Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates

Yếu tố của thành công là cho dù đi từ thất bại này sang thất bại khác vẫn không đánh mất sự nhiệt tình. (Success consists of going from failure to failure without loss of enthusiasm.)Winston Churchill
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Điều bất hạnh nhất đối với một con người không phải là khi không có trong tay tiền bạc, của cải, mà chính là khi cảm thấy mình không có ai để yêu thương.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik

Trang chủ »» Danh mục »» »» Tây Vực Ký »» Xem đối chiếu Anh Việt: Quyển 7 »»

Tây Vực Ký
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Quyển 7

(Lượt xem: 3.823)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || English || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Quyển 7

Fascicle VII

QUYỂN 7

5 nước
Fascicle VII - Five Countries, from Baranasi to Nepala
● Nước Bà-la-ni-tư ● Nước Chiến-chủ ● Nước Phệ-xá-ly ● Nước Phất-lật-thị ● Nước Ni-ba-la
1. The Country of Baranasi
2. The Country of Garjanapati
3. The Country of Vaisali
4. The Country of Vrji
5. The Country of Nepala
1. Nước Bà-la-ni-tư
The country of Baranasi is more than four thousand li in circuit and the capital city, with the Ganges River on the west, is eighteen or nineteen li long and 905b five or six li wide. The houses in the lanes and streets of the city are close together and it is densely populated. The inhabitants are enormously wealthy and their houses are hill of valuable goods.
Nước Bà-la-ni-tư[1] chu vi hơn 4.000 dặm (1.292 km). Kinh thành chiều dài khoảng 18-19 dặm (5.8-6.1 km), chiều rộng khoảng 5-6 dặm (1.6-1.9 km), phía tây giáp với sông Căng-già. Nhà cửa san sát chen nhau như răng lược, dân cư đông đúc phồn thịnh, gia sản cực kỳ giàu có, tích chứa rất nhiều đồ quý hiếm.
The people are mild and courteous in nature and esteem learning by custom. Most of them believe in heretical theories and few people venerate the buddha-dharma. The climate is temperate and the cereal crops are abundant. The fruit trees grow luxuriantly and the vegetation is rich.
Người dân tánh tình ôn hòa, khiêm cung, xem trọng nỗ lực học tập nhưng phần nhiều tin theo ngoại đạo, ít người tôn kính Phật pháp. Khí hậu ôn hòa, đồng lúa tốt tươi, cây trái xanh tốt, cỏ cây phủ xanh khắp chốn.
There are over thirty monasteries with more than three thousand monks, all of whom study the teachings of the Hinayana Sammitiya school. There are more than one hundred deva temples with over ten thousand heretical followers. Most of them worship Mahesvara. Some of them cut their hair while others keep it in a topknot. They go naked without any dress and smear their bodies with ash. They rigorously practice austerities, seeking freedom from birth and death.
Trong nước có hơn hơn 30 ngôi chùa, tăng chúng hơn 3.000 vị, đều tu học theo giáo pháp của phái Chính luợng thuộc Tiểu thừa. Có hơn 100 đền thờ Phạm thiên, ngoại đạo hơn 10.000 người, đa phần đều thờ phụng Đại Tự Tại Thiên, hoặc cắt tóc, hoặc bới tóc thành búi, lõa hình không y phục, bôi trét tro than lên người, tinh tấn chuyên cần tu khổ hạnh, [tin rằng làm vậy có thể] cầu thoát sinh tử.
Inside the great city there are twenty deva temples, of which the sanctuaries are built with carved stone and ornamental wood on terraces arranged in tiers. Luxuriant trees cast shade over each other and clear streams flow throughout. There is a brass statue of the deity, less than one hundred feet tall, depicted in a solemn manner with a stately appearance as if it were alive.
Trong kinh thành có 20 đền thờ Phạm thiên, kiến trúc nhiều tầng mái, dùng đá hoặc gỗ, đều có điêu khắc chạm trổ, có cây cao che bóng mát, suối nước vây quanh. Tượng Tự Tại Thiên đúc bằng hợp kim đồng, cao gần 100 thước (33.3 m), oai vệ nghiêm trang, uy nghi sống động.
To the northeast of the great city and on the west bank of the Varana River is a stupa more than one hundred feet high that was built by King Asoka. In front of it is a pillar of green stone as smooth as a mirror and the Tathagata’s image is often visible on the lustrous surface.
Phía đông bắc kinh thành, trên bờ tây sông Bà-la-ni[2] có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, cao hơn 100 thước (33.3 m), phía trước có dựng một trụ đá xanh sáng bóng như gương, lấp lánh sinh động, bên trong thường hiện lên hình ảnh đức Như Lai.
