Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Vết thương thân thể sẽ lành nhưng thương tổn trong tâm hồn sẽ còn mãi suốt đời. (Stab the body and it heals, but injure the heart and the wound lasts a lifetime.)Mineko Iwasaki
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Tây Vực Ký »» Xem đối chiếu Anh Việt: Quyển 2 »»

Tây Vực Ký
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Quyển 2

Donate

(Lượt xem: 3.843)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || English || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Quyển 2

Fascicle II

QUYỂN 2 - (3 nước)
Fascicle II - Three Countries, from Lampa to Gandhara
● Nước Lam-ba ● Nước Na-yết-la-hạt ● Nước Kiện-đà-la
1. The Country of Lampa
2. The Country of Nagarahara
3. The Country of Gandhara

Đại cương về Ấn Độ

Về danh xưng của xứ Thiên Trúc, có nhiều cách gọi, ý kiến khác nhau khá rối rắm. Như cách đọc cũ là Thân-độc, hoặc là Hiền-đậu, nay theo âm đọc chính xác nên gọi là Ấn-độ.
In a careful study we find that Tianzhu is variantly designated, causing much confusion and perplexity. Formerly it was called Shengdu, or Xiandou, but now we should call it Indu (India) according to the right pronunciation.
Người Ấn Độ, tùy theo vùng đất, mỗi nơi đều xưng là một nước, phong tục tập quán khác nhau, nhưng để gọi chung cả vùng đất này theo cách người dân ở đây ưa thích thì dùng tên Ấn Độ.
The people of India use different names for their respective countries, while people of distant places with diverse customs generally designate the land that they admire as India.
Tên gọi Ấn Độ (Indu), tiếng Trung Hoa dịch nghĩa là “nguyệt” (mặt trăng). Mặt trăng lại có nhiều tên gọi [trong tiếng Ấn Độ], đây chỉ là một trong số đó. Ý nghĩa ở đây là, muôn loài luân hồi không dứt, như trong đêm dài vô minh tăm tối không tiếng gà báo sáng. Cũng giống như khi mặt trời khuất bóng, đèn đuốc được thắp lên. Tuy vẫn có ánh sao chiếu tỏ, nhưng làm sao sánh được ánh sáng mặt trăng? Nhân nơi sự so sánh ấy nên ví Ấn Độ như mặt trăng, bởi vì [từ sau khi mặt trời Thế Tôn lịm tắt], nơi đất nước này các bậc thánh hiền nối tiếp nhau ra đời, dẫn dắt người đời, chế ngự muôn vật, cũng giống như ánh trăng [tiếp nối mặt trời đã lặn mà] soi chiếu muôn nơi. Do ý nghĩa này mà gọi tên là Ấn Độ.
The word indu means “moon,” which has many names, and this is one of them. It means that living beings live and die in the wheel of transmigration in the long night of ignorance ceaselessly, without a rooster to announce the advent of the dawn. When the sun has sunk candles continue to give light in the night. Although the stars are shining in the sky, how can they be as brilliant as the clear moon? For this reason India was compared to the moon. Because saints and sages emerged one after another in that land to guide living beings and regulate all affairs, just as the moon shines upon all things, it was called India.
Người Ấn Độ có nhiều chủng tộc, giai cấp, trong đó riêng giai cấp bà-la-môn được xem là thanh cao tôn quý. Theo đó, tên gọi này từ xưa được xem là thanh nhã, truyền mãi thành thói quen, người ta không cần phân biệt địa giới sai khác, tất cả vùng này đều gọi chung là nước Bà-la-môn.
In India the people are divided into different castes and clans, among whom the brahmans are the noblest. Following their good name, tradition has designated the whole land as the brahmanical country, disregarding the regular lines of demarcation.
Về địa giới, có thể nói là Ấn Độ chia thành năm vùng, chu vi hơn 29.000 km, ba mặt giáp biển, riêng phía bắc dựa lưng vào dãy Tuyết sơn (Hy-mã-lạp sơn). Bắc Ấn rộng, Nam Ấn hẹp, hình dạng chung như nửa mặt trăng, ranh giới phân vạch chia ra hơn 70 nước. Khí hậu nóng, đất đai đa phần là suối khe, ẩm thấp. Bắc Ấn có nhiều núi non, gò đồi, đất nhiễm mặn. Đông Ấn nhiều sông ngòi, ruộng đồng màu mỡ tốt tươi. Nam Ấn cây cỏ sum suê tươi tốt. Tây Ấn đất đai nhiều sỏi đá, cằn cỗi. Ở đây chỉ nói qua đại lược như vậy.
As regards the territory, we may say that the whole of India, with its five parts, is over ninety thousand li in circuit, with three sides facing the sea and the Snow Mountains at its back in the north. It is wide in the north and narrow in the south, in the shape of a crescent moon. The land is divided into more than seventy countries. The climate is particularly hot and the soil is mostly moist, with many springs. In the north there are many mountains and the 875c hills are of saline-alkaline soil. In the east the plain is rich and moist, and the cultivated fields are productive. In the south vegetation is luxuriant, while in the west the soil is hard and barren. Such is the general condition [of this vast country] told in brief.
Về đơn vị đo lường có du-thiện-na. Du-thiện-na là độ dài đoạn đường vào thời xưa các vị Thánh vương khi hành quân đi được mỗi ngày. Theo các nhà cựu dịch thì mỗi du-thiện-na bằng 13 km, theo phong tục của Ấn Độ thì bằng 10 km, còn theo ghi chép trong kinh điển thì chỉ có 5 km.
For the measurement of space there is the yojana. (In olden times it was called youxiin, yiizhena, oryouyan, all incorrect.) One yojana is the distance covered by the ancient royal army in one day’s time. Formerly it was said to be forty li, or thirty li according to Indian usage, while in Buddhist texts it was counted as only sixteen li.
Lại nói đến các đơn vị nhỏ hơn thì một du-thiện-na bằng 8 câu-lô-xá. Câu-lô-xá là khoảng cách xa nhất có thể nghe được tiếng rống của con bò. Một câu-lô-xá lại chia thành 500 cung, mỗi cung là độ dài của bốn khuỷu tay, mỗi khuỷu tay là độ dài của 24 ngón tay, mỗi ngón tay là độ dài của 7 hạt lúa.
To divide it down to the infinitesimal, one yojana is divided into eight krosas, one krosa being the distance within which the mooing of a bull can be heard, one krosa into five hundred bows, one bow into four cubits, one cubit into twenty-four fingers, and one finger joint into seven grains of winter wheat.
Tiếp đến là các đơn vị nhỏ hơn nữa, theo thứ tự nhỏ dần, cứ mỗi đơn vị phân chia thành 7 phần thì có đơn vị nhỏ hơn tiếp theo, đó là [độ dài mỗi hạt lúa bằng 7] sắt (con rận), rồi đến kỉ (con rận con), rồi đến khích trần (khe hở nhỏ như bụi), [phân tử của] lông bò, [phân tử của] lông dê, [phân tử của] lông thỏ, [phân tử của] đồng, [phân tử của] nước. Lại chia [phân tử của nước] ra thành 7 phần thì là [phân tử của] bụi nhỏ, hay tế trần. Tế trần chia ra làm 7 phần nhỏ nữa gọi là cực tế trần (bụi cực nhỏ). Cực tế trần thì không thể chia nhỏ hơn nữa, vì nếu chia ra sẽ trở về không, cho nên gọi là nhỏ đến cùng cực rồi.
Then the division goes on by sevens through the louse, the nit, the crevice dust, the ox hair, the sheep wool, the hare hair, the copper dust [particle], the water dust, down to the fine dust, and one fine dust [particle] is divided into seven extremely fine dust [particles]. The extremely fine dust is indivisible; if divided it becomes emptiness. This is why it is called extremely fine dust.
Nói về lịch pháp để tính sự vận hành của âm dương, chu kỳ vận chuyển của mặt trời, mặt trăng, thì tên gọi tuy khác nhưng thời gian không khác [với lịch nhà Đường]. Tùy theo việc quan sát tinh tú mà làm mốc để gọi tên các tháng.
Although the names of the alternating [periods of] day and night and the emergence and disappearance of the sun and moon are different [from those used in China], there is no difference in the measurement of time and season. The months are named according to the position of the Big Dipper.
Đơn vị thời gian ngắn nhất là sát-na. 120 sát-na hợp thành một đát-sát-na (tatkshana), 60 đát-sát-na là một lạp-phược (lava), 30 lạp-phược là một mâu-hô-lật-đa (muhurta), 5 mâu-hô-lật-đa là một thời. Sáu thời hợp thành một ngày một đêm (ngày 3, đêm 3). Người thế tục thì chia mỗi ngày đêm ra thành 8 thời (ngày 4, đêm 4).
The briefest unit of time is called a ksana; one hundred twenty ksanas make one tatksana; sixty tatksanas make one lava; thirty lavas make one muhiirta; five muhurtas make one kola; and six kolas make one day and one night (three kolas in the daytime and three in the night). Secular people divide one day and one night into eight kolas (four kolas in the daytime and four in the night, each being subdivided into four divisions).
Từ đầu tháng đến trăng tròn giữa tháng gọi là bạch phần. Từ giữa tháng trăng khuyết dần cho đến cuối tháng gọi là hắc phần. Hắc phần có thể gồm 14 ngày, hoặc 15 ngày, tùy theo tháng thiếu hay tháng đủ. Hắc phần trước, bạch phần sau, hợp thành một tháng. Sáu tháng là một hành. Khi mặt trời đi bên trong gọi là bắc hành, mặt trời đi bên ngoài gọi là nam hành, cả 2 hành hợp lại thành 1 năm. Mỗi năm lại chia thành 6 mùa.
From the waxing moon to the full moon is known as the white division, and from the waning moon to the last day of the month is called the black division. The black division has fourteen or fifteen days, as the month may be “small” or “big.” The anterior black division and the posterior white division constitute one month and six months make one year. When the sun moves inside the celestial equator, it is the northern revolution, and when it moves outside the celestial equator, it is the southern revolution. These two revolutions constitute one year. The year is also divided into six seasons, namely,
- Từ ngày 16 tháng giêng đến ngày 15 tháng 3 là mùa ít nóng.
from the sixteenth day of the first month to the fifteenth day of the third month is the season of gradual heat;
- Từ ngày 16 tháng 3 đến 15 tháng 5 là mùa rất nóng.
from the sixteenth day of the third month to the fifteenth day of the fifth month is the season of intense heat;
- Từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 15 tháng 7 là mùa mưa.
from the sixteenth day of the fifth month to the fifteenth day of the seventh month is the rainy season;
- Từ ngày 16 tháng 7 đến ngày 15 tháng 9 là mùa cây cỏ tốt tươi rậm rạp.
from the sixteenth day of the seventh month to the fifteenth day of the ninth month is the season of exuberance;
- Từ ngày 16 tháng 9 đến ngày 15 tháng 11 là mùa rét nhẹ, hơi lạnh.
from the sixteenth day of the ninth month to the fifteenth day of the eleventh month is the season of gradual cold;
- Từ ngày 16 tháng 11 đến ngày 15 tháng giêng năm sau là mùa rét lạnh.
and from the sixteenth day of the eleventh month to the fifteenth day of the first month is the season of severe cold.
Theo ghi chép trong Kinh điển thì mỗi năm chia làm 3 mùa.
According to the holy teachings of the Tathagata, a year is divided into three seasons, namely
- Từ ngày 16 tháng giêng đến 15 tháng 5 là mùa nóng.
from the sixteenth day of the first month to the fifteenth day of the fifth month is the hot season;
- Từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 15 tháng 9 là mùa mưa.
from the sixteenth day of the fifth month to the fifteenth day of the ninth month is the rainy season;
- Từ ngày 16 tháng 9 đến ngày 15 tháng giêng năm sau là mùa rét lạnh.
and from the sixteenth day of the ninth month to the fifteenth day of the first month is the cold season.
Hoặc cũng chia ra 4 mùa, gọi là xuân, hạ, thu, đông.
Or it is divided into four seasons, namely, spring, summer, autumn, and winter.
- Mùa xuân có 3 tháng, gọi là tháng chế-đát-la, tháng phệ-xá-khư, tháng thệ-sắt-trá, tức là từ ngày 16 tháng giêng đến ngày 15 tháng tư.
The three months of spring are called Caitra, Vaisakha, and Jyestha, corresponding to the period from the sixteenth day of the first month to the fifteenth day of the fourth month in China.
- Mùa hạ có 3 tháng là tháng át-sa-đồ, tháng thất-la-phạt-noa, tháng bà-la-bát-đà, tức là từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7.
The three months of summer are called Asadha, Sravana, and Bhadrapada, corresponding to the period from the sixteenth day of the fourth month to the fifteenth day of the seventh month in China.
- Mùa thu có 3 tháng là tháng át-thấp-phược-dữu-xà, tháng ca-lạt-để-ca, tháng mạt-già-thủy-la, tức là từ ngày 16 tháng 7 đến ngày 15 tháng 10.
The three months of autumn are known as Asvayuja, Karttika, and Margaslrsa, corresponding to the period from the sixteenth day of the seventh month to the fifteenth day of the tenth month in China.
- Mùa đông có 3 tháng là tháng báo-sa, tháng ma-khư và tháng pha-lặc-cũ-noa, tức là từ ngày 16 tháng 10 đến ngày 15 tháng giêng năm sau.
The three months of winter are named Pausa, Magha, and Phalguna, corresponding to the period from the sixteenth day of the tenth month to the fifteenth day of the first month in China.
Cho nên, chư tăng Ấn Độ vâng theo lời Phật dạy, có hai thời điểm để an cư [mùa mưa], hoặc ba tháng trước, hoặc ba tháng sau. Ba tháng trước thì bắt đầu từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 15 tháng 8. Ba tháng sau thì bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 đến ngày 15 tháng 9.
Thus, according to the holy teachings of the Buddha, the monks of India observe the summer retreat during the rainy season, either in the earlier three months or in the later three months. The earlier three months correspond to the period from the sixteenth day of the fifth month to the fifteenth day of the eighth month in China, and the later three months correspond to the period from the sixteenth day of the sixth month to the fifteenth day of the ninth month in China.
Các vị chuyển dịch kinh luật thời trước dịch [chữ an cư mùa mưa] là “tọa hạ” (坐夏), hoặc là “tọa lạp” (坐臘), đều là do dựa theo tập tục khác biệt ở những vùng biên địa, không theo đúng cách phát âm chính thức ở vùng Trung Ấn, hoặc do chưa hoàn toàn hiểu hết được phương ngôn [các vùng], nên sự chuyển dịch có phần sai lệch.
Former translators of scriptures and Vinaya texts used the terms zuoxia or zuola (“to sit for the summer or the annual retreat”). This was because they were outlandish people who did not understand the Chinese language correctly or were not conversant with the dialects, and so they committed mistakes in their translations.
Hoặc như đối với thời gian ngày tháng đức Như Lai giáng thần, đản sanh, xuất gia, thành Phật, nhập Niết-bàn, đều có sai lệch, ở phần sau sẽ đề cập đến.
Moreover, there are divergences in the calculation of the dates of the Buddha’s entry into his mother’s womb, birth, renunciation, enlightenment, and nirvana; this point will be discussed later.
Nói về chỗ ở, nơi làng mạc thành ấp thì có thành vuông bao quanh, vừa cao vừa rộng, đường thông ngõ tắt giao nhau, lượn uốn quanh co, chợ búa bên đường, hàng quán, quán nước cũng đều dọc theo đường. Những hạng người làm nghề giết mổ, câu cá, ca hát, diễn kịch, đao phủ, người gánh phân, đổ rác, dọn dẹp vệ sinh... phải có dấu hiệu đặc biệt nơi nhà ở. Họ bị xô đuổi phải sống bên ngoài thành, mỗi khi ra vào đi lại phải giấu mình khép nép ven đường bên trái, [né tránh những giai cấp trên].
As regards the towns and cities, they have square city walls, which are broad and tall. The streets and lanes are narrow and winding, with stores facing the roads and wine shops standing beside the streets. Butchers, fishermen, harlots, actors, executioners, and scavengers mark their houses with banners and are not allowed to live inside the cities. When they come to town they have to sneak up and down along the left side of the road.
Về cách thức xây dựng, nhà ở đều có tường bao quanh, do đất đai thấp cần ngăn nước nên đa phần tường xây bằng gạch nung. Vách nhà thì dùng tre, gỗ đan ghép để làm thành. Nhà gỗ thì lợp mái bằng ngói mộc, phủ vôi bên trên. Những kiến trúc lớn thì cách thức xây dựng giống như ở Trung Hoa.
Concerning the building of residential houses and the construction of the city walls, they are mostly built with bricks, as the terrain is low and humid, while the walls of houses may be made of wattled bamboo or wood. The roofs of houses, terraces, and pavilions are made of planks, plastered with limestone and covered with bricks or adobe. Some of the lofty buildings are similar in style to those in China.
Nhà ở cũng được lợp mái bằng cỏ tranh. Vách bằng ván gỗ hoặc gạch nung, quét vôi để làm đẹp. Nền đất trải phân bò lên cho là sạch, thỉnh thoảng rải hoa tươi lên. Đây là điểm khác biệt với Trung Hoa.
Cottages thatched with cogon grass or ordinary straw are built with bricks or planks and the walls are adorned with limestone. The floor is purified by smearing it with cow dung and seasonal flowers are scattered over it. In this matter they differ [from Chinese custom].
Những ngôi chùa thì có cách xây dựng cực kỳ đặc biệt. Bốn góc chùa đều có lầu, chánh điện thì xây lên thành ba tầng. Các xà gỗ đều chạm khắc nhiều hình thù kỳ lạ. Nơi các cửa sổ và trên tường trang trí bằng nhiều bức họa màu sắc rực rỡ.
The monasteries are constructed in an extremely splendid manner. They have four corner towers and the halls have three tiers. The rafters, eaves, 876b ridgepoles, and roof beams are carved with strange figures. The doors, windows, and walls are painted with colored pictures.
Phòng ốc của người dân thì thường bên trong nội thất tiện nghi xa xỉ, bên ngoài lộ vẻ kiệm ước, giản dị. Kích thước phòng ốc cao thấp, rộng hẹp, khác biệt tùy mỗi nơi. Lầu gác điện đài không theo cách thức, hình thể nhất định.
The houses of the common people are ostentatious inside but plain and simple outside.
The inner chambers and main halls vary in their dimensions and the structures of the tiered terraces and multistoried pavilions have no fixed style,
Nhà mở cửa về hướng đông. Ngai vua cũng thiết kế ngồi quay về hướng đông. Ghế ngồi hầu hết đều bện bằng dây, nhưng tùy theo giai cấp như vương tộc, đại nhân, trí thức, thường dân, hào phú... mà sự trang sức có khác nhau, quy chuẩn cách thức thì vẫn giống nhau không khác. Ngai vàng của vua ngự thì cao rộng, chạm khảm trân châu ngọc quý các loại, trên dùng vải quý nhuyễn mịn phủ lên, phía dưới chân thì khảm khắc trân bảo. Các vị quan chức thông thường thì tùy theo sở thích mà trang hoàng tòa ngồi, cũng chạm khắc nhiều hình dạng và gắn vào các loại trân bảo.
but the doors open to the east and the throne also faces east. For a seat on which to rest a rope bed (charpoy) is used. The royal family, great personages, officials, commoners, and magnates adorn their seats in different ways, but the structure is the same in style. The sovereign’s throne is exceedingly high and wide and decorated with pearls. Called the lion seat, it is covered with fine cotton cloth and is mounted by means of a jeweled footstool. The ordinary officials carve their seats in different decorative patterns according to their fancy and they ornament them with rare gems.
Quần áo các loại, dù là đồ lót bên trong hay mặc bên ngoài, đều không cần phải cắt may. Người Ấn quý trọng màu trắng tinh khiết, khinh chê tạp sắc hoa hòe. Nam giới thì quấn vải quanh từ thắt lưng lên đến dưới nách, đầu quấn khăn bỏ mối phủ xuống trên vai trái, để trần vai phải. Nữ giới quấn một tấm vải quanh eo rủ xuống thay cho quần và phần thân trên quấn vải che kín cả hai vai, trên đầu kết tóc thành búi nhỏ trên đỉnh, còn lại bỏ xõa xuống. Đàn ông cũng có người cắt tỉa râu mép, lại có những phong tục lạ khác như đội vòng hoa trên đầu, mang chuỗi ngọc trên thân...
Both the upper [clothes] and undergarments, as well as ornamental garb, need no tailoring. Pure white is the preferred color, while motley is held in no account. The men wind a piece of cloth around the waist under the armpits and leave the right shoulder uncovered. The women wear a cape that covers both shoulders and hangs down loose. The hair on the top is combed into a small topknot with the rest of the hair falling down. Some men clip their mustaches and have other strange fashions, such as wearing a garland on the head or a necklace on the body.
Vải dùng làm y phục là kiêu-xa-da (ksauma) và vải dệt từ bông vải. Kiêu-xa-da là loại vải lụa dệt từ tơ của giống tằm hoang dã. Lại có vải dệt từ sợi cây gai, vải diệm-bát-la (kambala) dệt từ lông dê nhuyễn, vải hạt-lạt-li dệt từ lông thú hoang.
For clothing they use kauseya and cotton cloth, kauseya being silk spun by wild silkworms. The ksauma (linen) cloth is made of hemp or similar fibers. The kambala is woven with fine sheep wool, while the helci cape (a sort of raincoat?) is woven with the wool of a wild animal.
Lông thú mềm nhuyễn có thể se nối lại thành sợi, dệt thành tấm nên được xem là chất liệu quý dùng làm y phục.
As this wool is fine and soft and can be spun and woven, it is valued for making garments.
Miền Bắc Ấn khí hậu rét lạnh nên y phục được may bó sát người, rất giống như cách mặc của người Hồ. Những người ngoại đạo có rất nhiều cách phục sức hỗn tạp khác nhau, như mặc y phục ghép bằng lông đuôi chim khổng tước, hoặc trang sức bằng xâu chuỗi đầu lâu, hoặc hoàn toàn lõa thể, không mặc y phục, hoặc dùng cỏ hay miếng gỗ để che thân, hoặc nhổ tóc, cắt râu, hoặc để tóc rối bù, kết thành búi tóc trên đỉnh đầu... Y phục không có quy chế nhất định, màu sắc trắng hay đỏ cũng đa dạng.
In North India, where the climate is bitterly cold, the people wear tight- fitting short jackets, quite similar to those of the Hu people. The costumes of the heretics vary in style and are strangely made. They dress in peacock tails, or wear necklaces of skulls, or go naked, or cover their bodies with grass or boards, or pluck their hair and clip their mustaches, or have disheveled hair with a small topknot. Their upper [clothes] and undergarments have no fixed style and the color may be red or white; there is no definite rule.
Y phục của sa-môn chỉ có ba y và y tăng-khước-kỳ, y nê-phược-ta-na. Cách thức của ba y cũng không giống nhau ở các bộ phái, hoặc khác nhau ở đường viền rộng hẹp, hoặc nếp gấp lớn hay nhỏ.
The monks have only the three regular robes, [the samghati,] the samkaksika, and the nivasana robes as their religious garments. The different sects have different ways of making the three robes, of which the fringes may be broad or narrow and the folds may be small or large.
Tăng-khước-kỳ (saṁghāṭi) (dịch nghĩa là y che nách), trước đây phiên âm tăng-kì-chi là không đúng. Y này phủ trên vai trái, che kín hai nách, bên trái mở ra, bên phải khép lại, dài xuống quá thắt lưng.
The samkaksika (known in Chinese as “armpit cover” and formerly transcribed as sengqizhi incorrectly) covers the left shoulder and veils both armpits. It is open on the left and closed on the right side, reaching below the waist.
Nê-phược-ta-na (nivāsana) (dịch nghĩa là quần), trước đây phiên âm niết-bàn-tăng là không đúng. Do không có dây thắt lưng nên khi mặc vào thì quấn cho vừa vặn rồi giữ bằng các nếp gấp. Hình dạng nếp gấp cũng khác nhau ở các bộ phái, màu sắc cũng có màu vàng hay đỏ không giống nhau.
