua Vô Ưu, nghe chuyện ấy liền than rằng: “Mặt trời trí tuệ [là đức Thế Tôn] đã ẩn khuất rồi, chỉ còn lại cây [này là dấu tích của] Phật, mà nay cũng chặt phá đi mất thì chúng sinh có còn gì để nhìn thấy nữa!” Vua nằm mọp xuống đất mà than khóc thảm thiết hết sức cảm động, liền dùng sữa của mấy ngàn con bò mà tuới vào chỗ gốc cây, trải qua một đêm thì cây mọc trở lại, cao hơn một trượng. Vua sợ sau này cây lại bị chặt phá nữa nên xây tường đá chung quanh cao đến 8 mét. Cho nên ngày nay cây bồ đề bị che khuất bởi vách đá, chỉ nhô lên cao hơn chừng 3.5 mét.
Several months later, King Purnavarman (known as Manzhou, “Full Armor,” in Chinese) of Magadha, the last descendant of King Asoka, heard about the event and said with a sigh of regret, “The Sun of Wisdom has sunk and only the Buddha’s tree remained in the world; now that the tree has been destroyed what else is there for living beings to see?” He prostrated himself on the ground and wept piteously. He watered the tree with milk obtained from several thousand cows and it grew up to some ten feet high in one night. Fearing that people of later times might cut it down [again], he surrounded it with a stone enclosure to the height of twenty-four feet. Thus the bodhi tree at present is behind the stone wall, and more than ten feet of branches grow out above the wall.
Phía đông cây bồ-đề này có một tinh xá, cao khoảng 50 -55 mét, phần nền rộng [mỗi bề] hơn 33 mét, xây bằng loại gạch sống chưa nung rồi dùng vôi quét lên. Các tầng bục thờ đều có tượng bằng vàng, bốn phía vách đều có tạo tác nhiều hình thù kỳ lạ, hoặc hình chuỗi hạt châu, hoặc hình chư thiên. Trên nóc tinh xá trang trí một quả a-ma-lạc-ca bằng đồng vàng. (Phần này cũng được gọi là bảo bình hoặc bảo đài.)
To the east of the bodhi tree is a shrine, one hundred and sixty or seventy feet high, built on a base whose front side is more than twenty paces wide. It was built with brick and plastered with lime. In all the niches arranged in tiers there are golden images, and on the four walls are marvelous carvings in the shapes of strings of pearls or figures of spirits. On top is installed a gilded copper amalaka fruit (also said to be a precious bottle or a precious pot).
Mặt phía đông [tinh xá] giáp với một tòa lầu cao hai tầng, phần mái diềm đặc biệt có ba tầng. Cột trụ cho đến rường mái, cửa lớn, cửa sổ đều dùng vàng bạc chạm khắc để trang trí, dùng châu ngọc, đá quý đính thêm vào. Phòng ốc nằm sâu bên trong đều có ba lớp cửa. Phía ngoài cửa, hai bên đều có phòng thờ, bên trái thờ tượng đức Bồ Tát Quán Tự Tại, bên phải thờ tượng Bồ Tát Từ Thị, đều đúc bằng bạc trắng, cao hơn 3.3 mét.
It is connected with a storied pavilion at the east, the eaves of which are in three layers. The rafters, pillars, ridgepoles, beams, doors, and windows are adorned with gold and silver carvings and studded with a mixture of pearls and jade. The innermost chamber of the shrine has three doors con-necting with the other parts of the structure. On each side of the outer door there is a niche containing an image of Avalokitesvara Bodhisattva on the left side and one of Maitreya Bodhisattva on the right side, both cast in silver and more than ten feet in height.
Trên vùng đất cũ của tinh xá này, trước đây vua Vô Ưu đã xây dựng một tinh xá nhỏ, về sau có một vị bà-la-môn xây dựng thêm rộng lớn ra.
Formerly King Asoka built a small shrine at the site of the [present] shrine and a brahman later extended it.
Ban đầu, vị bà-la-môn này không tin Phật pháp, chỉ thờ đức Đại Tự Tại Thiên. Sau đó nghe nói rằng trong vùng Tuyết sơn có thiên thần liền cùng với người em đến đó cầu nguyện. Thiên thần [ứng hiện] nói: “Hết thảy những điều cầu nguyện đều phải có phúc mới mong được quả. Chẳng phải do ngươi cầu mà được, cũng chẳng phải do ta có khả năng đáp ứng.”
There was once a brahman who did not believe in the buddha-dharma but worshiped the deity Mahesvara. He heard that the deity was living in the Snow Mountains, so he went with his younger brother to seek the fulfillment of his wishes from the deity. The deity said, “Your wishes can be fulfilled only when you have done meritorious deeds. It is not that you can get things by merely saying prayers, nor can I make you satisfied.”
Vị bà-la-môn liền hỏi: “Vậy tu phước như thế nào mới có thể thỏa lòng mong cầu?”
The brahman said, “What meritorious deed should I do so that my mind can be satisfied?”
Thiên thần đáp: “Muốn gieo hạt giống lành phải cầu được ruộng phước thù thắng. Chỗ cây bồ-đề là nơi [đức Như Lai đã] chứng thành quả Phật. Ngươi nên nhanh chóng quay về, đến chỗ cây bồ-đề ấy, xây dựng một ngôi tinh xá lớn, đào một hồ nước lớn, lo liệu các việc cúng dường, như vậy thì những điều mong cầu đều được toại nguyện.”
The deity said, “If you wish to plant the seed of goodness you should find the field of blessedness. The bodhi tree is the place where the Buddha attained buddhahood, so you should quickly go back to the bodhi tree and build a great shrine, dig out a large pond, and make various offerings. Then your wishes will be fulfilled.”
Vị bà-la-môn sau khi nghe lời thiên thần, liền phát khởi niềm tin mạnh mẽ, anh em cùng nhau trở về, đến chỗ cây bồ-đề, người anh xây dựng tinh xá, người em lo đào hồ nước, sau đó cùng thành tâm chuyên cần thực hiện việc cúng dường rộng khắp. Về sau, sự mong cầu của họ quả nhiên đều được thành tựu. Họ trở thành các đại thần của nhà vua, mỗi khi được ban thưởng tài lộc đều đưa vào bố thí cúng dường.
Under the deity’s injunction the brahman, cherishing a mind of great faith, returned with his younger brother. The elder one built the shrine and the younger one excavated the pond. Then they made rich offerings to seek the fulfillment of their wishes. They finally realized their wishes and became cabinet ministers to the king. They gave away as alms whatever emoluments or rewards they received.
Sau khi tinh xá hoàn thành, liền tuyển mộ những nghệ nhân [giỏi] để làm tượng đức Như Lai lúc mới thành Phật. Trải qua nhiều năm tháng nhưng chẳng thấy ai [đủ khả năng] đến nhận việc. Rất lâu sau đó mới có một vị bà-la-môn tìm đến nói với mọi người: “Tôi rất giỏi tạo hình các diệu tướng của đức Như Lai.”
When the shrine was completed artists were invited to make an image of the Tathagata as he appeared at the time of attaining buddhahood, but for a long time no one answered the call for the job. At last a brahman came and said to the monks, “I am good at making fine images of the Tathagata.”
Mọi người liền hỏi: “Nay muốn tạo tượng thì phải chuẩn bị những gì?”
The monks said, “What do you need for making the image?”
Người ấy đáp rằng: “Chỉ cần bột trầm hương nhão thôi, nên mang vào để trong tinh xá, cùng với một ngọn đèn sáng. Sau khi tôi vào thì đóng cửa lại, sáu tháng sau mới được mở cửa.”
The brahman said, “I only need some scented clay and a lamp to be placed inside the shrine. After I have entered the shrine the door should be tightly closed, and only opened again after six months.”
Lúc bấy giờ, tăng chúng làm đúng theo lời dặn ấy. Đến khi còn bốn ngày nữa mới đủ sáu tháng, tăng chúng đều thấy việc quá kỳ lạ nên mở cửa xem thử, liền thấy bên trong tinh xá một tượng Phật uy nghiêm ngồi kiết già, chân phải đặt lên trên, tay trái thu vào [lòng], tay phải buông xuống, mặt quay về hướng đông, thần thái tự nhiên sinh động như thật. Tòa ngồi [của Phật] cao khoảng 1.4 mét, chiều rộng mỗi bề khoảng 4.2 mét. Tượng cao 3.8 mét, bề ngang từ đầu gối phải sang đầu gối trái là 2.9 mét, từ vai phải sang vai trái là 2 mét, các tướng tốt đều đầy đủ, khuôn mặt hiền từ như thật, chỉ còn một điểm nhỏ phía trên ngực phải chưa tô bóng xong. Không nhìn thấy người làm tượng, mọi người mới hiểu ra đó là thần linh giáng hạ, tất cả đều ngạc nhiên xúc động, rất muốn biết rõ sự việc.