Going to the northeast of the Varana River for more than ten li, I reached Deer Park Monastery, which consists of eight divisions all within one enclosing wall. There are lofty halls and storied pavilions most splendidly constructed, with one thousand five hundred monks, all of whom study the teachings of the Hinayana Sammitlya school.
Từ bờ sông Bà-la-ni đi về hướng đông bắc hơn 10 dặm (3.23 km) thì đến chùa Lộc Dã. Khuôn viên chùa chia ra tám phần, bao quanh bởi cùng một bức tường. Chùa được xây dựng với mái cong nhiều tầng, phòng ốc tráng lệ nghiêm trang. Tăng sĩ có 1.500 vị, đều tu tập theo giáo pháp phái Chính luợng thuộc Tiểu thừa.
Within the great enclosure there is a temple over two hundred feet high with a gilt amra (mango) fruit carved in relief on top. The foundation and steps are made of stone, while the niches arranged in rows are of brick. Around the niches there are one hundred steps, and in each niche is enshrined a gilt image of the Buddha. Inside the temple there is a life-size brass image of the Buddha in the posture of turning the wheel of the Dharma.
Trong khuôn viên tường lớn có một tinh xá cao hơn 200 thước (66.6 m), phía trên tạo hình một trái am-một-la thếp vàng. Nền móng và các bậc thềm đều bằng đá, trên xây các bệ thờ bằng gạch nung, bốn phía là những bậc thềm, có đến hàng trăm bậc. Trên mỗi bệ thờ đều có tượng Phật thếp vàng. Ở giữa tinh xá có tượng Phật đúc bằng hợp kim đồng, kích thước như thân Phật thật, thể hiện đức Như Lai trong tư thế chuyển Pháp luân.
To the northeast of the temple is a stone stupa built by King Asoka. Although the foundation has collapsed the remaining trunk is still one hundred feet high. In front is a stone pillar more than seventy feet tall, as smooth as jade and as reflective as a mirror. With earnest prayer one may see various shadowy pictures in the surface, and sometimes good or evil omens can also be seen This was the place where the Tathagata, after having attained full enlightenment, first filmed the wheel of the Dharma.
Phía tây nam tinh xá có một ngọn tháp đá do vua Vô Ưu xây dựng, nền móng tuy đã nghiêng lún nhưng vẫn còn cao hơn 100 thước (33.3 m). Phía trước có dựng một trụ đá cao hơn 70 thước (23.3 m), sáng loáng như ngọc, có thể soi bóng phản chiếu bên trong. Người thành tâm cầu nguyện đôi khi nhìn vào có thể thấy các hình tượng thể hiện việc lành dữ tốt xấu [sắp đến]. Đây là nơi đức Như Lai sau khi thành Chánh giác đã Chuyển Pháp luân lần đầu tiên.
Not far from here a stupa marks the spot where Ajnata-Kaundinya and the others went when they saw that the Bodhisattva had abandoned the practice of austerities. They refused to be his attendants and guards and came to this place to practice meditation by themselves.
Cách đó không xa có một ngọn tháp. [Ngày xưa,] khi nhóm các ông A-nhã Kiều-trần-như thấy Bồ Tát[3] từ bỏ lối tu khổ hạnh liền không đi theo nữa, cùng nhau đến chỗ này tự tu thiền định.
The stupa beside it was the place where five hundred pratyekabuddhas entered nirvana together. There are also three other stupas marking sites where the three past buddhas sat and walked up and down.
Bên cạnh tháp này có một ngọn tháp nữa, là nơi năm trăm vị Phật Độc giác cùng nhập Niết-bàn. Lại có ba ngọn tháp là nơi di tích của ba vị Phật trong quá khứ đã kinh hành và tọa thiền.
905c The stupa located beside the place where the three past buddhas walked up and down marks the spot where Maitreya (being a surname, meaning “Compassion” in Chinese, formerly called Mile in erroneous abbreviation) Bodhisattva received the prediction of his attainment of Buddhahood.
Kế bên ba ngọn tháp này, có một ngọn tháp khác, là nơi Bồ Tát Mai-đát-lệ-da[4] được thọ ký sẽ thành Phật.
Once on Vulture Peak, near the city of Rajagrha, the Tathagata told the bhiksus, “In the future, when the human life span will be eighty thousand years, there will be in this flat land of Jambudvipa a son of a brahman of the Maitreya family, with a golden-colored body, shining brightly. He will relinquish his home to achieve full enlightenment and preach the Dharma widely for the living beings in three assemblies. Those who will be saved by him are beings who have cultivated the deeds of blessedness according to the teachings I will have left to them. Because they deeply and wholeheartedly venerate the Triple Gem they will receive edification and guidance and attain sainthood and emancipation, whether they are laypeople or monks and whether they observe or violate the disciplinary rides.