Since the nivasana (known in Chinese as “skirt” and formerly transcribed as niepanseng incorrectly) has no strings for fastening; it is worn by gathering it into pleats, which are tightened with a braid. The pleats are folded in different ways by different sects and the color also differs, either yellow or red.
Các giai cấp sát-đế-lợi và bà-la-môn sống thanh bạch, giản dị, thuần khiết, kiệm ước. Y phục và trang sức của các vị quốc vương và đại thần rất khác biệt nhau. Họ dùng vòng hoa, mũ báu đội trên đầu để trang sức và dùng vòng xuyến, chuỗi ngọc để trang sức trên thân. Các nhà buôn, thương gia giàu có thường chỉ dùng vòng xuyến.
People of the ksatriya (military and ruling class) and the brahman (priestly class) castes are pure and simple in lodging and clean and frugal. The dress and ornaments of the kings and ministers are very ostentatious. Garlands and coronets studded with gems are their headdresses, and rings, bracelets, and necklaces are their bodily ornaments. The wealthy merchants use only bracelets.
Đa số mọi người đi chân trần, ít người mang giày dép. Người dân nhuộm răng màu đỏ hoặc màu đen. Họ cắt tóc, xỏ lỗ nơi tai [để đeo bông tai]. Về tướng mạo thì mũi cao, mắt lớn.
Most people go barefoot; few wear shoes. They stain their teeth red or black, have closely
876c cropped hair, pierce their earlobes, and have long noses and large eyes. Such are their outward features.
Người ở đây tự có ý thức giữ mình thanh khiết, không phải kiểu cọ. Trước khi ăn luôn phải rửa tay sạch, thức ăn thừa để cách đêm thì không dùng. Dụng cụ đựng thức ăn phải riêng biệt, không dùng chung với người khác. Nếu là đồ dùng bằng đất nung hay bằng gỗ thì dùng qua một lần rồi vất bỏ. Nếu bằng vàng, bạc, đồng, thiết thì rửa sạch, lau chùi thường xuyên nên sáng ngời.
They voluntarily keep themselves pure and clean, not by compulsion. Before taking a meal they must wash their hands. Remnants and leftovers are not to be served again and food vessels are not passed from one person to another. Earthenware and wooden utensils must be discarded after use, and golden, silver, copper, or iron vessels are polished each time after use.
Sau khi ăn thì dùng cành dương xỉa răng để làm sạch. Nếu chưa súc miệng sạch thì không tiếp xúc với ai. Sau mỗi lần đại tiểu tiện nhất định phải tẩy rửa sạch sẽ. Thân thể thường thoa đắp các loại hương thơm, như hương trầm, uất kim hương. Mỗi khi đức vua chuẩn bị tắm thì có đàn trống ca nhạc trổi lên. Trước khi đi cúng chùa, lễ đền, đều phải tắm rửa sạch sẽ.
When the meal is over they chew willow twigs to cleanse [their mouths], and before washing and rinsing their mouths they do not come into contact with one another. Each time after going to defecate or urinate they must wash themselves and daub their bodies with a fragrant substance, such as sandalwood or turmeric. When the monarch is going to take a bath music made by beating drums and playing stringed instruments is performed, along with singing. Before offering sacrifices to gods and worshiping at temples they take baths and wash themselves.
Người ta cho rằng chữ viết của Ấn Độ là do đấng Phạm thiên làm ra. Căn bản ban đầu có 47 chữ cái, hợp lại để diễn đạt sự vật, chuyển đổi để mô tả sự việc. Trải qua thời gian sử dụng mà phân chia thêm nhiều, ngày càng phát triển [vốn từ ngữ] rộng hơn, tùy theo địa phương và con người mà có sự cải biến, nhưng nhìn chung vẫn không hề xa rời cội gốc.
It is known that their writing, composed of forty-seven letters, was invented by the deva Brahma as an original standard for posterity. These letters are combined to indicate objects and used as expressions for events. The original [language] branched as it gradually became widely used, and there are slight modifications of it according to place and people. As a language in general, it did not deviate from the original source.
Ngôn ngữ ở Trung Ấn là thuần chính nhất, giọng nói điều hòa thanh nhã, [được cho là] như âm điệu của chư thiên. Cách phát âm rõ ràng, chính xác, có thể làm quy chuẩn cho người [ở các vùng khác]. Những vùng lân cận cho đến các nước khác, do lặp lại những chỗ sai lầm lâu ngày thành quen, tự cho là đúng rồi dạy nhau như thế, dần dần thành ra dung tục, không giữ được sự thuần chính.
The people of Central India are particularly accurate and correct in speech, and their expressions and tones are harmonious and elegant like the language of the devas. They speak accurately in a clear voice and serve as a standard for other people. The people of neighboring lands and foreign countries became accustomed to speaking in erroneous ways until their mistakes became accepted as correct, and they vied with one another in emulating vulgarities, not sticking to the pure and simple style.
Còn như các loại văn bản ghi chép, mỗi địa phương đều có người chuyên trách giữ gìn. Sách sử cùng những loại văn thư quốc gia được gọi chung là ni-la-tế-đồ (nilapila), dịch nghĩa là Thanh tạng, trong đó những việc tốt xấu đều nêu lên rõ ràng, những tai họa hay điềm lành cũng được ghi chép đầy đủ.
As regards their records of sayings and events, there are separate departments in charge of them. The annals and royal edicts are collectively called Nilapila (Blue Collection), in which good and bad events are recorded, and calamities as well as auspicious signs are noted down in detail.
Trẻ em mới bắt đầu đi học thì được dạy 12 chương. Từ 7 tuổi trở đi [nếu theo Phật giáo] thì dần dần được học về 5 môn học, gọi là Ngũ minh. Thứ nhất là Thanh minh, là môn học giải thích ý nghĩa từ ngữ, phân tích rõ ràng từng mục trong ngôn ngữ. Thứ hai là Công xảo minh, là môn học về công nghệ, kỹ thuật và lịch pháp. Thứ ba là Y phương minh, học về phương thức sử dụng chú thuật để trừ tà thuật, tà khí gây bệnh tật, về các loại dược liệu, thuốc ngải và cách châm cứu để trị bệnh. Thứ tư là Nhân minh, học cách khảo xét để phân định chánh tà, nghiên cứu để vạch rõ chân ngụy. Thứ năm là Nội minh, nghiên cứu thông suốt về diệu lý nhân quả trong năm thừa.
To begin the education of their children and induce them to make progress, they first guide them to learn the Book of Twelve Chapters; and when the children reach the age of seven, the great treatises of the five knowledges are gradually imparted to them. The first is the knowledge of grammar, which explains the meanings of words and classifies them into different groups. The second is the knowledge of technical skills, which teaches arts and mechanics, the principles of yin and yang (negativity and positivity), and calendrical computation. The third is the knowledge of medicine, including the application of incantation, exorcism, drugs, stone needles, and moxibustion. The fourth is the knowledge of logic, by which orthodox and heterodox are ascertained and truth is differentiated from falsehood. The fifth is the inner knowledge, which thoroughly investigates the teachings of the five vehicles and the subtle theory of cause and effect.
Nếu là theo đạo Bà-la-môn thì học bốn bộ luận Phệ-đà (Veda - trước đây phiên âm Tì-đà là không đúng). Thứ nhất là Thọ (tuổi thọ), học về thuật dưỡng sinh và hàm dưỡng tánh thiện, [giúp người ta sống khỏe, sống lâu]. Thứ hai là Từ (cúng tế), học về các nghi thức tế tự, cầu đảo, cúng kính [theo đạo Bà-la-môn]. Thứ ba là Bình (bình trị, đánh dẹp), học về các lễ nghi, phương thức bói toán, những kiến thức về binh pháp, quân sự, chiến trận. Thứ tư là Thuật (phương thuật, tài nghệ), học về những năng lực khác thường, kỹ xảo, pháp thuật, y học.
The brahmans study the Four Vedas (formerly transcribed as Pituo incorrectly). The first treatise is on longevity, dealing with the preservation of good health and the readjustment of mentality. The second is on worship, that is, offering sacrifices and saying prayers. The third is on equity, concerning ceremonial rituals, divination, military tactics, and battle formation. The fourth is on practical arts, which teaches unusual abilities, crafts and numeration, incantation, and medical prescriptions.
Các vị thầy đều là người học sâu hiểu rộng, thấu suốt những ý nghĩa huyền diệu, thâm áo [trong môn học], có thể chỉ bày những ý nghĩa quan trọng, giải thích được rõ ràng dễ hiểu những lời tinh tế vi diệu [trong kinh điển], có thể nâng đỡ, dẫn dắt người học, giúp cho ngay cả những học trò yếu kém cũng có thể thành tài. Những người sáng suốt thông tuệ, mẫn tiệp thường muốn ẩn dật, xa lìa ngoại cảnh, chú tâm hoàn toàn vào việc học, cho đến khi thành tựu học nghiệp. Khi được ba mươi tuổi, việc học đã thành tựu và chí hướng cuộc đời đã xác lập, có thể nhận bổng lộc địa vị, trước hết họ sẽ lo báo đáp ân đức của thầy dạy.
The teachers must be learned in the essence [of these treatises] and thoroughly master the profound mysteries. They expound the cardinal principles [to the pupils] and teach them with succinct but penetrating expressions. The teachers summon up their pupils’ energy to study and tactfully induce them to progress. They instruct the dull and encourage the less talented. Those disciples who are intelligent and acute by nature and have sensible views, intending to live in seclusion, confine themselves, and lock the door against the outside until they complete their studies. On reaching the age of thirty, they have fixed their minds and gained achievements in learning. After having been appointed to official posts, the first thing they do is to repay the kindness of their teachers.
Lại có những người [sau khi học được] tri thức uyên bác, ưa thích cuộc sống thanh cao, tao nhã, xa lìa cuộc sống thế tục để sống đời ẩn dật, thanh bạch, dứt bỏ ngoại cảnh, sống đời tiêu dao, đối với sự vinh nhục trong đời không hề dao động. Dù vậy, tiếng lành đồn xa nên được nhà vua ngợi khen, kính trọng, thỉnh mời ra giúp nước, nhưng cũng không thể làm cho họ quay lại với đời sống thế tục.
There are some people who are conversant with ancient lore and fond of classic elegance, living in seclusion to preserve their uprightness. They drift along the course of life without worldly involvement and remain free and unfettered, above human affairs. They are indifferent to honor and humiliation and their renown spreads far. The rulers, even while treating such people with courtesy, cannot win them over to serve at court.
Tuy nhiên, quốc gia đối với những người thông minh trí tuệ luôn tôn trọng, người dân đối với những bậc cao minh luôn quý kính, nên đối với những vị này thường hết lòng ngợi khen xưng tán, trân trọng lễ kính, [đó thường là động lực] khiến ai ai cũng cố công học tập, nuôi chí thành tài, không nề mệt nhọc, tìm đến tận những nơi xa xôi để học đạo với bậc tài nhân, bất kể đường xa ngàn dặm.
But the state honors wise and learned people and the [common] people respect those who are noble and intelligent, according them high praise and treating them with perfect etiquette. Therefore people can devote their attention to learning without feeling fatigue and they travel about seeking knowledge and visiting masters of the Way in order to rely on the virtuous ones, not counting a thousand li as a long journey.
Có những người sinh trong gia đình giàu có vẫn lập chí du phương, làm người khất thực xin ăn từng bữa, lấy việc cầu đạo là quý, không cho rằng cuộc sống xin ăn là xấu hổ.
Although their families may be rich, such people make up their minds to live wandering about the world, begging for their food wherever they go. They value the acquisition of truth and do not deem poverty a disgrace.
Những kẻ ham vui đọa lạc, tham miếng ăn ngon, cầu sự mặc đẹp thì bị xem là không có đức hạnh, không phù hợp với phong tục tập quán, phải gánh chịu sự sỉ nhục, tiếng xấu lan xa người người đều biết.
Those people who lead a life of amusement and dissipation, eating delicious food and wearing expensive garments, neither have virtue nor study constantly; they incur shame and disgrace upon themselves and their ill repute spreads far and wide.
Đức Như Lai giảng dạy chân lý, hết thảy chúng sinh tùy theo hạng loại khác nhau đều có thể tự nhiên nhận hiểu được. Tuy nhiên, ngày nay cách thời đức Phật đã quá lâu, Chánh pháp [bị pha lẫn] như mùi vị của rượu ngon cũng phải nhạt dần, mỗi người đều tùy theo chỗ nghe hiểu của riêng mình để đạt đến sự tỏ ngộ giáo pháp. [Từ đó dẫn đến] các bộ phái tách biệt, đối lập nhau, tranh luận như sóng dậy, chỗ học sai khác, mỗi nơi chuyên theo một hướng, cho dù mục đích tu học đều giống nhau. Cả thảy 18 bộ phái, mỗi bên đều khéo léo sắc sảo trong học thuyết của mình. Đại thừa, Tiểu thừa đều có nếp sinh hoạt tu tập khác biệt. Có người trầm mặc tư duy, hoặc đi hoặc đứng; thiền định, trí tuệ cách biệt xa nhau, huyên náo, tịch tĩnh vô cùng khác biệt. Tùy theo mỗi tăng đoàn đều tự chế ra những quy định riêng.
The Tathagata’s teachings may be comprehended by each listener according to his own type of mentality, and as we are now far away from the time of the holy Buddha some of his right Dharma is still pure and some has become defiled. With the faculty of understanding all people can acquire the enlightenment of wisdom. There are different sects, like peaks, standing against each other and debating various viewpoints, as vehemently as crashing waves. They study divergent specific subjects but they all lead to the same goal. Each of the eighteen sects is expert in argumentation, using sharp and incisive words. The manner of living of the Mahayana (Great Vehicle) followers and that of the Hinayana (Small Vehicle) followers differ from each other. They engage themselves in silent meditation, or in walking to and fro, or in standing still. Samadhi (intense mental concentration) and prajhci (wisdom) are far apart and noisiness and calmness are quite different. Each community of monks has laid down its own restrictive rules and regulations.
Không phân biệt Luật tạng, Luận tạng hay Kinh tạng, tất cả đều [gọi chung] là kinh Phật. Vị nào thuyết giảng được một bộ kinh thì miễn cho không phải thực hiện các phận sự lao tác trong chùa. Nếu thuyết giảng hai bộ kinh thì được cung cấp phòng xá, các thứ vật dụng thuộc loại tốt hơn. Nếu thuyết giảng ba bộ kinh thì có thị giả cận kề để phụng sự. Nếu thuyết giảng bốn bộ kinh thì được chỉ định tịnh hạnh nhân để sai bảo. Nếu thuyết giảng năm bộ kinh thì đi lại bên ngoài được ngồi kiệu trên lưng voi. Nếu thuyết giảng được sáu bộ kinh thì ngoài việc ngồi kiệu trên lưng voi còn có nhiều người đi theo chung quanh hộ vệ. Đối với người đạo cao đức trọng thì sự cung kính, tôn trọng cũng đặc biệt khác thường.
All texts, whether belonging to the Vinaya (disciplinary rides), the Abhidharma (treatises), or the Sutras (discourses), are scriptures of the Buddha. A monk who can expound one text is exempted from routine monastic duties. One who can expound two texts is supplied with additional good rooms and daily requisites. One who can expound three texts is to be served by attendants. One who can expound four texts is provided with lay servants at his service. One who can expound five texts is entitled to ride an elephant when going out. One who can expound six texts has a retinue protecting him.
The honor given to those who have high morality is also extraordinary.
Thỉnh thoảng chư tăng lại tập họp để cùng nhau giảng luận kinh điển, khảo sát những ưu, khuyết điểm của mỗi người, phân biệt rõ điều thiện, điều tốt để tuyên dương, việc xấu, việc ác để khiển trách, phế truất những người ngu muội, đề bạt những người thông minh sáng suốt.
Assemblies for discussion are often held to test the intellectual capacity of the monks, in order to distinguish superior from inferior, and to reject the dull and promote the bright.
Nếu có người phân tích luận bàn được những lời tinh tế, giảng rộng được những lý lẽ nhiệm mầu, lời nói ra thanh nhã tốt đẹp, tài biện luận khéo léo sắc sảo, ắt sẽ được ngồi trên voi quý, được đông đảo mọi người vây quanh kính ngưỡng.
Those who can deliberate on the subtle sayings and glorify the wonderful theories with refined diction and quick eloquence may ride richly caparisoned elephants, with hosts of attendants preceding and following behind them.
Ngược lại, người nào giảng giải những lời vô nghĩa, trình bày vấp váp, ngôn từ nhiều mà lý lẽ ít, lời thuận tai nhưng ý nghĩa mâu thuẫn, liền bị bôi bùn đất lên mặt, trét tro bụi lên thân, xô đuổi ra ngoài đồng trống hoặc nơi ngòi rãnh.
But those to whom the theories are taught in vain, or who have been defeated in a debate, explaining few principles in a verbose way or distorting the teachings with language that is merely pleasant to the ear, are daubed with ocher or chalk on the face while dust is scattered over the body, and they are exiled to the wilderness or discarded in ditches.
Như vậy là chọn tốt bỏ xấu, phân rõ hiền ngu, khiến cho người người đều ưa thích làm việc đạo, nhà nhà chuyên cần chú tâm học giáo pháp. Việc sống đời xuất gia hay quay về hoàn tục đều tùy theo ý nguyện, mong muốn của mỗi người.
In this way the good and the evil are distinguished and the wise and the ignorant disclosed. Thus people may take delight in the Way and study diligently at home. They may either forsake their homes or return to secular life, as they please.
Những người phạm vào giới luật thì phải chịu chúng tăng xử phạt. Tội nhẹ thì chịu quở trách, nặng hơn một chút thì không được cùng chúng tăng nói năng trao đổi, tội thật nặng thì bị tách biệt, không được cùng chúng tăng chung sống. Người đã [phạm vào tội] không được cùng chúng tăng chung sống thì không được xem là thành phần trong chúng tăng nữa, phải sống cách biệt không chỗ nương thân, lang bạt đó đây, gian nan cay đắng, rất có thể phải trở về với đời sống thế tục.
To those who commit faults or violate the disciplinary rules, the community of monks may mete out punishments. A light offense incurs public reprimand, and the penalty for the next gravest offense is that the monks do not speak to the offender. One who has committed a grave offense is excommunicated; that is, he is expelled contemptuously by the community of monks. Once expelled the offender will have nowhere to take shelter and will suffer the hardships of a vagabond life, or he may return to his former life as a layperson.
Nói về chủng tộc khác biệt thì có bốn dòng. Thứ nhất là dòng bà-la-môn (bṛāhmin), là những người tu hành thanh tịnh, giữ theo đạo lý, sống đời trinh bạch, phẩm hạnh thanh khiết. Thứ hai là dòng sát-đế-lợi (kshatriya), là dòng đế vương, trước đây phiên âm sát-lợi là nói lược. Đây là chủng tộc nhiều đời truyền nối làm vua, lấy sự nhân từ và khoan thứ làm chuẩn mực. Thứ ba là dòng phệ-xá (vaiśya), trước đây phiên âm tỳ-xá là không đúng. Họ là những người buôn bán, chuyên việc trao đổi hàng hóa, đi khắp gần xa để buôn bán trục lợi. Thứ tư là dòng thú-đà-la (śūdra), trước đây phiên âm thủ-đà là không đúng. Họ là những nông dân, ra sức cày bừa, chuyên cần cấy gặt.
As far as the different clans are concerned, there are four castes among the people. The first caste is that of the brahmans, who are pure in conduct, adhere to their doctrines, live in chastity, and preserve their virtue in purity. The second is the caste of ksatriyas (formerly transcribed incorrectly as chali), who are royal descendants and rule the country, taking benevolence and humanity as their objects in life. The third is the caste of vaisyas (formerly transcribed incorrectly as pishe), who are merchants and traders, exchanging goods to meet the needs of one another and gaining profit far and near. The fourth caste is the siidras, farmers who labor in the fields and toil at sowing and reaping.
Bốn chủng tộc này được xem là khác biệt về sự thanh khiết hay uế trược. Việc hôn nhân cưới hỏi không chấp nhận khác biệt chủng tộc. Những người thuộc thân tộc hai bên nội ngoại cũng không được kết hôn với nhau. Phụ nữ chỉ kết hôn duy nhất một lần trong đời, không có việc tái giá.
These four castes are differentiated by their hereditary purity or defilement. People of a given caste marry within the caste and the conspicuous and the humble do not marry each other. Relatives, either on the father’s or the mother’s side, do not intermarry. A woman can marry only once and can never remarry.
Ngoài ra còn có những người chủng tánh hỗn tạp, phân ra rất nhiều dòng tộc khác, họ đều tùy theo nhóm của mình mà tụ họp, sinh sống với nhau ở từng nơi, khó có thể kể ra cho hết.
There are numerous miscellaneous clans grouped together according to their [professional] categories, and it is difficult to give a detailed account.
Chỉ duy nhất dòng sát-đế-lợi là có thể giữ ngôi vua rồi đời đời truyền cho con cháu, nhưng đôi khi cũng có người thuộc dòng tộc khác nổi lên, giết vua cướp ngôi.
The monarchs and kings of successive generations have always been ksatriyas. When usurpation and regicide occasionally happened, other families assumed supreme power.
Quân đội quốc gia được tuyển chọn từ những người gan dạ, dũng mãnh nhất. Binh nghiệp cũng do cha truyền con nối nên ngày càng tinh thông, chuyên nghiệp hơn. Vào thời bình thì họ lo việc bảo vệ cung điện, khi có chiến tranh thì mạnh mẽ xông lên phía trước.
The warriors of the nation are well-chosen men of extraordinary bravery and, as the occupation is hereditary, they become experienced in the art of war. In peacetime they guard the palace buildings and in times of war they courageously forge ahead as the vanguard.
Nhìn chung có bốn binh chủng là bộ binh, kỵ binh, xa binh và tượng binh. Voi chiến mặc áo giáp, ngà voi bọc móc câu sắc bén, một vị tướng cưỡi trên lưng voi chịu trách nhiệm điều khiển, có hai người lính đi theo hai bên voi để giúp việc điều khiển. Chiến xa có 4 ngựa kéo phía trước, người chỉ huy ở trên xe, quân binh đi theo hộ vệ chung quanh, cũng để hỗ trợ. Kỵ binh thì phân tán thành nhiều mũi lúc tiến công và truy bắt khi quân địch thua chạy. Bộ binh trang bị gọn nhẹ, được tuyển chọn từ những người can đảm, dũng mãnh, vác khiên lớn, cầm kích dài hoặc đao, kiếm, luôn hăng hái xông lên phía trước. Hết thảy các loại binh khí đều sắc nhọn, có mâu, thuẫn, cung tên, đao, kiếm, búa lớn, búa nhỏ, giáo, mác, thù, giáo dài, dây thừng... Tất cả những loại binh khí này đều được luyện tập từ đời này sang đời khác.
