Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Khởi đầu của mọi thành tựu chính là khát vọng. (The starting point of all achievement is desire.)Napoleon Hill
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Tây Vực Ký »» Xem đối chiếu Anh Việt: Quyển 3 »»

Tây Vực Ký
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Quyển 3

Donate

(Lượt xem: 3.104)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || English || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Quyển 3

Fascicle III

QUYỂN 3 - (8 nước)
Fascicle III - Eight Countries, from Udyana to Rajapura
● Nước Ô-trượng-na ● Nước Bát-lộ-la ● Nước Đát-xoa-thỉ-la ● Nước Tăng-ha-bộ-la ● Nước Ô-lạt-thi ● Nước Ca-thấp-di-la ● Nước Bán-nô-ta ● Nước Át-la-xà-bổ-la
1. The Country of Udyana
2. The Country of Balura
3. The Country of Taksasila
4. The Country of Simhapura
5. The Country of Urasa
6. The Country of Kasmira
7. The Country of Parnotsa
8. The Country of Rajapura

1. Nước Ô-trượng-na

Nước Ô-trượng-na chu vi khoảng 1.630 km, núi rừng thung lũng tiếp nối nhau, sông suối liền mạch, tuy có gieo trồng lúa thóc nhưng sản lượng không nhiều. Ở đây trồng nhiều nho, rất ít mía đường. Có khoáng sản như vàng, sắt. Vùng này thích hợp trồng uất kim hương, cây cối um tùm, hoa trái tốt tươi. Thời tiết có nóng có lạnh, điều hòa dễ chịu, mưa thuận gió hòa.
The country of Udyana is over five thousand li in circuit, with mountains and 882b valleys connecting each other and rivers and marshes linking together. Although crops are planted, the yield is poor owing to the infertility of the land. There are many grapevines but sugarcane is scanty. The country produces gold and iron and the soil is suitable for growing saffron. The woods are exuberant and flowers and fruit are abundant. The climate is mild with timely wind and rain.
Tính khí người dân nhút nhát yếu đuối, lại hay mưu mô lừa lọc, hiếu học nhưng không chuyên sâu. Luyện tập chú thuật cũng được xem là một nghề nghiệp. Y phục đa phần bằng vải bông trắng, ít thấy các loại y phục khác. Ngôn ngữ tuy có khác biệt nhưng về đại thể cũng giống Ấn Độ. Chữ viết và lễ nghi cũng quan hệ hết sức mật thiết [với Ấn Độ].
The people are timid and overcautious by nature and the practice of fraudulence is the common custom. They enjoy learning but do not make profound studies, and they take the recitation of spells as their profession. They mostly wear white cotton and have few other garments. Although they speak a different dialect, it is roughly the same as that spoken in India, and their written language and etiquette are closely related to those of India.
Người dân sùng bái, tôn trọng Phật pháp, kính ngưỡng tin theo giáo lý Đại thừa. Dọc theo hai bên sông Tô-bà-phạt-tốt-đổ trước đây có đến 1.400 ngôi chùa, ngày nay hầu hết đều hoang phế. Trước đây, tăng sĩ có khoảng 18.000 vị, nay thì ngày càng ít dần. Tất cả tăng sĩ đều tu tập theo Đại thừa, lấy công phu thiền định tịch tĩnh làm sự nghiệp. Họ giỏi việc tụng đọc kinh văn nhưng chưa nghiên cứu giáo nghĩa thâm sâu. Nghiêm trì giới hạnh thanh cao tinh khiết, đặc biệt quen trì chú. Về luật nghi được truyền dạy, gồm [những bộ luật của] năm bộ phái:
They hold Buddhism in high esteem and reverently believe in the Mahayana teachings. Along the two sides of the Subhavastu River there were formerly one thousand four hundred monasteries, but most of them are now in desolation. In the old days there were eighteen thousand monks but the number has gradually decreased. They all study Mahayana teachings and spend their time in silent meditation. They can recite their books well but they do not make researches into the deep meanings. They are pure in observing the disciplinary rules and are specially adept in reciting incantations. There are five traditions of the Vinaya rifles, namely,
1. Pháp Mật Bộ
2. Hóa Địa Bộ
3. Ẩm Quang Bộ
4. Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ
5. Đại chúng bộ.
the Dharmaguptaka,
the Mahisasaka,
the Kasyapiya,
the Sarvastivada,
and the Mahasamghika.
Có hơn 10 đền thờ Phạm thiên, ngoại đạo các phái sống chung hỗn tạp. Thành quách kiên cố có 4, 5 chỗ, nhà vua thường ngự ở thành Măng-yết-ly. Chu vi của thành này xấp xỉ 5.5 km, dân cư đông đúc phồn thịnh. Về phía đông thành Măng-yết-ly, cách khoảng 1.6 km có một tòa tháp, có rất nhiều điềm linh ứng, chính là nơi thuở xưa tiền thân đức Phật Thích-ca làm vị tiên nhân nhẫn nhục, bị vua Yết-lợi cắt xẻo thân thể.
There are more than ten deva temples with heretics living together. There are four or five fortified cities, and the king mostly rules over the country from the city of Mangala, which is sixteen or seventeen li in circuit and is well populated.
Four or five li to the east of Mangala there is a stupa that has shown a great number of spiritual signs. This was the spot where the Buddha, as the rsi Patience in a previous life, had his limbs mutilated by King Kali (‘‘Fighting,” formerly transcribed as Geli erroneously).
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng đông bắc khoảng 80-85 km thì gặp một núi lớn, vào trong núi có dòng suối Rồng A-ba-la-la, là phát nguyên của sông Tô-bà-phạt-tốt-đổ, chảy về hướng tây nam, hai mùa xuân hạ đều có chỗ nước đóng băng, sớm tối đều có tuyết bay lả tả giữa trời, ánh nắng chiếu vào hiện màu [cầu vồng] ngũ sắc tỏa ra bốn hướng.
Going to the northeast for two hundred and fifty or sixty li from Mangala, I came to a great mountain and reached Apalala Dragon Spring, which is the source of the Subhavastu River and has a tributary flowing to the southwest. 882c Morning and evening the white spray falls like snowflakes with all the colors of the rainbow, shining upon all sides.
Vào thời Phật Ca-diếp, con rồng chúa này vốn sanh làm người, tên là Căng-kỳ, rất giỏi chú thuật, chế ngự được rồng dữ không cho làm mưa to gió lớn. Người dân trong nước nhờ đó được [mưa thuận gió hòa], lúa thóc tích chứa được dồi dào. Dân chúng biết ơn nên đặt ra mức thuế mỗi nhà một đấu thóc để dâng tặng cho Căng-kỳ. Trải qua nhiều năm, có những người trốn tránh không nộp khoản thuế này, nên Căng-kỳ giận dữ phát lời nguyền sẽ sinh làm rồng dữ để tạo ra mưa to gió lớn phá hoại mùa màng lúa má. Sau khi Căng-kỳ chết đi, [do lời nguyền đó nên] tái sinh thành rồng chúa A-ba-la-la ở suối này, rồi làm cho từ trong suối dâng tràn nước bạc chảy ra, làm tổn hại việc thu hoạch mùa màng.
At the time of Kasyapa Buddha the dragon [of this spring] was born a human being named Jingqi, who was an expert in the art of exorcism and had restrained a malicious dragon from causing rainstorms. It was because of his help that the people of the country had surplus grain to store at home. Out of gratitude for the exorcist’s virtuous deeds, each household of the inhabitants contributed one don (ten liters) of grain as a gift to him. As time passed some people neglected their duty, and Jingqi became angry and wished to become a malignant dragon and cause storms to spoil the seedlings of the crops. After his death he was reborn a dragon at this place and caused white water to flow from the spring and it damaged the fertility of the soil.
Đức Như Lai Thích-ca có lòng đại bi phủ khắp thế giới, thương xót người dân nước này riêng gặp phải tai nạn ấy nên dùng thần thông hiện đến nơi đây để hóa độ rồng. Thần Chấp Kim cương cầm chày báu gõ vào sườn núi, rồng chúa chấn động sợ hãi nên vội hiện ra xin quy y, nghe Phật thuyết pháp liền khởi tâm thanh tịnh tin hiểu. Đức Như Lai liền ngăn cấm không được làm tổn hại đến lúa thóc mùa màng. Rồng thưa rằng: “Thức ăn của con đều nhờ thâu lấy ở ruộng của con người. Nay vâng lời Phật dạy, chỉ sợ khó kiếm đủ sống, xin cho con 12 năm được thâu lấy một lần để chứa giữ.”
When Sakya Tathagata came to guide the world with a mind of great pity he had sympathy with the people of this country, who alone suffered from the disaster, and he sent a deity to the place to convert the ferocious dragon. The deity Vajrapani struck the mountain cliffs with his vajra (thunderbolt) and the shock terrified the dragon king, who came out and took refuge in the Buddha. After hearing the Buddha preaching the Dharma for him, the dragon purified his mind and had faith in enlightenment. The Tathagata then forbade him to destroy agricultural products. The dragon said, “Whatever food I eat is collected from the fields cultivated by people. Under your holy teachings I fear that I could not sustain my life. I hope that I may be allowed to collect grain for storage once every twelve years.”
Đức Như Lai cân nhắc, thương xót [sự sống của rồng] nên cho phép. Vì vậy từ đó đến nay cứ cách 12 năm lại có nạn nước bạc dâng tràn gây hại.
The Tathagata accepted the dragon’s request with compassion. Thus the country suffers this white water calamity once every twelve years.
Từ suối Rồng A-ba-la-la đi theo hướng suối chảy về phía tây nam khoảng 10 km, trên bờ suối phía bắc có một tảng đá lớn bằng phẳng, trên mặt đá có in dấu chân đức Phật. Tùy theo phước đức khác nhau của người đến xem mà nhìn thấy dấu chân này dài ngắn khác nhau. Đây chính là dấu chân đức Như Lai lưu lại sau khi hàng phục rồng dữ. Người đời sau ngay tại chỗ ấy dùng đá xây lên thành một gian thất nhỏ. Gần xa khắp nơi đều mang hương hoa đến đây cúng dường.
More than thirty li to the southwest of Apalala Dragon Spring, on the northern bank of the river, there is a huge rock with a footprint of the Tathagata, which varies in size according to the power of the merits of the measurer. It was left by the Tathagata when he was going away after having converted the dragon. Afterward people built a stone chamber in the rock and worshipers came here from far and near to offer flowers and incense.
Lại theo dòng suối đi xuôi xuống khoảng 10 km thì gặp được phiến đá đức Như Lai ngày xưa từng giặt y, đường vân của áo ca-sa vẫn còn in rõ trên đá như được khắc vào.
Going downstream for more than thirty li, one reaches the rock on which the Tathagata washed his robe. The lines of the robe are still clearly visible, as if they were carved into the rock.
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng nam khoảng 130 km thì đến núi Hê-la, nước trong khe núi đều chảy về hướng tây. Đi ngược dòng nước lên hướng đông có nhiều loại hoa rừng trái lạ, ngập tràn cả dưới khe sâu, trên vách núi. Núi cao vách đứng nguy hiểm, khe núi quanh co, thỉnh thoảng nghe như có âm thanh tiếng nói rì rào huyên náo, hoặc nghe như tiếng nhạc từ đâu vang vọng. Những tảng đá vuông như giường nằm, đường nét mềm mại như do tay người khéo léo tạo thành, nằm kế bên nhau, trải dài từ sườn núi xuống tận khe sâu.
More than four hundred li to the south of Mangala one reaches Hidda Mountain, where the stream in the valley flows westward. As one goes up to the east against the current of the stream, there are various kinds of flowers and strange [types of] fruit, covering the gully and climbing the steeps. The peaks and cliffs are precipitous and the brooks and ravines wind and meander. The sound of loud talking and the echo of music are sometimes heard. Lying linked together in the valley are square rocks that resemble bedsteads made by craftsmen.
Đây là nơi thuở xưa đức Như Lai vì muốn nghe [Chánh pháp trong] nửa bài tụng mà xả bỏ thân mạng.
This was the place where once in a former life the Tathagata forsook his life to hear half a stanza of the Dharma. (The word “stanza” was formerly transcribed as jie, an abbreviation of the original Sanskrit, or as jieta, a mispronunciation of the Sanskrit word. The correct reading should be gatha, meaning a “verse” consisting of thirty-two syllables.)
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng nam khoảng 65 km thì đến chùa Ma-ha-phạt-na nằm bên cạnh một ngọn núi lớn.
More than two hundred li to the south of Mangala is Mahavana (“Great Forest”) Monastery, located beside a mountain.
Thuở xưa, đức Như Lai lúc còn tu hạnh Bồ Tát, làm vua hiệu là Tát-phược-đạt, vì tránh quân địch phải bỏ nước, lẩn tránh chạy đến nơi này, gặp một người bà-la-môn nghèo vừa đến xin ăn. Vua đã mất ngôi nên không có gì để cho, liền bảo người ấy trói vua lại dẫn đến cho vua địch, hy vọng sẽ được thưởng tiền, xem như để bố thí.
This was the place where the Tathagata, when he was practicing the way of the bodhisattva in one of his previous lives as a king named Sarvadatta (“All-giving”), came incognito after having abandoned his kingdom to avoid an enemy. He met a poor brahman coming to beg for alms. Since the king had lost his kingdom he had nothing to give as alms. So he asked the brahman to bind him, send him to the enemy king, and claim a reward so that he might give the reward as alms to the brahman.
Từ chùa Ma-ha-phạt-na đi về hướng tây bắc khoảng chừng 11-14 km, phía dưới chân núi có chùa Ma-du, có một ngọn tháp cao khoảng 35 mét. Bên cạnh tháp có một hòn đá vuông lớn, bên trên có in dấu bàn chân Như Lai lúc ngài giẫm chân lên đó rồi phóng ngàn vạn tia hào quang chiếu sáng đến chùa Ma-ha-phạt-na, vì hàng trời, người mà nói ra những chuyện tiền thân của ngài.
Going down the mountain for thirty or forty li from the northwest of Mahavana Monastery, one reaches Mayu (“Bean”) Monastery. There is a stupa over one hundred feet high, beside which is a big square rock with a footprint of the Tathagata. In one of his previous lives the Buddha stood on the rock and emitted millions of rays of light to illumine Mahavana Monastery, while he related the Jataka stories to human and divine beings.
Dưới nền tháp có một hòn đá màu trắng ngả vàng, thường rỉ ra một chất nước trơn bóng.
Below the base of the stupa there is a stone, yellowish-white in color and which always exudes an oily substance.
Thuở xưa, đức Như Lai còn tu hạnh Bồ Tát, vì muốn nghe Chánh pháp nên đã [chấp nhận] chẻ xương mình để chép kinh điển tại chỗ này.
This was the place where the Tathagata, when practicing the way of the bodhisattva, wrote down scriptures with a splinter of his bone in order to hear the right Dharma.
Từ chùa Ma-du đi về hướng tây khoảng 19-22 km thì gặp một tòa tháp do vua Vô Ưu xây dựng.
Sixty or seventy li to the west of Mayu Monastery is a stupa built by King Asoka.
[Nơi đây,] thuở xưa khi đức Phật còn tu hạnh Bồ Tát, làm vua hiệu là Tỳ-ca, vì cầu quả Phật đã tự cắt thịt mình cho chim ưng ăn thay chim câu.
This was the place where in order to acquire buddhahood when he was practicing the way of the bodhisattva the Tathagata, in a former life as a king named Sivaka (“Giving,” formerly transcribed as Shipi erroneously), cut his body to ransom a dove from a hawk.
Từ nơi đức Phật tự cắt thịt mình, đi về hướng tây bắc khoảng 65 km thì vào vùng bình nguyên San-ni-la-xà (Saniraja), đến chùa Tát-bầu-sát-địa, có một ngọn tháp cao gần 30 mét.
More than two hundred li to the northwest of the place where the dove was ransomed, one enters the Saniraja Valley and reaches Sarpausadhi (“Serpent Medicine”) Monastery, where there is a stupa over eighty feet high.
Thuở xưa, tiền thân đức Như Lai là vua trời Đế Thích, gặp lúc đói khát tật bịnh hoành hành, thuốc men chữa trị đều không hiệu quả, người chết liên tục đầy đường. Đế Thích khởi tâm đại bi thương xót, suy nghĩ phương cách cứu đời, liền tự biến hình thành một con trăn rất lớn nằm chết phơi thây trên thung lũng, rồi phát ra tiếng nói giữa không trung thông báo cho mọi người khắp nơi đều biết để đến xẻ thịt trăn mà ăn. Mọi người nghe biết được liền lũ lượt kéo nhau đến cắt xẻo lấy thịt trăn, cắt đi rồi thịt lại sinh ra như cũ, người ta ăn vào vừa no bụng vừa trừ được bệnh tật.
This was the place where a famine and pestilence occurred when the Tathagata was Indra in a former life. Medical treatment failed to cure the people, who died one after another on the road. With a mind of compassion Indra wished to save them, so he transformed himself into a huge python lying dead in the valley, and an announcement echoed in the air. Those who heard it happily rushed to the spot to cut off pieces of flesh, which were immediately regenerated, to satisfy their hunger and cure their disease.
Bên cạnh đó không xa có một tháp lớn tên Tô-ma (Sūma).
Not far away there is the great Suma Stupa,
Thuở xưa, tiền thân đức Như Lai làm vua trời Đế Thích, gặp lúc dịch bệnh hoành hành, thương xót hết thảy sinh linh nên tự biến hình thành con rắn Tô-ma ở ngay tại nơi đây. Những ai ăn thịt rắn này thì đều được lành bệnh, khỏe mạnh.
marking the place where the Tathagata, as Indra in in one of his former lives, pitied the people suffering during a year of famine. He changed himself into a large suma (water) serpent and all those who ate its flesh were cured.
Phía bắc bình nguyên San-ni-la-xà, chỗ ven vách núi đá có một ngọn tháp. Những ai có bệnh đến đây cầu nguyện thì hầu hết đều được khỏi bệnh.
Beside the cliff at the north of the Saniraja River there is a stupa that often cures sick people who come to pray for the recovery of their health.
Tiền thân đức Như Lai thuở xưa làm chúa tể của bầy chim công, dẫn bầy chim công đến đây. Gặp lúc trời nóng bức, cả bầy đều khát cháy cổ nhưng tìm không có nước. Khi ấy, chim chúa dùng mỏ mổ vào vách núi này, liền có một dòng suối chảy vọt ra. Đến nay, chỗ ấy thành một hồ nước, những ai uống nước hay tắm gội ở hồ này đều khỏi bệnh. Trên đá vẫn còn lưu lại dấu chân chim công [chúa].
When in a former life the Tathagata was a peacock king, he came here with his flock. As it was the hot season, the peacocks were thirsty but they could not 883b find any water to drink. The peacock king then pecked the cliff to let water flow out of the rock. Now a pond has been formed there, and its water is effective for healing illness. There are traces of the peacocks still visible on the stone.
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng tây nam khoảng 19-22 km, ở phía đông con sông lớn có một ngọn tháp cao khoảng 20 mét, do vua Thượng Quân xây dựng. Ngày xưa, khi đức Như Lai sắp diệt độ có bảo đại chúng rằng: “Sau khi ta nhập Niết-bàn, vua Thượng Quân của nước Ô-trượng-na nên được chia một phần xá lợi.” Đến sau khi [Phật nhập Niết-bàn] vua các nước tụ họp chuẩn bị phân chia xá-lợi, vua Thượng Quân đến trễ, các vua khác đều có ý xem thường. Lúc bấy giờ, đại chúng trời, người cùng nhắc lại lời dặn dò của Như Lai, vua Thượng Quân mới được dự phần phân chia xá-lợi, liền mang về nước, theo đúng nghi thức cung kính phụng thờ.
More than sixty or seventy li southwest from Mangala there is a stupa over sixty feet high built by King Uttarasena at the east side of a great river. When the Tathagata was about to enter nirvana he told the assembly of monks, “After my nirvana, King Uttarasena of Udyana should be given a portion of my relic bones.” The various other kings wished to share the relics equally among themselves and, as King Uttarasena arrived later, he was despised by the other kings. At that time all the people, heavenly beings, and monks reiterated the Tathagata’s last words. Thus King [Uttarasena] took part in sharing the relics and carried his portion back to his own country, where he reverently constructed a stupa.
Bên cạnh tháp này, nơi bến sông có một hòn đá lớn, hình dạng giống như con voi. Ngày xưa, vua Thượng Quân dùng một con voi trắng lớn để đưa xá-lợi về nước, đi đến chỗ này bỗng nhiên voi té ngã mà chết, hóa thành tảng đá này. [Vua liền cho] xây tháp ngay bên cạnh đó.
On the bank beside the great river there is a huge rock in the shape of an elephant. Formerly, when King Uttarasena used his great white elephant to carry the relics home, it suddenly fell down and died at this place; it was transformed into a rock and a stupa was erected beside it.
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng tây khoảng 16 km, vượt qua con sông lớn thì đến tháp Lô-hê-đát-ca, cao khoảng 17 mét, do vua Vô Ưu xây dựng.
More than fifty li to the west of Mangala and across a great river, one reaches Rohitaka (“Red”) Stupa, which is over fifty feet in height and was built by King Asoka.
Thuở xưa, đức Như Lai khi còn tu hạnh Bồ Tát, làm vị đại quốc vương hiệu là Từ Lực, ngay tại nơi này đã trích máu trong thân mình để nuôi năm con quỷ dược-xoa.
Formerly when the Tathagata was practicing the way of the bodhisattva as a king named Maitrtbala, he drew blood from his body to feed five yaksas (formerly transcribed as yechci erroneously).
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng đông bắc khoảng 10 km thì đến một ngọn tháp bằng đá tên Át-bộ-đa, cao khoảng 18 mét.
More than thirty li to the northwest of Mangala, one reaches Adbhuta (“Marvelous Stone”) Stupa, which is over forty feet in height.
Thuở xưa, đức Như Lai vì hàng trời, người mà thuyết pháp khai mở, dẫn dắt tại chỗ này. Sau khi đức Như Lai rời đi, tháp này tự nhiên từ dưới đất mọc lên, người người tôn sùng kính ngưỡng, hương hoa cúng dường không dứt.
Formerly the Tathagata preached the Dharma to instruct human and heavenly beings at this place. When the Tathagata had left the place this stupa emerged from the ground, to which the people offered incense and flowers reverently, without cease.
Từ tháp đá này, vượt qua sông lớn đi về hướng tây khoảng chừng 9-13 km thì đến một tinh xá, bên trong có tượng Bồ Tát A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, tiềm ẩn nét uy nghiêm linh ứng, thần tích sáng tỏ, kẻ tăng người tục đều quy tụ về đây cúng dường không dứt.
Crossing the great river at the west of the stone stupa and going for thirty or forty li, I reached a vihcira in which is enshrined an image of Avalokitesvara Bodhisattva (known as Guanzizai in Chinese. When it is pronounced in connected syllables it reads as the above-mentioned Sanskrit form, and when it is read separately it is divided into avalokita, translated as guan or “observe,” and isvara, translated as zizai or “master.” Formerly it was translated as Guang-shiyin, Guanshiyin, or Guanshizizai, all erroneously). Its protective spiritual influence is latent but its divine manifestations are apparent. Both monks and laypeople come here one after another to make offerings to it without cease.
Từ chỗ tượng Bồ Tát Quán Tự Tại đi về hướng tây bắc khoảng 50 km thì đến núi Lam-bột-lô (Lanpolu), trên đỉnh có hồ rồng chu vi khoảng gần 11 km. Sóng vỗ mênh mông, nước hồ trong vắt ngời sáng như gương.
Going northwest for one hundred forty or fifty li from the image of Avalo-kitesvara Bodhisattva, I reached Lanpolu Mountain, on top of which is a dragon lake more than thirty li in circuit, a vast expanse of green water as pure as a brilliant mirror.
Thuở xưa, vua Tỳ-lô-trạch-ca mang quân đánh dòng họ Thích, có bốn người họ Thích ra kháng cự, kết quả bị thân tộc [họ Thích] trục xuất phải bỏ thành chạy đi. Trong số đó có một người chạy ra khỏi kinh đô rồi, rong ruổi đường xa mệt mỏi, liền dừng nghỉ giữa đường.
Formerly when King Virudhaka went to attack the Sakyas, four men of the Sakya clan resisted the [invading] army and their relatives were exiled to different places. One of the four men came out of the capital city and, feeling tired during the march, he stopped midway.
Lúc bấy giờ có một con ngỗng trời từ đâu bay đến đáp xuống phía trước người ấy, vẻ như quen thuộc, thân thiện, nên người họ Thích ấy liền cưỡi lên lưng ngỗng. Ngỗng đưa người bay đi, lượn quanh rồi đáp xuống bên một bờ hồ. Người họ Thích bay trên không trung đã quá xa, đến địa giới nước khác nên không còn nhận biết đường đi, liền tạm nghỉ ngơi rồi ngủ thiếp đi dưới bóng mát một tàn cây.
At 883c that time a wild goose came before him and, as the bird was docile and friendly the man climbed onto its back. The goose flew up and alighted beside the lake. The Sakya man, having traveled through the air and arrived in a distant and strange land, lost his way and took a nap under the shade of a tree.
Khi ấy, long nữ con long vương của hồ này đang dạo chơi ven bờ hồ, nhìn thấy người họ Thích, e rằng thân rồng không xứng hợp với người nên liền biến thành hình người rồi đến bên vỗ về âu yếm. Người họ Thích giật mình tỉnh giấc, nhận ra là một thiếu nữ, liền hỏi: “Ta chỉ là kẻ lang thang lưu lạc, tạm gặp bên đường, sao nàng thân thiết vỗ về như vậy?” Rồi tỏ lòng yêu mến, muốn ép nàng cùng làm việc ân ái. Long nữ nói: “Cha mẹ thiếp đã răn dạy, nên dẫu kính yêu chàng cũng không thể làm chuyện ấy. Tuy được chàng thương tưởng đoái hoài, nhưng chưa được phép của cha mẹ thì không thể.”
The young daughter of the dragon in the lake was enjoying the scenery at the lakeside when she suddenly saw the Sakya refugee. Fearing that her shape was unfit [to appear before a stranger], she changed herself into a human being and stroked him. The Sakya man, startled, asked her, “I am a poor traveler; why are you so intimate with me?” Then he tried to be affectionate with the girl and attempted to have illicit intercourse with her. The girl said, “If I had my parents’ permission I would be glad to comply with your wishes. But even though you show me favor [I cannot accept it] without my parents’ consent.”
Người họ Thích hỏi: “Ở đây rừng núi mênh mông mờ mịt, nhà nàng ở chỗ nào?” Long nữ đáp: “Thiếp là con gái của long vương ở trong hồ này. Thiếp có nghe chuyện vương tộc Thích-ca vì lánh nạn vua Lưu Ly phải phiêu bạt. Nhân việc lên bờ dạo chơi mà hân hạnh được gặp chàng, chỉ muốn vỗ về an ủi đôi chút cho bớt nỗi đường xa mệt nhọc đó thôi. Chàng muốn thiếp cùng làm chuyện mây mưa, nhưng tiếc vì chưa được nghe ý chỉ bề trên [nên không thể được]. Huống chi thiếp vì nghiệp ác thuở xưa nên phải thọ thân loài rồng. Giữa người và vật khác biệt quá xa, chưa từng nghe [chuyện kết hợp].”
The Sakya said, “In this wilderness of mountains and valleys, where is your home?” The girl said, “I am the daughter of the dragon in this lake. I have heard that people of your noble clan have become destitute and homeless in the course of fleeing from calamity. I am lucky to have this opportunity to comfort you in your fatigue while on an excursion here. You ask me to have intimacy with you but I have not received instructions from my parents. Moreover, it is due to my evil deeds done in past lives that I have been born in the form of a dragon. A human being and an animal are beings of different ways and [their union] is unthinkable.”
Người họ Thích nói: “Chỉ xin một lời ưng thuận của nàng, mọi việc ta sẽ chu tất.”
The Sakya man said, “Once I get your consent my mind will be satisfied.”
Long nữ liền nói: “Xin vâng lời chàng, chàng bảo thế nào thiếp xin làm theo thế ấy.”
The dragon girl said, “Then I shall accept your orders and will do whatever you wish me to do.”
Người họ Thích liền phát lời thệ nguyện rằng: “Hết thảy bao nhiêu phước đức tôi đã từng tạo được, nguyện dùng để khiến cho long nữ được biến thành thân người.”
The Sakya man then made an oath in his mind: “I shall render the whole body of this dragon girl [permanently] transformed into that of a human being by the power of whatever blessedness and virtue I have accumulated.”
Quả nhiên nhờ sự chiêu cảm của phước đức, long nữ liền được biến thành thân người, trong lòng hết sức mừng vui hoan hỷ, tạ ơn người họ Thích rằng: “Thiếp từ thuở xưa đến nay, do tạo nghiệp xấu ác nên phải trầm luân mãi trong đường ác, [thọ thân súc sinh]. Ngày nay may mắn được chàng rủ lòng thương, dùng phước lực của tự thân mình mà gia hộ cho, nên thân xấu xí trong nhiều kiếp lâu xa mà nhất thời được thay đổi. Ân đức này xin được đáp đền, chỉ sợ rằng thịt nát xương tan cũng chưa đủ trả. Lòng thiếp đã nguyện theo chàng, chỉ e miệng đời dị nghị. Xin cho thiếp về thưa lên cha mẹ, rồi sau đó sẽ thực hiện đầy đủ lễ nghi.”
So the dragon girl actually changed her form through the power of the man’s blessedness. Having assumed the form of a human being, the girl was overjoyed and thanked the Sakya, saying, “Due to my past evil deeds I was born in the cycle of the evil ways of existence. I am lucky that your power of blessedness has transformed my wicked body, in which I have been reborn for many kalpas in the past, into a human figure in an instant. I am so grateful to you that even if I were to smashed my body into pieces it would not be sufficient to express my thanks. I am willing to be intimate with you but I fear people’s criticism. I wish to tell my parents to arrange the rites in the proper way.”
Long nữ quay về [long cung] trong hồ, thưa với cha mẹ rằng: “Hôm nay con dạo chơi gặp một người họ Thích, dùng phước lực tự thân của mình để chiêu cảm giúp con được biến thành người. Chúng con thương yêu nhau, muốn kết tình chồng vợ, dám xin được trình bày sự thật lên cha mẹ.”
The dragon girl returned to the lake and said to her parents, “Today when on an excursion I met a Sakya man, who by the power of his blessedness transformed me into a human being. As we wish to get married I venhire to inform you of the fact.”
Long vương trong lòng rất vui vì [con gái được kết hợp] với loài người, vừa có ý kính trọng họ Thích là dòng tộc bậc thánh, liền theo lời thỉnh cầu của con gái mà ra khỏi hồ, đến tạ ơn người họ Thích rằng: “Người đã không hiềm vì khác chủng loại, cũng không chê chúng tôi thấp hèn mà hạ cố đến con gái tôi, vậy xin mời ghé đến nhà tôi, để con gái tôi được theo hầu nâng khăn sửa túi.”
The dragon king was pleased with human beings and had respect for the holy Sakya clan, so he consented to his daughter’s request and came out of the lake to express his thanks to the man, saying, “You condescend to marry my daughter despite her station as a nonhuman being. Please come to my home and let her serve you.”
Người họ Thích nhận lời mời của Long vương liền đến long cung. Long vương đích thân nghênh tiếp, yến tiệc nhạc hội, vui chơi phóng túng, rồi tổ chức đầy đủ lễ nghi cho hai người thành thân.
At the dragon king’s invitation, the Sakya man came in and stayed in his abode. He lived in the dragon palace together [with the dragon girl] after performing due ceremonies and the two of them shared a happy conjugal life with great pleasure.
Nhưng rồi người họ Thích nhìn thấy hình dạng loài rồng thì trong lòng thường ghê sợ, muốn từ biệt ra đi. Long vương cản ngăn rằng: “Xin đừng đi xa, cứ ở gần đây, ta sẽ giúp người phân vạch cương thổ, chiếm cứ đất đai, xưng thành vương hiệu, có đủ quần thần, thứ dân, giữ ngôi cao cai trị, truyền nối đời đời.”
But the Sakya man always feared and loathed the sight of dragons, so he wished to beg leave to depart. The dragon king stopped him, saying, “Please do not go far away but stay near us as neighbors. I shall cause you to possess territory and have the grand title of king; you will have ministers and subjects under your control and rule over the country for a long time.”
Người họ Thích cảm tạ thưa rằng: “Thật chẳng dám mong cầu đến thế.”
The Sakya declined, saying, “What you have said is not my wish.”
Long vương liền lấy ra một thanh bảo kiếm, để trong hộp rồi dùng loại vải trắng mịn hết sức xinh đẹp quý giá bọc bên ngoài, bảo người họ Thích rằng: “Hãy mang hộp vải quý này đến dâng lên vua. Tất nhiên vua sẽ đích thân đến nhận phẩm vật của người từ phương xa mang đến. Ngay khi ấy có thể [dùng bảo kiếm này] giết chết vua. Nhân đó chiếm lấy đất nước này, chẳng phải tốt lắm sao?”
The dragon king then put a sword into a small chest and covered it with a piece of the best white cotton. He said to the Sakya man, “Take this white cotton and present it to the king. He will certainly accept the gift with his own hands from a man coming from afar. At that moment you can kill the king, and wouldn’t it be good to seize the kingdom in such a way?”
Người họ Thích theo lời chỉ bày của Long vương, [mang hộp vải có giấu bảo kiếm] đến dâng cho vua. Vua nước Ô-trượng-na lúc đến nhận vừa nâng hộp vải lên, người họ Thích liền nắm chặt lấy tay áo vua [rồi rút bảo kiếm ra] đâm chết ngay tại chỗ. Các quan thị thần và quân cận vệ từ dưới thềm hoảng loạn xông lên, người họ Thích vung kiếm quát rằng: “Ta có bảo kiếm của long thần ban cho để giết hết những kẻ nào chậm quy phục, không xưng thần.”
Thus, at the instigation of the dragon, the Sakya went to offer the gift. When the king of Udyana personally took up the white cotton, the Sakya got hold of his sleeve and stabbed him. The king’s attendants and guards were thrown into a hubbub of confusion at the flight of steps leading up to the audience hall. The Sakya wielding the sword said to them, “This sword in my hand was given to me by a divine dragon to kill those who surrender after the others or who refuse to serve me.”
Mọi người đều khiếp sợ uy vũ, liền suy tôn người họ Thích lên ngôi vua. Từ đó [ở ngôi cai trị], liền trừ bỏ những điều xấu tệ, thực hiện những việc chính đáng, chọn dùng kẻ hiền tài, cứu giúp người khốn khó. Vua lại dẫn quần thần dân chúng đông đảo, xa giá kiệu hoa, quay lại chốn long cung để báo tin với Long vương và đón long nữ về kinh đô.
Fearing his divine martial power, they all supported him in his ascent to the throne. Then he rectified the abuses of the government and implemented new policies, eulogizing the sages and sympathizing with those who were in trouble. He mobilized his retinue and rode in a carriage to return to the dragon palace to report on his mission, as well as to welcome the dragon girl to the capital.
Nghiệp đời trước của long nữ còn chưa dứt hết, nên mỗi lúc giao hoan thì trên đầu [người] lại hiện ra thêm chín cái đầu rồng. Người họ Thích ghê sợ, chẳng biết tính sao, liền chờ lúc vợ ngủ say, lấy dao bén cắt hết đi. Long nữ thức giấc hoảng sợ nói rằng: “Điều này thật bất lợi cho con cháu sau này. Không chỉ là mạng sống của thiếp có chút tổn thương, mà con cháu của chúng ta sinh ra sẽ khổ vì bệnh đau đầu.” Do đó, vương tộc của nước này về sau thường hay bị bệnh đau đầu, tuy không liên tục nhưng thỉnh thoảng lại nổi lên.
As the influence of the dragon girl’s evil deeds done in the past was not yet completely wiped out, she often assumed her dragon form with nine heads when in her private chamber. The Sakya man feared and abhorred the sight and did not know what to do about it. He waited until the girl was asleep and approached to cut off her heads with a sharp knife. The dragon girl, startled from sleep, said, “This will not be advantageous to our offspring. Not only would I be slightly injured but your descendants will suffer from headache.” Thus the clanspeople of this country often suffer from this ailment. Although it is not continuously painful it recurs from time to time.
Người họ Thích qua đời, con trai lên nối ngôi, tức là vua Ốt-đát-la-tê-na (Uttarasena), Hán dịch là Thượng Quân (上軍). Sau khi vua Thượng Quân lên ngôi, người mẹ (tức long nữ) lại bị mù lòa. Lúc đức Như Lai vừa nhiếp phục xong con rồng A-ba-la-la, trên đường quay về, liền từ trên không trung hạ xuống giữa cung vua. Khi ấy, vua Thượng Quân đang đi săn, đức Như Lai vì mẹ vua lược thuyết những pháp thiết yếu. Người mẹ được gặp Phật nghe pháp, đôi mắt liền sáng lại. Đức Như Lai lại hỏi: “Con trai của bà cũng thuộc dòng tộc Thích-ca với ta, hiện đang ở đâu?”
After the death of the Sakya man, his son succeeded to the throne as King Uttarasena (“Superior Army”). After King Uttarasena had ascended the throne his mother lost her sight. When the Tathagata had subdued the Apalala dragon and was on his return journey, he descended from the air and alighted at the palace at a time when King Uttarasena was out hunting. Then the Tathagata briefly preached the Dharma to [Uttarasena’s] mother. Having met the Holy One and heard the Dharma, she regained her sight. The Tathagata asked her, “Your son is a clansman of mine. Where is he now?”
Người mẹ đáp: “Bạch Thế Tôn, từ sáng sớm nó đã đi săn, giờ này hẳn sắp về đến.”
The king’s mother said, “He went out in the morning on a hunting excursion. He will return soon.”
Đức Như Lai cùng đại chúng sắp ra đi, mẹ vua liền thưa: “Bạch Thế Tôn! Con nhờ phước đức mới được sanh dưỡng người trong Thánh tộc. Nay đức Như Lai từ bi thương xót lại đích thân đến đây. Con trai con cũng sắp trở về, mong đức Thế Tôn nán lại đợi cho chốc lát.”
When the Tathagata and his retinue of monks were about to resume their journey the king’s mother said, “I am fortunate to have given birth to a son of the holy clan, and you have had pity on us such that you condescended to visit us in person. My son will return soon—please stay and wait for a moment.”
Đức Thế Tôn nói: “Nhà vua thuộc dòng tộc của ta, có thể nghe lời dạy là tin nhận, không cần đến ta phải trực tiếp răn dạy mới phát tâm. Nay ta đi rồi, khi nhà vua trở về, bà hãy dặn lại rằng: ‘Như Lai từ đây đi đến thành Câu-thi, ở giữa hai cây sa-la sẽ nhập Niết-bàn, nhà vua nên đến đó nhận lấy một phần xá-lợi mang về thờ kính cúng dường.’”
The World-honored One said, “As this person is a clansman of mine he may become enlightened on hearing of my teachings, so it is not necessary for him to receive my personal instruction for the development of his mind. I am going now. You may tell him when he returns that the Tathagata has gone to Kusinagara to enter nirvana between the sala frees. He can obtain some of my relic bones for his private worship.”
Nói xong, Như Lai cùng đại chúng bay trên hư không mà đi. Vua Thượng Quân đang săn bắn, từ xa nhìn thấy ánh sáng chói chang phát ra chỗ cung điện của mình, nghi là có hỏa hoạn nên bỏ việc đi săn mà về. Khi gặp được thân mẫu thấy bà đã sáng mắt, vui mừng hỏi rằng: “Con vừa ra đi nào có bao lâu, có chuyện tốt đẹp linh ứng gì xảy ra mà có thể giúp mẹ sáng mắt lại như xưa?”
The Tathagata and his assembly of monks rose into the air and went away.
While King Uttarasena was hunting, he saw from afar that his palace was shining brightly, and he suspected that a fire might have occurred. He stopped hunting and re turned to find that his mother had regained her sight. He asked delightedly, “What auspicious event happened during my brief absence that my kind mother’s eyesight has been restored?”
Người mẹ đáp: “Sau khi con đi rồi, đức Như Lai đến đây. Mẹ được nghe Phật thuyết pháp, hai mắt liền được sáng ra như trước. Đức Như Lai từ đây đến thành Câu-thi, ở giữa hai cây sa-la sẽ nhập Niết-bàn. Ngài dạy con mau đến nơi đó để nhận phần chia xá-lợi.”
His mother said, “When you were out the Tathagata came here. After hearing the Buddha’s Dharma I regained my sight. The Tathagata has gone from here to Kusinagara to enter nirvana between the sala trees. He suggested that you go promptly to obtain a portion of his relic bones.”
Vua vừa nghe xong đau đớn khóc gào, ngã lăn ra đất hồi lâu mới tỉnh. Lập tức ra lệnh chuẩn bị xa giá đi ngay đến rừng sa-la thì Phật đã nhập Niết-bàn. Lúc bấy giờ, các vua khác đều khinh thường vua Thượng Quân ở vùng biên địa xa xôi, lại quý trọng xá-lợi Phật nên không muốn chia phần. Lúc ấy, đại chúng trời, người nhắc lại ý Phật, các vua nghe rồi liền chia trước cho vua Thượng Quân [một phần].
Upon hearing these words the king wailed piteously and fainted, and recovered only after a long time. He got into his carriage and hurried to the sala trees, but the Buddha had already entered nirvana. The other kings despised him as a [minor] king from a vulgar borderland; they valued the relic bones they did not wish to share them with him. At that time the assembly of gods and people repeated the Buddha’s last words. Only when the other kings heard the Buddha’s words did they share with him an equal portion of the relics.
Từ thành Măng-yết-ly đi về hướng đông bắc, vượt núi qua khe, ngược dòng sông Tín-độ, đường đi rất nguy hiểm, núi non khe suối tối tăm mịt mù, đôi khi phải vượt qua những chiếc cầu bằng dây thừng, hoặc bằng xích sắt, cầu treo lơ lửng hun hút trên cao, cực kỳ nguy hiểm, hoặc vin theo các cọc gỗ từng bước thận trọng leo lên. Cứ như vậy vượt qua khoảng 325 km thì đến vùng bình nguyên Đạt-lệ-la, là cố đô của nước Ô-trượng-na.
Climbing over mountains and crossing valleys to the northwest from Mangala, and going upstream along the Indus River, the road is perilous and goes through gloomy gullies, which are linked either by thick ropes or by iron chains, with viaducts and bridges constructed at the precipices and wooden pegs installed on the rocks as steps for climbers to set foot on. After a journey of over one thousand li, I reached the plain of Darada, the old capital of Udyana,
Vùng này sản xuất nhiều vàng và trồng nhiều uất kim hương. Giữa vùng Đạt-lệ-la có một ngôi chùa lớn, bên cạnh có tượng Bồ Tát Di-lặc điêu khắc bằng gỗ, sắc vàng sáng chói, linh hiển vô cùng, chiều cao khoảng chừng 35 mét.
where gold and saffron are produced in abundance. Beside the great monastery at Darada there is a wooden statue of Maitreya Bodhisattva more than a hundred feet tall, of golden hue and latent spiritual power.
Tượng này do vị A-la-hán Mạt-điền-để-ca tạo thành. Ngài dùng thần thông đưa các nghệ nhân tạc tượng lên tận cung trời Đổ-sử-đa để họ đích thân quan sát diệu tướng trang nghiêm [của Bồ Tát Di-lặc], sau ba lần như vậy mới hoàn tất được pho tượng. Từ khi có tôn tượng này thì Giáo pháp bắt đầu được truyền về phương Đông.
It was made by the arhat Madhyantika (formerly transcribed and abridged incorrectly as Motiendi). Through his supernatural powers the arhat brought a craftsman up to Tusita Heaven (formerly transcribed as Doushuaita or Doushuta erroneously) three times to observe the fine features of the bodhisattva, and then [the artisan] completed the task. The Dharma has been transmitted to the East since the time when this statue was made.
Từ chỗ tượng Bồ Tát Di-lặc đi về hướng đông, vượt núi qua khe, ngược dòng sông Tín-độ, qua những chiếc cầu treo, mỗi bước chân đi đều gian nan nguy hiểm, hơn 163 km thì đến nước Bát-lộ-la, thuộc miền Bắc Ấn.
From here going to the east across mountains and valleys upstream of the Indus River, over flying bridges and viaducts through perilous regions for more than five hundred li, I reached the country of Balura (in the domain of North India).
2. Nước Bát-lộ-la