Ngày xưa, khi đức Như Lai ở tại thành Vương Xá, trên núi Linh Thứu, có bảo các tỳ-kheo rằng: “Trong đời vị lai, ở châu Thiệm-bộ này, [khi ấy] đất đai bằng phẳng, tuổi thọ trung bình của con người đến 80.000 tuổi, sẽ có người con nhà bà-la-môn họ Từ (Từ thị), thân có màu vàng ròng, tỏa ánh sáng quang minh chiếu sáng, bỏ gia đình đi tu và thành Chánh Giác, vì chúng sinh thuyết pháp trong ba hội. Những người được cứu độ là những chúng sinh đã trồng căn lành phước đức trong giáo pháp để lại của ta. Đối với hết thảy những người hết lòng tin sâu Tam bảo, kẻ tại gia hay người xuất gia, người giữ giới hay kẻ phạm giới, tất cả đều được nhờ ơn hóa độ, chứng quả giải thoát.
In the three preaching assemblies those who have followed my bequeathed Dharma will be saved first, and then good friends who have the cause to be saved will be edified.”
Trong ba hội thuyết pháp, sẽ hóa độ những người tu tập trong giáo pháp của ta, rồi sau đó mới hóa độ những bạn lành có duyên với họ.”
When Maitreya Bodhisattva heard what the Buddha had said, he stood up from his seat and said to the Buddha, “I wish to be that Maitreya, the World-honored One!”
Khi ấy, Bồ Tát Từ Thị nghe Phật nói vậy liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật: “Con nguyện sẽ làm vị Thế Tôn họ Từ kia.”
The Tathagata told him, “As you have said, you will achieve that fruit. What I have said above is intended for your edification.”
Đức Như Lai dạy rằng: “Như lời ông nói đó, ông sẽ chứng được quả vị như vậy. Những lời ta vừa nói đó đều là nói về sự giáo hóa của ông.”
To the west of the place where Maitreya Bodhisattva received his prediction is a stupa marking the spot where Sakya Bodhisattva received his prophecy.
Phía tây ngọn tháp nơi đức Từ Thị được thọ ký, có một ngọn tháp nữa, là nơi đức Bồ Tát Thích-ca được thọ ký.
At the time when the human life span was twenty thousand years in the bhadrakalpa, Kasyapa Buddha emerged in the world and turned the wonderfill wheel of the Dharma to edify living beings. He prophesied the future of Prabhapala Bodhisattva, saying, “This bodhisattva will become a buddha with the name of Sakyamuni in the future, when the human life span is one hundred years.”
Trong hiền kiếp này, khi tuổi thọ con người là 20.000 tuổi, có đức Phật Ca-diệp-ba ra đời, chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu, chỉ bày giáo hóa hết thảy chúng sinh, thọ ký cho Bồ Tát Hộ Minh rằng: “Bồ Tát này trong tương lai khi tuổi thọ con người là 100 tuổi sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni.”
Not far to the south of the place where Sakya Bodhisattva received his prediction is a site where the four past buddhas walked up and down. It is over fifty paces long and about seven feet high, built of pilied-up bluestone, on which there is an image of the Tathagata in the posture of walking. It is unusually exquisite with an appearance of solemnity, and with a tuft of hair specially growing on the fleshy protuberance. Its spiritual features are apparent and its divine manifestation is testified.
Từ tháp thọ ký của đức Thích-ca, không xa về phía nam là di tích nơi kinh hành của bốn vị Phật quá khứ, dài hơn 50 bộ (83.25 m), cao khoảng 7 thước (2.33 m), dùng đá xanh xếp thành, bên trên dựng tượng đức Như Lai đi kinh hành, hết sức uy nghiêm đẹp đẽ khác thường, trên đỉnh nhục kế đặc biệt có tóc mọc ra. Nhìn hình tượng thể hiện rõ vẻ linh thiêng huyền diệu.
Inside the enclosure there are numerous sacred sites and the temples and stupas number in the several hundreds. I have only cited two or three of them; it is difficult for me to give a detailed description of them all.
Bên trong phạm vi bức tường bao quanh có rất nhiều thánh tích, tinh xá và tháp thờ có hơn trăm chỗ, chỉ lược kể sơ sài, rất khó nói hết được.
To the west of the enclosure of the monastery is a pond of pure water more than two hundred paces in circuit in which the Tathagata often bathed. Further to the west is another big pond, one hundred eighty paces in circuit, where the Tathagata used to wash his almsbowl. Further to the north is a pond one hundred fifty paces in circuit where the Tathagata used to wash his robes. There are dragons living in all three ponds. The water is deep and tastes sweet. It is clear and limpid, neither increasing nor decreasing. If one washes in these ponds with an arrogant mind he will usually be harmed by 906a a kumbhira (crocodile), but it is safe for one to use the water with a mind of deep respect.