The army is composed of four types of troops, namely, infantry, cavalry, charioteers, and elephant-mounted soldiers. The war elephant is covered with strong armor and its tusks are armed with sharp barbs. The general who controls the armed forces rides on it, with two soldiers walking on each side to manage the animal. The chariot carrying the commander-in-chief is drawn by four horses and arrays of soldiers march beside the wheels to protect him. The cavalrymen spread open to draw up a defensive formation or gallop ahead to pursue the defeated enemy. The infantry, daring men chosen for their boldness, go lightly into battle, carrying large shields and long spears, sabers, or swords and dashing to the front of the battle array. All their weapons are sharp and keen and they have been trained in such weaponry as the spear, shield, bow and arrow, saber, sword, battle axe, hatchet, dagger axe, long pole, long spear, discus, rope, and the like, with which they practice generation after generation.
Nói về phong tục thì người Ấn Độ tánh tình tuy có nóng nảy, hấp tấp nhưng tâm ý rất trong sạch, chất phác. Đối với tiền bạc, của cải không mong cầu bất chính; đối với việc hợp đạo nghĩa rất sẵn lòng nhường nhịn. Họ sợ phải chịu tội sau khi chết [vì làm việc xấu ác] nên xem nhẹ lợi lộc trong đời sống; không làm những việc dối trá lừa lọc, lời đã hứa nhất định sẽ giữ.
Although the people are violent and impetuous by temperament they are plain and honest in nature. They never accept any wealth without considering the propriety of the action but give others more than what is required by righteousness. They fear retribution for sins in future lives and make light of the benefits they enjoy in the present. They do not engage in treachery and are creditable in keeping their promises.
Việc hành chánh quản trị hãy còn chân chất, phong tục còn hiền hòa. Chỉ có một số ít những kẻ hung bạo ngỗ nghịch, thỉnh thoảng phạm vào luật pháp quốc gia hoặc mưu hại đến đức vua, nếu chứng cứ đã rõ ràng thì sẽ bị tống giam vào ngục tối, không dùng hình phạt tử hình, chỉ giam cho đến chết, không còn được xem là người.
Government administration emphasizes simplicity and honesty and the people are amicable by social custom. There are occasionally criminals and scoundrels who violate the national law or scheme to endanger the sovereign. When the facts are discovered these criminals are often cast into jail, where they are left to live or die; they are not sentenced to death but are no longer regarded as members of human society.
Những kẻ hành xử phạm vào lễ nghĩa, ngỗ nghịch bất trung, bất hiếu thì bị xẻo mũi, cắt tai, hoặc chặt tay, chặt chân, hoặc bị trục xuất ra khỏi nước, hoặc bị xô đuổi đến vùng hoang vắng. Ngoài ra, những tội khác đều có thể nộp tiền để chuộc tội.
The punishment for those who infringe the ethical code or behave against the principles of loyalty and filial piety is to cut off the nose, excise an ear, mutilate a hand, or amputate a foot, or the offender may be banished to another country or into the wilderness. Other offenses can be expiated by a cash payment. 
Việc xử án chỉ dựa vào xét hỏi, không dùng hình phạt tra tấn. Bị cáo phải thành thật trả lời những câu hỏi, quan tòa dựa theo đó mà kết án. Nếu bị cáo cương quyết không nhận tội, hoặc vì xấu hổ, hoặc cố tình che giấu tội lỗi, quan tòa có thể tra xét sự thật bằng cách áp dụng bốn phương thức: dùng nước, dùng lửa, dùng cân và dùng độc dược.
When a judge hears a case no torture is inflicted upon the accused to extort a confession. The accused answers whatever questions are put to him and then a sentence is fairly passed, according to the facts. There are some who refuse to admit their unlawful activities, ashamed of their faults, or who try to cover up their mistakes. In order to ascertain the actual facts of a case ordeals are required to justify a final judgment. There are four ways, namely, ordeals by water, fire, weighing, and poison.
Phương thức dùng nước thì bỏ tội nhân vào một cái túi, lại dùng một túi khác bỏ đá vào. Cột hai túi dính vào nhau và ném cùng lúc xuống nước sâu. Nếu túi đựng người chìm, túi đá nổi tức là người ấy có tội. Ngược lại nếu túi đựng người nổi lên mà túi đá chìm tức là người ấy chân thật không giấu giếm, không có tội.
In the ordeal by water the accused person is put into a sack and a stone is put into another sack; the two sacks are connected together and thrown into a deep river to discriminate the real criminal from the suspect. If the person sinks and the stone floats his guilt is proven, but if the person floats and the stone sinks he is then judged as having concealed nothing.
Phương thức dùng lửa thì nung một tấm sắt nóng, bắt tội nhân ngồi lên, hoặc bắt phải dùng chân trần giẫm lên, hoặc áp bàn tay vào, hoặc bắt phải thè lưỡi liếm. [Người ta tin rằng], người vô tội sẽ không bị tổn hại gì, còn nếu bị thương tổn thì đó là người có tội. Người nào quá ốm yếu suy nhược không thể chịu nổi cách làm này thì buộc người ấy ném một nắm nụ hoa lên tấm sắt nóng đó. Nếu là người vô tội thì nụ sẽ nở thành hoa, nếu thật có tội thì nụ cháy tiêu mất.
In the ordeal by fire the accused is forced to crouch on a piece of hot iron and required to stamp on it with his feet, to touch it with his hands, and to lick it with his tongue. If the charge against him is false he will not be harmed, but if he is burned he is judged to be the real culprit. If a weak and feeble person cannot stand the heat of the scorching iron, he is asked to scatter some flower buds over the hot iron. If he is falsely charged the buds open into flowers, but if he is truly a criminal the buds are burned.
Phương thức dùng cân thì đặt bị cáo và một khối đá lên hai đầu của một đòn cân nằm ngang, dựa vào sự nặng nhẹ phán xét. Nếu là người vô tội thì người thấp xuống, đá bổng lên cao. Nếu là người có tội thì đá nặng xuống, người nhẹ lên cao.
In the ordeal by weighing the accused is weighed on a balance against a stone to determine which is heavier. If the charge is false the person goes down, while the stone goes up; if the charge is true the stone is weightier than the person.
Phương thức dùng độc dược thì bắt một con dê đực màu đen, cắt lấy một phần thịt ở đùi bên phải tùy sức ăn của bị cáo, đem tẩm độc dược vào rồi cho bị cáo ăn. Nếu là người có tội thì trúng độc mà chết. Nếu là người vô tội thì độc dược tự tiêu, người vẫn sống.
In the ordeal by poison the right hind leg of a black ram is cut and poison is put into it as a portion for the accused to eat. If the charge is true the person dies from the poison, but if the charge is false the poison is counteracted and the accused may survive.
Chỉ đơn cử bốn phương thức như trên, được sử dụng để ngăn phòng hết thảy tội lỗi.
These four ordeals are the methods for the prevention of a hundred misdeeds.
Về nghi thức bày tỏ sự cung kính thì có chín cách thức. Thứ nhất là bày tỏ bằng lời nói cung kính. Thứ hai là cúi đầu cung kính. Thứ ba là đưa tay đưa lên cao vái lạy cung kính. Thứ tư là chắp tay ngang ngực cung kính. Thứ năm là quỳ một gối cung kính. Thứ sáu là quỳ hai gối, thẳng người cung kính. Thứ bảy là lễ lạy cung kính với hai tay, hai chân đều chạm đất. Thứ tám là lễ lạy cung kính với hai tay, hai chân và đầu chạm đất. Thứ chín là lễ lạy cung kính với năm vóc đều sát đất.
There are nine grades in the manner of paying homage. They are (1) inquiring after one’s health, (2) bowing down three times to show respect, (3) bowing with hands raised high, (4) bowing with hands folded before the chest, (5) kneeling on one knee, (6) kneeling on both knees, (7) crouching with hands and knees on the ground, (8) bowing down with hands, elbows, and head to the ground, and (9) prostrating oneself with hands, elbows, and head touching the ground.
Trong chín nghi thức này, dù hết sức cung kính cũng chỉ lễ bái một lần mà thôi. Việc quỳ xuống tán thán đức độ [của ai đó] cũng được xem là hết mực cung kính. [Khi bày tỏ lòng kính trọng], nếu ở xa thì cúi dập đầu vái lạy, nếu ở gần thì quỳ mọp xuống hôn chân, dùng tay xoa gót chân người đó.
In all these nine grades the utmost veneration is expressed by doing only one obeisance. To kneel down and praise the other’s virtue is the perfect form of veneration. If one is at a distance [from the venerated person], one just prostrates with folded hands. If a venerated person is nearby, one kisses their feet and rubs their heels.
Thường khi lắng nghe lời dạy bảo hoặc nhận mệnh lệnh từ người trên thì vén áo, quỳ hai gối, thẳng lưng.
When one is delivering messages or receiving orders, he must hold up his robe and kneel.
Các bậc trưởng thượng hiền đức khi nhận sự lễ bái cung kính của người khác ắt có lời phủ dụ, khích lệ, hoặc đưa tay xoa đầu, hoặc vỗ lưng, dùng lời dịu dàng khuyên dạy đạo lý, bày tỏ thân tình. Vị sa-môn là người xuất gia, khi thọ nhận sự kính lễ thì chỉ chú tâm gia nguyện, cầu chúc sự tốt lành cho người, nhưng không được ngăn cản người khác lễ bái.
The honored person who receives veneration must say some kind words in return, or stroke the head or pat the back of the worshiper, giving him good words of admonition to show his affection and kindness. When a homeless monk receives salutation he expresses only his good wishes in return and never stops the worshiper from paying homage to him.
Tùy theo người được lễ kính, đa phần người lễ kính cũng đi nhiễu quanh nhiều vòng, hoặc chỉ một vòng, hoặc ba vòng. Nếu trong tâm có sự thỉnh cầu thì số vòng đi nhiễu tùy theo tâm nguyện.
One often pays reverence to a great respected master by circumambulating him once, thrice, or as many times as one wishes if one has a special request in mind.
[Người Ấn Độ] khi có bệnh thường nhịn ăn 7 ngày. Trong thời gian đó, đa phần đều được thuyên giảm. Nếu sau 7 ngày vẫn chưa khỏi bệnh mới bắt đầu dùng đến thuốc men. Thuốc có nhiều loại, tên gọi không giống nhau. Tài nghệ, kỹ năng và khả năng chẩn đoán của thầy thuốc cũng khác nhau.
When a person is sick he refrains from eating food for seven days, and during this period he may often recover his health. If he is not cured then he takes medicine. Medicines are of various properties and have different names, and physicians differ in medical technique and methods of diagnosis.
Khi có người chết, trong lễ tang thì [thân quyến] buồn đau, cùng nhau than khóc, xé áo, bứt tóc, dập đầu, đấm ngực [để bày tỏ sự đau đớn]. Thời gian mặc tang phục không có quy định, thời gian để tang dài ngắn cũng không xác định. Nghi lễ tống táng có ba hình thức. Thứ nhất là hỏa táng, chất củi thành đống để thiêu xác. Thứ hai là thủy táng, thả xác xuống sông cho trôi đi. Thứ ba là dã táng, mang xác vào rừng bỏ cho chim thú hoang dã ăn.
At a funeral ceremony the relatives of the departed one wail and weep, rend their clothes and tear their hair, strike their foreheads, and beat their chests. They do not wear mourning clothes and have no fixed period of mourning. There are three kinds of burial service. The first is cremation, in which a pyre is built and the body is burned. The second is water burial, in which the corpse is put into a stream to be carried away. The third is wilderness burial, in which the body is discarded in a forest to feed wild animals.
Khi quốc vương băng hà, trước tiên lập người kế nghiệp lên ngôi để chủ trì việc tang lễ, định ngôi thứ trên dưới. Đức vua khi còn sống thì có đức hiệu, nhưng sau khi chết [triều thần] không họp bàn dâng tên hiệu [như Trung Hoa].
After the demise of a king, the first function is to enthrone the crown prince so that he may preside over the funeral ceremony and fix the positions of superiority and inferiority. Meritorious titles are conferred on a king while 878a he is living and no posthumous appellations are given after his death.
Nhà có tang thì mọi người không đến ăn uống. Sau khi tang lễ xong, trở lại sinh hoạt bình thường, không có gì kiêng kỵ. Những người đưa tang được cho là không sạch sẽ nên đều tắm gội ở bên ngoài rồi mới vào lại thành.
No one goes to take a meal at a house where the people are suffering the pain of bereavement, but when the funeral service is over things go back to normal and there are no taboos. Those who have taken part in a funeral procession are considered unclean and they must all bathe themselves outside the city before reentering the city walls.
Lại có những người sống thọ, tuổi đã quá già, ngày chết sắp đến, mang bệnh trầm kha, sự sống đến mức tận cùng, lòng đã muốn xa lìa nhân gian, xem nhẹ sống chết, mong được xa khỏi đường đời. Khi ấy, thân quyến, bằng hữu liền cùng nhau tụ hội, tấu nhạc đưa tiễn, rồi chèo thuyền đưa ra sông Căng-già, đến giữa dòng người ấy tự trầm mình mà chết, cho rằng như vậy sẽ được sanh về cõi trời. Trong mười người như vậy cũng có một người chưa thực sự chán bỏ cuộc sống.
As regards those who are getting very old, approaching the time of death, suffering from incurable disease, or fearing that life is drawing to an end, they become disgusted with this world, desire to cast off human life, despise mortal existence, and wish to get rid of the ways of the world. Their relatives and friends then play music to hold a farewell party, put them in a boat, and row them to the middle of the Ganges River so that they may drown themselves in the river. It is said that they will thus be reborn in the heavens. Out of ten people only one cherishes such ideas, and so far I have not seen this with my own eyes.
Chúng tăng là người xuất gia, theo chế định thì [tang sự] không được khóc gào. Khi có tang cha hoặc mẹ thì tụng niệm kinh điển để báo đáp công ơn. Tổ chức tang lễ chu đáo, chí thành trong việc cúng tế, mong cha mẹ đã qua đời được hưởng phần phúc báo.
According to monastic regulations, homeless monks should not lament over the deaths of their parents but should recite and chant scriphires in memory of their kindness, so as to be in keeping with the funeral rites and impart happiness to the departed souls.
Chính sách cai trị đã khoan hòa, công việc hành chánh cũng đơn giản, không kê khai hộ tịch để quản lý, người dân cũng không phải lao dịch, thuế khóa. Ruộng đất thuộc về nhà vua được chia làm bốn phần. Phần thứ nhất [lấy lợi tức] đưa vào công quỹ quốc gia, dùng chi phí cho việc tế lễ, phẩm vật. Phần thứ hai [lấy lợi tức] cấp phát cho Tể tướng và các quan triều thần. Phần thứ ba [lấy lợi tức] ban thưởng cho những người tài cao học rộng, uyên bác thông tuệ. Phần thứ tư [lấy lợi tức] dùng vào việc gieo trồng ruộng phước, bằng cách chu cấp, cúng dường cho những vị tu sĩ thuộc các tôn giáo. Do vậy, thuế khóa rất nhẹ, lao dịch công ích không nhiều, mỗi người dân đều được phân chia ruộng đất theo số người trong gia đình và truyền nối đời đời canh tác. Nếu nhận canh tác ruộng của nhà vua (công thổ) thì phải nộp lại một phần sáu lợi tức.
As the government is liberal official duties are few. There is no census registration and no corvee labor is imposed upon the people. Royal lands are roughly divided into four divisions. The first division is used by the state to defray the expense of offering sacrifices to gods and ancestors, the second division is used for bestowing fiefs to the king’s assistants and ministers, the third division is for giving rewards to prominent and intelligent scholars of high talent, and the fourth division is for making meritorious donations to various heterodox establishments. Therefore taxation is light and forced labor rarely levied. Everyone keeps to his hereditary occupation and all people cultivate the portions of land allotted to them per capita. Those who till the king’s fields pay one-sixth of their crops as rent.
Những người buôn bán kiếm lời hoặc trao đổi hàng hóa, khi đi qua lại các bến cảng, trạm canh phòng đều phải nộp một khoản thuế nhỏ.
Also, in order to gain profits merchants and traders travel about exchanging commodities and they pay light duties at ferries and barriers to pass through.
Các công trình quốc gia khi xây dựng không sử dụng chế độ lao dịch bắt buộc, mà căn cứ công trình đã hoàn thành để xác định giá trị nhân công rồi chi trả theo đó.
For public construction no forced labor is enlisted; laborers are paid according to the work they have done.
Đối với việc trấn thủ biên cương, hành quân chinh phạt, phòng vệ kinh thành, hết thảy đều linh hoạt tùy theo nhu cầu của mỗi việc mà chiêu mộ quân lính, có các phần thưởng để khích lệ.
Soldiers are dispatched to garrison outposts and palace guards are conscripted according to circumstances, and rewards are announced in order to obtain applicants.
Các quan đứng đầu địa phương, các đại thần trong triều, các quan chức phụ trách từng bộ phận, tất cả đều được cấp phát ruộng đất để tự lo nhu cầu đời sống.
Magistrates and ministers, as well as common government officials and assistants, all have their portions of land so that they may sustain themselves by the fief they have been granted.
Phong tục thổ nhưỡng khác biệt, hoa lợi từ đất đai cũng khác. Hoa quả cây cỏ nhiều loại khác nhau, tên gọi khác lạ, chẳng hạn như trái am-một-la (āmra), trái am-nhị-la (āmla), trái mạt-đỗ-ca (madhūka), trái bạt-đạt-la (badara), trái kiếp-tỉ-tha (kapittha), trái a-mạt-la (āmalaka), trái trấn-đỗ-ca (tinduka), trái ô-đạm-bạt-la (uḍumbara), trái mậu-già (moca), trái na-lợi-kế-la (nārikera), trái ban-lâu-sa (panasa)... Những loại cây trái như thế thật khó kể ra hết, chỉ lược nêu một số ít được đánh giá cao mà thôi. Còn các loại trái cây như trái táo, hạt dẻ, trái thị, trái hồng... thì ở Ấn Độ không biết đến. Riêng các loại như lê, táo tây, đào, hạnh, nho... từ nước Ca-thấp-di-la trở đi thỉnh thoảng cũng có chỗ trồng. Thạch lựu, quít ngọt thì các nước đều có trồng.
As the climate and soil vary in different places, the natural products also differ in various districts. There are diverse descriptions of flowers, herbs, fruit, and trees with different names, such as amra (mango), dmla (tamarind), madhiika (licorice), badara (jujube), kapittha (wood apple), amalaka (myrobalan), tinduka (Diospyros), udumbara (Ficus glomerat a), moca (plantain), narikera (coconut), andpanasa (jackfruit). It is difficult to give a full list of such fruit [frees], and here I just mention a few of them that are valued by the people. Dates, chestnuts, and green and red persimmons are unknown in India. Pears, crabapples, peaches, apricots, and grapes are often alternately grown in Kasmtra and elsewhere, while pomegranates and sweet oranges are planted in all countries.
Những công việc đồng áng như cày, bừa, cấy, gặt, làm cỏ... đều tùy theo mùa vụ trong năm, có lúc nặng nhọc, có khi nhàn hạ. Nông sản làm ra nơi đây có nhiều lúa gạo, lúa mạch. Các loại rau củ quả thì có củ gừng, các loại cải, các loại dưa, bầu bí, rau nưa cũng được trồng nơi có nước. Hành, tỏi rất ít được trồng, cũng rất hiếm người ăn các thứ này. Nếu ăn hành, tỏi, sẽ bị xô đuổi ra ngoài thành [vì cho là ô uế].
In the cultivation of fields, such farm work as sowing and reaping, ploughing and weeding, and seeding and planting are done according to the seasons, either laboriously or with ease. Among the native products, rice and wheat are particularly abundant. As for vegetables, there are ginger, mustard, melon, calabash, and kanda (beet). Onion and garlic are scarce and few people eat them. Those who eat them are driven out of the city.
Những món như sữa tươi, sữa đặc, cao sữa, bơ sữa, đường cát, đường tán, dầu mù-tạt (mustard), các loại bánh, cốm gạo thường được dùng trong bữa ăn hằng ngày. Cá, dê, hươu, nai thỉnh thoảng cũng dùng làm thức ăn, nhưng đối với các loại thú như trâu, bò, lừa, voi, ngựa, heo, chó, chồn, sói, sư tử, khỉ, vượn... theo tục lệ đều không được ăn thịt. Người nào ăn vào thì bị mọi người khinh bỉ, ai ai cũng cho là nhơ nhớp, ô uế, phải ra sống riêng bên ngoài thành, không được đến gần mọi người.
Milk, ghee, oil, butter, granulated sugar, rock candy, mustard-seed oil, 878b and various kinds of cakes and parched grainse are used as common food, and fish, mutton, and venison are occasionally served as delicacies. The meat of such animals as oxen, donkeys, elephants, horses, pigs, dogs, foxes, wolves, lions, monkeys, and apes is not to be eaten, as a rule. Those who eat the meat of such animals are despised and detested by the general public and the offenders are expelled to the outskirts of the city; they rarely show themselves among the people.
Về các loại rượu khác nhau, việc sử dụng cũng phân biệt, như rượu nho, rượu mía là dành cho dòng sát-đế-lợi; rượu nấu từ gạo, lúa mạch có nồng độ cao dành cho dòng phệ-xá. Các vị sa-môn, bà-la-môn chỉ uống nước ép nho, nước mía, không có nồng độ rượu. Đối với những người chủng tánh hỗn tạp, thấp hèn thì không có sự phân biệt. Họ dùng những đồ ăn uống đặc thù.
As regards different spirits and sweet wines of diverse tastes, drinks made from grapes and sugarcane are for the ksatriyas and fermented spirits and unfiltered wines are for the vaisyas to drink. The sramanas and brahmans drink grape and sugarcane juice, as they refrain from taking alcoholic beverages. For the low and mixed castes there are no specific drinks.
Về những vật dụng cần thiết hằng ngày, có nhiều phẩm chất khác biệt, tùy lúc cần dùng đều có đủ. Họ có dùng các loại nồi, chảo nấu, nhưng không biết dùng nồi hấp hơi. Đa số vật dụng làm bằng đất chưa nung, ít dùng [vật dụng bằng] đồng đỏ. Khi ăn chỉ dùng một cái bát, cho tất cả thức ăn vào đó trộn đều, rồi dùng tay bốc ăn, không dùng muỗng, đũa. Chỉ những người già, người bệnh mới dùng muỗng bằng đồng [khi ăn].
As to household implements, there are different articles made of various materials for various purposes. Miscellaneous necessities are always sufficiently at hand. Although cauldrons and big pots are used for cooking the rice steamer is unknown. Cooking utensils are mostly made of earthenware, with a few made of brass. When taking a meal a person eats from one vessel in which all the ingredients are mixed together. He takes the food with his fingers, never using spoons or chopsticks; the aged and the sick use copper spoons for eating food.
Các loại vàng, bạc, thâu thạch, bạch ngọc, hỏa châu được sản xuất ở đây, trữ lượng rất lớn. Trân bảo quý hiếm có nhiều loại, tên gọi khác nhau, được khai thác từ vùng ven biển, dùng để trao đổi hàng hóa. Khi mua bán trao đổi thì dùng tiền vàng, tiền bạc, các loại ngọc trai...
Gold, silver, brass, white jade, and crystal are local products, which are amassed in large quantities. Precious substances and rare treasures of different descriptions, procured from overseas, are commodities for trading. For the exchange of goods, gold and silver coins, cowries, and small pearls are used as the media of exchange. 
Về cương vực, địa giới của Ấn Độ đã nêu rõ. Đối với phong tục, thổ nhưỡng khác biệt nhau cũng đã nêu đại lược. Đó cũng chỉ là dựa vào những điểm tương đồng mà trình bày sơ lược, còn những khác biệt về chính sách, tập tục sẽ tuần tự trình bày theo từng nước.