Nước Bát-lộ-la chu vi khoảng 1.300 km, nằm trong vùng Đại Tuyết sơn, chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp, có nhiều lúa mạch, các loại đậu, khai thác được vàng, bạc. Nhờ nguồn lợi từ vàng nên đất nước giàu có sung túc. Thời tiết rét lạnh, tánh người hung ác, tàn bạo. Họ sống không nhân nghĩa, không có văn minh lễ nghi. Người dân ở đây hình dung tướng mạo xấu xí thô kệch, y phục thì dệt bằng lông thú, thô dày. Chữ viết về đại thể giống như Ấn Độ nhưng ngôn ngữ khác biệt với những nước khác. Trong nước có đến mấy trăm ngôi chùa, tăng chúng mấy ngàn người, học hành không chuyên cần, giới hạnh nhiều phóng túng.
The country of Balura is more than four thousand li in circuit. Situated among the Great Snow Mountains, it is long from east to west and narrow from south to north. It yields much wheat and pulse and produces gold and silver. Having the advantage of gold resources the country has ample means for state expenditures. The climate is bitterly cold and the people are rude by nature, lacking in kindness and righteousness and knowing nothing of politeness. Their features are ugly and they wear coarse woolen garments. Their writing is roughly the same as that of India but their spoken language diverges from those of other countries. There are several hundred monasteries with several thousand monks, who do not study the theories of any one specific school, and they are mostly defective in observing the Vinaya rides.
Từ nơi đây quay trở lại thành Ô-đạt-ca-hán-đồ, đi về hướng nam qua sông Tín-độ, chiều rộng khoảng 1-1.3 km. Sông chảy về hướng nam, nước trong vắt, mặt nước sáng như gương, dòng chảy nhanh. Dưới lòng sông có nhiều rồng độc, thú dữ làm hang ổ cư trú, người qua sông nếu mang theo những vật quý báu hoặc các loại hoa quả cho đến xá-lợi Phật thì hầu hết đều bị chìm thuyền.
From here I went back to Udakhand and crossed the Indus River to the south. Flowing southwest, the river is three or four li wide, with pure and limpid rapidly moving water. Poisonous dragons and evil animals make their dens in the river and often overturn the boats of those who are transporting precious objects, seeds of rare flowers and fruit, or the Buddha’s relic bones across the river.
Qua khỏi sông [Tín-độ] thì đến nước Đát-xoa-thỉ-la, thuộc miền Bắc Ấn.
 