The monks did as they were told, but just four days short of six months they opened the door out of curiosity to see [what was going on]. They saw that the image inside the shrine was in the posture of sitting cross-legged facing the east, with the right foot upon [the left thigh]; the left hand was drawn back and the right one pointed downward.
It was just as if the figure was alive. The pedestal was four feet two inches high and twelve feet five inches wide, and the image was eleven feet five inches tall. The two knees were eight feet eight inches apart, and the width from one shoulder to another measured six feet two inches. All the auspicious physical symbols of a buddha were complete and the compassionate features were true to reality, except that a little spot above the right breast was unfinished. The monks saw no one in the shrine and realized that a divine hand was at work. They were all filled with amazement and eagerly wished to know about the affair.
Bấy giờ có một vị sa-môn vốn tánh tình thuần hậu chân chất, nằm mộng thấy vị bà-la-môn [làm tượng] đến bảo rằng: “Ta là Bồ Tát Từ Thị, vì e rằng khả năng con người không thể hình dung ra được dung nhan đức Thế Tôn nên phải đích thân đến để làm tượng Phật này. Tay phải buông xuống, đó là khi đức Như Lai sắp chứng quả Phật, thiên ma đến quấy nhiễu, có một vị địa thần hiện ra giúp Phật hàng phục ma. Đức Như Lai bảo [địa thần]: “Ông không cần phải lo lắng, ta dùng sức nhẫn nhục chắc chắn hàng phục được thiên ma.”
One of the sramanas, a simple man of honest mind, had a dream in which he saw the brahman, who said to him, “I am Maitreya Bodhisattva. Concerned that artists could not imagine the holy features of the Buddha, I came in person to make the image. It is made with the right hand pointing downward because just as the Tathagata was about to attain buddhahood Mara came to disturb him, but the earth gods informed him of Mara’s arrival. One of the earth gods came out first to assist the Buddha in subjugating Mara but the Tathagata said to the god, ‘Do not worry. I can surely subjugate him with my power of forbearance. ’
Ma vương hỏi: “[Ngài nói vậy] có ai làm chứng?”
Mara said, ‘Who will bear you witness?’
Đức Như Lai liền buông tay [phải], chỉ xuống đất nói rằng: “Mặt đất này có thể làm chứng.”
The Tathagata then pointed his hand to the earth, saying, ‘This one here will bear me witness!’
Ngay lúc ấy, vị địa thần thứ hai lập tức từ dưới đất nhảy vọt lên để làm chứng [cho lời nói của Phật]. Do vậy nên tay phải của tượng này dựa theo sự tích ấy mà buông xuống.”
At that moment the second earth god emerged to bear witness. Therefore the image is made with the right hand pointing downward.”
Chúng tăng biết được sự linh ứng như vậy rồi, ai ai cũng đều xúc động. Liền dùng đủ các loại châu ngọc, trân bảo để trang sức che khuất đi chỗ chưa hoàn chỉnh trên ngực phải của pho tượng.
The monks came to know that this was a divine manifestation and they were all moved to tears. The unfinished spot above the breast was finished with various gems and the image was adorned with a necklace of pearls, crowned with a coronet, and embellished with other valuable ornaments.
Khi Vua Thiết-thưởng-ca chặt phá cây bồ-đề rồi, muốn phá hoại pho tượng Phật này, nhưng khi nhìn thấy dung nhan từ hòa thì trong lòng bất an, [không thể ra lệnh phá tượng], liền quay xa giá trở về. Sau đó ra lệnh cho quan Tể tướng rằng: “Ngươi phải phá tượng Phật ấy đi, thay hình Đại Tự Tại Thiên vào chỗ đó.”
When King Sasahka felled the bodhi free he also wished to destroy this image. But when he looked at the compassionate features of the image he did not have the heart to do so. On returning home he told his attendant minister, “You should remove this image of the Buddha and replace it with that of Mahesvara.”
Quan Tể tướng nhận lệnh vua, sợ hãi than rằng: “Phá hủy tượng Phật thì chắc chắn phải gặp tai ương trong nhiều kiếp, mà trái lệnh vua thì mất mạng, cả gia tộc cũng bị tru diệt. Dù làm hay không làm đều [phải chịu khổ] như thế, ta thật không biết phải làm thế nào!”
Having received the king’s edict, the attendant minister was afraid and said with a sigh, “If I destroy the Buddha’s image I will suffer disaster for many kalpas, but if I disobey the king’s order I will not only lose my own life but also bring about the extermination of my entire family. What should I do in this awkward plight?”
Liền cho gọi một người có lòng tin [với Phật pháp], dặn dò sai đi thực hiện công việc. [Người này theo đúng lời dặn dò,] xây lên một bức tường gạch chắn ngang trước tượng Phật, nhưng lòng thấy xấu hổ vì làm cho chỗ tượng Phật bị tối tăm nên lại thắp đèn sáng rực trong đó. [Tiếp theo,] ở phía trước bức tường gạch này liền cho vẽ hình Tự Tại Thiên. Sau khi hoàn tất liền báo cho vua biết. Vua nghe tin tự nhiên trong lòng lo sợ, khắp thân hình đều mọc lên mụn nhọt, da thịt rách nát, không bao lâu thì chết.
He then called some Buddhist believers to work as his servants and had them build a brick wall in front of the Buddha’s image. Because he was ashamed to see the image in utter darkness he lit a lamp for it. On the front of the brick wall he drew a picture of Mahesvara. When this was done he made a report to the king. On hearing the report the king dreaded the consequences. He suffered from blisters all over his body, his skin became cracked, and before long he died.
Quan Tể tướng lập tức quay trở lại [tinh xá], phá bỏ bức tường che tượng Phật, mới thấy nơi chỗ pho tượng dù đã trải qua rất nhiều ngày mà đèn vẫn còn sáng không tắt.
The attendant minister hurriedly went back to the image and demolished the brick wall [that screened it from view]. Though many days had passed the lamp still burned, without extinction.
Đến nay tượng Phật vẫn còn nguyên vẹn, công phu thần kỳ tạo tượng không hề suy tổn chút nào. Vì nơi đặt tượng là gian phòng nằm sâu bên trong không đủ ánh sáng nên đèn đuốc thay nhau thắp sáng liên tục. Tuy vậy, muốn nhìn cho thật rõ dung nhan từ hòa của tượng thì phải nhân lúc nắng lên vào buổi sáng, dùng một tấm gương lớn để phản chiếu ánh nắng soi vào bên trong, mới thấy hết được hình tướng linh dị vô cùng của tượng Phật. Bất kỳ ai nhìn qua đều cảm thấy trong lòng xúc động.
The image is still in existence and because it is in a deep inner chamber lamps and torches bum continually. The compassionate features cannot be clearly seen unless early-morning sunlight is reflected into the chamber with a big mirror to illuminate the divine statue. Those who have the chance to see the image are struck with emotion.
Đức Như Lai thành Chánh Đẳng Chánh Giác vào nửa đêm ngày mồng tám, thuộc nửa sau tháng Phệ-xá-khư, nhằm ngày mồng tám tháng ba theo lịch Trung Hoa. Thượng tọa bộ thì cho rằng Như Lai thành Chánh Đẳng Chánh Giác vào ngày 15, thuộc nửa sau tháng Phệ-xá-khư, tức là ngày 15 tháng ba theo lịch Trung Hoa. Lúc ấy đức Như Lai 30 tuổi, hoặc có nơi nói là 35 tuổi.
The Tathagata attained perfect enlightenment on the eighth day of the second half of the month of Vaisakha in the Indian calendar, corresponding to the eighth day of the third month in our calendar, but according to the tradition of the Sthavira school the event occurred on the fifteenth day of the second half of the month of Vaisakha, corresponding to the fifteenth day of the third month in our calendar. He was then around thirty or thirty-five years old.
Phía bắc cây bồ-đề [có di tích] nơi đức Phật kinh hành. Sau khi đức Như Lai thành Chánh Giác, ngài không đứng dậy khỏi tòa ngồi mà ngồi yên nhập định tịch tịnh trong bảy ngày. Khi đứng lên rồi ngài đi về phía bắc cây bồ-đề, kinh hành trong bảy ngày, qua lại theo hướng đông tây trong phạm vi khoảng 20 mét, dưới bước chân Phật đi còn lưu lại 18 dấu hoa văn kỳ lạ. Người đời sau xây gạch thành nền ở ngay vị trí này, cao hơn một mét.