1. Nước Lam-ba
The territories and boundaries of India have been described above and different local conditions have been briefly related here. I have made only a rough statement of what is common in all the regions of the country in a generalized manner. As regards the particular political administrations and social customs of different regions, I shall explain them separately under the heading of each country, as follows.
Nước Lam-ba chu vi hơn 325 km, phía bắc dựa lưng vào núi Tuyết sơn, ba phía còn lại đều giáp với rặng Hắc Lĩnh. Chu vi kinh thành hơn 3.2 km.
The country of Lampa is over one thousand li in circuit, with the Snow Mountains at its back in the north and the Black Range on the other three sides. The capital city is more than ten li in circuit.
Cách đây mấy trăm năm, dòng vua của nước này đã không có người nối dõi nên từ đó những người có thế lực tranh giành lẫn nhau, không có người đứng đầu. Cho đến gần đây thì nước này phải chịu phụ thuộc nước Ca-tất-thí (Kapiśa).
Several hundred years ago the royal family of this country ceased to exist and since then powerful families have competed with each other for superiority in the absence of a great monarch. It has recently become a dependency of Kapist.
Đất đai thích hợp cho việc trồng các loại lúa và có nhiều mía. Cây rừng nhiều nhưng ít cây ăn trái. Khí hậu ấm nóng, có sương mỏng nhưng không có tuyết. Người dân no đủ sung túc, thường ca hát ngâm vịnh, tánh khí nói chung yếu đuối nhút nhát, thường gian xảo lừa lọc, xem thường lẫn nhau, không có sự tôn kính. Hình thể thấp bé, cử chỉ vội vàng, hấp tấp; thường mặc y phục bằng vải trắng, dệt từ bông vải, được trang sức rất đẹp.
The country produces non-glutinous rice and much sugarcane. There are many trees but little fruit. The climate is temperate; there is little frost and no snow. The country is a rich and happy land and the people are fond of singing and chanting, but they are timid and deceitful by nature. They cheat and do not respect one another. They are ugly and short in stature and are frivolous and impetuous in behavior. They mostly wear white cotton and are nicely dressed.
Trong nước có hơn mười ngôi chùa, tăng sĩ rất ít, đa phần đều học theo giáo pháp Đại thừa. Có đến mấy chục đền thờ Phạm thiên. Tín đồ ngoại đạo rất nhiều.
There are more than ten monasteries with a few monks, most of whom are students of the Mahayana teachings. There are several tens of deva temples with many heretics.
Từ nước này đi về hướng đông nam hơn 32 km, vượt qua một ngọn núi cao rồi một con sông lớn thì đến nước Na-yết-la-hạt, thuộc miền Bắc Ấn.
From here going southeast for over one hundred li, I crossed a high mountain and a large river and then arrived in the country of Nagarahara (in North India).
2. Nước Na-yết-la-hạt