3. Nước Đát-xoa-thỉ-la
After crossing the river, I reached the country of Taksasila (in the domain of North India).
Nước Đát-xoa-thỉ-la chu vi khoảng 652 km, chu vi kinh thành khoảng 3.2 km. Vương tộc nước này không người nối dõi nên các phe nhóm thế lực đang tranh giành nhau. Trước đây phải phụ thuộc nước Ca-tất-thí, đến gần đây lại thần phục nước Ca-thấp-di-la.
The country of Taksasila is more than two thousand li in circuit and its capital city is over ten li in circuit. As the royal family is extinct, the regional chieftains have competed with each other for sovereignty. Formerly 884c it belonged to the country of Kapisi but recently it became a dependency of the country of Kasmira.
Đất đai nơi đây nổi tiếng màu mỡ, mùa màng thu hoạch dồi dào. Có nhiều sông suối, hoa cỏ xanh tốt. Khí hậu ôn hòa, dễ chịu, tánh tình người dân nhanh nhẹn, dũng mãnh, sùng kính Tam bảo. Tuy có nhiều chùa nhưng đa phần bị hoang phế. Tăng sĩ rất ít, thảy đều tu tập theo Đại thừa.
The soil is fertile and the crops are rich, with many springs and luxuriant vegetation. The climate is mild and the people are reckless and brave by custom and they venerate the Triple Gem. There are many monasteries but most of them are in desolation. There are a few monks, all of whom study Mahayana teachings.
Phía tây bắc kinh thành, cách khoảng 23 km có hồ Long vương Y-la-bát-đát-la (Elapattra), chu vi khoảng 35 mét. Nước hồ trong vắt, có nhiều hoa sen đủ màu xinh đẹp đua nhau khoe sắc. Con rồng [mang tên hồ này] vốn là vị tỳ-kheo đã phá hoại cây y-la-bát-la vào thời đức Phật Ca-diếp-ba, cho nên ngày nay tại xứ này muốn cầu trời mưa hay nắng đều phải cùng với một vị tỳ-kheo đi đến hồ này, khấn nguyện cầu đảo chỉ trong chốc lát thì tùy theo mong muốn đều được thỏa mãn.
More than seventy li to the northwest of the capital city is the pond of the dragon king Elapattra, which is about one hundred paces in circuit. The water is lucid and has lotus flowers of different colors growing in it. This dragon was a monk who injured an elapattra tree in the time of Kasyapa Buddha. Therefore, when the people of this land approached the dragon to pray for rain or fine weather they had to invite a monk to go with them to the pond. When the monk snapped his fingers to comfort the dragon the people’s wishes would surely be fulfilled.
Từ hồ này, đi về hướng đông nam hơn 10 km, trong khoảng giữa của hai ngọn núi có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, cao hơn 33 mét.
Going southeast for more than thirty li, I entered a spot between two mountains where there is a stupa more than a hundred feet high built by King Asoka.
Đức Như Lai Thích-ca có huyền ký rằng, trong tương lai khi đức Phật Di-lặc ra đời sẽ có bốn kho châu báu lớn (Đại Bảo Tạng) tự nhiên xuất hiện, nơi thắng địa này sẽ là vị trí của một trong bốn kho châu báu. Đọc trong các ghi chép xưa thấy nói rằng, có những lúc động đất, các vùng núi non đều chấn động nhưng trong khoảng chu vi 165 mét quanh vị trí kho báu này không hề rung động. Có những kẻ ngu si từng muốn khai quật nơi này, nhưng mặt đất lập tức chấn động, tất cả những người ấy đều té ngã.
This was the place where Sakya Tathagata predicted that when Maitreya appears in the world as a buddha four great treasures would naturally come into existence. This auspicious spot is one of the four places. I heard the local people say that during an earthquake all the mountains would shake but for about a hundred paces around this treasure place the earth does not quiver even a little. Some foolish people once vainly attempted to dig up the treasure but the earth quaked and all the people toppled over onto the ground.
Bên cạnh tháp này có một ngôi chùa bị đổ nát, hư hỏng nặng nề, đã lâu không có bóng dáng tăng sĩ.
Beside this spot is a monastery in a very deserted condition, having had no monks living in it for quite a long time.
Phía bắc kinh thành, cách khoảng 4-4.5 km có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, vào những ngày trai thỉnh thoảng lại thấy có phóng chiếu hào quang, rất nhiều người cũng từng thấy hoa trời rơi xuống tháp và nghe được tiếng âm nhạc cõi trời.
Twelve or thirteen li to the north of the city is a stupa built by King Asoka. On fast days it sometimes emits a light amid [a shower of] divine flowers and heavenly music.
Đọc trong các ghi chép trước đây thấy nói rằng, gần đây có một người đàn bà thân mang bệnh hủi. Bà một mình âm thầm đến tháp này lễ bái sám hối. Nhìn thấy trong sân tháp có nhiều phẩn uế, bà liền hốt bỏ đi hết, rồi rưới nước quét dọn sạch sẽ, xông hương trầm, rải hoa tươi, lại hái hoa sen xanh trang hoàng trên mặt đất. Sau đó bà liền hết bệnh, hình dung tướng mạo càng thêm xinh đẹp, toàn thân lại tỏa ra mùi hương thơm ngát, giống như hương thơm của hoa sen xanh.
I heard the local people say that recently a woman suffering from malignant leprosy secretly came to this stupa to make selfreproach and repent [of evil deeds she had done in her past lives]. When she saw that the compound was in a filthy condition she removed the dirt, swept the place clean, smeared incense paste and scattered flowers on the ground, and she plucked some blue lotus flowers to scatter on the road. By doing so she was cured of her malignant disease and became beautiful in appearance, and a sweet smell as fragrant as blue lotus issued from her body.
Thuở xưa, đức Như Lai khi còn tu hạnh Bồ Tát, làm vị đại quốc vương hiệu là Chiến-đạt-la-bát-thích-bà, quyết chí cầu đạo giác ngộ nên tự cắt đầu mình để bố thí ngay nơi thắng địa này. Những sự buông xả bố thí như thế, [đức Như Lai đã thực hiện] trong cả ngàn kiếp sống.
This was also the place where the Tathagata, while practicing the Dharma in a former life as a great king named Candraprabha (“Moonlight”), cut off his head for almsgiving in the course of acquiring enlightenment. He performed such almsgiving a thousand times in past lives.
Bên cạnh tháp này có một ngôi chùa, sân nền hoang phế, tăng sĩ không mấy người. Thuở xưa, luận sư Câu-ma-la-la-đa của phái Kinh lượng đã trước thuật các bộ luận tại chùa này.
Beside this stupa where the head was forsaken, there is a desolate monastery with a few monks. Formerly Kumaralata (known as Tongshou in Chinese), a sastra master of the Sautrantika school, wrote treatises at this monastery.
Phía đông nam kinh thành có ngọn Nam sơn, phía bắc núi này có tháp cao hơn 33 mét, là nơi Thái tử Câu-lãng-noa (Kunāla), con vua Vô Ưu, vì kế mẫu lừa dối mà phải bị móc mắt. Vua Vô Ưu cho xây dựng tháp này. Những người mù đến đây cầu nguyện, rất nhiều người được sáng mắt trở lại như xưa.
Outside the city to the southeast, on the northern side of South Hill, is a stupa over a hundred feet high built by King Asoka at the place where his son, Prince Kunala, had his eyes tom out due to the calumny of his stepmother. Blind people prayed at this place and most of them recovered their eyesight.
Vị thái tử này do chánh cung hoàng hậu sinh ra, dung nghi tướng mạo đẹp đẽ thanh nhã, giàu lòng nhân từ. Khi chánh hậu qua đời, người kế mẫu hoang dâm, phóng túng, buông thả theo tâm tánh ngu muội hôn ám, bức ép thái tử cùng bà tư thông. Thái tử khóc lóc tự trách mình, tạ tội với kế mẫu mà nhất quyết không chịu thuận tình làm việc sai trái. Kế mẫu thấy thái tử trái ý, không được thỏa lòng, sinh tâm oán ghét, tức giận, nhân lúc vua rảnh việc liền kề cận một bên thỏ thẻ rằng: “Vùng Đát-xoa-thỉ-la là nơi hiểm địa quan yếu, nếu không phải con em thân tín trong hoàng tộc thì làm sao có thể giao phó? Nay Thái tử có tiếng là người nhân từ, hiếu hạnh, việc chiếu cố đến người thân hiền đức [là điều nên làm], bệ hạ không nên để bên ngoài dị nghị.”
Prince Kunala, who had been borne by the chief queen, was a handsome man who was well known for his kindness. After the death of the chief queen, his stepmother, a lascivious, immoral woman, tried to force the prince to have illicit relations with her. The prince wept and blamed himself for his refusal and withdrew with an apology. Having been rejected by the prince, the stepmother was ashamed and became angry and having waited for the chance to speak to the king, she said coolly, “Taksasila is in a strategic position, and who else but a royal descendant can be depended on for its protection? Prince Kunala is well known for his kindness and filial piety. Because you do not employ sagacious persons the people are critical of you.”
Đức vua bị mê hoặc bởi lời nói ấy, lại rất hài lòng [không biết đó là] mưu gian, liền ban lệnh cho Thái tử, răn dạy rằng: “Ta kế thừa sự nghiệp tổ tiên, chỉ sợ có sai sót khiến cho suy sụp thì phải hổ thẹn với tiên vương. Nước Đát-xoa-thỉ-la là vùng hiểm địa, nay ta ra lệnh cho con đến đó cầm quyền trấn thủ. Việc nước vô cùng quan trọng, lòng người gian hiểm khó lường, con không được tùy tiện nghĩ đến chuyện đi về, có hại cho nền móng của đất nước. Nếu ta có lệnh triệu về sẽ dùng ấn tín bằng dấu răng của ta, con phải xét kỹ cho phù hợp. Dấu ấn răng nằm trong miệng ta, ắt không thể có sự giả mạo.”
Deluded by these words, the king was pleased with the intrigue and ordered the prince, saying, “I succeeded to the throne handed down by our ancestors to rule over the country and I fear losing it—our forerunners would be disappointed. As Taksasila is a strategic place I now appoint you to garrison that country. State affairs are important and human relationships are treacherous. You must not move about at will so as to jeopardize the foundation of the state. Whenever there is a [written] summons from me you should verify it by my teeth marks. As my teeth are in my mouth, no one can make a forgery.”
Thái tử vâng lệnh vua cha lên đường trấn nhậm. Ngày tháng trôi qua đã lâu nhưng người kế mẫu ôm mối căm giận ngày càng sâu nặng hơn, liền giả mạo một tờ chiếu thư của vua, dùng sáp đỏ niêm kín lại rồi nhân khi vua ngủ say, lén lấy dấu răng ấn vào [theo đúng quy ước]. Sau đó sai người lập tức mang chiếu thư ấy đến giao cho thái tử để khiển trách.
The prince thus went to the garrison post by the king’s order, and even though time passed his stepmother became increasingly angry with him. She issued a false order in the king’s name, sealed it with purple clay, and had it marked with the king’s teeth a when he was asleep. It was then dispatched to the prince to reprimand him.
Các quan phụ thần quỳ đọc chiếu thư thảy đều buồn đau thất sắc, nhìn nhau bối rối. Thái tử hỏi: “Tại sao các ông buồn đau như vậy?”
When his assistants knelt down to read the order they looked at each other, not knowing what to do. The prince asked them, “What is it that makes you look so miserable?”
Quan phụ thần đáp: “Đại vương có thư trách phạt, lệnh phải móc bỏ hai mắt Thái tử, đuổi vào chốn núi rừng cả hai vợ chồng, mặc tình sống chết. Tuy có lệnh như vậy, nhưng chúng thần nghĩ là chưa nên thi hành. Nay Thái tử nên thỉnh lại mệnh vua rồi trói mình chờ trách tội.”
They said, “The great king has issued an order to reprimand Your Highness, stating that your eyes should be tom out and that you should be exiled to the valleys among mountains and left there to live or die with your wife. However, the order may be fraudulent and it would be better for you to go see the king face to face and hear his personal verdict.”
Thái tử đáp rằng: “Phận làm con, cha dù bảo chết cũng phải nghe theo, dám đâu né tránh? Thư được niêm phong bằng dấu ấn răng, không thể có sự giả mạo.”
The prince said, “How can I disobey my father’s order, even if he asked me to die? There is no mistake since the order is sealed with his teeth marks.”
Thái tử liền ra lệnh cho một người chiên-đà-la móc bỏ hai mắt mình. Thái tử bị mù mắt, phải cùng vợ đi xin ăn kiếm sống. Dần dần lưu lạc quay trở lại kinh thành của phụ vương. Người vợ Thái tử nói: “Đây là vương thành.” [Thái tử nghe vậy than rằng:] “Than ôi! Đói rét khổ sở thay! Ngày nào là vương tử, nay làm kẻ ăn xin! Mong sao [phụ vương] nghe biết việc này để con được phân giải về sự trách tội ngày trước.”
The prince then asked a candala (outcaste) to tear out his eyes, and having lost his eyesight he lived thereafter as a beggar, wandering from place to place, until he came to the capital city where the king lived. His wife told him, “This is the royal city and we are now suffering from hunger and cold. Formerly you were a prince but now you are a beggar! I wish to report the matter to the king and ask him to reconsider the reprimand.”
[Thái tử] liền lập kế vào ẩn mình trong chuồng ngựa của vua, đợi sau lúc nửa đêm mới thuận theo hướng gió mà cất tiếng khóc, rồi ngâm lên một khúc bi ai, lại gảy đàn không hầu hòa theo. Nhà vua ở trên lầu cao, thoảng nghe giọng ngâm thanh nhã mà lời lẽ bi ai sầu thảm, lấy làm lạ tự hỏi rằng: “Giọng ngâm kia với tiếng đàn không hầu ấy, nghe rất giống tiếng con ta. Nay có duyên cớ gì lại về đây [ca ngâm như vậy]?” Liền [sai người đến] hỏi người giữ chuồng ngựa: “Kẻ đang ca ngâm đó là ai?” Cận thần liền dẫn người mù [trong chuồng ngựa] đến trước vua. Đức vua gặp thái tử [trong tình trạng ấy thì phải] nén đau thương mà hỏi: “Ai hại thân con gặp nạn khổ đến như thế này? Con yêu của ta bị hại mù mắt mà tự ta còn không hay biết, thì việc của trăm họ muôn dân ta làm sao cứu xét rõ biết? Trời hỡi trời! Làm sao đức độ của ta lại suy thoái đến thế này!”
Then through some subterfuge, they slipped into the royal stable, where they wept in the cool breeze, late into the night, and sang piteously to the accompaniment of a konghmi (a sort of harp).
On a lofty pavilion the king heard the melodious singing of melancholy and sorrowful words and, feeling it strange, he asked, “The voice of the singing accompanied by a konghou sounds like that of my son. Why has he come here?” He inquired of the stableman as to who was singing in the stable. So the man brought the blind singer into the king’s presence. Upon seeing the prince, the king felt sorrowful and asked him, “Who disfigured you into such a disastrous condition? If I did not even know that my beloved son had lost his eyesight, how can I [claim to] see into the affairs of my people? Good heavens! Oh, good heavens! How is it that my virtue has been corrupted to such an extent?”
Thái tử buồn khóc tạ tội thưa rằng: “Là do con bất hiếu, đắc tội với trời cao. Vào ngày tháng năm đó..., con đột nhiên nhận được chỉ mệnh của cha, không có cách nào để giải bày, thật không dám trốn tránh sự trách phạt.”
The prince wept piteously and apologetically said in reply, “It is because of my unfiliality that I incurred the blame of Heaven. On such- and-such day I suddenly received your compassionate edict. I had no way to speak to you, nor did I dare evade my responsibility [to implement your edict].”
Trong lòng vua biết rõ là người kế mẫu đã làm việc gian trá loạn pháp này nên không cần cứu xét, lập tức xử tội chết.
Finding out that it had all been done illegally by his second wife, the king inflicted capital punishment upon her without further investigation.
Bấy giờ, có Đại A-la-hán Cù-sa ở chùa Bồ-đề Thụ, đã chứng được bốn biện tài vô ngại và đầy đủ ba minh. Đức vua đưa thái tử mù lòa đến trình bày sự việc và cầu xin A-la-hán từ bi cứu giúp cho đôi mắt thái tử được sáng lại.
At that time there was at the monastery near the bodhi tree a great arhat named Ghosa (“Wonderful Voice”), who possessed the four kinds of unhindered eloquence and was complete with the three insights. The king told him what his blind son had said and wished him to be so kind as to restore his son’s eyesight.
Lúc ấy, vị A-la-hán nhận lời thỉnh cầu của vua rồi thì ngay trong ngày hôm ấy loan báo với mọi người trong nước rằng: “Ngày mai ta sẽ thuyết giảng giáo lý nhiệm mầu, mỗi người khi đi nghe pháp hãy mang theo một món đồ chứa để đựng nước mắt.”
At the king’s request the arhat then made an announcement on that day to the people of the country, saying, “On the day after tomorrow I shall speak on the sublime doctrine. You may come listen to the Dharma and each of you should bring a vessel with you to hold your tears.”
Được thông báo như vậy, ngày hôm sau dân chúng kẻ nam người nữ xa gần đều tề tựu đến nghe. Bấy giờ, vị A-la-hán thuyết giảng giáo pháp Mười hai nhân duyên, người nghe pháp ai ai cũng đều cảm động rơi lệ, liền bảo mọi người dùng đồ chứa mang theo để đựng nước mắt ấy. Sau khi thuyết pháp xong, vị A-la-hán thu gom hết tất cả nước mắt, đổ vào một cái mâm bằng vàng, rồi phát lời thệ nguyện rằng: “Những gì ta thuyết giảng hôm nay đều là chân lý cùng tột của chư Phật. Nếu như lý lẽ ta đưa ra không đúng thật, lời giảng giải có sai lầm, thì xem như mọi việc chấm dứt tại đây. Bằng như tất cả đều đúng thật, phù hợp với Chánh pháp, thì nguyện cho nước mắt này có thể dùng rửa mắt người mù kia, khiến cho mắt liền được sáng lại như xưa.”
Thus men and women coming from far and near flocked to the place. At that time the arhat spoke on the twelvefold causation. None of those who heard the Dharma did not shed tears, and they collected the tears in the vessels. When the preaching was over the tears of everyone in the entire assembly were collected in a golden basin. The arhat then made a pledge, saying, “All that I have said is the Buddha’s ultimate truth. If it is untrue and if I have spoken wrongly, I shall have nothing more to say. Otherwise, I wish to wash the blind man’s eyes to restore his eyesight to what it was before.”
Phát lời thệ nguyện như vậy rồi, liền dùng nước mắt ấy để rửa đôi mắt mù của Thái tử, liền được sáng lại như trước.
Having said this, he used the tears to wash the eyes of the prince, whose eyesight was thus restored.
[Sau đó vua cho điều tra rõ sự việc,] trách phạt các quan đại thần [có liên can đến âm mưu này], chất vấn các quan viên phụ tá, [rồi tùy theo mức độ phạm tội mà] cách chức, hoặc đuổi đi, hoặc giáng chức, hoặc xử tội chết. Các gia đình giàu có, thế lực [ở Đát-xoa-thỉ-la liên can đến âm mưu này] thì lưu đày đến sống trong vùng sa mạc ở phía đông bắc Tuyết sơn.
The king then reproached his ministers and denounced his assistants at court, who were all dismissed, banished, relegated, or executed, and many powerful and wealthy families were deported to the desert to the northeast of the Snow Mountains.
Từ [ngọn tháp nơi thái tử bị móc mắt] đi về hướng đông nam, vượt núi qua khe hơn 230 km thì đến nước Tăng-ha-bộ-la, thuộc miền Bắc Ấn.
From here going to the southeast across mountains and valleys for over seven hundred li, I reached the country of Simhapura (in the domain of North India).
4. Nước Tăng-ha-bộ-la