To the north of the bodhi tree is a place where the Buddha walked up and down. After achieving perfect enlightenment the Tathagata did not rise from his seat but sat in meditation for seven days. When he rose to his feet he went to the north of the bodhi tree, where he walked to and fro, east and west, for seven days. When he had walked over ten paces signs of wondrous flowers followed his footprints at eighteen points. People of later times built a brick promenade about three feet high at this place.
Đọc trong các ghi chép trước đây thấy nói rằng: Nền móng Thánh tích này có thể cho biết tuổi thọ dài ngắn của một người. Trước tiên phải thành tâm phát nguyện, sau đó mới đếm bước đi để đo chiều dài thánh tích. Tùy theo tuổi thọ dài ngắn của mỗi người mà số bước chân sẽ tăng giảm khác nhau.
It is said in a previous record that this sacred site can foretell the length of one’s life. One should make a 916c sincere vow before taking the measure. The length of the promenade varies according to the possible life spans of those who measure it.
Phía bắc [thánh tích nơi Phật] kinh hành, nằm ở phía bên phải đường đi, trên tảng đá lớn bằng phẳng có một tinh xá lớn, bên trong có tượng Phật [trong tư thế] đưa mắt ngước nhìn lên.
To the north of the promenade, on a huge rock on the right side of the road, is a big shrine in which there is an image of the Buddha with its eyes gazing upward.
Thuở xưa, đức Như Lai ở lại chỗ này bảy ngày để nhìn cây bồ-đề không nháy mắt. Vì cảm ơn cây bồ-đề nên từ chỗ này quay lại nhìn cây.
Formerly the Tathagata looked at the bodhi tree from this place for seven days without blinking, gazing at the tree attentively with a feeling of gratitude.
Phía tây cây bồ-đề, cách đó không xa có một tinh xá lớn, bên trong có một tượng đúc bằng hợp kim đồng, trang sức bằng trân bảo quý hiếm. Tượng ở tư thế đứng quay mặt về hướng đông, phía trước có tảng đá xanh, có nhiều đường nét hoa văn hết sức kỳ lạ.
Not far to the west of the bodhi free is a great shrine with a brass image of the Buddha in the standing posture, facing east, adorned with rare jewels. In front of the image is a blue stone with wonderful veins of various hues.
Thuở xưa, khi đức Như Lai mới thành Chánh Giác, Phạm vương tạo tòa nhà bằng bảy báu, [bên trong đó] Đế thích hóa ra tòa ngồi cũng bằng bảy báu, đức Phật ngồi trên tòa ấy tư duy trong bảy ngày, phóng hào quang lạ chiếu đến cây bồ-đề. Sau khi Phật nhập diệt đã lâu, các món châu báu đều hóa thành đá.
This is the place where Brahma built a hall out of the seven precious substances and Indra made a seat, also with the seven precious substances, at the time when the Tathagata first attained enlightenment. On this seat he sat in meditation for seven days and emitted an unusual light that shone upon the bodhi tree. The precious substances have since turned into stone because the event occurred in the remote past.
Không xa về phía nam cây bồ-đề, có một ngọn tháp cao hơn 33 mét, do vua Vô Ưu xây dựng.
Not far to the south of the bodhi tree is a stupa more than one hundred feet high built by King Asoka.
Bồ Tát sau khi tắm dưới sông Ni-liên, định đi về chỗ cây bồ-đề thì tự khởi lên ý nghĩ, sẽ lấy gì để làm tòa ngồi? Rồi tự nghĩ ra phải dùng cỏ thanh tịnh. Khi ấy, Thiên Đế Thích liền hóa thân làm người cắt cỏ, gánh cỏ đi trên đường. Bồ Tát hỏi: “Cỏ ông đang gánh đó, có thể bố thí cho ta được chăng?”
After having bathed himself in the Nairanjana River, the Bodhisattva was going to the bodhi tree and pondered what he should use for a seat. He got the idea of using some clean grass to make a seat. Meanwhile Indra transformed himself into a grass cutter, carrying a bundle of grass going on his way. The Bodhisattva said to him, “Can you favor me with some of your grass?”
Người do Đế Thích hóa hình đó nghe như vậy liền cung kính dâng cỏ lên cho Bồ Tát. Nhận xong, Bồ Tát liền cầm bó cỏ mà đi.
The transformed figure respectfully offered him some grass and, after receiving the grass, the Bodhisattva proceeded on his way.
Từ chỗ nhận cỏ, không xa về hướng đông bắc có một ngọn tháp. Khi Bồ Tát sắp chứng quả Phật, đây là nơi có bầy chim sẻ và một đàn nai phô bày điềm lành.
Not far to the northeast of the spot of receiving grass is a stupa built at the place where some bluebirds (Eophona personata) and a herd of deer came as a good omen when the Bodhisattva was about to achieve buddhahood.
Người Ấn Độ xem các điềm lành là điều rất tốt đẹp, cho nên chư thiên cõi trời Tịnh Cư tùy thuận thế gian, hóa hiện ra [bầy chim sẻ và một đàn nai] bay nhiễu, chạy nhảy [quanh Bồ Tát] để làm hiển lộ thánh đức.
Among the signs of auspiciousness in India their presence is considered to be the most lucky symbol. Thus, in compliance with the custom of the human world, the celestial beings of the Heaven of Pure Abode made the bluebirds fly around the Bodhisattva to indicate his spirituality and holiness.
Phía đông cây bồ-đề, hai bên con đường lớn có hai ngọn tháp, là nơi Ma vương [hiện ra] quấy nhiễu Bồ Tát.
To the east of the bodhi tree are two stupas, one on the left and the other on the right side of the main road. This is the place where the King of Maras disturbed the Bodhisattva.
Khi Bồ Tát sắp chứng quả Phật, Ma vương đến khuyên Bồ Tát nên làm [Chuyển Luân Thánh Vương], nhưng thuyết phục không được nên [Ma vương] buồn bực quay về. Những đứa con gái của Ma vương liền xin [cha cho] đến dụ dỗ, Bồ Tát dùng oai thần biến sắc đẹp của chúng [trong chốc lát] thành già suy, gầy yếu, phải chống gậy mà đi. Bọn ma nữ đành dắt díu nhau bỏ chạy về.
When the Bodhisattva was about to attain buddhahood the King of Maras exhorted him to become a supreme rider [instead of a buddha]. As this device was ineffective, the King of Maras withdrew in deep sadness. His daughters volunteered to go to seduce the Bodhisattva but with his divine power he changed the beautiful girls into decrepit old women. They retreated, clinging to each other, holding sticks to support their slender frames.
Phía tây bắc cây bồ-đề có một tinh xá, bên trong có tượng Phật Ca-diệp-ba, nổi tiếng linh ứng, thỉnh thoảng có phóng tỏa hào quang.
In a shrine to the northwest of the bodhi tree there is an image of Kasyapa Buddha. Well known for its spirituality and sanctity, it often emits a bright light.
Đọc trong các ghi chép xưa thấy nói rằng, nếu ai chí thành đi nhiễu [quanh tượng này] bảy vòng, thì [về sau] khi sinh ra nơi nào đều được trí nhớ biết chuyện đời trước.
It is said in a previous record that if a person walks around the image seven times with utmost sincerity he may gain the wisdom of knowing where he was born in his past life.
Phía tây bắc của tinh xá thờ Phật Ca-diếp có hai phòng xây bằng gạch nung, mỗi phòng đều có tượng địa thần.
To the northwest of the shrine of Kasyapa Buddha there are two brick chambers, each housing an image of an earth god.
Ngày xưa, khi đức Như Lai sắp thành Chánh Giác, [hai vị địa thần này,] một vị báo [cho Phật biết khi] Ma vương đến và một vị vì Phật mà làm chứng. Người đời sau cảm niệm công đức [của hai vị] nên tạo hình tượng để biểu dương.
One informed the Buddha of the arrival of Mara and the other bore witness for the Buddha. People of 917a later times made these images of the gods in memory of their merits.
Cách bờ tường bao quanh cây bồ-đề không xa về phía tây có một ngọn tháp tên là tháp Uất Kim Hương. Tháp cao hơn 13 mét, do vị thương chủ người nước Tào-củ-trá xây dựng.