Nước Na-yết-la-hạt chiều dài đông tây hơn 195 km, chiều nam bắc khoảng 80-85 km, núi non bao bọc chung quanh, sừng sững ngăn cách, vượt qua rất nguy hiểm.
This country is over six hundred li from east to west and two hundred fifty or sixty li from south to north. It is surrounded by steep and dangerous precipices on all sides.
Chu vi kinh thành khoảng hơn 6.5 km. Nước không có vua nên chịu phụ thuộc nước Ca-tất-thí. Có nhiều lúa gạo, hoa quả. Khí hậu ấm nóng, phong tục thuần hậu chân chất, tính người mạnh mẽ, nhanh nhẹn, cứng rắn, có khí phách, xem nhẹ tiền tài, ham học, sùng kính Phật pháp, ít người tin theo ngoại đạo. Chùa tuy nhiều nhưng tăng sĩ ít, các tháp thờ hoang phế, hư hoại. Có 5 đền thờ thiên thần Ma-hê-thủ-la, ngoại đạo có hơn 100 người.
The capital city is more than twenty li in circuit. There is no sovereign king to rifle over the country and it belongs to KapisT as a vassal state. Grain and fruit are produced in abundance and the climate is moderately warm. The people are simple and honest, as well as courageous and valiant. They do not value wealth but esteem learning and they venerate the buddha-dharma, though a few have faith in heretical religions. There are many monasteries but few monks. All the stupas are deserted and in dilapidated condition. There are five deva temples with over a hundred heretics.
Về phía đông kinh thành, cách khoảng 650 mét, có tháp cao hơn 100 mét, do vua Vô Ưu xây dựng, sử dụng đá tảng đặc biệt xây lên, có nhiều đường nét điêu khắc rất kỳ diệu.
Two li to the east of the capital city there is a stupa built by King Asoka that is over three hundred feet high with piled-up stones, on which there are marvelous sculptures.
Chính nơi đây, thuở xưa đức Phật Thích-ca khi còn là Bồ Tát gặp được đức Phật Nhiên Đăng, đã trải tấm y bằng da hươu rồi phủ tóc của mình lên trên, che lấp chỗ đất bùn để đức Phật đi qua, rồi được Phật thọ ký. Trải qua thời gian kiếp hoại, dấu tích nơi đây vẫn không mất hẳn. Đôi khi vào những ngày trai, trời mưa xuống rất nhiều loại hoa, nhắc nhở nhiều người khởi tâm mạnh mẽ về đây tu phước cúng dường.
This was the place where [in a former life] Sakya Bodhisattva once met Dtpamkara Buddha and spread a piece of deerskin and his own hair to cover the muddy ground [for Dtpamkara to tread on], and received a prediction of buddhahood from him. Although it has passed through a kalpa of destruction the ancient trace remains intact. On fast days various kinds of flowers descend on the spot and multitudes of the common people vie with one another in making offerings [to the stupa].
Về phía tây tháp này có một ngôi chùa, rất ít tăng chúng. Lại nhìn sang phía nam có một tháp nhỏ, chính là nơi xưa kia Bồ Tát trải tóc lấp bùn. Do vậy nên vua Vô Ưu đã xây dựng tháp nhỏ nơi dấu tích này, cách xa con đường lớn.
In a monastery to the west of the stupa there are a few monks. Further to the south, a small stupa marks the spot where the Bodhisattva covered up the muddy ground in a former life. It was erected by King Asoka at a secluded place to avoid the highway.
Trong thành có một tháp lớn chỉ còn trơ lại nền tháp. Xem trong các ghi chép trước đây thấy nói rằng, thuở xưa tháp này cao rộng, trang nghiêm tráng lệ, có thờ răng Phật. Ngày nay răng Phật không còn, chỉ còn lại nền tháp. Kế bên nền tháp này lại có một tháp cao khoảng hơn 10 mét.
Inside the capital city there are the old foundations of a great stupa. I heard the local people say that it had formerly contained a tooth relic of the Buddha and that it was originally a tall and magnificent structure. Now there is no more tooth relic and only the old foundations remain there. Beside them there is a stupa more than thirty feet high
Tương truyền không ai biết được nguồn gốc của tháp này, chỉ biết là tháp từ trên không trung hạ xuống rồi đứng sừng sững nơi ấy. Tháp đã không phải do người xây dựng, lại thường có nhiều điềm lành linh ứng.
whose origin is unknown, according to local tradition. The people said that it dropped down from the air and took root at the spot. It was not built by human beings and it manifested many spiritual signs.
Về phía tây nam, cách thành hơn 3.2 km có một tháp nữa. Thuở xưa, đức Như Lai từ miền Trung Ấn bay trên hư không mà đến giáo hóa vùng này. Đây chính là nơi ngài từ không trung giáng hạ, nên dân chúng cảm động, ngưỡng mộ mà xây dựng tháp linh thiêng này [để ghi nhớ]. Không xa về phía đông lại có một tháp nữa, chính là nơi thuở xưa khi Bồ Tát Thích-ca gặp Phật Nhiên Đăng đã mua hoa [để cúng dường].
Over ten li to the southwest of the capital city there is a stupa that marks the spot where the Tathagata once alighted during his flight from Central India on his travels to seek edification. Moved by the event, the people of the country built the base of this spiritual stupa out of admiration. Not far away to the east there is a stupa marking the place where Sakya Bodhisattva met Dtpamkara Buddha in a former life and purchased some flowers [to offer to the buddha].
Về phía tây nam, cách thành khoảng 6.5 km, có một ngọn núi đá thấp, có ngôi chùa với điện thờ, lầu gác đều xây bằng đá, hoang vắng tịch liêu, không có bóng dáng một vị tăng nào. Trong khuôn viên chùa có một tháp cao hơn 66 mét, do vua Vô Ưu xây dựng. Phía tây nam chùa có một khe suối sâu, hình thể cực kỳ hiểm trở, nước từ trên cao đổ dốc xuống vách đá thẳng đứng như bức tường. Về phía đông của vách đá ấy có một hang động lớn, chính là nơi ở của con rồng Cù-ba-la (Gopāla). Cửa vào động nhỏ hẹp, bên trong động tối tăm u ám, thạch nhũ từ hai bên vách đá rỉ nước nhỏ giọt, chảy thành dòng xuống một lối đi nhỏ.
More than twenty li to the southwest of the capital city one reaches a small range of rocky hills where there is a monastery with lofty halls and multistoried pavilions, all constructed out of rocks. The buildings were all quiet and silent and not a single monk was to be found. Within the compound of the monastery there was a stupa more than two hundred feet high, built by King Asoka.
To the southwest of the monastery is a deep gully with overhanging rocks [on each side], from which water falls down the wall-like precipices. On the 879a rocky wall at the east precipice is a large cave that was the dwelling place of the naga Gopala. The entrance is small and narrow and it is dark inside the cave; water drips from the rocks down to the mountain path.
Trước đây trong động này có bóng Phật, cũng tỏa hào quang sáng ngời như hình dung Phật thật, đầy đủ các tướng tốt, trang nghiêm như Phật còn tại thế. Cho đến gần đây người ta không nhìn thấy nữa. Ví như có người được thấy, cũng chỉ là hình dáng phảng phất không rõ nét. Người chí thành cầu thỉnh có sự cảm ứng thì cũng tạm thời nhìn thấy hiện ra rõ ràng, nhưng không được bao lâu.
Formerly there was a shadowy image of the Buddha, resembling his true features with all the good physical marks, just as if he were alive. But in recent years it is not visible to everyone and even those who see it can only perceive an indistinct outline. Those who pray with utmost sincerity may get a spiritual response and see a clear picture, but only for a brief instant.
Vào thời đức Phật còn tại thế, con rồng ở hang động này vốn trước đó là một viên quan lo việc chăn bò và dâng sữa cho vua, nhưng vì dâng sữa không đúng lễ nghi nên bị vua quở trách, ôm lòng oán hận. Người này liền đem tiền vàng mua hoa cúng dường ngôi tháp nơi xưa kia Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Bồ Tát Thích-ca, rồi phát nguyện sẽ tái sanh làm rồng dữ để phá hoại đất nước, làm hại nhà vua. [Cúng dường, phát nguyện] rồi liền đến nơi vách đá nhảy xuống mà chết. [Sau đó tái sinh] thành Đại Long Vương, ở trong hang động này.
When the Tathagata was living in the world the naga was a cowherd whose duty was to supply the king with milk and cream. Once he failed to fulfill his task properly and was reprimanded by the king. With a feeling of hatred and malice, he purchased some flowers to offer to the stupa of prediction, in the hope that he might be reborn as an evil naga to devastate the country and do harm to the king. Then he went up to the rocky precipice and jumped down to kill himself. Thus he became a naga king and lived in this cave.
Khi ấy, rồng muốn ra khỏi hang động để thực hiện ý đồ độc ác của mình. Nhưng vừa khởi tâm như vậy thì đức Như Lai đã biết ngay. Ngài thương xót dân chúng trong nước sẽ bị rồng làm hại nên vận sức thần thông từ miền Trung Ấn hiện đến nước này. Rồng vừa được thấy đức Như Lai liền buông xả tâm ác độc, thọ giới không sát sanh, phát nguyện hộ trì Chánh pháp. Nhân đó rồng liền thỉnh cầu: “Xin đức Như Lai thường ở lại hang động này, cùng các vị thánh đệ tử thọ nhận sự cúng dường của con.”
The moment he desired to go out of the cave to carry out his evil wishes, the Tathagata, with a mind of compassion for the people of the country, who would suffer havoc caused by the naga, arrived from Central India, flying through his supernatural power. At the sight of the Tathagata the naga’s malignant mind ceased. He accepted the ride of non-killing and wished to protect the right Dharma. So he requested that the Tathagata dwell in the cave permanently and [promised] to always offer alms to all his saintly disciples.
Đức Như Lai đáp rằng: “Khi Như Lai nhập diệt sẽ vì ngươi lưu lại hình bóng, và cho 5 vị A-la-hán thường thọ nhận sự cúng dường của ngươi. Khi Chánh pháp mất rồi, vẫn tiếp tục như vậy. Nếu có lúc nào nhà ngươi sinh tâm độc ác tức giận thì hãy nhìn vào hình bóng từ bi hiền thiện của ta lưu lại, tâm ác độc sẽ lập tức được ngăn dứt. Trong suốt Hiền kiếp này, các đức Phật vị lai cũng sẽ thương tưởng nhà ngươi mà lưu lại hình bóng [nơi đây].”
The Tathagata said to him, “I shall enter nirvana but I will leave my shadow behind for you, and I will send five arhats to always receive your offerings. Even when the right Dharma has disappeared into oblivion this arrangement will not be altered. If your malignant mind becomes agitated you should look at my shadow and, on account of your compassion and benevolence, your malignant mind will come to an end. During this bhadra- kalpa (“good eon”) all the future World-honored Ones will have compassion for you and leave their shadows behind.”
Bên ngoài cửa động Bóng Phật có hai phiến đá vuông, trên một phiến đá ấy có in dấu chân đức Như Lai, có tướng luân xa hiện ra vi diệu [trong lòng bàn chân], thỉnh thoảng có hào quang chiếu sáng.
Outside the door of Shadow Cave there are two square rocks. On one of the rocks is the trace of the Tathagata’s footprint with the wheel sign dimly visible and it sometimes emits a light.
Hai bên cửa động Bóng Phật có nhiều gian thạch thất, đều là nơi các vị thánh đệ tử của đức Như Lai nhập định. Ở góc phía tây bắc của động Bóng Phật có một ngọn tháp, là nơi đức Như Lai từng đi kinh hành. Ngay bên cạnh có tháp thờ tóc và móng tay đức Như Lai.
On either side of Shadow Cave there are many other caves, which are the places where the saintly disciples of the Tathagata used to sit in meditation. On a comer to the northwest of the Shadow Cave there is a stupa that marks the place where the Tathagata once took a walk. Beside it is another stupa, in which are stored the relics of the Tathagata’s hair and nail parings.
Cách đó không xa có một tháp nữa, là nơi đức Như Lai hiển bày thông suốt giáo pháp chân thật, giảng rõ về 5 uẩn, 12 xứ và 18 giới.
Not far from here another stupa marks the spot where the Tathagata preached on the true doctrine of the skandhas (five attributes of being), the ayatanas (twelve sense fields), and the dhatns (eighteen spheres, consisting of the six sense organs, the six sense objects, and the six consciousnesses).
Phía tây động Bóng Phật có một phiến đá lớn bằng phẳng. Đức Như Lai từng giặt áo ca-sa trên phiến đá này, vết tích lưu trên đá vẫn còn ẩn hiện.
To the west of Shadow Cave there is a large flat rock on which the Tathagata once washed his robe; the traces of the robe left on the rock are still dimly visible.
Về phía đông nam, ra khỏi thành hơn 10 km thì đến thành Hê-la (Hilo), chu vi khoảng 1.3-1.6 km, địa thế cheo leo, dốc đứng hiểm trở, cực kỳ kiên cố. Trong thành có nhiều cây cối, hoa trái, ao hồ mát mẻ, nước trong soi bóng như gương. Dân trong thành đều thuần lương, chất phát, có niềm tin chân chánh. Có một tòa lầu với cột màu đỏ, trên mái chạm trổ nhiều màu sắc hình ảnh rất đẹp.
At more than thirty li to the southeast of the city one reaches the city of Hilo, which is four or five li in circuit; [its city wall] is high, precipitous, and impregnable. There are flowers, trees, and pools with pure water as bright as a mirror. The inhabitants of the city are simple and honest and they believe in the right Dharma. There is a multistoried pavilion with colorfully painted beams and pillars.
Trên tầng lầu thứ hai có một tháp nhỏ làm bằng 7 món báu, bên trong có xá-lợi xương đỉnh đầu của đức Như Lai, chu vi đo được khoảng 40 cm, nhìn thấy rất rõ các lỗ chân tóc. Xá-lợi có màu trắng vàng, đặt trong một hộp báu để trong tháp. Nếu có người muốn biết trước chuyện lành dữ [sắp tới] thì dùng bột hương trầm hòa với nước thành bùn nhão, rồi dùng xá-lợi xương đỉnh đầu của đức Phật ấn nhẹ vào. Tùy theo phước đức [nhân duyên] chiêu cảm liền hiện ra những đường nét rõ ràng [thể hiện sự việc sắp đến].
On the second story is a small stupa made of the seven precious substances, in which is preserved a piece of the Tathagata’s skull 879b bone, twelve inches in circumference with distinct hair pores, yellowish- white in color, which is contained in a precious casket that has been placed inside the stupa. Those who wish to tell their fortunes may prepare some fragrant plaster to make an impression of the skull bone and then read a clear written prediction according to the effects of their blessedness.
Lại có một tháp nhỏ làm bằng 7 món báu, trong có [một mảnh xá-lợi] xương sọ của Như Lai, hình dạng tựa như lá sen, màu sắc cũng giống như xá-lợi xương đỉnh đầu, cũng được đặt trong một hộp báu.
There is another small stupa made of the seven precious substances in which is stored the Tathagata’s cranial bone, which has the shape of a lotus leaf and is of the same color as the skull bone. It is also contained in a precious casket that has been sealed up and placed [in the stupa].
Lại có một tháp nhỏ khác cũng làm bằng bảy báu, trong có xá-lợi nhãn tình của Như Lai, kích thước như quả nại, trong trẻo sáng suốt, lấp lánh tỏa sáng, cũng được đặt trong một hộp báu đóng kín lại.
There is another small stupa made of the seven precious substances, in which is preserved an eyeball of the Tathagata, as large as a crabapple, brilliant and transparent throughout. It is also contained in a precious casket that has been sealed up and placed [in the stupa].
Lại có tấm y tăng-già-chi của đức Như Lai bằng vải mịn dệt từ bông vải, màu đỏ pha vàng, cũng được đặt trong một hộp báu. Thời gian năm tháng quá lâu nên đã có phần hư hoại. Lại có cây tích trượng của Như Lai, thân làm bằng gỗ chiên-đàn, có gắn vòng sắt mạ bạc, được cất giữ trong một ống báu.
The Tathagata’s upper robe, made of fine cotton in a yellowish-red color, is placed in a precious casket. It has lasted a long time and is slightly damaged. The Tathagata’s pewter staff, with rings made of pewter and a sandalwood handle, is stored in a precious tube.
Gần đây có một vị vua nghe nói những bảo vật này đều là của đức Như Lai đã dùng trước đây, liền cậy sức mạnh sang cướp lấy mang về. Sau khi đem về nước, liền đặt tất cả trong cung điện nơi vua ngự. Nhưng chưa được 12 ngày, xem lại thì đã mất cả rồi. Vua cho người tìm kiếm, cuối cùng mới biết bảo vật đã quay về chỗ cũ.
Recently a king heard that these relics belonged to the Tathagata and he captured them by force. After returning to his own country the king kept the relics in his palace but less than twelve days later the relics were lost. When he searched for them he found that they had returned to their original location. 
Năm thánh vật này có rất nhiều điều linh ứng khác thường. Vua Ca-tất-thí có lệnh cho năm người tịnh hạnh chăm lo việc hương hoa. Những người tìm đến đây để xem và lễ bái nối nhau không dứt. Năm người tịnh hạnh chăm sóc nơi đây liền nghĩ cách muốn giữ sự yên tĩnh. Họ cho rằng người ta ai cũng xem trọng tiền bạc, nên phương tiện quyền biến đặt ra quy định để mong giảm bớt sự huyên náo ồn ào cho nơi này. Họ quy định chung rằng, ai muốn xem xá-lợi xương đỉnh đầu của Như Lai thì phải nộp một đồng tiền vàng; muốn ấn xá-lợi [vào bột trầm hương] phải nộp 5 đồng tiền vàng. Đối với các báu vật khác, cũng theo cách như vậy mà lần lượt đặt ra quy định [thu tiền]. Quy định tuy nặng nề, nhưng người tìm đến xem và lễ bái lại càng đông hơn.
These five holy objects have shown many spiritual signs. The king of Kapisi ordered five attendants to take care of the relics by offering incense and flowers, and worshipers came to pay reverence to them without cease. The attendants, wishing to spend their time in quietude and thinking that people would value money more than anything else, in order to stop the hubbub caused by visitors, made a rule to the effect that one gold coin would be charged to see the skull bone and five gold coins would be charged for making an impression. This ride was also applicable in different grades to the other relics. Even with these steep fees the number of worshipers increased.
Từ chỗ tòa lầu này nhìn về hướng tây bắc có một ngọn tháp cũng rất cao lớn và có nhiều điều linh ứng. Người ta chỉ cần dùng ngón tay chạm vào là tháp liền rung động, cho đến nền tháp cũng chấn động, làm cho những chuông lắc nhỏ treo trong tháp đều kêu vang lên.
To the northwest of the storied pavilion there is a stupa that is also very lofty and has shown many marvelous signs. When it is touched with a finger it shakes down to the basement and its bells ring harmoniously.
Từ tháp này đi theo khe núi về hướng đông nam khoảng 163 km thì đến nước Kiện-đà-la, thuộc miền Bắc Ấn.
From here going toward the southeast among mountains and valleys for over five hundred li, I reached the country of Gandhara (at former times incorrectly transcribed as Qiantuowei, in the domain of North India).
3. Nước Kiện-đà-la