Nước Tăng-ha-bộ-la chu vi khoảng 1.100-1.200 km, phía tây giáp sông Tín-độ. Kinh thành chu vi chừng 4.5-5 km. Địa hình dựa vào núi non, kiên cố, hiểm trở. Nghề nông ở đây ít công sức nhưng thu hoạch dồi dào. Khí hậu lạnh, tánh tình người dân hung bạo, mạnh mẽ lại hay lừa lọc, dối trá.
The country of Simhapura is over three thousand five hundred or six hundred li in circuit, bordering on the Indus River on the west. The capital city of the country is fourteen or fifteen li in circuit, and as it was built with a range of hills at the back it is an impregnable stronghold. The farmers exert little effort but gain much profit from the land. The climate is cold and the people are rude by nature. They are valiant but deceitful by custom.
Đất nước hiện không có vua, phụ thuộc vào nước Ca-thấp-di-la. Về phía nam kinh thành không xa, có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, những nét trang trí đã có phần hư hoại nhưng sự linh ứng không mất. Bên cạnh tháp có một ngôi chùa nhưng không có tăng sĩ.
There is no king ruling over the country; it is a dependency of the country of Kasmira.
Not far to the south of the city is a stupa built by King Asoka. Although some of its decorations are missing, it continues to be effective in showing spiritual manifestations. Beside it there is a monastery devoid of monks.
Về phía đông nam kinh thành, cách khoảng 14-16 km có một tòa tháp bằng đá do vua Vô Ưu xây dựng, cao gần 70 mét. Có khoảng 10 hồ nước soi bóng hai bên tháp, bờ hồ bằng đá có chạm khắc nhiều hình thù kỳ lạ khác biệt nhau, có những dòng nước trong vắt chảy nhanh vào hồ. Các loài thủy tộc như rồng, cá... làm hang ổ ẩn náu dưới sâu, bơi lội dưới lòng hồ. Hoa sen có đủ bốn màu phủ khắp mặt hồ. Trong vùng cây trái trăm loại sum suê, tốt tươi đủ màu soi bóng xuống hồ, tạo thành phong cảnh kỳ thú cho người du ngoạn.
Forty or fifty li to the southeast of the city there is a stone stupa more than 885c two hundred feet high built by King Asoka. There are about ten ponds around the stupa. The banks of the ponds are built with rocks carved in various strange shapes and clear water rushes into the ponds, giving off spray. Dragons, fish, and other aquatic creatures move about in the grottoes under the water. Lotus flowers of the four colors cover the surfaces of the clear ponds and all kinds of fruit trees blossom luxuriantly in different hues. With the woods reflected in the ponds, this place is truly a pleasure garden. There is a monastery nearby but it has been deserted for a long time.
Bên cạnh đó có một ngôi chùa đã lâu không có tăng sĩ. Cách tháp không xa là nơi vị thầy sáng lập Bạch y ngoại đạo, sau khi chứng ngộ chân lý mà ông tìm kiếm, đã thuyết pháp lần đầu tiên. Ngày nay chỗ này được niêm phong và có treo bảng ghi rõ. Bên cạnh đó có một đền thờ Phạm thiên.
Not far from the stupa is where the founder of the white-clothed [Jains] realized the principles he was seeking and first preached his doctrine. Now there is a memorial of the event and beside it is a deva temple.
Môn đồ của giáo phái này chuyên tu khổ hạnh, ngày đêm tinh cần không ngừng nghỉ. Giáo pháp mà vị thầy sáng lập của họ giảng giải, phần nhiều là trích lấy từ nghĩa lý trong kinh Phật, rồi tùy theo phân loại tín đồ mà thiết lập phép tắc, chế định lễ nghi, phẩm trật lớn thì gọi là bật-sô, nhỏ thì gọi là sa-di. Tất cả oai nghi luật hạnh đều giống như tăng sĩ Phật giáo. Chỉ khác biệt ở điểm là họ [cạo đầu còn] lưu lại ít tóc và thêm việc để mình trần, hoặc có y phục thì dùng màu trắng. Dựa vào những điểm khác nhau như vậy để phân biệt. Tượng Thiên sư của họ cũng phỏng theo giống như tượng đức Như Lai, chỉ khác về y phục, còn tướng hảo đều không khác.
His disciples practice austerities, persevering day and night without leisure to take rest. The doctrine preached by the founder was mostly taken from the tenets of the Buddhist scriphires and he taught them according to the different inclinations of people and laid down disciplinary rules. The senior disciples are called bhiksus and the junior ones sramaneras. Their manner of living and code of deportment are quite similar to those of the Buddhist monks, except that they keep a tuft of hair on the head and [some] go naked. If they put on any clothing the special color is white, which differentiates them from other sects. The statues of the founder are made, without authority, in the same posture as images of the Tathagata. The only difference is the costume; the good features are exactly the same.
Từ đây quay trở lại biên giới phía bắc của nước Đát-xoa-thỉ-la, qua sông Tín-độ, đi về hướng đông nam khoảng 65 km, qua một cửa lớn bằng đá, là nơi thuở xưa vương tử Ma-ha-tát-đỏa xả thân [bố thí] cho cọp ăn. Phía nam [cửa đá này], cách khoảng 250 mét có một tháp bằng đá, là nơi vương tử Ma-ha-tát-đỏa đi bộ đến vì thương con cọp quá đói không còn sức đi nữa. Ngài đến tận nơi này, dùng thanh tre khô tự cắt vào thân mình chảy máu để cọp uống máu ấy mà hồi sức. Cho nên trong vùng đất này, cây cỏ cũng nhuốm sắc hồng là do thấm máu. Người ta đi ngang qua đây đều có cảm giác như dưới chân bị gai châm, cho dù có tin vào chuyện này hay không, ai ai cũng đều cảm thấy bi thương.
From here I returned to the northern part of the country of Taksasila, where I crossed the Indus River and, after going southeast for more than two hundred li, I came across a great rocky pass. Formerly Prince Mahasattva sacrificed his body at this place to feed a starving tigress. About one hundred and forty or fifty paces to the south is a stone stupa, built at the spot where the Mahasattva had pity on the [starving] tigress. When he came here he pricked himself with a dry bamboo splinter so as to give the tigress his blood. The animal [regained enough strength and subsequently] devoured him. The soil and plants of this place are dark reddish in color, as if stained by blood. When people come to this spot they feel nervous and uneasy, as if they had prickles hurting their backs, and whether or not they believe [the story of the hungry tigress] they are moved to pity.
Từ nơi vương tử xả thân nhìn về hướng bắc có một ngọn tháp bằng đá cao hơn 66 mét, do vua Vô Ưu xây dựng. Tháp này điêu khắc đặc biệt khéo léo, thỉnh thoảng [có người thấy] tháp tỏa hào quang. Có hàng trăm tháp nhỏ và các khám thờ bằng đá vây phủ quanh khu mộ phần này. Những người có bệnh tật đến đây đi nhiễu quanh tháp, đa phần đều được khỏi bệnh.
To the north of this stupa of the sacrifice of the body there is a stone stupa more than two hundred feet high built by King Asoka. It is decorated with marvelous engravings and sometimes emits a divine light. Smaller stupas and stone niches, counted by the hundreds, surround the sepulchral ground. Those who are suffering from illness circumambulate this place and most of them are cured.
Phía đông của ngọn tháp đá có một ngôi chùa, tăng sĩ hơn 100 vị, thảy đều học theo giáo pháp Đại thừa. Từ đây đi về hướng đông khoảng 16 km thì đến một ngọn núi nằm lẻ loi, trong núi có một ngôi chùa, tăng sĩ hơn 200 vị, thảy đều tu học theo giáo pháp Đại thừa. Quanh chùa hoa trái tốt tươi, suối trong hồ lặng, mặt nước như gương soi. Bên cạnh chùa có một ngọn tháp cao hơn 66 mét, là nơi thuở xưa đức Như Lai hóa độ quỷ dược-xoa hung ác, khiến cho nó không ăn thịt [các loài khác] nữa.
To the east of the stone stupa there is a monastery with more than a hundred monks, all of whom study Mahayana teachings. From here going east for more than fifty li, I reached an isolated hill where there is a monastery with over two hundred monks, all of whom study Mahayana teachings. There are luxuriant flowers and fruit trees with ponds of spring water as lucid as a mirror. Beside it is a stupa over two hundred feet high, built at the spot where the Tathagata in a former life converted an evil yaksa and taught him not to eat meat.
Từ chỗ này đi về hướng đông nam hơn 163 km thì đến nước Ô-lạt-thi, thuộc miền Bắc Ấn.
From here going southeast for more than five hundred li, I reached the country of Urasa (in the domain of North India).
5. Nước Ô-lạt-thi

Nước Ô-lạt-thi chu vi hơn 652 km, núi đồi liên tiếp, ruộng đất nhỏ hẹp. Chu vi kinh thành khoảng 2.5-3 km. Nước không có vua, hành chánh phụ thuộc nước Ca-thấp-di-la. Đất đai thích hợp trồng lúa, ít hoa quả. Khí hậu ôn hoà, ít sương tuyết. Phong tục thiếu lễ nghi nhân nghĩa, người dân tánh tình cứng rắn, hung bạo, nhiều lọc lừa dối trá, không tin Phật pháp.
The country of Urasa is more than two thousand li in circuit, with mountains and hills connected together, rendering the cultivated fields narrow and small. The capital city of the country is seven or eight li in circuit; it is without a sovereign king and the country is a dependency of the country of Kasmira. The soil is suitable for growing cereals but the country has few flowers and little fruit. The climate is mild and there is not much frost or snow. The people are rough and deceitful and lack the custom of observing the proprieties, and they do not believe in Buddhism.
Từ kinh thành đi về hướng tây nam khoảng 1-1.5 km có một ngọn tháp cao hơn 66 mét, do vua Vô Ưu xây dựng. Bên cạnh có một ngôi chùa rất ít tăng sĩ, hết thảy đều học theo giáo pháp Đại thừa.
About four or five li to the southwest of the capital city there is a stupa more than two hundred feet high built by King Asoka. Beside it is a monastery with few monks, all of whom study Mahayana teachings.
Từ đây đi về hướng đông nam, lên núi cao, vượt đường hiểm, qua cầu sắt, đi hơn 325 km thì đến nước Ca-thấp-di-la, thuộc miền Bắc Ấn, trước đây gọi nhầm là nước Kế-tân.
From here going southeast for more than one thousand li over mountains, along dangerous paths and across iron bridges, I reached the country of Kasmira (formerly transcribed erroneously as Jibin, in the domain of North India).
6. Nước Ca-thấp-di-la