Not far to the west of the bodhi tree enclosure is a stupa more than forty feet high, known as Saffron Stupa, built by a merchant lord of the country of Jaguda.
Thuở xưa, nước Tào-củ-trá có một đại thương gia, thờ phụng thiên thần, cúng tế cầu phúc lợi, khinh miệt Phật pháp, chẳng tin nhân quả. Sau đó, cùng đi với một nhóm các thương nhân để mua hàng về bán. Thuyền đang đi trên biển Nam Hải thì gặp gió lớn lạc mất phương hướng, trôi dạt trên biển, trải qua đến ba năm, lương thực cạn kiệt, không còn gì để ăn. Mọi người trên thuyền, [trong lúc nguy kịch] không biết sống chết lúc nào, liền cùng nhau gắng sức một lòng, cầu niệm thiên thần mà từ lâu nay họ thờ phụng. Niệm cho đến khi hết sức mệt nhọc nhưng chẳng thấy linh hiển cứu giúp gì. Bỗng trong chốc lát nhìn thấy một ngọn núi lớn, đỉnh cao vách đứng sừng sững, có hai mặt trời gần nhau cùng chiếu ánh sáng. Lúc bấy giờ, các thương nhân an ủi nhau rằng: “Chúng ta vẫn còn có phước nên mới đi ngang qua núi này. Nên ghé vào nghỉ ở đó thì được an vui.”
Formerly in the country of Jaguda there was a great merchant lord who worshiped heavenly gods to pray for wealth, and he despised the buddha- dharma and did not believe in the law of causality. He once led a group of fellow traders to do business and sailed to the South Sea, where they encoun-tered a typhoon and lost their way. They drifted along with the roaring waves and sailed on the sea for three years until their rations were exhausted and they had nothing more to eat. All those who were aboard the ship were in a precarious situation and they earnestly prayed to the gods they worshiped with one mind. They become quite fatigued with their laborious prayers and had failed to receive divine rescue, when they suddenly saw a huge mountain with lofty cliffs and steep peaks under the light of two bright suns. The merchants said to comfort one another, “We are lucky to have come across this huge mountain. We should stop here to get peace and happiness.”
Vị thương chủ nói: “Không phải núi, đó là con cá ma-kiệt. Đỉnh cao vách đứng đó là vây cá, hai mặt trời kia là hai mắt cá.”
The merchant lord said, “It is not a mountain but a makara fish (a sea monster). The lofty cliffs and steep peaks are its fins and whiskers and the two bright suns are its eyes.”
Lời nói chưa dứt thì thuyền buồm đã trôi dạt đến đó. Khi ấy, vị thương chủ nói với các thương nhân: “Ta có nghe nói đức Bồ Tát Quán Tự Tại thường mang sự yên vui đến cho những chúng sanh đang gặp nguy khốn ách nạn. Chúng ta nên chí thành xưng danh hiệu ngài.”
Just as they had barely finished talking the ship floated toward the monster. The merchant lord told his fellow traders, “I have heard that Avalokitesvara Bodhisattva will bestow peace and happiness on those who are in peril and adversity. Let us call his name with a mind of complete sincerity.”
Mọi người liền đồng thanh xưng niệm [danh hiệu Bồ Tát Quán Tự Tại], ngọn núi liền biến mất, hai mặt trời cũng không thấy nữa. Trong chốc lát liền thấy một vị sa-môn uy nghi hiền từ, tay cầm tích trượng đạp trên hư không mà đến cứu giúp, bỗng dưng chợt thấy đã về đến quê nhà.
Then they all repeated the name of [Avalokitesvara] Bodhisattva in unison and sought refuge under his spiritual protection. The lofty mountain disappeared and the two suns submerged. In a moment they saw a sramana with a quiet and peacefid manner coming through the air, religious staff in hand, to rescue them from being drowned. Very soon they returned to their own country.
Nhân đó mà các thương nhân này có tín tâm kiên cố, làm việc phước thiện chẳng hề thối chí. Họ cùng nhau xây dựng tháp rồi cung kính cúng dường, dùng bột nhão uất kim hương tô phết khắp trên dưới.
Thereafter they cherished minds of resolute faith and tried to perform good deeds indefatigably. They built a stupa for making offerings and plastered the whole structure with saffron clay.
Sau khi phát khởi tín tâm, người thương chủ lại rủ những người cùng chí hướng cùng đích thân đi chiêm ngưỡng lễ bái các thánh tích, đến xem cây bồ-đề [nơi Phật thành đạo]. Đến nơi [tinh cần] chiêm bái, còn chưa tính chuyện quay về thì đã trôi qua một tháng. Các thương nhân trong lúc cùng đi nói với nhau: “Núi sông cách trở muôn trùng, quê nhà thăm thẳm xa xôi, trước đây đã xây tháp nơi ấy mà nay chúng ta đều ở nơi đây, biết ai là người quét dọn chăm sóc?”
Having cherished the mind of faith, the merchant lord led his fellow traders to worship the holy sites and visit the bodhi tree. They spent a whole month in pilgrimage before they thought of returning home. The traders, while traveling together, said among themselves, “We are far away from our homeland, separated by mountains and rivers. Since we are here, who will sweep and clean the stupa we have built?”
Nói xong thì cũng vừa đúng lúc đi nhiễu đến chỗ này, bỗng dưng nhìn thấy một ngọn tháp, giật mình còn chưa kịp định thần, mọi người vội bước đến nhìn kỹ thì nhận ra chính là ngọn tháp họ đã xây dựng ở quê nhà. Cho nên ngày nay người Ấn Độ gọi là đây tháp Uất Kim Hương.
Having said this, they came in a roundabout way to this place and suddenly saw a stupa. Surprised at the sight, they went up to have a close look at the stupa and found that it was the one they had built at home. Thus it was named the Saffron Stupa in India.
Ở góc phía đông nam của bức tường bao quanh cây bồ-đề, kế bên cây ni-câu-luật có một ngọn tháp, bên cạnh có một tinh xá, trong có tượng Phật ngồi. Thuở xưa khi đức Như Lai mới chứng quả Phật, Đại Phạm Thiên Vương ở tại chỗ này khuyến thỉnh Phật Chuyển Diệu Pháp Luân.
At the southeast comer of the bodhi tree enclosure there is a banyan tree, and next to it are a stupa and temple. A statue of the seated Buddha is enshrined in the temple. Formerly, when the Tathagata had just attained buddhahood, Mahabrahma came here and entreated him to turn the wonderful wheel of the Dharma.
Bên trong bức tường bao quanh cây bồ-đề, bốn góc đều có bốn ngọn tháp lớn. Ngày xưa, sau khi đức Như Lai nhận cỏ cát tường rồi đi đến chỗ cây bồ-đề, trước đó lần lượt đi qua bốn góc này thì mặt đất đều chấn động, khi đến tòa kim cương [dưới gốc bồ-đề] thì [mặt đất] mới an tĩnh [không còn chấn động].
At each of the four comers inside the bodhi tree enclosure there is a great stupa. Formerly, when the Tathagata had received the auspicious grass, he went to the bodhi tree. He went first to the four corners and the earth quaked but it became quiet and calm when he reached the diamond seat.
Bên trong khuôn viên bức tường bao quanh cây bồ-đề, các thánh tích nằm san sát bên nhau, thật khó kể ra hết.
Inside the enclosure are many sacred sites located as closely together as the scales of a fish, and it is difficult to describe them all in full detail.
Phía bên ngoài tường bao quanh cây bồ-đề, về hướng tây nam có một ngọn tháp, là nơi nhà cũ của hai cô gái chăn bò đã dâng bát cháo sữa. Ngọn tháp kế bên đó là nơi các cô gái nấu cháo, và tháp kế bên nữa là nơi đức Như Lai thọ nhận bát cháo.
At the southwest comer outside the bodhi tree enclosure is a stupa that marks the site of the old house of the two milkmaids who offered milk gruel [to the Buddha].
Beside it is another stupa, marking the place where the milkmaids cooked the gruel, and next to this stupa is the place where the Tathagata received the gruel.
Bên ngoài cửa phía nam của tường bao quanh cây bồ-đề có một hồ nước lớn, chu vi khoảng 1.200 mét, sóng nước trong trẻo, mặt hồ như gương soi, có rồng và cá sống ẩn nấp dưới hồ. Khi hai anh em bà-la-môn nghe theo lời của Đại Tự Tại Thiên mà làm [việc công đức, người em đã] đào hồ này.