Nước Kiện-đà-la chiều dài đông tây hơn 325 km, chiều nam bắc khoảng 260 km, phía đông giáp sông Tín-độ (Indus). Kinh thành tên là Bố-lộ-sa-bố-la (Purusapura), chu vi khoảng chừng 13 km. Dòng vua nước này không người nối dõi nên bị phụ thuộc nước Ca-tất-thí. Làng mạc hoang vắng, dân cư thưa thớt. Trong một góc kinh thành chỉ có hơn 1.000 gia đình.
The country of Gandhara is more than one thousand li from east to west and over eight hundred li from south to north, with the Indus on the east. The capital city, called Purusapura, is more than forty li in circuit. The royal family is extinct and the country is now under the domination of Kapisi. The towns and villages are desolate and have few inhabitants. In one comer of the palace city there are over one thousand families.
Nơi đây trồng nhiều lúa gạo, nhiều hoa quả, cây trái tươi tốt sum suê, trồng nhiều mía, sản xuất đường mía. Khí hậu ấm nóng, gần như không có sương tuyết.
They produce abundant cereals and have flowers and fruit in profusion. The country grows much sugarcane and produces sugar candy. The climate is mild and there is scarcely any frost or snow.
Người dân nơi đây tánh tình nhút nhát, rất thích học tập kinh điển, nghệ thuật, văn chương. Đa số tôn kính ngoại đạo, ít có niềm tin với Chánh pháp. Từ xưa đến nay, trong số các vị luận sư trước tác các bộ luận ở Ấn Độ, có Tôn giả Na-la-diên Thiên (Nārāyanadeva), Bồ Tát Vô Trước, Bồ Tát Thế Thân, Pháp Cứu, Như Ý, Hiếp Tôn giả... đều sanh ra ở nước này.
The people are shy and timid by nature and are fond of literature and the arts. Most of them respect heretical religions; only a few believe in the right Dharma.
Since ancient times masters who wrote commentaries and theoretical treatises in India, such as Narayanadeva, Asafiga, Vasubandhu, Dharmatrata, Manoratha, Parsva, and so on, have been born in this country.
Trong nước có hơn 1.000 ngôi chùa, đều hư nát hoang phế, rậm rạp tiêu điều. Rất nhiều ngọn tháp cũng hư sụp, đổ nát. Có hơn 100 đền thờ Phạm thiên, ngoại đạo chung sống hỗn tạp.
There were more than a thousand monasteries but they are now dilapidated and deserted, in desolate condition. Most of the stupas are also in rains. There are about a hundred deva temples inhabited by various heretics.
Bên trong kinh thành, phía đông bắc có một khu nền cũ, chính là nền của bảo đài trước đây thờ bình bát của đức Phật. Sau khi đức Như Lai nhập Niết-bàn, bình bát của ngài được đưa đến nước này. Trải qua mấy trăm năm được người dân cung kính cúng dường, rồi chuyển sang các nước, hiện nay bình bát đang ở tại nước Ba-lạt-tư (Persia).
To the northeast inside the royal city there are the remains of the foundation of a precious terrace on which the Buddha’s almsbowl was once placed. After the Tathagata’s demise the bowl was brought to this country, where it was venerated with formal rituals for several hundred years, and then it was brought to various countries. It is now in Persia.
Bên ngoài thành, về hướng đông nam cách khoảng 2.5-3 km có một cây bồ-đề cao hơn 33 mét, cành lá sum suê, tàn cây rợp bóng mát. Bốn vị Phật quá khứ đã từng ngồi dưới gốc cây này, nên hiện tại có bốn tượng Phật ngồi nơi đây. Trong Hiền kiếp này, 996 vị Phật tiếp theo cũng đều sẽ ngồi nơi đây.
At a distance of eight or nine li to the southeast outside the city, there is a pipal tree more than one hundred feet tall with profuse branches and leaves that cast a dense shade on the ground. The four past buddhas sat under this tree and now statues of the four buddhas are still to be seen there. The remaining nine hundred and ninety-six buddhas of the bhadrakalpa will also sit under it,
Nơi đây được [chư thiện thần và chư thiên] âm thầm bảo vệ gìn giữ nên có nhiều điều linh ứng huyền bí. Dưới gốc cây này, đức Phật Thích-ca từng ngồi quay mặt về hướng nam dạy ngài A-nan rằng: “Sau khi ta nhập diệt 400 năm, sẽ có một vị vua ra đời, hiệu là Ca-nị-sắc-ca, sẽ xây dựng một ngôi tháp cách đây không xa về phía nam. Xá-lợi từ xương thịt của ta phần lớn sẽ được tập trung trong tháp này.” Phía nam cây bồ-đề quả có một tòa tháp do vua Ca-nị-sắc-ca (Kanishka) xây dựng.
divinely guarded and protected by gods and deities. Once, when Sakya Tathagata was sitting under this tree, facing south, he told Ananda, “Four hundred years after my demise there will be a king named Kaniska, who will erect a stupa not far south of here. Most of my bodily remains will be collected in it.”
To the south of the pipal tree there is a stupa constructed by King Kaniska.
Khoảng 400 năm sau khi Phật diệt độ, vua Ca-nị-sắc-ca ra đời, thống trị toàn cõi châu Thiệm-bộ, nhưng không tin tội phước, khinh thường hủy báng Phật pháp. Một hôm, ông đi săn đến vùng đồng cỏ, nhìn thấy một con thỏ trắng nên đích thân rượt theo, nhưng vừa đuổi kịp thì con thỏ bỗng nhiên biến mất. Khi ấy, vua nhìn thấy một cậu bé chăn trâu ngồi dưới gốc cây nhỏ, đang chơi trò xây tháp, tháp cao đến gần 1 mét. Vua hỏi: “Con làm gì thế?”
In the four hundredth year after the Tathagata’s demise King Kaniska ascended the throne and ruled over Jambudvipa. He did not [originally] believe in the theory of retribution for good and evil deeds and contemptuously defamed the buddha-dharma. Once he was hunting in a marsh when a white hare appeared. The king chased after the hare and it suddenly disappeared at this place. In the woods he saw a young cowherd building a small stupa three feet high. The king asked the boy, “What are you doing?”
Cậu bé dưới gốc cây liền đáp: “Ngày xưa, đức Phật Thích-ca Mâu-ni dùng trí tuệ của bậc thánh để huyền ký rằng sẽ có một vị vua xây tháp ở vùng đất lành này, và đa phần xá-lợi của Phật sẽ được đưa về trong tháp ấy. Đại vương là người có đức lớn, danh hiệu phù hợp với lời báo trước của Phật. Ngài có phước đức thù thắng, lại ra đời đúng thời gian như Phật dự báo, nên hôm nay ta đến đây để nhắc nhở Ngài.” Nói xong liền biến mất.
The boy replied, “Formerly Sakya Buddha made a wise prediction: A king will build a stupa at this auspicious place and most of my bodily remains will be collected in it.’ Your Majesty’s holy virtues were cultivated in your previous lives and your name coincides with the one mentioned in the prediction. Your divine merits and superior blessedness will be realized at this time. Thus I am here as a preliminary sign to remind you of the prediction.” With these words, the cowherd vanished.
Vua nghe lời ấy rất vui mừng, nghĩ đến việc tên mình đã được đức Phật nhắc tới trong lời huyền ký, nhân đó phát khởi lòng tin chân chánh sâu vững, tôn kính Phật pháp. Sau đó vua liền xây dựng một tháp bằng đá bao quanh ngôi tháp nhỏ, muốn dùng công sức của mình để che phủ tháp ấy. Nhưng bất kể vua xây tháp đá cao lên bao nhiêu, tháp nhỏ vẫn luôn biến hiện cao hơn một mét. Cứ như vậy cho đến khi tháp đá cao đến hơn 132 mét, nền tháp phải xây rộng ra, chu vi gần 300 mét, xây lên thành 5 tầng, riêng phần nền cao hơn 50 mét, thì độ cao của tháp mới che phủ được tháp nhỏ bên trong.
Upon hearing these words the king was overjoyed and was proud to know that his name had been predicted by the Great Sage in his prophecy. Thereafter he professed the right faith and deeply believed in the buddha-dharma. Around the small stupa he built a stone stupa, wishing to encompass the smaller one, through the power of his merit. But no matter how tall he built the stone stupa the smaller one was always three feet higher, until the larger stupa reached over four hundred feet in height, standing on a base one and a half li in circuit, 880a with five flights of steps leading up to a height of one hundred fifty feet, so that it then covered the small stupa.
Nhà vua hết sức vui mừng, lại cho xây tiếp bên trên tháp 25 tầng luân xa bằng đồng, cung thỉnh một hộc xá-lợi Phật đưa vào tháp thờ kính cúng dường.
Delighted, the king also had gilded copper disks arranged in twenty-five tiers on the top. Then he placed one hu (hectoliter) of the Tathagata’s relic bones in the stupa, to which he piously made offerings.
Việc xây dựng vừa xong, bỗng thấy tháp nhỏ bên trong tự nhiên lộ ra đến một nửa ở góc đông nam của nền tháp lớn. Nhà vua không hài lòng, liền ra lệnh đập phá đi, thì ngay lập tức ở tầng thứ hai của nền tháp đá lại thấy tháp nhỏ [bên trong] cũng lộ ra một nửa, rồi ngay nơi chỗ tháp cũ [vừa bị phá] bỗng mọc lên ngọn tháp nhỏ như cũ. Vua nản lòng chịu thua, than rằng: “Than ôi! Việc của người đời mới dễ lầm lạc, sức của thần linh thật khó chống lại. Trước sự phù trì thiêng liêng, ta đây bực tức nào có ích gì?” Trong lòng vua cảm thấy xấu hổ, sợ sệt, liền ăn năn tạ lỗi quay về. Hai ngọn tháp nhỏ này cho đến ngày nay vẫn còn nguyên. Những người nhiều bệnh tật đau yếu, mang hương hoa đến các tháp này chí thành cầu nguyện thì phần nhiều đều được khỏi bệnh.
When construction of the large stupa had just been completed the king saw that the small stupa was protruding, with half of its structure sideways at the southeast comer of the base [of the great stupa]. Enraged, the king threw the smaller stupa upward and it stayed there, half of it appearing in the stone base under the second flight of steps of the stupa, but another small stupa emerged at the original place. The king then gave up and remarked with a sigh, “Human affairs are bewildering but the merits of deities are insuppressible. What is the use of being angry with it, if it is supported by the gods?” Ashamed and fearful, the king apologized and returned home.
These two stupas still stand. Those who are ill and wish to pray for recovery offer incense and flowers to the stupas with pious minds, and in most cases they are cured.
Trên bậc thềm bằng đá phía đông của tháp lớn có dựng hai tháp nhỏ, một tháp cao khoảng 1 mét và tháp kia cao khoảng 1.6 mét, hình dạng cách thức giống hệt như tháp lớn.
On the southern side of the flight of steps at the east of the great stupa there are two carved stupas, one three and the other five feet high, in the same style and shape as the great stupa.
Lại có hai tượng Phật, một tượng cao khoảng 1.3 mét và tượng còn lại cao gần 2 mét, phỏng theo tôn tượng ngồi kiết-già dưới gốc cây bồ-đề. Khi ánh sáng mặt trời chiếu vào thì tượng ánh lên sắc vàng rực rỡ, bóng nắng dần đi qua thì các đường vân trên đá chuyển sang màu xanh pha sắc hồng.
There are also two carved images of the Buddha, one four and the other six feet in height, resembling the Buddha sitting cross-legged under the bodhi tree. In the sunshine these images are of a dazzling golden color, and when they are gradually covered by shade the lines on the stone become bluish-violet in color.
Những vị cao tuổi nơi đây cho biết: “Nhiều thế kỷ trước đây, nơi các khe hở trên vách đá bỗng xuất hiện loài kiến có màu vàng óng ánh, con lớn cỡ như ngón tay, con nhỏ bằng hạt lúa mạch. Chúng cùng nhau gặm vào mặt đá, làm thành những đường vân như người điêu khắc, [người ta] dùng mạt vàng đắp vào thành ra hai bức tượng này, còn mãi đến giờ.”
Some local old people said that several hundred years ago there were golden-colored ants in the crevice of the stone; the big ones were the size of a fingernail and the small ones were the size of a grain of wheat. Following one another, they gnawed at the surface of the stone and the lines they made on the stone looked like incised grooves that were filled with golden sand to delineate the images, which are still in existence.
Trên bậc thềm bằng đá phía nam của tháp lớn có một bức họa tượng Phật, cao hơn 5 mét, từ phần ngực trở lên chia thành hai thân nhưng từ ngực trở xuống lại hợp thành một.
On the south side of the flight of steps leading up to the great stupa there is a painting of the Buddha sixteen feet in height, with two busts above the chest but only one body below it.
Đọc trong các ghi chép xưa thấy nói rằng: “Thuở xưa có một người nghèo làm thuê kiếm sống, có được một đồng tiền vàng, phát nguyện tạo hình tượng Phật, liền đến chỗ tháp này nói với một người họa sĩ: ‘Nay tôi muốn có một bức tượng vẽ đức Như Lai đầy đủ diệu tướng, nhưng chỉ có một đồng tiền vàng, biết là không đủ để trả công, nên lòng tôi mãi ôm ấp lo nghĩ việc này, chỉ hiềm vì quá nghèo khổ túng thiếu chẳng biết làm sao.’ Lúc bấy giờ, người họa sĩ thấy người nghèo ấy có tâm chí thành nên chẳng nói gì đến giá cả, chỉ hứa là sẽ vẽ cho. Sau đó lại có một người nghèo khác, có hoàn cảnh, tâm nguyện cũng giống hệt người kia, mang đến một đồng tiền vàng, cũng thỉnh cầu vẽ thành tượng Phật. Người họa sĩ bấy giờ nhận tiền của cả hai người nghèo rồi, [vừa đủ để] tìm mua các màu sắc, chất liệu, rồi vẽ thành một bức tượng Phật.
Some old people said that there was formerly a poor man who sustained himself by working as a laborer. Once he earned a gold coin and wished to make an image of the Buddha. He came to the stupa and said to a painter, “I wish to make a portrait of the Tathagata’s excellent features but I have only one gold coin, which is really insufficient for remuneration. This has been my long-cherished desire but I am poor and lack money.” In consideration of the poor man’s sincerity, the painter did not argue about the payment and promised to accomplish the job. Another man under the same circumstances came with a gold coin to request the painter to draw a portrait of the Buddha. Thus the painter accepted the money from both men and he asked another skillful painter to work together with him in drawing a single portrait.
Khi ấy, cả hai người nghèo cùng đến lễ bái trong một ngày, người họa sĩ liền chỉ vào bức tượng ấy nói với cả hai người: ‘Đây là bức tượng Phật mà tôi vẽ cho ông.’ Hai người cùng nhìn nhau, trong lòng lấy làm lạ. Người họa sĩ biết được mối nghi trong tâm hai người nên bảo rằng: ‘Có gì mà hai ông phải nghĩ ngợi lâu thế? Xưa nay tôi đã nhận tiền bạc của ai thì dù mảy may cũng không xê xích. Nếu lời tôi nói không dối trá, xin cho tượng này có sự linh ứng biến hoá.’ Nói chưa dứt lời thì bức tượng đã hiện sự linh ứng dị thường, phân chia thành hai thân Phật giao nhau, hào quang sáng rực. Hai người nghèo khổ ấy vui mừng cảm phục, sinh lòng tin tưởng, hoan hỷ.”
When the two men came on the same day to worship the Buddha, the two painters showed them the portrait, pointing at it and saying, “This is the portrait you ordered.” The two men looked at each other, bewildered. The painters realized that they were doubtful about 880b the matter and said to them, “Why are you pondering the matter for so long? Whatever object we undertake to produce is done without the slightest fault. If our words are not false the portrait will show miracles.” As soon as they had uttered these words the portrait manifested a wonder: the body split into two busts, while the shadows intermingled into one, with the features shining brilliantly. The two men were happily convinced and delightedly fostered faith.
Về phía tây nam của tháp lớn này, cách khoảng 170 mét, có một tượng Phật bằng đá trắng cao đến 6 mét, đứng xoay mặt về hướng bắc, từng hiện ra những tướng linh thiêng, nhiều lần phóng tỏa hào quang.
More than a hundred paces to the southwest of the great stupa there is a standing image of the Buddha made of white stone, eighteen feet high, facing north. It often worked miracles and frequently emitted light.
Có người từng nhìn thấy tượng bước đi vào ban đêm, nhiễu quanh tòa tháp lớn. Gần đây, có một bọn trộm muốn vào tháp trộm vật quý, bức tượng liền bước ra ngăn lại, khiến cả bọn hoảng sợ rút lui, tượng lại quay về chỗ đứng như cũ. Bọn trộm ấy nhân chuyện này mà tự thay đổi cải hối, từ bỏ nghề ăn trộm, đi khắp xóm làng, kể lại chuyện này cho mọi người xa gần đều biết.
Sometimes people see it walking at night and circumambulating the great stupa. Recently a band of robbers intended to enter the stupa to steal the contents. The image came out to meet the robbers head-on and the robbers withdrew in fear. Then the image returned to its original place and stood there as usual. Thereafter the robbers corrected their error and made a fresh start in life. They walked about in towns and villages and related the event to all people, far and near.
Bên phải và bên trái của tháp lớn có rất nhiều tháp nhỏ, có đến hàng trăm tháp chen chúc nhau. Nơi đây các tượng Phật hết sức trang nghiêm, chạm trổ trang hoàng cực kỳ khéo léo công phu, lại thỉnh thoảng ngửi được mùi hương lạ, nghe thấy những âm thanh khác thường, có lúc còn nhìn thấy những vị thần tiên, hiền thánh đi nhiễu quanh tháp.
At the left and right sides of the great stupa there are hundreds of small stupas, arranged as closely together as the scales of a fish. The Buddha’s images are magnificent, having been made with perfect craftsmanship. Unusual fragrances and strange sounds are sometimes perceived and spirits and genies, as well as holy ones, may be seen circumambulating the great stupa.
Đức Như Lai có huyền ký rằng tháp này sẽ có bảy lần bị thiêu rụi, bảy lần được xây lại, khi ấy Phật pháp mới diệt mất. Các ghi chép xưa cho biết tháp đã qua ba lần cháy rụi và được xây lại. Khi [Huyền Trang] vừa đến nước này, gặp lúc tháp vừa trải qua hỏa hoạn, việc xây dựng lại còn chưa hoàn thành.
The Tathagata predicted that when this stupa has burned down and been rebuilt seven times, the buddha-dharma will come to an end. Previous sages have recorded that it has been destroyed and reconstructed three times. When I first came to this country the stupa had just suffered the disaster of conflagration. It is now under repair and the structure is not yet completed. 
Phía tây của tháp lớn có tự viện cổ do vua Ca-nị-sắc-ca xây dựng. Nơi đây có nhiều lầu gác, phòng ốc trống rỗng, [trước đây đức vua] mời thỉnh các vị cao tăng khắp nơi về, ngợi ca tán dương công đức các ngài. Những kiến trúc này tuy nay đã sụp đổ hư hoại, nhưng cũng đủ cho thấy được công phu nỗ lực lớn lao [của nhà vua]. [Ngày nay] số tăng sĩ trong tự viện chỉ còn rất ít, đều tu học theo Tiểu thừa.
To the west of the great stupa there is an old monastery built by King Kaniska. The multistoried pavilion and the houses built on terraces were constructed so that eminent monks could be invited in recognition of their distinguished merits. Although the buildings are dilapidated they can still be regarded as wonderful constructions. There are a few monks who study the Hinayana teachings.