Nước Ca-thấp-di-la chu vi khoảng 2.300 km, bốn phía núi non bao bọc. Núi cao hiểm trở, tuy có đường qua nhưng rất hẹp, xưa nay các nước lân cận không thể nào đưa quân công phạt được.
The country of Kasmira is more than seven thousand li in circuit, with precipitous mountains surrounding it on all sides. Although there are passes the passages are very narrow. Since ancient times no hostile neighboring countries have been able to invade this country.
Kinh thành phía tây giáp con sông lớn, chiều dài nam bắc khoảng 4-4.5 km, chiều đông tây khoảng 1-1.5 km. Đất đai thích hợp trồng lúa, có nhiều hoa quả, sản xuất giống long mã (ngựa hay) cùng với uất kim hương, hỏa châu và các loại dược thảo. Khí hậu rét lạnh, nhiều tuyết, ít gió. Y phục bằng lông thú, vải bông. Tánh tình người dân nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, đa phần nhút nhát, yếu đuối.
The capital city, with a great river on its west, is twelve or thirteen li from south to north and four or five li from east to west. The soil is suitable for growing cereals and there are plenty of flowers and fruit. It produces horses of the dragon breed and also yields saffron, fire-pearls, and medicinal herbs.
The climate is bitterly cold and there is much snow but little wind. The people wear woolen or cotton clothes. They are frivolous by custom and mostly timid.
Đất nước này được rồng hộ trì, hùng mạnh hơn các nước trong khu vực. Hình dung tướng mạo con người tuấn tú xinh đẹp nhưng tánh tình nhiều lọc lừa dối trá. Người dân ham thích học tập, nhiều kiến thức, hiểu biết rộng nhưng tin theo cả tà phái lẫn chánh đạo. Trong nước có hơn 100 ngôi chùa, tăng sĩ hơn 5.000 vị. Có bốn ngọn tháp, tất cả đều do vua Vô Ưu xây dựng, mỗi tháp có hơn một thăng xá-lợi của Như Lai.
As the country is protected by a dragon the people hold sway over the neighboring regions. Their features are handsome but they are of deceitful dispositions. They are fond of learning and have a wide scope of knowledge, believing in both heretical teachings and the right teachings. There are over one hundred monasteries with more than five thousand monks. There are four stupas, all built by King Asoka, each containing about one sheng of the Tathagata’s relic bones.
Trong văn bản chính thức của nước này ghi chép rằng, vùng đất này trước đây vốn là một hồ lớn có rồng cư ngụ. Ngày xưa, đức Thế Tôn sau khi hàng phục rồng dữ ở nước Ô-trượng-na, trên đường trở về Trung Ấn Độ, lúc bay trên không trung ngang qua nơi đây bảo ngài A-nan rằng: “Sau khi ta nhập Niết-bàn, sẽ có vị A-la-hán Mạt-điền-để-ca (Madhyāntika) đến vùng đất này kiến lập quốc gia, đưa dân đến sống và truyền bá, phát triển Phật pháp.”
In the National Record it is said that this country was originally a dragon lake. Formerly, when the Buddha, the World-honored One, had subdued an evil god in the country of Udyana and was flying over this country on his way back to Central India, he said to Ananda, “After my nirvana the arhat Madhyantika will establish a country at this place, settle people, and propagate the buddha-dharma.”
Đến năm thứ 50 sau khi đức Như Lai tịch diệt, quả nhiên có người đệ tử của Tôn giả A-nan là A-la-hán Mạt-điền-để-ca, chứng đắc sáu thần thông, đầy đủ tám giải thoát. Vị này được nghe lời Phật trước đây từng nói về mình thì sinh tâm hoan hỷ, hết sức vui mừng, liền đến vùng [Ca-thấp-di-la] này, nhập định giữa rừng, trên đỉnh núi lớn, hiện sức đại thần thông biến hóa. Long vương ở hồ này nhìn thấy liền khởi lòng tin sâu, thưa thỉnh về chỗ mong muốn của A-la-hán.
In the fiftieth year after the Tathagata’s nirvana, Ananda’s disciple, the arhat Madhyantika, who possessed the six supernatural powers and had attained the eight emancipations, heard about the Buddha’s prediction with a feeling of joy. He came here and sat down in the woods on a great mountain, showing great supernatural powers. Upon seeing him, the dragon had deep faith in him and asked him what he wanted.
Vị A-la-hán nói: “Chỉ xin trong phạm vi của hồ này, bố thí cho ta một chỗ đất hẹp vừa đủ ngồi duỗi gối.” Long vương nghe vậy liền rút nước [để lấy đất] cúng dường. Vị A-la-hán dùng thần thông hiện thân ngày càng lớn lên [theo chỗ đất], Long vương dùng hết sức để rút nước, đến khi hồ trống rỗng không còn nước. Long vương trở lại cầu xin cho mình một chỗ đất. Vị A-la-hán liền để lại một hồ nước ở phía tây bắc, chu vi hơn 32 km [cho Long vương cư ngụ], còn những quyến thuộc của Long vương thì cho sống riêng trong một hồ nhỏ.
The arhat said, “I want you to give me enough space to keep [just] my knees in the lake.” Thereupon the dragon king withdrew some water from the lake to offer [a bit of dry land] to the monk. Through his miraculous powers the arhat enlarged his body [to take more land] as the dragon did his utmost to draw away the water from the lake until it was completely exhausted, so that the dragon had to ask for some place for himself. The arhat reserved a lake more than a hundred li in circuit in the northwest for the dragon, while the dragon’s relatives dwelled separately in a small lake.
Long Vương thưa: “Tất cả đất hồ đã cúng dường, mong Ngài từ nay thường xuyên nhận sự cúng dường của con.”
The dragon king said, “Now that I have presented all the land of the lake to you, please always accept my offerings.”
A-la-hán Mạt-điền-để-ca nói: “Chẳng bao lâu nữa ta sẽ nhập Niết-bàn Vô dư, dù muốn nhận lời thỉnh cầu của ngươi cũng không thể được.”
Madhyantika said, “As I shall enter parinirvana (complete nirvana) very soon, how will I be able to always accept your offerings, though I would like to?”
Long Vương lại thưa thỉnh rằng: “Vậy xin thỉnh cầu được 500 vị A-la-hán thường nhận sự cúng dường của con, mãi từ nay cho đến khi Chánh pháp diệt mất. Sau khi Chánh pháp diệt mất, con xin lấy lại vùng này làm hồ nước để cư ngụ.” A-la-hán Mạt-điền-để-ca chấp thuận lời thỉnh cầu đó.
The dragon then requested that five hundred arhats should always accept his offerings until the extinction of the Dharma, and that after the extinction of the Dharma he should then retake this country as his dwelling lake. Madhyantika assented to this request.
Sau khi đã có vùng đất này, ngài Mạt-điền-để-ca liền dùng thần thông tạo ra 500 ngôi chùa. Sau đó, ngài đến các nước khác mua những người thuộc giai cấp hạ tiện hèn kém đưa về đây để phục vụ chư tăng.
After having obtained the land the arhat established five hundred monasteries with his great supernatural powers and bought slaves from different countries to serve the monks.
Sau khi ngài Mạt-điền-để-ca nhập diệt, những người thuộc giai cấp thấp hèn kia tự lập quân vương, [thành một nước độc lập]. Những nước chung quanh đều khinh thường cho rằng họ thuộc giai cấp hạ tiện nên không cùng giao hảo kết thân, lại gọi họ là ngật-lợi-đa (kritā), nghĩa là “những người được mua về”. Đến nay thì vùng đất này đã có rất nhiều sông suối chảy khắp mọi nơi.
After Madhyantika entered extinction the slaves made themselves rulers. The neighboring countries despise them as lowborn people and do not interact with them, calling them the Knta (“The Bought”). Now spring water is overflowing at many places.
Sau khi đức Như Lai nhập Niết-bàn được 100 năm, vua Vô Ưu của nước Ma-yết-đà (Magadha) lên ngôi, uy thế bao trùm đến tận những vùng xa xôi. Nhà vua tin sâu Tam bảo, thương yêu nuôi dưỡng hết thảy muôn loài chúng sinh. Lúc bấy giờ có 500 vị thánh tăng A-la-hán và 500 vị tăng phàm phu, nhà vua đều cung kính cúng dường như nhau, không có gì khác biệt. Có vị tăng phàm phu là Ma-ha-đề-bà là người có trí, hiểu biết rộng rãi, nghiên cứu thâm sâu ý nghĩa danh ngôn và thật tánh, tự mình suy ngẫm soạn ra một bộ luận, nhưng lý lẽ đưa ra trái nghịch với Thánh giáo [của Phật]. Những ai biết đến luận này đều tin theo những lý lẽ [sai trái] đó. Vua Vô Ưu không thể phân biệt được phàm tăng hay thánh tăng, chỉ nghe theo những gì mình thích, thuận theo những người thân cận, liền triệu tập hết thảy tăng chúng đến bờ sông Căng-già, muốn dìm xuống dòng nước sâu, giết chết tất cả.
King Asoka of Magadha ascended the throne in the hundredth year after the Tathagata’s nirvana and exerted his influence in distant lands. He deeply believed in the Triple Gem and fostered all creatures of the four forms of birth. There were then five hundred arhat monks and five hundred ordinary monks, whom the king respected and treated with equal hospitality. There was a monk named Mahadeva (“Great Deity”), a person of extensive learning and great wisdom, who had made profound studies of the categories of name and reality. He wrote an elaborate treatise in exposition of theories contrary to the holy teachings [of the Buddha], and all his friends and acquaintances followed his heterodox views. Being unable to discern the arhats from the ordinary monks, King Asoka had sympathy with those whom he liked and supported those who were on intimate terms with him. He summoned the monks to the Ganges River, intending to drown them in the deep water and kill them all.
Khi ấy, các vị A-la-hán thấy mạng sống bị đe dọa nên dùng thần thông bay trên không trung đến nước Ca-thấp-di-la và ẩn cư trong vùng núi non khe suối. Vua Vô Ưu nghe biết việc ấy thì sợ hãi, cung kính tìm đến tạ lỗi và thỉnh cầu các ngài quay trở về nước Ma-yết-đà. Nhưng các vị A-la-hán không chấp thuận thỉnh cầu của vua. Vua Vô Ưu liền vì các vị A-la-hán mà xây dựng 500 ngôi chùa [ở đây], lại đem cả nước Ca-thấp-di-la này cúng dường cho chư tăng.
The arhats, realizing that their lives were at stake, employed their supernatural powers and flew through the air to this country [of Kasmira], where they lived in the mountains and valleys. Upon hearing this, King Asoka was afraid and repented; he came in person to apologize and invited the arhats to re turn to his country but the arhats flatly refused the invitation. Thus King Asoka built five hundred monasteries for the arhats and offered the whole country as alms to the community of monks.
Sau khi đức Như Lai nhập Niết-bàn được 400 năm, vua Ca-nị-sắc-ca (Kanishka) của nước Kiện-đà-la (Gandhara) thuận mệnh trời lên ngôi cai trị, oai phong lan xa, các nước gần xa đều quy phục. Những lúc rảnh việc nước vua đều dành thời gian thực tập Phật pháp. Mỗi ngày vua thỉnh một vị tăng vào cung thuyết pháp, nhưng học thuyết của các bộ phái khác nhau có nhiều khác biệt, khiến nhà vua sanh tâm nghi ngờ sâu xa, không biết làm sao để giải trừ lòng nghi. Lúc đó, Hiếp Tôn giả nói rằng: “Đức Như Lai nhập Niết-bàn đã lâu, thời gian năm tháng quá xa rồi. Hàng đệ tử mỗi người đều bám vào bộ phái của mình, mỗi bậc thầy đều truyền dạy khác nhau, dựa vào chỗ thấy nghe hiểu biết của riêng mình, thành ra đều mâu thuẫn với nhau.”
King Kaniska of the country of Gandhara ascended the throne in the four- hundredth year after the Tathagata’s nirvana; his influence reached far and distant lands, which then became affiliated with him. In his leisure hours he always studied Buddhist scriptures and each day he invited a monk to preach the Dharma in his palace. As the monks belonged to different schools their views were at variance with each other, and the king was greatly puzzled and could not get rid of his delusions. At that time Venerable Parsva explained, “In the long period of time since the Tathagata passed away, his disciples have adhered to different schools and the masters have held various views, each grasping his own opinions and giving rise to contradictions.”
Nhà vua nghe vậy lấy làm thương cảm, buồn than một lúc lâu rồi thưa với Tôn giả rằng: “Quả nhân kém cỏi, nhờ chút phước lành đời trước nên được nối ngôi trời. Tuy ngày nay cách Phật đã xa nhưng vẫn còn may mắn [được gặp Giáo pháp], xin quên đi sự tầm thường kém cỏi của riêng mình mà bạo gan tính chuyện tiếp nối làm hưng thịnh Chánh giáo Như Lai, muốn hợp chung giáo nghĩa các bộ phái để thích nghĩa cho đầy đủ cả Tam tạng.”
The king was quite moved to hear this and, after brooding in a sorrowful mood for a long time, he said to the venerable monk, “By the remnant blessedness of 886c my ancestors I am lucky enough to have succeeded to the exploits of my predecessors. Although I am far away from the time of the Buddha I am still fortunate. I venture to forget my vulgarity and incompetence and wish to propagate the Dharma by expounding the whole Tripitaka according to the tenets of different schools.”
Hiếp Tôn giả nói: “Đại vương vốn đã trồng sâu căn lành, có nhiều phước báo, nay lại lưu tâm đến Phật pháp, đó cũng chính là tâm nguyện của bần tăng.”
Venerable Parsva said, “Your Majesty has planted the root of good deeds in the past and has accumulated much blessing. It is my wish that Your Majesty should pay attention to the buddha-dharma.”
Đức vua liền bố cáo khắp xa gần, triệu tập hết thảy những bậc hiền thánh, minh triết. Khi ấy, bốn phương hội tụ, muôn dặm cùng về, những bậc tài năng hiền đức, thánh trí đa văn, đều cùng nhau vân tập. Trong suốt bảy ngày hội họp, [đức vua] chu đáo lo đủ tứ sự cúng dường.
Then the king issued an order to summon holy and learned monks through-out the country, from far and near. Thus brilliant scholars and wise monks flocked to the assembly from great distances in the four quarters, to be enter-tained with the four monastic requisites for seven days.
Đến khi chuẩn bị luận bàn Giáo pháp, vua lại sợ số lượng quá đông e có sự xen tạp, nên bạch lên chư tăng rằng: “Bậc chứng thánh quả xin ở lại, những ai còn phiền não hãy lui về.”
Since [the assembly] was for the discussion of the great Dharma, having too many participants would be too chaotic. Thus the king respectfully said to the monks, “Those who have attained sainthood may stay, while those who are still under the bondage of rebirth may stay.
Nhưng như thế đại chúng vẫn còn rất đông, vua lại thưa rằng: “Bậc vô học xin ở lại, còn những vị hữu học mời lui về.”
The remaining number was still too many, so the king declared again, “Those who have completed their learning may stay, while those who are still in the course of learning may go back.”
Nhưng vẫn còn khá đông, vua lại thưa rằng: “Vị nào chứng đủ tam minh, lục thông xin ở lại, ai chưa được vậy xin lui về.”
The remaining number was still too many, and so he ordered again, “Those who possess the three insights and have the six supernatural powers may stay, while the rest may go back.”
Xem ra trong chúng hội vẫn còn đông, vua lại thưa: “Những vị nào bên trong thông suốt Tam tạng, bên ngoài thấu đạt Ngũ minh thì xin ở lại, ai chưa được vậy xin lui về.”
But as the remaining number was still too many, he again issued an order, saying, “Only those who are well versed in the Tripitaka with its supramundane theories and who thoroughly understand the five mundane branches of knowledge may remain, while the others may go back.”
Lúc này hội chúng còn lại được 499 vị. Vua muốn tổ chức [Pháp hội] ngay tại nước Kiện-đà-la, nhưng khó khăn vì khí hậu nóng ẩm, nên lại muốn đến thành Vương Xá, nơi động đá ngài Ca-diếp từng kết tập kinh điển [thuở xưa]. Hiếp Tôn giả cùng các vị khác bàn luận rồi nói: “Không thể được. Nơi đó rất đông ngoại đạo, luận thuyết khác biệt rất nhiều, chúng ta phải biện bác với họ hết cả thời gian, làm sao lo việc trước thuật luận bản. Nay chúng hội đồng lòng đều hướng đến nước Ca-thấp-di-la. Nước ấy bốn bề núi non bao bọc kiên cố, có dược-xoa phòng vệ, đất đai màu mỡ tốt tươi, sản vật phong phú, là nơi các bậc hiền thánh qua lại, hội tập, thần tiên đến đó dạo chơi, dừng nghỉ.”
Thereupon four hundred ninety-nine persons were selected.
The king wished [to hold the convention] in his own country but the climate was too hot and humid for the purpose. He also wished to go to the cave at Rajagrha, where Mahakasyapa had convened his assembly. Venerable Parsva and others discussed the matter and said, “No! [At Rajagrha] there are many heretics who engage in debate, holding divergent heterodox views. We would get involved with them in disputations and then how could we have the time to write our treatises?” Thus the monks in the meeting all favored the country [of Kasmira for the assembly].
Hội chúng cùng bàn luận và đồng ý như vậy. Khi ấy, vua Ca-nị-sắc-ca cùng các vị A-la-hán từ nước Kiện-đà-la cùng nhau sang nước Ca-thấp-di-la xây dựng chùa viện, kết tập Tam tạng để soạn ra bộ luận Tỳ-bà-sa. Lúc bấy, giờ Tôn giả Thế Hữu (Vasumittra) vừa đến đứng bên ngoài, thân khoác nạp y.
Because the country was surrounded by mountains on the four sides and was strongly guarded by yaksas, and had fertile soil and rich products, it was a place where sages and saints met and took up their lodgings and was frequented by spirits and genies. The monks discussed the place and they all agreed that it was an appropriate location [for the meeting]. The king and the arhats then came from their country [of Gandhara] to the country [of Kasmira] and constructed a monastery to collect and compile the Tripitaka with the intention of composing a Vibhasa-sastra.
At that time Venerable Vasumitra, dressed in a monk’s patched robe, was outside the door,
Các vị A-la-hán bảo ngài Thế Hữu: “Phiền não buộc ràng chưa dứt hết thì những điều nói ra ắt chỉ là sai lầm trái nghịch. Tốt hơn là ông nên tránh ra xa, đừng ở nơi này.”
when the arhats said to him, “You have not gotten rid of the bondage of the passions and your arguments are absurd and erroneous. You should go far away and not stay here.”
Ngài Thế Hữu đáp: “Các vị hiền hữu! Các ngài đối với các pháp không còn chỗ nghi, nay thay Phật thi hành việc giáo hóa, sắp tập hợp giáo nghĩa Đại thừa để soạn ra luận văn chân chánh. Tôi tuy không được sáng suốt, cũng phần nào hiểu được ý nghĩa những lời vi diệu, đối với văn nghĩa huyền diệu của Tam tạng, chỗ lý lẽ cùng tột của Ngũ minh, cũng đã có sự nghiên cứu sâu xa, thấu đạt tôn chỉ tinh yếu.”
Vasumitra said, “You sagacious monks have no doubts about the Dharma and you are spreading the Buddha’s teachings in his place. You are collecting the great doctrines with the intention of writing a standard treatise. Although I am unintelligent, I do know something of the subtle teachings. I have made profound studies of the abstruse texts of the Tripitaka and the sublime principles of the five branches of knowledge and I have mastered their essences.”
Các vị A-la-hán đáp: “Sao có thể nói như thế được! Ông nên tránh qua một bên, nhanh chóng chứng quả vô học rồi hãy vào hội này, khi ấy cũng chưa muộn.”
The arhats said, “You must not speak in this manner. You should live in seclusion and attain arhatship quickly. Then it will not be too late for you to come and join us at the meeting.”
Ngài Thế Hữu đáp: “Tôi xem [việc chứng] quả vô học chỉ [dễ dàng và không quan trọng] như nhổ bãi nước bọt, nhưng vì lòng tôi quyết cầu quả Phật nên không đi theo đường nhỏ. Ví như tôi ném cuộn tơ này lên, khi nó rơi còn chưa chạm đất thì tôi đã có thể chứng được thánh quả vô học rồi.”
Vasumitra said, “I deem the attainment of arhatship to be as insignificant as spittle. My ambition is to gain buddhahood; I do not wish to go by the small path. But I can still attain the holy fruit of arhatship before a ball of thread falls down to the ground after I have thrown it up into the air.”
Lúc bấy giờ, các vị A-la-hán đều quở trách nặng nề, nói rằng: “Ông thật quá kiêu căng ngạo mạn! Chư Phật đều tán thán quả vị vô học, ông nên nhanh chóng chứng đắc thì mới dứt được sự nghi ngờ của đại chúng.”
The arhats again reproached him, saying, “You are truly an arrogant man. Arhatship is what all the buddhas have praised and you should quickly realize 887a it, so as to remove the monks’ doubts.”
Ngay khi ấy, ngài Thế Hữu ném cuộn tơ lên, chư thiên liền hiện ra giữa không trung giữ lấy cuộn tơ [không cho rơi xuống], rồi thưa thỉnh rằng: “Ngài rồi sẽ chứng đắc Phật quả, tiếp nối đức Di-lặc, làm bậc tôn quý trong Ba cõi, là chỗ nương dựa quy ngưỡng của muôn loài chúng sinh, vì sao ở nơi đây lại muốn chứng tiểu quả?”
Vasumitra then tossed a ball of thread up into the air but the devas took hold of it and made an appeal to him, saying, “You should now attain buddhahood and become the successor to Maitreya in the future, to be specially honored by all the three realms and be someone on which all beings of the four forms of birth can depend. Why should you wish to realize the small fruit here and now?”
Lúc bấy giờ, các vị A-la-hán đều nhìn thấy sự việc, liền sám hối tạ lỗi và suy tôn thánh đức, thỉnh ngài lên hàng thượng tọa, đối với những việc nghi ngờ trong khi bàn luận đều theo ý kiến của ngài để quyết định.
Upon witnessing this event the arhats apologized [to Vasumitra] and elected him to be the elder of the meeting, and all dubious points were settled by him.