Outside the south gate of the bodhi tree enclosure is a big pond more than seven hundred paces in circuit, with clear and lucid water in which dragons and fish dwell. It was dug by the younger brother of a brahman under the order of Mahesvara.
Tiếp đó về phía nam có một hồ nước khác. Ngày xưa, khi đức Như Lai mới thành Chánh Giác, vừa muốn tắm gội, Thiên Đế Thích liền vì Phật mà hóa ra hồ nước. Về phía tây có một tảng đá lớn. Khi đức Phật giặt y xong, vừa muốn mang ra phơi, Thiên Đế Thích liền từ núi Tuyết mang tảng đá này đến [để Phật phơi y]. Bên cạnh đó có ngọn tháp, là nơi đức Như Lai vá sửa tấm y cũ. Tiếp đến về phía nam, trong rừng có một ngọn tháp, là nơi đức Như Lai thọ nhận y áo cũ của một bà lão nghèo.
Next, to the south is a pool that was magically produced by Indra when the Tathagata wished to wash his clothes after having attained enlightenment. At the west of the pool is a big rock that was brought here by Indra from the Great Snow Mountains when the Buddha wished to dry his washed clothes in the sun. Beside the rock is a stupa where the Tathagata mended his old clothes. Next, to the south is a stupa in a wood, which was the place where the Tathagata accepted the old clothes offered by a poor old woman as alms.
Từ hồ nước do Đế Thích hóa ra nhìn về phía đông, trong rừng có hồ nước của Long vương Mục-chi-lân-đà. Nước hồ trong, có màu đen, vị ngon ngọt. Nơi bờ phía tây của hồ có một tinh xá nhỏ, bên trong có một tượng Phật.
To the east of the pool produced by Indra there is a wood in which the pond of the dragon king Mucilinda is located; the water is clear, dark, and sweet-tasting. On the west bank is a small shrine in which is installed an image of the Buddha.
Ngày xưa, khi Như Lai mới thành Chánh Giác đã ngồi yên tĩnh nơi đây nhập định suốt bảy ngày. Lúc bấy giờ, vị long vương này canh phòng bảo vệ đức Như Lai, dùng thân mình quấn quanh Phật bảy vòng, biến hóa thành nhiều đầu để làm thành lọng che bên trên Phật. Cho nên, bên bờ hồ phía đông có một cái hang, là nơi ở của long vương.
Formerly, after the Tathagata had just attained enlightenment he sat in meditation for seven days in this place. The dragon king protected the Tathagata by surrounding him with his body in seven coils, while its many heads reached over him to serve as a canopy. On the east bank of the old pool is the chamber of the dragon king.
Về phía đông hồ Mục-chi-lân-đà, trong rừng có một tinh xá, bên trong có tượng Phật [lúc tu khổ hạnh] gầy ốm. Kế bên có [di tích] nơi kinh hành của Phật, chiều dài 120 mét, có hai cây tất-bát-la ở hai phía nam, bắc. Cho nên theo tục ở đây, những người bị tật bịnh thường mang dầu thơm đến tô phết lên tượng này, rất nhiều người được khỏi bệnh.
In a wood to the east of the dragon Mucilinda’s pool is a shrine with an image of the Buddha in an emaciated condition. Beside the shrine is the place where he walked up and down, more than seventy paces long, and there are two pipal trees, one at the south and the other at the north side of the promenade. In the past and at present it is the custom of the local people to anoint the image with fragrant oil when they are afflicted with a disease, and in most cases they are cured of their illness.
Đây là nơi Bồ Tát tu khổ hạnh. Đức Như Lai vì muốn hàng phục ngoại đạo, lại nhận lời thỉnh cầu của ma, nên thực hành tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày ăn một hạt mè, một hạt lúa mạch, hình dung tiều tụy, thân thể gầy gò chỉ còn da bọc xương, mỗi lúc [muốn đi] kinh hành phải vịn cây mới đứng lên nổi.
This was the place where the Buddha practiced austerities. In order to subdue the heretics, and also at Mara’s request, he practiced asceticism for six years, eating only one grain of sesame and one grain of rice each day, reducing himself to a mere skeleton and becoming so feeble that he had to hold onto the branch of a tree to stand up to take a walk.
Bên cạnh cây tất-bát-la nơi Bồ Tát tu khổ hạnh có một ngọn tháp, là nơi năm người trong nhóm ông A-nhã Kiều-trần-như trú ngụ.
Beside the piped tree where the Bodhisattva practiced austerities is a stupa at the place where Ajhata-Kaundinya and his four companions made their abode.
Ban đầu, khi thái tử rời bỏ gia đình, vẫn còn lang thang trong núi sâu, tạm ngụ chốn rừng thẳm, [chưa dừng lại nơi đâu cố định]. Lúc bấy giờ, vua Tịnh Phạn lệnh cho năm người [nhóm ông Kiều-trần-như] đi theo tìm xem [thái tử ở đâu]. Đến khi thái tử đã tu khổ hạnh, nhóm ông Kiều-trần-như cũng phát tâm [ở lại nơi đây] tu tập rất chuyên cần.
After Prince [Siddhartha] renounced his home to wander in the mountains and marshlands and dwell in woods or by springs, King Suddhodana sent these five men to look after and serve him. Because the prince practiced austerities, Ajhata-Kaundinya and the others also diligently did the same.
Từ nơi trú ngụ của nhóm ông Kiều-trần-như nhìn về hướng đông nam có một ngọn tháp, là nơi Bồ Tát xuống sông Ni-liên-thiền tắm gội. Không xa bờ sông là nơi Bồ Tát thọ nhận bát cháo sữa. Cạnh đó có tháp, là nơi hai vị truởng giả cúng dường cốm mật [lên đức Phật].
To the southeast of the abode of Ajnata-Kaundinya and the others is a 917c stupa where the Bodhisattva entered the Nairanjana River to bathe. Not far from the river is the spot where the Bodhisattva accepted and ate the milk gruel. The stupa beside the spot is the place where two elders offered baked barley and honey [to the Buddha].
[Thuở ấy,] đức Phật ngồi kiết già dưới gốc cây [bồ-đề] điềm nhiên an tịnh, thọ hưởng niềm vui giải thoát. Sau bảy ngày, chuẩn bị ra khỏi thiền định đứng dậy. Lúc ấy có hai thương chủ đang trên đường đi bên ngoài khu rừng, vị thần rừng nơi đây liền [hiện ra] bảo các thương chủ: “Thái tử dòng họ Thích đang ở trong rừng này, vừa mới chứng quả Phật, dừng tâm sâu lắng trong định tịch tịnh, qua 49 ngày rồi mà chưa ăn gì. Các ngươi tùy khả năng [có được món gì] nên đến đó cúng dường, sẽ được phước đức lợi lạc rất lớn.”
The Buddha was sitting cross-legged in silent meditation under a tree, enjoying the bliss of emancipation for seven days before he emerged from the state of tranquility, when two merchants passed by outside the wood. The god of the wood told the merchants, “The prince of the Sakya clan is now in this wood. He has just attained buddhahood and has been sitting in silent concentration with a fixed mind for forty-nine days without taking any food. If you offer him whatever food you may have with you, you will receive great benefit.”
Bấy giờ, hai vị thương chủ ấy mỗi người đều mang cốm mật đến dâng lên cúng dường, đức Thế Tôn thọ nhận.
Each merchant then took out from his ration bag some baked barley and honey to give as offerings, which the World-honored One accepted.
Bên cạnh chỗ các truởng giả hiến cốm mật lại có một ngọn tháp, là nơi Tứ Thiên Vương dâng cúng bình bát.
Beside the place where the elders offered baked barley is a stupa where the four devarajas offered almsbowls [to the Buddha].
Khi các thương chủ dâng cúng cốm mật, đức Thế Tôn đang nghĩ sẽ dùng vật gì để đựng thì Tứ Thiên Vương từ bốn phương hiện lại, mỗi vị đều mang bình bát vàng đến dâng cúng. Đức Thế Tôn lặng thinh không thọ nhận, vì người xuất gia dùng bát [quý] này không thích hợp. Tứ Thiên Vương liền bỏ bình bát vàng, dâng bình bát bạc, cho đến pha lê, lưu ly, mã não, xa cừ, trân châu các loại, nhưng đức Thế Tôn đều không nhận. Tứ Thiên Vương phải quay về cung trời, mang đến bình bát bằng đá có màu sáng xanh lấp lánh, cùng nhau dâng lên. Lúc ấy đức Thế Tôn dứt trừ sự phân biệt mà nhận tất cả các bát này rồi đặt chồng lên nhau, ấn xuống thành một bát, cho nên bên ngoài [mép bát] có bốn đường gờ nổi.