Từ khi tự viện này được xây dựng, thường xuất hiện những bậc cao tăng thạc đức, một số là các bậc luận sư viết luận, hoặc các bậc chứng đắc Thánh quả, phong khí cao thượng thanh khiết, đức độ cao vời do các ngài để lại, cho đến nay vẫn chưa dứt mất.
Since the monastery was constructed it has produced extraordinary personages from time to time, who were either writers of treatises or people who realized sainthood. The influence of their pure conduct and perfect virtue is still functioning.
Trên tầng ba có gian tịnh thất [thuở xưa] của Tôn giả Ba-lật-thấp-phược. Gian phòng ấy bị nghiêng đã lâu nhưng hiện vẫn còn [chưa sụp hẳn].
On the third story of the pavilion is the room used by Venerable Parsva (“Ribs”). It has been in ruins for a long time but its location is indicated with a mark.
Thuở xưa, Tôn giả vốn là một vị thầy Phạm chí. Năm 80 tuổi mới bỏ nhà đắp y làm tăng sĩ. Lúc bấy giờ, những người trẻ tuổi trong thành đều cười nhạo ngài, nói rằng: “Lão già ngu xuẩn, trí não thật cạn cợt biết bao! Phàm người xuất gia có hai việc, một là tu tập thiền định, hai là tụng kinh, nhưng nay ông đã suy kiệt già nua, chẳng còn làm được việc gì, lạm chen vào hàng xuất gia cao quý, chỉ biết ăn no bụng mà thôi.”
The venerable monk was a brahmanical teacher but he became a Buddhist monk at the age of eighty. Some young people in the city sneered at him, saying, “You stupid old man, why are you so ignorant? A Buddhist monk has two duties: first to practice meditation and second to recite scriptures. Now you are getting old and feeble and cannot make any more progress. So you are trying to pass yourself off as a monk among the pure mendicants but you do nothing but eat your fill.”
Tôn giả nghe qua những lời chê bai đàm tiếu như vậy liền tạ lỗi với mọi người và phát nguyện rằng: “Nếu tôi còn chưa tinh thông giáo lý trong Ba tạng Kinh điển, chưa dứt trừ được lòng dục trong Ba cõi, chưa chứng được sáu thần thông, đầy đủ tám giải thoát, thì quyết không chạm hông xuống chiếu.”
Having heard this reproach, Venerable Parsva apologized to the people and made a vow, saying, “If I do not thoroughly master the teachings of the Tripitaka and do not cut off all desires of the three realms of the world, so as to realize the six supernatural powers and possess the eight emancipations, I shall not lie down to sleep with my ribs touching the mat.”
Từ đó về sau, ngài tu tập suốt trọn ngày vẫn không cho là đủ, lúc đi kinh hành, lúc ngồi yên thiền tập, hoặc đứng ngay ngắn tư duy. Ban ngày ngài nghiên cứu học tập giáo lý, ban đêm tu tập tĩnh tâm lắng ý [không hề ngủ nghỉ]. Kiên trì liên tục qua ba năm như vậy, ngài học tập tinh thông Ba tạng Kinh điển, dứt trừ lòng dục trong Ba cõi, chứng được trí tam minh. Người thời bấy giờ hết sức kính nguỡng, nhân [nơi lời phát nguyện của ngài không đặt hông xuống chiếu nên] tôn xưng ngài là Hiếp Tôn giả.
He then worked hard and always meditated whether he was walking, sitting, or standing still. In the daytime he studied theories and doctrines and at night he sat quietly in meditation with a concentrated mind. In three years’ time he completely mastered the Tripitaka, cut off the desires of the three realms of the world, and obtained the wisdom of the three knowledges. As the people respected him, they called him Venerable Ribs (Parsva).
Bên phía đông gian tịnh thất của Hiếp Tôn giả có một gian thất cổ, là nơi ngài Thế Thân đã viết ra bộ luận A-tỳ-đạt-ma-câu-xá (Abhidharmakosa-sāstra). Người đời cung kính nên niêm phong căn phòng này và viết bảng treo nơi đây ghi rõ.
To the east of Venerable Parsva’s chamber there is an old room in which Vasubandhu Bodhisattva composed the Abhidharmakosa-sastra. Out of respect for him the people had the room sealed and indicated by a mark.
Từ căn phòng của ngài Thế Thân, cách về phía nam hơn 80 mét, nơi một căn gác trên tầng hai là nơi luận sư Mạt-nô-át-thích-tha soạn ra bộ luận Tỳ-bà-sa.
On the second story of the pavilion, at a place more than fifty paces to the south of Vasubandhu Bodhisattva’s room, is the place where the sastra master Manoratha (“As You Wish”) composed the Vibhasd-sastra.
Ngài ra đời sau khi Phật nhập Niết-bàn 1.000 năm, lúc nhỏ hiếu học, có tài biện luận, danh tiếng vang xa, kẻ tăng người tục đều kính ngưỡng. Khi ấy, vua Tỳ-ngật-la-ma-a-điệt-đa (Siêu Nhật) của nước Thất-la-phạt-tất-để uy phong vang dội đến tận những vùng xa, thu phục được các nước trong vùng Ấn Độ. Mỗi ngày vua chi ra đến 500.000 đồng tiền vàng để chu cấp cho những người nghèo khổ cô độc. Vị quan giữ kho sợ thiếu hụt cho những việc quốc sự nên muốn can ngăn bằng cách nói bóng gió rằng: “Đại vương uy danh chấn động đến tận phương xa, đức độ thấm nhuần đến cả côn trùng, nay xin đại vương tăng thêm 500.000 đồng tiền vàng nữa để chu cấp cho những người đói khổ ở khắp bốn phương. Đến khi quốc khố đã rỗng không hết sạch, thu thuế đất đai có hạn, cứ thu mãi không thôi thì tiếng oán than rền vang khắp chốn. Khi ấy Đại vương thì còn được có ơn chu cấp người nghèo, nhưng hạ thần ắt phải bị trách tội [vì không tròn bổn phận].”
The sastra master was born a thousand years after the nirvana of the Buddha. When he was young he loved learning and was eloquent in speech. His fame spread far and both clerics and laypeople had faith in him. At that time the influence of King Vikramaditya (“Valor Sun”) of Sravasti reached far and he brought the various parts of India under his domination. Every day he distributed five lakhs of gold coins as alms to paupers, orphans, and the solitary. The state treasurer, fearing that the national treasury would be exhausted, ironically remonstrated with the king, saying, “Your Majesty’s strong influence extends to various peoples and your kindness benefits even insects. Pray spend five more lakhs of gold coins to relieve the poor and needy of the four quarters. When the treasury is exhausted we can levy more taxes and repeated taxation will arouse the people’s resentment and grievance everywhere, but the monarch above may show off his kindness in bestowing charity upon the people and we subjects below will bear the blame of being disrespectful.”
Nhà vua nói: “Ta gom góp tiền dư tích lũy lâu nay để chu cấp cho người thiếu thốn, chẳng phải hoang phí cho bản thân mà làm tổn hại đến việc nước.” Nói rồi liền tăng thêm 500.000 đồng tiền vàng nữa để ban phát cho những người nghèo đói.
The king said, “We collect surplus money to give to those who are short of it, it is not for ourselves that we squander the national wealth.” Thus five lakhs of gold coins were added to the sum of money given to the poor and needy.
Một hôm vua đi săn, đuổi theo con heo rừng bị mất dấu, có người tìm ra được dấu tích con heo rừng, vua liền thưởng cho đến 100.000 đồng tiền vàng. Luận sư Như Ý mỗi lần nhờ người cạo tóc cũng tặng cho 100.000 đồng tiền vàng, sử thần trong nước cứ y theo đó mà ghi chép. Vua [đọc chuyện ấy] cảm thấy rất xấu hổ vì có người [rộng rãi] hơn mình, nên trong lòng hậm hực không vui. Vua muốn làm nhục Luận sư Như Ý trước đám đông, liền triệu tập 100 người ngoại đạo toàn là những bậc học cao hiểu rộng rồi ban lệnh rằng:
Later, while out hunting, the king lost the trace of a wild boar and a man who found the animal was granted a reward of one lakh of gold coins. Now when the sastra master Manoratha once had his hair shaved, he paid the barber one lakh of gold coins and the state annalist accordingly put the event on record. The king was ashamed to have been surpassed by a monk in lavishing money and intended to insult the sastra master Manoratha in public. Thus he summoned a hundred heretical teachers of high virtue and deep learning, to whom he issued an order, saying,
“Trẫm muốn thu thập mọi sự thấy nghe để đạt đến cảnh giới chân thật, mà nay các tôn giáo khác nhau lập luận rối rắm hỗn tạp, không thể hướng tâm về để thực hiện. Nay trẫm muốn khảo xét hết những điểm hay dở, đúng sai trong các tông phái, để [xác định đường hướng tốt đẹp nhất] mà chuyên tâm kính phụng, tuân hành.”
“We wish to glean various views to find out the truth but different schools have different theories, so we do not know where to fix our mind. Now we wish to see which of your schools is superior and which is inferior, so that we may know which way we should follow exclusively.”
Đến khi tập trung luận nghị, vua lại ban lệnh rằng: “Những luận sư các đạo khác [đến đây] đều là bậc tinh anh tuấn kiệt, còn các vị sa-môn [của Phật giáo] cũng phải tinh thông tông chỉ, giáo nghĩa của Phật môn. [Vậy nay tranh biện cùng nhau, nếu sa-môn đạo Phật] thắng thì trẫm sẽ tôn sùng kính ngưỡng Phật pháp, còn nếu thua thì sẽ giết hết sạch Tăng chúng đạo Phật.”
At the time the discussion was held the king issued another order, saying, “These heretical sastra masters are brilliant and talented scholars and the sra- manas of the Dharma should master their own theories well. If they win in the debate we shall venerate the buddha-dharma; otherwise we will slaughter the Buddhist monks.”
Sau đó, Luận sư Như Ý cùng tranh biện với ngoại đạo, có đến 99 người đã rút lui nhận thua. Chỉ còn một người, Luận sư Như Ý đưa mắt nhìn rất xem thường. Đến khi việc tranh luận hết sức căng thẳng, [Luận sư Như Ý] vừa nói ra cụm từ “lửa khói” thì nhà vua và các luận sư ngoại đạo đều nhao nhao lên phản đối rằng: “Luận sư Như Ý dùng chữ sai ý nghĩa rồi, lẽ thường là phải có khói trước, sau mới có lửa, [phải nói ‘khói lửa’ mới đúng, sao lại nói là ‘lửa khói’].”
Then Manoratha debated with the heretics and defeated ninety-nine of the opponents, who fled in retreat. He slighted the last antagonist with contempt and talked with him fluently. When he came to the subject of fire and smoke, the king and the heretic said aloud, “The sastra master Manoratha has made a faulty statement. It is common sense that smoke precedes fire.”
Luận sư Như Ý tuy muốn giải thích chỗ chất vấn đó nhưng vua và bọn ngoại đạo không ai chịu nghe, [chỉ nhao nhao lên phản đối].
Although Manoratha wished to explain his viewpoint no one would listen to his argumentation.
Luận sư Như Ý bị làm nhục trước đám đông, bèn cắn đứt lưỡi lấy máu viết thư răn dạy đệ tử là ngài Thế Thân rằng: “Trong đám đông người kết thành bè đảng hùa theo nhau, không được tranh biện ý nghĩa chân lý; ở giữa những kẻ mê muội, đừng luận bàn những việc chân chánh.” Viết thư xong thì qua đời.
Ashamed of being insulted in public, he bit off his tongue and wrote a letter to his disciple Vasubandhu, saying, “Among groups supported by factions one cannot hold a great principle in competition, and in an assembly of ignorant people there is no way to argue for the right theory.” He died after having written these words.
Không bao lâu sau đó thì vua Siêu Nhật bị mất nước. Vị vua mới lên ngôi ban chiếu tìm chọn hiền tài. Khi ấy, Bồ Tát Thế Thân muốn rửa sạch nỗi nhục ngày trước nên đến tâu lên vua rằng: “Đại vương lấy đức độ của bậc thánh mà cai trị thiên hạ, làm chủ cuộc sống của hết thảy sinh linh. Thầy tôi là Luận sư Như Ý trước đây, học hết nghĩa lý sâu xa diệu huyền trong kinh điển. Vua trước vì sự ghét giận nên lấy số đông mà làm nhục thanh danh cao quý của thầy tôi. Tôi được thầy dạy dỗ, nay muốn rửa sạch nỗi nhục xưa.”
Not long afterward, King Vikramaditya lost his kingdom and was succeeded by another king who adored and respected people of eminence and wisdom. Wishing to rehabilitate his teacher’s good name, Vasubandhu Bodhisattva came to the new king and said to him, “Your Majesty rules the kingdom with your saintly virtues and you render support to all living beings. My late teacher Manoratha was learned in abstruse and profound theories but the previous king held a grudge against him and besmirched his good name in public. As I have studied under his instruction I wish to avenge the wrong done to my teacher.”
Vị vua này vốn biết Luận sư Như Ý là người thông minh trí tuệ, ngợi khen tiết tháo cao nhã của ngài Thế Thân, liền triệu tập các luận sư ngoại đạo ngày trước đã từng tranh luận với Luận sư Như Ý. Ngài Thế Thân nhắc lại ý chỉ trước đây rồi cùng tranh luận. Tất cả ngoại đạo đều khuất phục nhận thua.
The king, knowing that Manoratha had been a wise man and appreciating Vasubandhu’s upright character, summoned all the heretics who had debated with Manoratha to a meeting. Vasubandhu then reiterated what his teacher had expounded and all the heretics were defeated and withdrew.
Từ chỗ tự viện do vua Ca-nị-sắc-ca xây dựng đi về hướng đông bắc khoảng 16 km, qua một con sông lớn thì đến thành Bố-sắc-yết-la-phạt-để (Pushkaravati). Chu vi thành này khoảng 4.5-5 km, dân cư đông đúc, phồn thịnh, nhà cửa san sát nhau. Bên ngoài cửa thành phía tây có một đền thờ Phạm thiên, tượng Phạm thiên uy nghiêm, thường xuyên xảy ra những việc linh ứng dị thường.
Going to the northeast for more than fifty li from the monastery built by King Kaniska, I crossed a large river and reached the city of Puskaravati, which is fourteen or fifteen li in circuit. It is well populated and the lanes and alleys are connected with each other. Outside the west gate of the city there is a deva temple, in which the deva image is austere in appearance and often works miracles.
Phía đông thành có một ngọn tháp, do vua Vô Ưu xây dựng. Đây là nơi bốn vị Phật quá khứ đã từng thuyết pháp. Trong số các bậc thánh hiền thuở xưa đản sanh nơi miền Trung Ấn Độ để giáo hóa muôn người, có rất nhiều vị ở nơi này. Chẳng hạn như luận sư Phạt-tô-mật-đát-la đã soạn bộ luận Chúng sự phần A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma-prakarana-pada-sāstra) ngay tại đây.
To the east of the city there is a stupa built by King Asoka. It marks the place where the four past buddhas preached the Dharma. Ancient saints and sages coming from Central India to subdue divine beings and teach human mortals at this place were very numerous. It was at this site that the sastra master Vasumitra (Shiyou in Chinese, formerly transcribed erroneously as Hexumiduo) composed the Abhidharma- prakarana-pdda-sdstra.
Về phía bắc, cách thành khoảng 1-1.5 km có một ngôi chùa cổ, điện đường hoang phế, tăng sĩ rất ít, thảy đều tu tập theo giáo pháp Tiểu thừa. Luận sư Đạt-ma-đát-la-đa đã soạn ra bộ luận Tạp A-tỳ-đạt-ma ở chùa này.
Four or five li to the north of the city there is an old monastery whose buildings are in desolation, with a few resident monks who are followers of Hinayana teachings. This is the place where the sastra master Dharmatrata (known as Fajiu in Chinese and erroneously transcribed as Damoduoluo in olden times) composed the Abhidharmatdbhidharma-hrdaya-sdstra.
Bên cạnh ngôi chùa này có một ngọn tháp cao chừng trăm mét, do vua Vô Ưu xây dựng, những chỗ trang trí, chạm gỗ, khắc đá đều hết sức tinh xảo khéo léo, vượt xa mức độ thông thường. Đây chính là nơi thuở xưa đức Phật Thích-ca khi còn tu hạnh Bồ Tát, sinh ra làm vị quốc vương, tùy theo sự mong muốn của chúng sanh mà bố thí không mệt mỏi, xả bỏ cả thân mạng. Tại đất nước này, ngài đã tái sanh làm vua đến một ngàn đời, đều ngay nơi vùng đất thiêng chỗ tháp này mà móc mắt bố thí ngàn lần.
Beside the monastery there is a stupa several hundred feet high built by King Asoka. The wood carvings and stone sculptures are quite different from work done by human artisans. Formerly, when Sakya Buddha was a king, he practiced the way of the bodhisattva at this place and gave alms tirelessly to all living beings according to their wishes. He was the king of this land for one thousand lives, and it was at this auspicious place where he surrendered his eyes in one thousand lives.
Từ nơi này không xa về hướng đông có hai ngọn tháp bằng đá, mỗi ngọn đều cao hơn 30 mét. Ngọn tháp bên phải do Phạm vương dựng lên, ngọn tháp bên trái do vua trời Đế Thích tạo thành, đều dùng các món trân bảo quý giá kỳ diệu để trang sức. Sau khi đức Như Lai tịch diệt, những món trân bảo đều hóa thành đá. Nền tháp nay tuy có nghiêng sụp nhưng tháp vẫn đứng cao sừng sững.
Not far east of where Sakya Buddha forsook his eyes there are two stone stupas, both more than one hundred feet high. The one on the right was erected by Brahma and the one on the left by Indra, and both are beautifully decorated with wonderful jewels and gems. After the demise of the Tathagata the gems turned into stone. Although the foundations have sunk the stupas still stand high and lofty.
Từ chỗ hai ngọn tháp do Phạm vương và Đế Thích xây đi về hướng tây bắc khoảng 16 km lại có một ngọn tháp, là nơi đức Phật Thích-ca giáo hóa quỷ Tử Mẫu, khuyên quỷ không làm hại người, cho nên nước này có tục cúng tế nơi tháp này để cầu sinh con.
More than fifty li to the northwest of the stupas built by Brahma and Indra 881b there is a stupa that marks the place where Sakya Tathagata converted the goddess Hariti to prevent her from doing harm to people. Thus it became the custom of the country to pray to the goddess for offspring.
Từ vị trí Phật giáo hóa quỷ Tử Mẫu, đi về hướng bắc khoảng 16 km lại có một ngọn tháp. Thuở xưa, Bồ Tát Thương-mạc-ca cung kính nuôi duỡng, hầu hạ cha mẹ mù lòa, đã hái trái cây ngay tại chỗ này, gặp lúc nhà vua đi săn thú, bắn tên độc trúng nhầm. Nhờ tâm chí thành cảm ứng nên được Thiên đế ban cho thuốc trị. Đức hạnh cảm động đến cả thánh thần nên lập tức khỏi độc mà được sống sót.
More than fifty li to the north of the place where Hariti was converted, there is a stupa built at the spot where Syamaka Bodhisattva (formerly transcribed incorrectly as Shanmo Bodhisattva) gathered fruit to offer to his blind parents in fulfillment of his filial duty, and he met the king who was hunting and who accidentally hit him with a poisoned arrow. Indra, moved by Syamaka’s mind of sincerity, dressed the wound with medicine and his virtuous deed inspired the gods, who restored him to life very quickly.