Năm trăm vị hiền thánh này, trước tiên soạn 100.000 bài tụng luận Ổ-ba-đệ-thước để thích nghĩa tạng Tố-đát-lãm. Sau đó tạo 100.000 bài tụng luận Tỳ-nại-da Tỳ-bà-sa để thích nghĩa tạng Tỳ-nại-da. Sau đó nữa tạo 100.000 bài tụng luận A-tỳ-đạt-ma Tỳ-bà-sa để thích nghĩa tạng A-tỳ-đạt-ma.
First the five hundred saintly and holy monks composed the Upadesa-sastra (formerly transcribed wrongly as Yoiipotishe hm) in a hundred thousand stanzas for the exposition of the Sutra pitaka (formerly transcribed wrongly as Xiuduoluozang). Then they wrote the Vinaya-vibhasa-sastra in one hundred thousand stanzas for the exposition of the Vinaya pitaka (formerly transcribed wrongly as Pinayezang). Last, they compiled the Abhidharma-vibhasa-sastrci in one hundred thousand stanzas for the exposition of the Abhidharma pitaka (known as Apitanzang in abbreviation).
Như vậy, tổng luận gồm 300.000 bài tụng, có 9.600.000 âm tiết, thích nghĩa đầy đủ Tam tạng: Kinh, Luật, Luận, truyền lại đến muôn đời, không một ý nghĩa nào không giải thích đến tận cùng chi tiết, cứu xét chỗ cạn sâu. Nhờ đó mà giáo nghĩa Đại thừa lại được sáng tỏ, những lời vi diệu lại được hiển bày, rộng truyền khắp chốn, làm chỗ nương theo cho hàng hậu học.
There are altogether three hundred thousand stanzas with nine million six hundred thousand words for the full explanation of the Tripitaka, to be studied for all ages to come. They probe into all branches and ramifications, whether shallow or deep. The general meanings are repeatedly clarified and the subtle sayings made apparent. They are widely circulated for the guidance of posterity.
Vua Ca-nị-sắc-ca liền cho làm những lá đồng đỏ để khắc toàn bộ luận văn lên, dùng hộp đá đựng vào phong kín lại, rồi xây tháp để chứa giữ bên trong, lệnh cho các thần dược-xoa phòng vệ chung quanh đất nước Ca-thấp-di-la, không để cho những kẻ ngoại đạo mang luận văn này ra ngoài. Những ai muốn cầu học thì phải ở trong phạm vi nước Ca-thấp-di-la để học.
King Kaniska had these treatises incised on red copper plates and kept them in stone cases, and a stupa was constructed for their preservation. He ordered the yaksa deities to be on guard all around the country to prevent heretics from taking the treatises out of the country. Those who wished to study them might do so inside the country.
Sau khi mọi việc đã hoàn tất, vua Ca-nị-sắc-ca rút quân trở về kinh đô nước Kiện-đà-la. Khi đi ra cửa thành phía tây của nước Ca-thấp-di-la, vua quay mặt về hướng đông mà quỳ lạy, lại dâng cả nước này lên cúng dường chư tăng.
After having completed the task the king returned to his own capital with his army. When he came out of the western gate of the capital city of the country [of Kasrmra], he knelt down facing the east to offer the whole country as alms to the monks.
Về sau, khi vua Ca-nị-sắc-ca đã băng hà, con cháu của những kẻ ngật-lợi-đa tại đây lại tự lập vương quyền, rồi trục xuất chư tăng, hủy hoại Phật pháp.
But after the Kaniska’s death the Krita tribe resumed kingship, expelled the monks, and demolished the buddha-dharma.
Đức Như Lai nhập Niết-bàn rồi, sau khoảng 500 năm đến 600 năm, có đức vua Hứ-ma-đát-la (Tuyết Sơn Hạ) của nước Đổ-hóa-la (Tukhara), vốn có nguồn gốc tổ tiên thuộc dòng họ Thích, tiếp nối vương nghiệp tiền nhân, cai trị lãnh thổ. Đức vua là người dưỡng tâm nơi đất Phật, quý trọng Chánh pháp, nghe biết việc những người ngật-lợi-đa hủy diệt Phật pháp [ở nước Ca-thấp-di-la], liền chiêu tập 3.000 người gan dạ, dũng mãnh trong nước mình, giả làm một đoàn thương nhân mang theo nhiều hàng hóa, vật báu, trong đó cất giấu binh khí, cùng đi vào nước Ca-thấp-di-la.
The king of Himatala (“Below the Snow Mountains”) in the country of Tukhara, a descendant of the Sakya clan, fully occupied his territory and ascended the throne in the six-hundredth year after the Tathagata’s nirvana. He planted his mind in the earth of the Buddha and poured his sentiments into the sea of the Dharma. When he heard that the Krita tribesmen were destroying the buddha-dharma, he mustered three thousand brave warriors of his country and outfitted them in the guise of merchants. Carrying with them a large quantity of valuable goods, they hid weapons secretly among the merchandise and came to this country.
Vua Ca-thấp-di-la đặc biệt tổ chức tiệc đãi khách. Trong đoàn thương nhân, [vua Tuyết Sơn Hạ] đã chọn ra 500 người dũng mãnh mưu lược, mỗi người đều giấu dao nhọn trong tay áo, cùng nhau mang các báu vật lên dâng cho vua Ca-thấp-di-la. [Nhân lúc vua Ca-thấp-di-la đứng lên bước đến nhận lễ vật], vua Tuyết Sơn Hạ ngay lập tức giật lấy mão vua, chiếm lấy ngai vàng. Vua Ca-thấp-di-la bất ngờ hoảng hốt chưa biết phải làm gì thì đã bị [người của vua] Tuyết Sơn Hạ chém rơi đầu. Vua Tuyết Sơn Hạ liền tuyên bố với quần thần rằng:
The lord of [Kasmira] treated them with special courtesy. From among the [disguised] merchants, five hundred brave men who possessed tactical skill were selected. Each was equipped with a sharp dagger hidden in his sleeves and they carried rare valuables to present to the lord in person. At that moment the king of Himatala took off the hat of the lord and occupied his throne. The king of the Krita tribe was taken aback by the surprise attack and was beheaded right away. [The king of Himatala] declared to the people,
“Ta là vua Tuyết Sơn Hạ của nước Đổ-hóa-la, vì giận kẻ hạ tiện làm điều trái nghịch Chánh pháp nên hôm nay đến đây giết người có tội, trăm họ dân thường đều không có lỗi.”
“I am the king of Himatala in the country of Tukhara. I was enraged by this low-born tribesman, who openly carried out cruel policies. I have put him to death because he was guilty. You innocent people are guiltless.”
Sau đó, các quan chức triều đình đều bị đuổi sang nước khác. Đất nước bình ổn rồi, vua Tuyết Sơn Hạ liền triệu thỉnh chư tăng, xây dựng chùa viện [để chư tăng] an ổn tu hành như xưa. Trên đường quay về nước, khi ra khỏi cửa thành phía tây của nước Ca-thấp-di-la, vua cũng quay mặt về hướng đông quỳ lạy, [dâng cả nước này lên] cúng dường chư tăng.
The chief ministers of the court were banished to a foreign land. Once order was restored in the country the monks were invited back and monasteries were built, as peacefully as before. The king knelt down outside the western gate of the capital city with his face turned to the east to again offer the country as alms to the monks.
Những người ngật-lợi-đa ở nước này, nhiều phen [vì xúc phạm chư tăng mà] bị trừng phạt nghiêm khắc, tộc họ bị chém giết, cho nên nhiều đời tích tụ oán hờn, ghét bỏ Phật pháp. Trải qua nhiều năm tháng, họ cũng giành lại được vương quyền. Vì những lý do trên, nước này không sùng mộ tín ngưỡng [Phật pháp], chỉ lưu tâm đến các đền thờ Phạm thiên của ngoại đạo mà thôi.
Because the Krita tribesmen had lost power on account of Buddhist monks on several occasions, they bore them a grudge for generations and hated the buddha-dharma. After a long period of time they resumed the kingship once again. Therefore Buddhism is not much believed in by the people of the country, while deva temples enjoy much attention.
Từ kinh thành mới ở đây đi về hướng đông nam hơn 3.2 km, nằm về hướng bắc của thành cũ, có một ngọn núi lớn. Phía nam của núi có một ngôi chùa, tăng sĩ khoảng hơn 300 người. Nơi đây có một ngọn tháp, trong có xá-lợi răng Phật, dài khoảng 5 cm, màu trắng ngả vàng, vào những ngày trai thường tỏa ánh sáng.
More than ten li to the southeast of the new city, at the south side of a great mountain to the north of the old city, is a monastery with over three hundred monks. In the stupa of the monastery there is a Buddha’s tooth relic, about one and a half inches long, yellowish-white in color. On fast days it sometimes emits a light.
Thuở xưa, những người ngật-lợi-đa hủy diệt Phật pháp, chư tăng phải giải tán, mỗi người tự tìm nơi thích hợp để ở. Có một vị sa-môn [từ đây] đi khắp các nước vùng Ấn Độ để chiêm ngưỡng, lễ bái các thánh tích, hết sức chí thành. Về sau, khi nghe trong nước đã bình yên ổn định liền lên đường quay về. Giữa đường bỗng gặp một bầy voi đang lồng lộn ngang dọc trên một đồng cỏ, kêu la chấn động. Vị sa-môn thấy vậy liền leo lên cây để trốn tránh. Bấy giờ, bầy voi kéo nhau chạy đến, hút nước dưới hồ phun vào gốc cây rồi cùng nhau lay gốc, khiến cây bật gốc ngã xuống rồi bắt lấy vị sa-môn ấy, đặt trên lưng voi mà chạy đi, vào sâu trong rừng, đến chỗ có một con voi bệnh đang nằm, ung nhọt đau đớn. Voi bệnh dùng vòi kéo tay vị tăng đưa đến chỗ bị đau, thì ra là bị một khúc tre khô đâm sâu vào chân. Vị sa-môn liền nhổ khúc tre khô ra, lấy thuốc đắp vào, rồi xé một mảnh vải từ tấm y để băng bó chỗ đau ở chân voi. Có một con voi lớn mang một hộp vàng đến cho voi bệnh. Con voi bệnh nhận lấy rồi đưa qua cho vị sa-môn, mở ra liền thấy trong đó là xá-lợi răng Phật.
Formerly when the Krita tribespeople persecuted the buddha-dharma, the monks scattered to various places and lived separately. One of the sramanas went to India to visit and worship the sacred sites with utmost sincerity. Later, when he heard that order had been restored in his country, he started on his return journey and on the way he met a herd of elephants running amok in the marsh, trumpeting and rampaging wildly. At the sight of the elephants, the sramana climbed up into a tree to avoid them. At that moment the elephants rushed to a pond to get water to soak the roots of the tree, then they pushed the tree until it fell down.
Having got hold of the sramana, the elephants carried him into a big forest, where a sick elephant was lying on the ground with a painful sore. They put the monk’s hand on the painful spot and he found that the wound had been made by a bamboo prickle. After plucking out the bamboo prickle and applying medicine to the wound, the sramana tore off a piece of his robe to dress the sick elephant’s wounded foot. One of the elephants took a golden casket to the sick elephant and the sick elephant handed it over to the sramana. Upon opening the casket, the sramana saw a Buddha’s tooth relic in it.
Bầy voi vây quanh, vị tăng không thể nào ra khỏi. Hôm sau, đến giờ thọ trai, mỗi con voi đều mang đến những trái cây ngon lạ, bày ra thành bữa ăn trưa. Vị tăng ăn xong, đàn voi liền đưa ra khỏi rừng, chở đi xa đến mấy trăm dặm rồi mới đặt xuống, mỗi con voi đều quỳ lạy rồi mới bỏ đi.
The monk was surrounded by the elephants and could not get away from them. At mealtime on the following day they brought him strange [kinds of] fruit for his midday meal. After the meal was over, they carried the monk out of the forest and, having carried him for several hundred li, they let him get down and knelt on the ground to worship him before they dispersed.
Vị sa-môn ấy về đến biên giới phía tây nước Ca-thấp-di-la, đi thuyền qua một con sông chảy xiết, đến khoảng giữa dòng thì thuyền chòng chành sắp lật. Người đi cùng thuyền đều nói: “Nay thuyền sắp lật, tai họa này là do sa-môn, chắc hẳn có mang theo xá-lợi của Như Lai nên loài rồng muốn lấy.” Chủ thuyền xét hỏi, quả nhiên có xá-lợi răng Phật. Lúc ấy, vị sa-môn đưa hộp xá-lợi răng Phật lên mà nói với rồng ở dưới sông rằng: “Nay ta tạm gửi cho ngươi, chẳng bao lâu sẽ quay lại lấy.”
When the sramana reached the western boundary of the country he boarded a ferryboat to cross a rapid river but in midstream the boat was almost over-turned. The other passengers in the boat said among themselves, “This sramana must be the cause of our trouble—almost getting drowned in the river. He must have carried with him some relic bones of the Tathagata, which are greatly valued by dragons.” The boatman searched the passengers and in fact discovered the Buddha’s tooth relic. The samana then held the tooth relic high and lowered his head to say to the dragon [in the river], “I now hand this over to you for safekeeping but I shall come soon to take it back.”
Rồi vị sa-môn không qua sông nữa mà rời thuyền, lại ngoái nhìn dòng sông mà than rằng: “Bởi ta không học chú thuật nên mới bị loài rồng ức hiếp.”
He did not cross the river but disembarked and, gazing at the river, he said regretfully, “As I did not learn the craft of subduing dragons I am now bullied by this beast of a dragon!”
Vị sa-môn liền quay lại Ấn Độ lần nữa để học phép trị rồng. Sau 3 năm quay về, đến bến sông ấy vừa định thiết lập đàn tràng thì rồng đã vội mang hộp xá-lợi răng Phật lên trả lại. Vị sa-môn liền mang về nước, [đặt trong tháp] ở ngôi chùa này mà thờ phụng cúng dường.
So he went back to India to learn the magical craft of suppressing dragons. After three years he started again on his return journey, and when he reached the bank of the river and was preparing an altar [for performing the rites], the dragon handed over the casket containing the Buddha’s tooth relic to the sramana, who took it back and enshrined it at this monastery.
Từ ngôi chùa này đi về hướng nam khoảng 4.5-5 km có một ngôi chùa nhỏ, trong chùa có pho tượng đức Bồ Tát Quán Tự Tại ở tư thế đứng. Như có người vì muốn được thấy sắc thân Bồ Tát mà phát lời thệ nguyện [nếu không được thấy sẽ] nhịn ăn cho đến chết, thì từ nơi tượng này liền hiện ra đầy đủ sắc thân vi diệu của Bồ Tát [cho người ấy được thấy].
Fourteen or fifteen li to the south of the monastery [of the tooth relic] there is a small monastery in which is enshrined a standing statue of Avalokitesvara Bodhisattva. If a worshiper decides to starve himself to death, in case he cannot fulfill his wish to see the bodhisattva in person, the bodhisattva appears in his marvelous corporeal body out of the statue.
Từ ngôi chùa nhỏ này đi về hướng đông nam khoảng 10 km thì gặp một ngọn núi lớn, có ngôi chùa cổ hình thức xây dựng rất tráng lệ to lớn nhưng đã hoang phế hầu hết, chỉ còn lại nơi góc chùa có dựng lên một căn gác nhỏ. Tăng sĩ nơi đây chừng hơn 30 vị, thảy đều học theo giáo pháp Đại thừa. Thuở xưa, luận sư Tăng-già-bạt-đà-la đã soạn bộ luận Thuận chánh lý ở nơi này.
Over thirty li to the southeast of the small monastery I arrived at a great mountain on which there was an old monastery built on a magnificent scale, but it is now mostly in ruins. There is only one small storied pavilion at a comer of the monastery, with more than thirty monks, who study Mahayana teachings. Formerly the sastra master Samghabhadra (known as Zhongxian in Chinese) composed the Abhidharma-nyayamisara-sastra here.
Các tháp ở hai bên chùa đều còn thờ xá-lợi của các vị Đại A-la-hán, thú rừng vượn núi hái hoa cúng dường quanh năm không ngớt, như thể vâng theo một lệnh truyền nào đó. Cho nên trong núi này có nhiều dấu tích linh hiển, như vách đá nứt ngang, hoặc trên đỉnh núi có lưu dấu ngựa. Những dấu tích này có hình trạng kỳ quái, đều do các vị A-la-hán, sa-di trong lúc tụ họp đùa vui, dùng ngón tay vung lên vẽ thành, hoặc khi cưỡi ngựa qua lại tạo ra. Những dấu tích như vậy [rất nhiều], khó có thể kể hết.
On the left and right sides of the monastery there are stupas containing relic bones of great arhats. Monkeys and other wild animals pluck flowers as offerings at all times of the year without interruption, as if they were performing a duty under instruction. There are many strange traces on this mountain, such as rocky walls that are split crosswise, or the hoofprints of horses left on the tops of the peaks. All these traces have strange shapes. They were drawn by arhats who were sramaneras (not yet fully ordained monks) with their fingers while they were riding to and fro on pleasure trips. Such traces are so numerous that it is difficult to give a full account of them.
Từ ngôi chùa có [tháp] thờ xá-lợi răng Phật, đi về hướng đông khoảng 3.2 km, nơi sườn núi phía bắc có một ngôi chùa nhỏ. Đây là nơi ngày xưa Đại luận sư Sách-kiền-địa-la (Skandhila) soạn ra bộ luận Chúng sự phần Tỳ-bà-sa. Trong khuôn viên ngôi chùa nhỏ này có một ngọn tháp cao khoảng 17 mét, là nơi thờ xá-lợi của một vị A-la-hán lưu lại.
Over ten li to the east of the Buddha tooth monastery, on the steep side of a northern mountain, there is a small monastery where the great sastra master Skandhila composed the Abhidharma-prakarana-pada-sastra in former times.
In the small monastery there is a stone stupa more than fifty feet high, con-taining the relic bones of an arhat.
Thuở xưa, vị A-la-hán này thân hình rất to lớn, ăn uống nhiều như voi. Người thời bấy giờ chế giễu rằng: “Chỉ biết ăn no bụng, làm sao hiểu được lẽ đúng sai?” Khi vị A-la-hán này sắp nhập diệt, liền bảo mọi người rằng: “Không bao lâu nữa ta sẽ nhập Niết-bàn Vô dư, nên muốn vì các ngươi thuyết giảng diệu pháp mà tự thân ta đã chứng đắc.”
Formerly there was an arhat, a big and tall man who had the appetite of an elephant. The people of the time sneered at him, saying, “You know only how to satisfy yourself and have no sense of right and wrong! ” When the arhat was about to enter nirvana he told the people, “I shall soon take up complete extinction. I wish to tell you the wonderful Dharma I have personally realized.”
Mọi người nghe như vậy đều cười cợt chế giễu, nhưng cũng tập trung lại để xem sự thể thế nào. Khi đó, vị A-la-hán bảo mọi người rằng: “Hôm nay ta sẽ vì các người mà nói về nhân duyên của bản thân ta. Thuở trước do nghiệp báo ta phải sinh làm thân voi, ở miền Đông Ấn Độ, trong chuồng nuôi của vua. Bấy giờ, ở nước ấy có một vị sa-môn muốn đi khắp vùng Ấn Độ để tìm kiếm thu thập Thánh giáo, gồm Kinh điển và các bộ luận. Khi ấy, nhà vua liền trao tặng ta cho vị sa-môn kia để dùng chở kinh Phật, nhân đó đi đến xứ này. Sau đó không bao lâu thì ta chết. Nhờ công đức chở kinh nên được tái sinh làm người, lại cũng nhờ phúc đức đời trước tích tụ nên sớm được xuất gia, chuyên cần tinh tấn cầu pháp xuất ly, không một phút giây ngừng nghỉ, [nhờ vậy nên đã] chứng đắc sáu thần thông, dứt trừ được lòng dục trong Ba cõi. Nhưng việc ăn uống [quá nhiều] là do tập khí đời trước hãy còn, dù ta vẫn thường tiết chế tự thân, chỉ ăn uống một phần ba [so với nhu cầu].”
On hearing this the people all jeered at him even more and they all gathered to see what would happen. The arhat then said to them, “Now I shall tell you my personal karmic conditions. Before my present existence I was born an elephant, and I lived in the royal stable of a king of East India. There was then in the country [of Kasrmra] a sramana who was making a long journey in India in search of sacred scriphires and commentaries. The king presented me as a gift to the sramana to carry the Buddhist scriphires for him to this country. Soon afterward I died and by the merit of having carried scriphires I was reborn a human being. With the surplus blessedness I was able 888a to become a monk at an early age. I worked hard to find liberation from the cycle of rebirth, without spending a single moment in idleness, unhl I ahained the six supernatural powers and cut off the passions of the three realms. But my old habit of eating [like an elephant] was still as before, though I restricted myself to eating only one-third of my regular amount of food.”
Tuy đã nói ra như vậy nhưng mọi người đều chưa tin. Vị A-la-hán liền bay lên hư không, nhập định Hỏa quang, toàn thân bốc ra khói lửa, rồi nhập diệt [trên không]. Di thể còn lại rơi xuống đất, mọi người liền xây dựng tháp này để lưu giữ thờ phụng.
When he said this the people did not believe him, so he rose into the air and entered the samadhi (concentrated trance) of firelight. Flames and smoke came from his body and he entered extinction while his remains dropped down, over which a stupa was built.
Từ kinh thành [mới] đi về hướng tây bắc khoảng 65 km thì đến chùa Thương Lâm, là nơi thuở xưa Luận sư Bố-lạt-noa soạn bộ luận Thích Tỳ-bà-sa.
Going northwest from the royal city for over two hundred li, I reached Vikritavana Monastery, where the sdstra master Purna (known as Yuanman in Chinese) composed the Exposition of the Abhidharma-sastra.
Từ kinh thành đi về hướng tây khoảng 45-50 km thì đến bờ phía bắc của một con sông lớn, nơi phía nam một ngọn núi lớn có ngôi chùa của Đại chúng bộ, tăng sĩ khoảng hơn 100 vị. Ngày xưa, luận sư Phật-địa-la (Bodhila) đã ở nơi đây soạn thành bộ luận Tập chân của Đại chúng bộ.
Going west from the city for one hundred forty or fifty li, I reached the north of a great river at the south side of a mountain and came to a monastery of the Mahasamghika school with more than a hundred monks. This was the place where the sastra master Bodhila composed the Tattvasamcaya-sastra of the Mahasamghika school.
Từ đây đi về hướng tây nam, vượt núi non hiểm trở, khoảng 230 km thì đến nước Bán-nô-ta, thuộc miền Bắc Ấn.
Going southwest from here for more than seven hundred li over mountains and across dangerous rivers, I reached the country of Parnotsa (in the domain of North India).
7. Nước Bán-nô-ta