When the merchants had offered the baked barley and honey to him, the World-honored One considered what vessels he should use to hold the food. At that time the four devarajas came from the four quarters and each offered him a golden bowl, but the World-honored One declined the offer by keeping silent, thinking that it was unsuitable for a mendicant to use such an [opulent] bowl. The four devarajas took away the golden bowls and offered silver ones, and in succession they presented bowls of crystal, lapis lazuli, agate, coral, and pearl, but the World-honored One declined them all. The four devarajas then returned to their respective palaces and brought back stone bowls of a dark violet color with a brilliant luster. In order to avoid showing partiality the World-honored One accepted all four bowls, which he stacked and pressed together into one bowl. That is why his almsbowl has four rims on the outside.
Cách chỗ Tứ Thiên Vương dâng cúng bình bát không xa có một ngọn tháp, là nơi đức Như Lai vì mẹ thuyết pháp.
Not far from the place where the four devarajas offered almsbowls is a stupa where the Tathagata preached the Dharma for his mother.
Sau khi đức Như Lai đã thành Chánh Giác, được tôn xưng là Thiên Nhân Sư, mẫu hậu Ma-da từ thiên cung giáng hạ nơi này. Đức Thế Tôn tùy căn cơ chỉ bày giáo pháp làm lợi lạc an vui.
After the Tathagata had attained perfect enlightenment with the title of Teacher of Heavenly and Human Beings, his mother, Lady Mahamaya, descended from her heavenly palace and the World-honored One taught her according to her capacity for her benefit and happiness.
Cạnh đó có một cái hồ đã khô nước, bên bờ hồ có một ngọn tháp, là nơi ngày xưa đức Như Lai hiện các phép thần biến để giáo hóa những người hữu duyên.
Beside this place, on the bank of a dried-up pond, is a stupa where the Tathagata once manifested supernatural powers to convert those who had the good causes to be present on the occasion.
Kế bên nơi đức Như Lai hiện thần biến có một ngọn tháp, là nơi đức Như Lai hóa độ ba anh em Ưu-lâu-tần-loa Ca-diệp và 1.000 người đệ tử [của họ].
Beside the place of showing supernatural powers is a stupa where the Tathagata converted Uruvilva-Kasyapa and his two younger brothers along with their one thousand disciples.
Đức Như Lai khéo dạy dỗ dẫn dắt, tùy lúc thích hợp mà hàng phục, nên lúc bấy giờ 500 đệ tử của Ưu-lâu-tần-loa Ca-diệp xin theo Phật học đạo. Ca-diệp-ba liền nói: “Ta cũng sẽ cùng các ngươi từ bỏ đường mê.” Nói rồi cùng với các đệ tử đi đến chỗ Phật. Đức Như Lai bảo: “Hãy vất bỏ áo bằng da nai, vất bỏ những đồ cúng tế thờ lửa.”
As time passed the Tathagata spread the good Way to conquer people, Uruvilva-Kasyapa’s five hundred disciples wished to accept the Buddha’s teachings. Kasyapa said to them, “I shall also go with you to give up the erroneous way.” So all of them came to the place where the Buddha was and the Tathagata told them, “Throw away your deerskin garb and relinquish the utensils for fire worship.”
Lúc ấy, những người này cung kính vâng lời Phật dạy, mang những y phục [bằng da nai] cùng đồ dùng tế lễ ném hết xuống sông Ni-liên. Ông Nại-địa Ca-diếp [ở phía hạ lưu sông] thấy các đồ tế theo dòng sông trôi xuống liền cùng với [300] đệ tử chờ xem tin tức của người anh. Khi thấy anh mình đã từ bỏ đường cũ [để đi theo đức Phật], liền cũng [xin xuất gia] đắp y hoại sắc. Già-da Ca-diệp-ba có hai trăm đệ tử, nghe hai người anh mình đã bỏ [đạo thờ lửa], nên cũng đến chỗ Phật phát nguyện xuất gia thọ giới.
In accord with the Buddha’s holy instruction, the brahmans cast their garments and utensils into the Nairanjana River. Seeing the sacrificial utensils drifting away on the
current, Nadi-Kasyapa and his disciples waited to see what measures his elder brother would take next. When they saw that his elder brother had 918a changed his religion they also followed his example and donned the dyed robes to become Buddhist monks. When Gaya-Kasyapa and his two hundred disciples heard that his elder brothers had given up their practice, they also came to where the Buddha was and wished to lead the life of purity.
Từ ngọn tháp nơi đức Phật hóa độ anh em ông Ca-diệp-ba, nhìn về phía tây bắc lại có một ngọn tháp, là nơi đức Như Lai đã hàng phục con rồng lửa mà ông Ca-diệp [trước đó] thờ phụng.
To the northwest of the place where the Kasyapa brothers were converted is a stupa where the Tathagata subdued the fire dragon worshiped by the Kasyapas.
Đức Như Lai muốn hóa độ ông Ca-diếp, định trước phải chế phục nguồn gốc niềm tin mê muội của ông ấy, nên đến nghỉ đêm ở căn phòng có con rồng lửa. Vừa quá nửa đêm, rồng phun ra khói lửa, đức Phật đã nhập định liền phóng hào quang như ánh lửa, khiến căn phòng ấy sáng rực lên như lửa cháy. Lúc ấy, các vị phạm chí sợ Phật bị lửa thiêu, tất cả đều vội vã chạy đến cứu, [sợ không kịp nên] lòng đau đớn thương tiếc. Ông Ưu-lâu-tần-loa Ca-diệp-ba liền nói với các đệ tử: “[Theo ta] thấy thì [ánh sáng] đó chưa hẳn là lửa cháy, có thể là vị sa-môn [kia] đang hàng phục rồng lửa.”
Whenever the Tathagata wished to convert someone he first subdued the object of that person’s worship. So he went to stay in the cave of the brahmans’ fire dragon. Late in the night the dragon spouted smoke and flames and the Buddha, who was sitting in meditation, also issued a bright light, illuminating the cave with the light of furious flames and blazing fire. The brahman teachers, fearing that the fire might hurt the Buddha, hurried to the spot, wailing piteously. Uruvilva-Kasyapa said to his disciples, “In view of the present situation it may not be a fire. The sramana may be subjugating the fire dragon.”
Đức Như Lai bắt con rồng lửa nhốt trong bình bát, lúc sáng sớm [hôm sau] liền mang cho các đệ tử ngoại đạo xem.
The Tathagata then put the fire dragon into his almsbowl and showed it to the heretical disciples at dawn.
Ngọn tháp bên cạnh đó là nơi 500 vị [Phật] Độc giác cùng nhập Niết-bàn.
The stupa beside this spot was the place where five hundred pratyekabuddhas entered nirvana simultaneously.
Ngọn tháp ở phía nam của hồ rồng Mục-chi-lân-đà là nơi Ca-diệp-ba vội vàng đến cứu [vì sợ] đức Như Lai bị ngập nước.
To the south of the pool of the dragon Mucilinda is a stupa where the Kasyapas went to rescue the Tathagata from drowning.
Lúc bấy giờ, anh em Ca-diệp-ba có sức thần thông, xa gần đều ngưỡng mộ, dân chúng tin theo. Đức Thế Tôn muốn dẫn dắt những kẻ mê lầm, dùng quyền biến để nhiếp hóa, liền [làm cho] mây đen bao phủ, mưa lớn dầm dề, nhưng chỉ riêng chung quanh chỗ Phật không có nước.
The Kasyapa brothers were highly esteemed for their supernatural powers and were respected for their virtue by people from far and near who had faith in them. In the course of exerting his great power in an appropriate way to guide and convert those who had gone astray, the World-honored One caused a dense cloud that poured down torrential rains; only the Buddha’s lodging remained dry.
Lúc ấy, Ca-diệp-ba thấy mưa đổ dầm dề như thế liền nói với đệ tử: “Chỗ ở của vị sa-môn ấy làm sao khỏi ngập chìm trong nước?” Liền vội vã chèo thuyền đến cứu thì thấy đức Thế Tôn đi trên mặt nước như đi trên đất, bước đi giữa dòng nước, đi đến đâu nước tự động rẽ sang hai bên, mặt đất hiện ra. Ca-diếp thấy vậy trong lòng kính phục quay về.