Từ chỗ Bồ Tát Thương-mạc-ca bị trúng tên độc, đi về hướng đông nam khoảng 65 km thì đến thành Bạt-lỗ-sa (Palusha). Phía bắc thành có một ngọn tháp. Thuở xưa thái tử Tô-đạt-noa (Sudana) đem con voi của vua cha bố thí cho một người bà-la-môn nên bị trách phạt, đuổi đi. Lúc thái tử ra khỏi cửa thành rồi còn ngoảnh lại từ biệt người dân trong nước, cuối cùng chia tay nhau ở chỗ vị trí ngọn tháp này. Kế bên tháp này là một ngôi chùa, tăng chúng khoảng hơn 50 vị, thảy đều tu tập theo giáo pháp Tiểu thừa. Thuở xưa, Luận sư Y-thấp-phạt-la đã soạn ra bộ luận A-tỳ-đạt-ma Minh Đăng (Abhidharmadipa-sāstra) tại ngôi chùa này.
Going to the southeast for more than two hundred li from the place where Syamaka Bodhisattva was injured, I reached the city of Varsa. To the north of the city there is a stupa built at the place where Prince Sudana (“Good Tooth”) said farewell to his countrymen at the city gate when he was banished from the city, and apologized to the people for having given his father’s elephant as a gift to a brahman. In the monastery beside the stupa there are more than fifty monks, all of whom are followers of the Hinayana teachings. It was at this place that the sastra master Isvara (“Self-existence”) composed the Abhidharmadipa-sastra.
Bên ngoài cửa phía đông thành Bạt-lỗ-sa có một ngôi chùa, tăng chúng hơn 50 vị, đều tu học theo giáo pháp Đại thừa. Nơi đây có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng. Thuở xưa, Thái tử Tô-đạt-noa bị đày đến núi Đàn-đa-lạc-ca, có người bà-la-môn theo xin con trai, con gái của Thái tử rồi mang đến chỗ vị trí tháp này để bán.
Outside the east gate of Varsa there is a monastery with more than fifty monks, all of whom are followers of the Mahayana teachings. There is a stupa built by King Asoka. Formerly, when Prince Sudana was living in exile at Dandaloka Mountain (formerly known as Tante Mountain erroneously), a brahman begged for his sons and wife and then sold them at this place.
Từ thành Bạt-lỗ-sa đi về hướng đông bắc khoảng 6.5 km là đến núi Đàn-đa-lạc-ca. Trên đỉnh núi có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, chính là vị trí mà ngày xưa Thái tử Tô-đạt-noa đã tạm trú ngụ. Kế bên tháp này, cách đó không xa lại có một ngọn tháp ghi dấu nơi Thái tử đã bố thí con trai, con gái của mình cho một người bà-la-môn. Người ấy đã đánh đập hai đứa trẻ đến nỗi máu chảy nhuộm màu đất, cho nên bây giờ cây cỏ ở đây cũng có màu ráng hồng. Phía trên vách núi có một hang đá, là thạch thất nơi Thái tử và Thái tử phi tu tập thiền định. Bên trong khe núi, cây cối rủ cành lá xuống như màn che, đều là những nơi trước đây Thái tử dạo chơi dừng nghỉ. Bên cạnh đó không xa có một gian nhà nhỏ bằng đá, là nơi cư trú của một vị tiên thời xưa.
At a place more than twenty li to the northeast from Varsa one reaches Dandaloka Mountain. On the ridge there is a stupa built by King Asoka to mark the place where Prince Sudana once lived in seclusion. Not far away there is another stupa, built at the spot where the prince gave away his sons and wife to a brahman. The brahman beat the prince’s sons and wife until their blood ran to the ground and stained the earth. Even now the grass and plants still retain a reddish hue. The cave on the cliff was the place where the prince and his wife practiced meditation. The branches of the trees in the valley droop like curtains, and the prince used to roam about here. Nearby is a stone hermitage that was the abode of an ancient rsi (sagely anchorite).
Từ gian nhà đá của tiên nhân đi về hướng tây bắc hơn 32 km, vượt qua một núi nhỏ thì đến ngọn núi lớn. Phía nam núi này có một ngôi chùa, tăng chúng rất ít, đều tu học theo giáo pháp Đại thừa. Có ngọn tháp bên cạnh đó do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi thuở xưa có một vị tiên nhân Độc giác cư trú. Tiên nhân bị một dâm nữ mê hoặc làm cho loạn tâm nên mất hết thần thông, lại bị dâm nữ ngồi trên hai vai bắt ông đưa về lại thành.
At more than one hundred li to the northwest from the hermitage one crosses over a small hill and arrives at a large mountain. On the south of the mountain there is a monastery, in which lived a few monks who studied Mahayana teachings. The stupa beside it was built by King Asoka at the place where the rsi Unicom once lived. This rsi was ensnared by a lustful woman and lost his supernatural powers. The lustful woman then rode on his shoulders and returned to the city.
Từ thành Bạt-lỗ-sa đi về hướng đông bắc hơn 16 km thì đến một ngọn núi cao. Trên núi này có tượng phu nhân của Đại Tự Tại Thiên bằng đá xanh, tức là thiên nữ Tỳ-ma. Người dân ở đây kể rằng, pho tượng này tự nhiên xuất hiện, có rất nhiều điều linh ứng khác thường, người đến đây cầu đảo cúng tế rất đông. Khắp các nước vùng Ấn Độ, những ai muốn cầu phước lành hoặc thỉnh nguyện điều gì, bất kể người sang kẻ hèn, không phân biệt xa gần đều tụ hội về đây. Những ai muốn được thấy hình dáng của thiên thần thì chí thành khấn nguyện không chút ngờ vực, nhịn ăn trong bảy ngày có thể được nhìn thấy, đa phần [những người làm như vậy] đều được thỏa nguyện.
At more than fifty li to the northeast from Varsa one reaches a lofty mountain, on which there is a bluish stone image of Bhimadevi, wife of Mahesvara. The local people said that this image of the goddess existed naturally. It showed many marvels and many people came to give prayers. In all parts of India people, both noble and common, who wish to pray for blessedness flock to this place from far and near. Those who wish to see the physical form of the goddess may get a vision of her after fasting for seven days with a sincere and concentrated mind, and in most cases their wishes will be fulfilled.
Phía dưới chân núi có một đền thờ đức Đại Tự Tại Thiên, những người ngoại đạo bôi tro trét bùn trên người thường cúng tế hành lễ ở đây.
At the foot of the mountain there is a temple for Mahesvara in which the ash-smearing heretics perform ceremonies.
Từ đền thờ đi về hướng đông nam khoảng 50 km thì đến thành Ô-đạt-ca-hán-đồ (Udakakhanda), chu vi khoảng 6.5 km, phía nam giáp sông Tín-độ. Cư dân nơi đây giàu có an ổn, hàng hóa quý báu tích chứa dồi dào, những đồ quí vật lạ từ khắp nơi đều tập trung rất nhiều về đây.
Going for a hundred fifty li to the southeast from the Bhimadevi temple I reached the city of Udakhand, which is more than twenty li in circuit, bordering the Indus River in the south. The inhabitants are rich and happy. Precious goods pile up high and most of the rare and valuable things of different places are collected here.
Từ thành Ô-đạt-ca-hán-đồ đi về hướng tây bắc khoảng 6.5 km thì đến làng Bà-la-đổ-la (Salātura), là nơi sinh của vị tiên Ba-nhĩ-ni (Pānini), người đã soạn ra bộ luận Thanh minh (Śabda-vidyā-śāstra).
Going for more than twenty li to the northwest from Udakhand I reached the city of Salatura, the birthplace of the rsi Panini, author of the Sabda-vidya-sastra.
Thuở xa xưa ban đầu, từ ngữ văn chương rất nhiều và rối rắm. Trải qua thời gian kiếp hoại, thế giới trở thành rỗng không. Chư thiên [cõi trời] Trường Thọ liền giáng hạ để chỉ bày dẫn dắt người đời, do vậy mới bắt đầu sản sinh văn chương sách vở. Từ đó về sau văn tự ngày càng nhiều hơn đến mức dư thừa, tràn ngập. [Cho nên,] Phạm vương và Thiên đế mới tùy thời mà chế định ra quy tắc [sử dụng]. Các vị tiên nhân của các tông phái khác, mỗi vị cũng đều tự chế ra văn tự. Rồi người người đua nhau học theo, cùng nhau chế thuật, tiếp nối lưu truyền. [Do số lượng văn tự quá nhiều như vậy nên] người học dù nỗ lực cũng chỉ phí công, rất khó lòng nghiên cứu cho được tường tận rõ ràng.
At the beginning of antiquity the written language was rich and extensive in vocabulary, but with the passage of the kalpa of destruction the world became empty, and afterward the long-lived deities descended to the earth to guide human beings. Thereafter, literary documents were produced, and thence forth the source of literature became a torrential flood. Brahma and Indra wrote model compositions as the time required, and the rsis of each of the heretical systems formed their own words. The people studied what was taught by their predecessors and emulated what was handed down; but the efforts of the students were wasted because it was difficult for them to master everything in detail.
Đến lúc tuổi thọ trung bình của con người ở mức trăm tuổi, có vị tiên Ba-nhĩ-ni (Pānini) ra đời, vừa mới sanh ra đã hiểu biết thông suốt mọi việc. Xót thương thời thế bạc nhược suy đồi nên muốn trừ bỏ sự dư thừa, sai lệch, san định những điều hỗn tạp, rối rắm, liền đi khắp phương xa học đạo. Khi gặp được Tự Tại Thiên, ngài liền đem chí nguyện của mình ra trình bày. Tự Tại Thiên nói: “Việc tốt đẹp lắm thay! Ta sẽ phù hộ cho ngươi.” Tiên nhân Ba-nhĩ-ni vâng lời dạy lui về. Sau đó nghiên cứu nghiền ngẫm, chọn lọc lời hay, làm ra sách về từ ngữ và ý nghĩa, có một ngàn bài tụng, mỗi bài tụng 32 âm tiết, nghiên cứu đến cùng cực nghĩa lý xưa nay, tổng hòa bao quát hết thảy [các quy tắc] ngôn ngữ. Sau đó niêm phong tất cả dâng lên đức vua.
At the time when the human life span was a hundred years, the rsi Panini was born with innate knowledge of wide scope. Feeling pity at the shallowness of learning in his time, and wishing to expunge what was superficial and false and delete what was superfluous, he traveled about to make inquiries into the way of learning. He met with Mahesvara and told the deity of his intention. Mahesvara said, “How grand it is! I shall render you assistance.” The rsi withdrew after hearing these words and concentrated his mind to ponder the matter. He collected all words and composed a text of one thousand stanzas, each stanza consisting of thirty-two syllables. In this book he made a thorough study of the written and spoken language of both ancient and modem times, and offered it to the king in a sealed envelope.
Vua hết sức trân quý, liền hạ lệnh cho người trong nước phổ biến học tập, nếu ai tụng đọc thông suốt thì ban thưởng một ngàn đồng tiền vàng. Cho nên sách được dạy dỗ lưu truyền không dứt qua nhiều thế hệ, rất thịnh hành trong thời bấy giờ. Do vậy mà trong làng này có rất nhiều người bà-la-môn là những bậc tài cao học rộng, đọc nhiều nhớ giỏi, tri thức uyên bác.
The king treasured it very much and ordered that all the people of the country should learn the text; one who could recite it fluently by heart would be rewarded with a thousand gold coins. Thus this text was transmitted from teacher to pupil and became prevalent at that time. Henceforth the brahmans in this city are great scholars of high talent with knowledge of wide scope.
Ở giữa làng Bà-la-đổ-la có một ngọn tháp, là nơi một vị A-la-hán hóa độ các hậu nhân của tiên nhân Ba-nhĩ-ni.
In the city of Salatura there is a stupa built at the place where an arhat converted a disciple of Panini.
Sau khi Như Lai diệt độ 500 năm, có một vị Đại A-la-hán từ nước Ca-thấp-di-la (Kasmira) du hóa đến nơi này, nhìn thấy vị Phạm chí đang đánh dạy một đứa bé. Lúc ấy, vị A-la-hán hỏi Phạm chí: “Vì sao phải đánh đòn đứa trẻ này?”
Five hundred years after the demise of the Tathagata a great arhat came from Kasmira to this place in the course of his journey. When he saw a brahman teacher beating a schoolboy, he asked the brahman, “Why are you chastising the child?”
Phạm chí đáp: “Tôi bảo nó học luận Thanh minh mà mãi không thấy tiến bộ.”
The brahman said, “I asked him to learn the Sabdcividya-sastra but he has not made progress with the passage of time.”
Vị A-la-hán nghe qua bật cười. Phạm chí liền nói: “Đã là sa-môn ắt có tâm từ bi thương xót muôn loài. Nay ngài bật cười như thế, xin cho biết là ý nghĩa gì?”
The arhat smiled amiably and the old brahman said, “A sramana should be compassionate and have sympathy for all living beings. But you are now smiling and I would like to know why.”
Vị A-la-hán nói: “Chuyện này không dễ nói ra, vì chỉ sợ càng làm cho ông thêm nghi hoặc mà thôi. Ông có từng nghe việc tiên nhân Ba-nhĩ-ni soạn ra bộ luận Thanh minh truyền dạy ở đời hay không?”
The arhat said in reply, “It is not easy for me to tell you, for fear that it might cause you deep doubt. Have you ever heard about the rsi Panini, who composed the Sabda-vidya-sastra for the instruction of posterity?”
Phạm chí đáp: “Ông ấy sinh ra ở làng này, hàng hậu học kính ngưỡng công đức, dựng tượng tôn thờ đến nay vẫn còn.”
The brahman said, “He was a scion of this city. Out of admiration for his virtue his disciples have made an image of him, which is still in existence.”
Vị A-la-hán nói: “Đứa con trai của ông đây chính là tiên nhân Ba-nhĩ-ni [tái sinh]. Do lấy sự học nhiều nhớ giỏi để uyên bác sách vở thế gian, chỉ biết luận bàn những thuyết ngoại đạo, không nghiên cứu lẽ chân thật giải thoát, bỏ phí trí tuệ linh diệu sáng suốt, nên phải lưu chuyển mãi trong luân hồi không dứt. May nhờ còn chút phước lành đời trước, nên nay được sinh làm con ông. Thế nhưng văn chương sách vở thế tục dù nhọc công nghiên tầm học hỏi cũng chẳng ích gì, sao có thể so với [việc học theo] Thánh giáo Như Lai sẽ phát triển phước trí nhiệm mầu?
The arhat said, “This son of yours is [a reincarnation of] that rsi. On account of his rich knowledge he took delight in studying worldly books, discussing only the heretical theories and never researching the truth. He wasted his spirit and wisdom and is still involved in the wheel of rebirth. By virtue of his surplus good deeds he has been reborn as your beloved son. But he simply wasted his energy studying the diction and language of worldly books How can this be the same as the Tathagata’s holy teachings, which give rise to bliss and wisdom in a mysterious way?
“Xưa kia, ở bờ biển phía nam có một cây khô, có 500 con dơi sống trong bộng cây ấy. Một hôm, có mấy thương nhân dừng nghỉ dưới gốc cây này. Hôm đó trời lạnh gió rét, mọi người vừa đói vừa lạnh, liền nhặt củi khô gom lại nhóm lửa dưới gốc cây. Lửa càng lúc càng bốc cao nên cây khô cuối cùng cũng bắt lửa mà cháy. Trong những thương nhân đó, có một người sau lúc nửa đêm bắt đầu tụng đọc Luận tạng A-tỳ-đạt-ma. Đàn dơi tuy bị ngộp trong lửa khói khốn khổ nhưng vì ưa thích nghe tiếng Pháp âm nên vẫn gắng chịu mà không bay đi, cuối cùng tất cả đều bỏ mạng, rồi theo nghiệp [lành nghe pháp] nên được tái sanh làm người, lại lìa bỏ thế tục, xuất gia tu học. Nhờ [trong đời trước] được nghe pháp âm nên thông minh sáng suốt, tất cả đều chứng Thánh quả, trở thành ruộng phước cho người đời.
“In olden times there was a decayed tree by the shore of the South Sea, and five hundred bats lived in the holes of the tree. Once a caravan of merchants stayed under the tree. As the season was windy and chilly and the merchants were hungry and cold, they piled up firewood and built a fire under the tree. The smoke and flames gradually began to bum fiercely and set the decayed tree on fire. One of the merchants recited the Abhidharma pitaka after midnight, and the bats, even though scorched by the heat, so loved to listen to the recitation of the Dharma that they would not leave the place; they disregarded the intense heat and died in the tree. According to their karmic force they were reborn as human beings and renounced their homes to learn and practice [the Buddhist teachings]. As they had heard the recitation of the Dharma they were clever and intelligent and realized sainthood; thus they became fields of blessedness for the world.
“Gần đây, vua Ca-nị-sắc-ca và Hiếp Tôn giả triệu tập 500 vị hiền thánh về tại nước Ca-thấp-di-la để tạo bộ luận Tỳ-bà-sa, chính là 500 con dơi trong bộng cây khô ngày trước.
“Recently King Kaniska and Venerable Parsva summoned five hundred holy persons in Kasmfra to compile the Vibhasa-sastra, and these five hundred holy persons are the five hundred bats that lived in that decayed tree.
“Phần tôi tuy kém cỏi nhưng cũng là một trong số ấy. Theo đó mà xét thì biết rằng sự ưu việt hay kém cỏi luôn khác biệt, sự thăng tiến hay sa đọa chẳng giống nhau, [thảy đều do nỗ lực của con người]. Nay đối với đứa con yêu dấu của ông, nên để cho nó xuất gia. Công đức của việc xuất gia không thể nào nói hết.”
Although I am an unworthy person I was one of them. From this we may see that there is such a great difference between the superior and the inferior, the virtuous and the vicious, as that between those that fly high in the air and those that crouch down on the ground. Permit your beloved son to become a monk, for the merits of becoming a monk are indescribable in words.”
Vị A-la-hán nói vừa dứt lời liền thị hiện các phép thần thông rồi bỗng nhiên biến mất.
After having spoken these words the arhat performed miracles and disappeared all of a sudden.
Ông Phạm chí khi ấy sinh tâm cung kính sâu sắc lạ lùng, tán thán hồi lâu, rồi đem sự việc kể lại với những người trong làng, sau đó liền cho đứa con xuất gia tu học. Từ đó ông hết lòng sùng bái, kính trọng Tam Bảo. Những người trong làng nhân đó được cải hóa, tin theo Phật pháp ngày càng nhiều hơn, đến nay vẫn còn.
The brahman cherished a deep feeling of awe and faith and exclaimed sadhu (“excellent”) for a long time. He related everything to the people of the neighborhood and permitted his son to become a monk to learn and practice [the Buddhist teachings]. He then gained faith and honored the Triple Gem, and his countrymen have accepted his edification with more and more earnestness up to this day.
Từ thành Ô-đạt-ca-hán-đồ đi về hướng bắc, vượt núi, qua sông, khoảng 195 km thì đến nước Ô-trượng-na, thuộc miền Bắc Ấn.
Going from Udakhand to the north over mountains and across rivers for more than six hundred li, I reached the country of Udyana. (This means “park,” as it was a pleasure garden of a previous wheel king. Formerly it was transcribed as Wuchang or Wutu, both erroneously. It is in the domain of North India.)
End of Fascicle II of The Great Tang Dynasty
Record of the Western Regions

Hình minh họa: Đồ họa thể hiện hành trình qua 3 nước trong Quyển 2 - Tây Vực Ký



    « Xem chương trước «      « Sách này có 15 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Quy Sơn cảnh sách văn


Gõ cửa thiền


Sống và chết theo quan niệm Phật giáo


Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.117.254.202 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...