Nước Bán-nô-ta chu vi khoảng 652 km, nhiều sông núi, ruộng đồng nhỏ hẹp, lúa má gieo trồng theo mùa, cây trái tốt tươi, hoa quả rất nhiều, trồng nhiều mía đường, không có nho. Ngoài ra còn có các loại trái cây như am-một-la (xoài), ô-đạm-bạt-la (sung), mậu-già (chuối hột)... Nhà nào cũng trồng nên cây trái rậm rạp như rừng, vì người dân rất thích mùi vị các loại trái cây này.
The country of Parnotsa is more than two thousand li in circuit and has many mountains and rivers; it has narrow strips of cultivated land. The crops are sown in season and flowers and fruit are luxuriant. There is plenty of sugarcane but no grapes. Trees bearing such fruit as amra (mango), udumbara (fig), moca (plantain), and so on have been planted by householders in the woods near their dwelling places, because the people enjoy the taste of these [variteies of] fruit.
Khí hậu ấm nóng, tính người mạnh mẽ, rắn rỏi. Y phục may bằng vải dệt từ bông vải. Người dân chân chất, thẳng thắn, có niềm tin thuần thành nơi Tam bảo.
The climate is humid and hot and the people are bold and fiery by custom. Their garments are mostly made of cotton cloth. They are simple and straightforward by nature and believe in the Triple Gem.
Trong nước có 5 ngôi chùa, nhưng đa phần đã hoang phế, sụp đổ. Nước không có vua nên phụ thuộc vào nước Ca-thấp-di-la. Nơi ngôi chùa ở phía bắc kinh thành có ít tăng sĩ. Phía bắc chùa này có một ngọn tháp bằng đá, có rất nhiều điều linh ứng.
There are five monasteries, mostly in ruins. The country has no rider and is a dependency of Kasmira. In the monastery to the north of the city there are a few monks. To the north of the monastery there is a stone stupa that often shows miracles.
Từ đây đi về hướng đông nam khoảng 135 km thì đến nước Át-la-xà-bổ-la, [thuộc miền Bắc Ấn].
From here going southeast for more than four hundred li, I reached the country of Rajapura (in the domain of North India).
8. Nước Át-la-xà-bổ-la