Seeing the clouds and rain, the Kasyapas said to their disciples, “Might the lodging of the sramana not be flooded?” They sailed in a boat to rescue the World- honored One but saw that he was walking on the surface of the water just as if walking on earth, and when he walked into the river the water gave way to him and the sand on the bottom appeared [to support him]. At this sight, the Kasyapas were reassured and departed.
Từ cửa phía đông của tường bao quanh cây bồ-đề, cách khoảng chưa được 1 km có một cái hang của con rồng mù.
Two or three li outside the enclosure of the bodhi free is the cave of a blind dragon.
Con rồng này do nghiệp ác nhiều đời trước, chịu quả báo mù mắt từ lúc sinh ra. Khi đức Như Lai từ núi Tiền Chánh Giác muốn đi đến cây bồ-đề, đi ngang qua cái hang này thì rồng tự nhiên sáng mắt, liền nhìn thấy Bồ Tát đang đi đến chỗ cây [bồ-đề], liền thưa với Bồ Tát rằng: “Không bao lâu nữa ngài sẽ thành Phật. Đôi mắt con bị mù đã rất lâu, chỉ mỗi khi có Phật ra đời mới được sáng lại. Trong Hiền kiếp này, khi ba vị Phật vừa qua ra đời thì đôi mắt con đều được sáng ra nhìn rõ. Hôm nay ngài đến đây thì mắt con bỗng được sáng ra, cho nên con biết rằng ngài sẽ thành Phật.”
Because this dragon had done evil deeds in its previous lives it had been reborn blind as its retribution. As the Tathagata was proceeding from Pragbodhi Mountain to the bodhi tree he passed by the cave of the blind dragon. The dragon suddenly recovered its sight and saw that the Bodhisattva was on his way to the bodhi tree. [The dragon] said to the Bodhisattva, “Kind sir, you will soon gain perfect enlightenment. I have been blind for quite a long time but whenever a buddha emerges in the world I regain my eyesight. When the past three buddhas of the bhadrakalpa appeared in the world I recovered my sight on each occasion. Now you have come here and my eyes suddenly regained perception. From this I know that you will become a buddha.”
Kế bên cửa đông của tường bao quanh cây bồ-đề lại có một ngọn tháp, là nơi Ma vương phải khiếp sợ Bồ Tát.
Beside the east gate of the enclosure of the bodhi tree is a stupa where the King of Maras [tried to] frighten the Bodhisattva.
Ban đầu, khi Ma vương biết Bồ Tát sắp thành Chánh Giác liền [tìm mọi cách] dụ dỗ, quấy nhiễu đều không kết quả, hết sức lo lắng sợ hãi không còn biết dựa vào đâu, liền tập trung các chúng quỷ thần [thuộc hạ], cùng tất cả binh ma tề chỉnh, lớp lớp đông đảo quân binh định uy hiếp Bồ Tát. Liền đó lại nổi lên mưa to gió lớn, sấm sét mịt mù, lửa khói ngút trời, cát bay đá chạy, bày ra la liệt đủ các loại khí giới, cung tên.
Knowing that the Bodhisattva was going to achieve enlightenment and having failed to tempt him, the King of Maras did not know what to do. Worried, he called various gods to a meeting and arrayed his demon troops, arranging them in proper order, to menace the Bodhisattva. A storm rose up, thunder and lightning flashed in the dark night, fire blazed and smoke rose high, and sand and stones were churned up and blown into the air. Spears and shields were fully prepared and bows and arrows employed to the utmost,
Lúc ấy, Bồ Tát liền nhập định Đại từ, bao nhiêu binh khí đều hóa thành hoa sen, ma quân kinh hãi khiếp sợ hối hả tan rã chạy về.
but the Bodhisattva remained in the meditation of great compassion and all the weapons turned into lotus flowers. Mara’s troops became terrified and retreated in disorder.
Cách đó không xa lại có hai ngọn tháp, do Đế Thích và Phạm vương dựng lên.
Not far from this place are two stupas, built by Indra and Brahma.
Bên ngoài cổng phía bắc của tường bao quanh cây bồ-đề có chùa Ma-ha Bồ-đề. Trước đây do vua nước Tăng-già-la xây dựng, tổng thể chia thành sáu phần, cổng xây ba tầng, có tường bao quanh cao đến 11-12 mét, kiến trúc cực đẹp, trang sức sắc sảo mỹ lệ. Tượng Phật đúc bằng vàng, bạc và trang sức bằng các loại trân bảo. Các ngọn tháp đều cao rộng, trang sức đẹp đẽ, bên trong có xá-lợi Như Lai, xá-lợi xương lớn như lóng tay, sáng trắng, trong suốt, thấu cả trong ngoài, xá-lợi thịt như viên chân châu lớn, có màu hồng pha sắc xanh sáng.
Outside the north gate of [the enclosure of] the bodhi tree is Mahabodhi Monastery, built by a former king of the country of Simhala. The buildings consist of six courtyards and three-storied pavilions, surrounded by walls thirty or forty feet high. The workmanship is most wonderful and the decorative paintings are exquisitely done. The Buddha’s image is made of gold and silver and all the ornaments are embedded with gems and jewels. The stupas are lofty and spacious with wonderful adornments and they contain relics of the Tathagata. The bone relics are of the size of a finger joint, lustrous and pure white in color and semitransparent. The flesh relics, as big as pearls, are of a pinkish-blue color.
Mỗi năm, vào ngày trăng tròn của tháng Như Lai đại thần biến (tức là ngày 30 tháng 12 theo lịch Ấn Độ, nhằm ngày 15 tháng giêng theo lịch Trung Hoa), xá-lợi Phật được mang đặt ra bên ngoài cho đại chúng [chiêm ngưỡng]. Vào ngày ấy, thường có [điềm lành như xá-lợi] phóng tỏa hào quang hoặc trời mưa hoa.
Every year on the full moon day of the month of showing the Tathagata’s divine power of ubiquity (i.e., on the thirtieth day of the twelfth month in the Indian calendar, corresponding to the fifteenth day of the first month in China) these relics are shown to the public and a light is emitted or flowers rain down in showers.
Tăng sĩ [ở đây] chưa đến 1.000 người, tu tập theo giáo pháp cả Đại thừa và Thượng tọa bộ thuộc Tiểu thừa, luật nghi thanh tịnh đầy đủ, giới hạnh trong sạch sáng ngời.
There are fewer than a thousand monks, who study the teachings of both the Mahayana and Sthavira schools. They rigorously observe the Vinaya rules, are pure in conduct, and have moral integrity.
Thuở xưa, vua nước Tăng-già-la ở vùng biển phía nam [Ấn Độ] bẩm tính thuần thành tin sâu Phật pháp, trong gia tộc có người em xuất gia, nghĩ tưởng đến thánh tích của Phật nên vượt đường xa đến Ấn Độ, xin ngụ ở các chùa, nhưng đều bị khinh chê là dân vùng biên địa hèn kém. Vị ấy liền trở về nước, nhà vua thân hành đi đón từ xa. Vị sa-môn buồn tủi không nói nên lời. Vua hỏi: “Thầy có điều chi ôm ấp trong lòng mà buồn bã như vậy?”
Formerly, the king of the country of Simhala in the South Sea was a devout Buddhist by birth. He had a cousin who had become a monk and desired to visit the holy traces of the Buddha. So he traveled far to India and sought lodging in various monasteries, but all the local monks despised him as a frontiersman. He returned to his homeland and the king went out some distance to welcome him. The sramana sobbed piteously and could not speak properly. The king said, “What is wrong with you, why are you so sad?”
Vị sa-môn nói: “Tôi dựa vào uy thế của nước ta mà ra đi đến phương xa học đạo, lang bạt xứ người, tháng năm dài chịu đủ điều nóng lạnh trên đường, lại còn lúc nào cũng bị khinh chê nhục mạ, mở miệng nói ra liền bị người chê cười, trong lòng đầy nỗi buồn đau nhục nhã, còn tâm trạng nào để vui được?”
The sramana said, “Depending upon the prestige of our country I traveled far to seek the Way. I sojourned in a foreign land and experienced the discomfort of cold and hot weather. I was often insulted for my behavior and ridiculed for my utterances. How could I be happy under such worrisome and shameful conditions?”
Vua hỏi: “Nếu quả là như thế, vậy giờ nên làm thế nào?”
The king said, “If that is the case, what should I do?”
Vị sa-môn liền nói: “Kính mong đại vương vì gieo trồng ruộng phước mà cho xây dựng chùa ở các nước vùng Ấn Độ, vừa để biểu dương các thánh tích, lại cũng được danh tiếng tốt đẹp, đem phúc lành [hồi hướng cầu nguyện] cho tiên vương, mà cũng lưu lại ân đức cho con cháu.”