Nước Át-la-xà-bổ-la chu vi khoảng 1.300 km, chu vi kinh thành hơn 3.2 km, địa hình hết sức hiểm trở, nhiều đồi núi, đồng bằng nhỏ hẹp, mùa màng thu hoạch không nhiều. Đất đai, khí hậu, cây trồng đều giống như nước Bán-nô-ta. Phong tục mạnh mẽ rắn rỏi, tính người dũng cảm, nhanh nhẹn. Nước không có vua nên phụ thuộc nước Ca-thấp-di-la. Trong nước có 10 ngôi chùa, tăng sĩ rất ít. Có một đền thờ Phạm thiên, ngoại đạo rất đông.
The country of Rajapura is over four thousand li in circuit; the capital city, which is more than ten li in circuit and has many hills and mounds around it, is a strong fortress. The valleys and plains are narrow and the soil is not productive. The native products and climate are the same as those of Parnotsa. The people are bold and fiery by custom and are brave and valiant by nature. The country has no rider and is a dependency of Kasmira. There are ten monasteries with few monks. There is one deva temple with many heretics.
Kể từ nước Lam-ba đến nước này, nói chung người dân hình mạo thô kệch xấu xí, tánh tình thô bỉ, hung bạo, nói năng dung tục, cộc cằn, xem thường lễ nghi, nhân nghĩa, không thuộc về khu vực văn minh chính của xứ Ấn Độ mà chỉ là những vùng biên giới xa xôi, tập tục còn hẹp hòi, lạc hậu.
From the country of Lampa up to this land all the inhabitants are coarse and vulgar in appearance and rustic and violent by nature. They speak unrefined dialects, have little courtesy, and lack the sense of righteousness. Their lands do not belong to India proper but are uncivilized frontier regions.
Từ nơi đây đi theo hướng đông nam, xuống núi, vượt sông, khoảng 230 km thì đến nước Trách-ca, thuộc miền Bắc Ấn.
From here proceeding southeast, descending from a mountain, crossing a river, and going for more than seven hundred li, I reached the country of Takka (in the domain of North India).
End of Fascicle III of The Great Tang Dynasty
Record of the Western Regions

Hình minh họa: Đồ họa thể hiện hành trình qua 8 nước trong Quyển 3 - Tây Vực Ký



    « Xem chương trước «      « Sách này có 15 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.4.127 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (169 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - ... ...