The sramana said, “I sincerely hope that Your Majesty will pay attention to the performance of good deeds and construct a monastery in India. That will not only glorify the holy site but also build a good reputation for yourself. The blessedness of the deed will honor our forefathers and benefit our descendants as well.”
Vua nói: “Việc này thật quá tốt đẹp, [thật tiếc là] sao mãi đến giờ ta mới được nghe!”
The king said, “That is a good idea. How is it that I hear of it so late?”
Liền lập tức sai người mang các đồ quý báu trong nước sang dâng cho vua Ấn Độ. Vua Ấn Độ nhận lễ rồi, muốn kết sâu tình nghĩa với các nước ở vùng xa xôi, liền hỏi sứ thần: “Nay ta nên tặng món gì cho ngươi mang về để đáp lại thịnh tình này?”
The king [of Simhala] then offered all the treasures of his country to the king of India, who, after accepting the tribute and wishing to foster friendship with a distant ruler, said to the envoy, “What shall I give you to take back as a return gift?”
Sứ thần liền thưa: “Vua Tăng-già-la cúi đầu trước đức vua đại cát tường của Ấn Độ. Uy đức của ngài chấn động cõi xa, ân huệ của ngài thấm nhuần khắp chốn. Có sa-môn ở đất nước nhỏ bé của chúng tôi, vì khâm phục ngưỡng mộ phong hóa của ngài nên bạo gan đến đây để kính viếng những nơi thánh tích, muốn trú ngụ ở các chùa nhưng không một chùa nào giúp cho chỗ ở, phải chịu đựng nỗi khổ khó khăn cay đắng muôn phần, đành xấu hổ mà quay về. Nay vua nước tôi muốn định chuyện dài lâu, để lại khuôn mẫu cho đời sau, [xin được] xây dựng chùa chiền trên đất Ấn Độ, để giúp cho những vị khất sĩ [hành hương] xa xôi có nơi nghỉ ngơi trú ngụ, được vậy thì người qua kẻ lại không ngừng, sự giao hảo giữa hai nước sẽ càng tốt đẹp.”
The envoy said, “The king of Simhala pays homage to the King of Great Auspiciousness of India. Your prestige and virtue extend far and your kindness and benevolence cover all living beings. A sramana of our humble land, out of respect and admiration for the morals and manners of your country, ventured to travel to your esteemed land to pay veneration to the holy sites. He sought lodging in various monasteries but none would 918c house him. After undergoing extreme difficulties, he rctumcd home in shame. I humbly propose a far-reaching project that may serve as an example for coming generations: to build a monastery in India in order to provide a resting place for traveling monks, to promote good relations between our two countries, and to allow envoys to be exchanged without lapse.”
Vua [Ấn Độ] nói: “Sự giáo hóa tiềm tàng của đức Như Lai [từ thuở trước], phong thái tốt đẹp vẫn còn đây. Trong số các thánh tích, [quý quốc có thể tùy ý] chọn lấy một nơi [để xây dựng].”
The king said, “The tradition of the Tathagata’s subtle edification is still extant. You may choose any of the holy sites [for the construction].”
Sứ giả từ biệt quay về báo lên vua Tăng-già-la, quần thần đều đến chúc mừng. Vua liền cung thỉnh các vị sa-môn cùng bàn bạc về việc [chọn nơi] xây dựng. Các sa-môn nói: “Chư Phật từ trước đến nay đều chứng thành Chánh Giác nơi cây bồ-đề. Xét qua tất cả các ý kiến khác nhau thì không có nơi đâu thích hợp bằng chỗ này.”
Bearing this message the envoy returned home to report to the king [of Simhala]. The king’s ministers prostrated themselves before him in congratulation. The sramanas were then convened to discuss the matter of constructing a monastery and they said, “As the bodhi tree is the place where the past buddhas attained [buddhahood] and future buddhas will attain buddhahood, there is no better place among all the suggestions.”
Sau đó, vua Tăng-già-la liền đem tài bảo trong nước đến để xây dựng ngôi chùa [ở chỗ cây bồ-đề Phật thành đạo], rồi đưa chư tăng trong nước [đến đó], theo đúng phép tắc cúng dường. Lại làm một bài văn khắc vào bảng đồng như sau:
The treasures of the country were donated for the construction of this monastery, and monks from the country [of Simhala] were sent to look after it. A copper plate was inscribed with the following words:
“Chư Phật có dạy, việc cúng dường bố thí phải vô tư không phân biệt. Cứu giúp hết thảy những người hữu duyên, đó là lời khuyên sáng suốt của các bậc thánh. Nay trẫm là người kém cỏi mà phải gánh vác vương nghiệp lớn lao, nên xây dựng chùa này để biểu dương thánh tích, đem phúc lành [hồi hướng báo đáp] tổ tiên, tạo ân huệ để muôn dân cùng hưởng. Không chỉ riêng tăng sĩ nước [Tăng-già-la] được tự do sử dụng, mà tăng sĩ các nước khác cũng được hưởng cùng quy chế. Việc này truyền lại cho đời sau, mãi mãi không dứt.”
“Selfless almsgiving is the supreme teaching taught by all buddhas and rendering assistance to those who have the cause to receive it is the explicit instruction of former sages. I, this humble person, after having succeeded to the throne, have built this monastery to glorify the holy site and to render blessedness to my ancestors, as well as to benefit the common people. The monks of my country may have free access to it and the people of the country where it stands may also enjoy the same privilege as the monks. This tradition is to be transmitted to posterity into the indefinite future.”
Cho nên tại chùa này [ngày nay] có rất nhiều tăng sĩ từ nước Tăng-già-la.
Thus most of the monks in this monastery come from the Land of Lions.
Từ cây bồ-đề [nơi Phật thành đạo] đi về hướng nam, trong suốt phạm vi hơn 3 km có rất nhiều thánh tích, nằm san sát bên nhau, thật khó kể ra cho đầy đủ. Mỗi năm, sau khi các vị tỳ-kheo vừa qua mùa an cư, từ khắp bốn phương kẻ tăng người tục cùng kéo về đây cả trăm ngàn vạn người, trong suốt bảy ngày bảy đêm cùng dâng hương hoa, đánh trống tấu nhạc, thăm thú khắp các nơi trong rừng, lễ bái cúng dường.
More than ten li to the south of the bodhi tree the sacred sites are located so closely to each other that it is difficult to tell of them all in detail. Each year when the bhiksus end the rains retreat, monks and laypeople, hundreds and thousands in number, come here from the four quarters, holding flowers, playing music, and wandering in the woods to perform acts of veneration and make offerings for seven days and nights.
Tăng sĩ ở Ấn Độ y theo lời Phật dạy, thảy đều bắt đầu nhập an cư vào ngày mồng một thuộc nửa đầu của tháng thất-la-phạt-noa, nhằm ngày 16 tháng 5 theo lịch Trung Hoa, và chấm dứt mùa an cư vào ngày 15 thuộc nửa sau của tháng át-thấp-phược-dữu-xà, nhằm ngày 15 tháng 8 theo lịch Trung Hoa.
According to the Buddha’s holy teachings, the monks of India commence the rains retreat on the first day of the first half of the month of Sravana, corresponding to the sixteenth day of the fifth month in China, and the retreat ends on the fifteenth day of the second half of the month of Asvayuja, corresponding to the fifteenth day of the eighth month in China.
Tên gọi các tháng của Ấn Độ được xác định căn cứ theo các vì sao, nên xưa nay không hề thay đổi, các bộ phái cũng đều giống nhau. Chỉ vì phương ngữ các nơi không giống nhau nên khi phiên dịch có sự sai lầm, dẫn đến sai khác trong việc tính toán ngày tháng, cho nên [tại Trung Hoa mới] nhập an cư vào ngày 16 tháng 4 và chấm dứt an cư vào ngày 15 tháng 7.
In India, as the months are named after the constellations, the course of time has not changed from ancient times to the present and it is invariably accepted by all schools. Probably due to misunderstanding or mistranslation from the foreign language differences in the calculations for the division of time and the fixation of the months arose. Thus [in China] the rains retreat begins on the sixteenth day of the fourth month and ends on the fifteenth day of the seventh month (one month earlier than in India).
End of Fascicle VIII of The Great Tang Dynasty
Record of the Western Regions
Hình minh họa: Đồ họa thể hiện hành trình qua các thánh tích trong nước Ma-yết-đà - Phần 1 - Quyển 8 - Tây Vực Ký