Ngôi chùa ở về phía tây trong khu vực này có một hồ nước trong, chu vi hơn 200 bộ (330 m), là nơi đức Như Lai thường tắm gội. Tiếp theo về phía tây lại có một hồ lớn, chu vi 180 bộ (297 m), là nơi đức Như Lai thường rửa bát. Kế đến, về phía bắc cũng có hồ, chu vi 150 bộ (247.5 m), là nơi đức Như Lai thường giặt y. Cả ba hồ này đều có rồng cư ngụ, nước hồ đã sâu mà vị lại ngon ngọt, trong trẻo sạch sẽ, mực nước thường không lên xuống. Những ai có tâm kiêu ngạo khinh mạn đến giặt rửa ở những hồ này, đa phần đều bị thủy quái kim-tỳ-la làm hại. Nếu có lòng tin cung kính thì dùng nước ở đây không có gì phải sợ.
Beside the pond for washing robes is a big square rock on which are the traces of the Tathagata’s robes, with the lines as distinct as if they were carved. Pure believers often come here to make offerings. If heretics and evil people tread contemptuously on the rock the dragon king in the pond raises a storm.
Nơi hồ giặt y của Như Lai, trên bờ hồ có một tảng đá vuông rất lớn, vẫn còn dấu tích cà-sa của Như Lai in trên đá rất rõ rệt, sắc sảo như được chạm khắc vào. Những người có lòng tin thường đến đây cúng dường. Khi có ngoại đạo hung ác đạp lên đá này, long vương trong hồ liền nổi mưa to gió lớn.
Not far from the pond is a stupa at the place where the Tathagata, in the course of practicing the deeds of a bodhisattva, was a six-tusked elephant king. A hunter who wished to obtain its tusks disguised himself in a monk’s robe and drew his bow to kill the elephant. Out of respect for the robe the elephant king extracted its tusks and gave them to the hunter.
Cách bờ hồ không xa có một ngọn tháp, là nơi đức Như Lai thuở còn tu hạnh Bồ Tát, sinh làm con tượng vương sáu ngà. Có người thợ săn muốn được ngà voi nên giả vờ mặc áo cà-sa. Tượng vương vì cung kính áo cà-sa nên tự bẻ ngà trao cho thợ săn.
Not far from the place of the frisk extraction is a stupa at the place where the Tathagata, in the course of practicing the deeds of a bodhisattva, manifested as a bird.
Cách chỗ tượng vương bẻ ngà không xa có một ngọn tháp, là nơi Như Lai khi còn tu hạnh Bồ Tát, vì thương xót đời loạn không lễ nghi nên thị hiện làm thân chim.
Out of pity for the lack of kindness in the world, he asked a monkey and a white elephant which of them was the first to see the banyan tree [under which they were sitting]. Each gave an account and, according to their statements, who was senior and who was junior was established. Their influence gradually spread far and near and the people began to know the order of superiority and inferiority, and both monks and laypeople followed their example.
[Thuở ấy,] Bồ Tát chim cùng với con khỉ và con voi trắng [khi đang ở dưới cây ni-câu-luật] cùng hỏi nhau rằng: “Ai là người nhìn thấy cây ni-câu-luật này trước?”[5] Mỗi con vật đều kể ra câu chuyện của mình, nhân đó phân biệt ngôi thứ lớn nhỏ. Việc này truyền ra có ảnh hưởng giáo hóa khắp xa gần, khiến con người biết phân biệt người trên kẻ dưới, kẻ đạo người tục thảy đều noi theo.
Not far away is a great forest in which there is a stupa at the spot where in the past the Tathagata and Devadatta, both as deer kings, settled a dispute.
Cách đó không xa, trong khu rừng lớn có một ngọn tháp, là nơi Như Lai thuở xưa [tu hạnh Bồ Tát] cùng với Đề-đà-đạt-đa đều là nai chúa phân xử [việc của nai].
Formerly in this great forest there were two herds of deer, each of which had more than five hundred animals. The king of this country once came to hunt in the plain and marshland. The Bodhisattva deer king came forward and said to the king, “Your Majesty is hunting with stout dogs in the plain, using burning torches and flying arrows. All my followers will lose their lives this morning and in a few days [their bodies] will become putrid and stinking and will be unfit for food. I wish to supply you with a live deer every day in rotation so that you may have fresh venison, and my followers will be able to lengthen their lives to some extent.”
Thuở ấy trong khu rừng này có hai đàn nai, mỗi đàn đều hơn năm trăm con. Lúc bấy giờ, vua nước này thường đi săn bắn. Bồ Tát nai chúa đến trước vua thưa rằng: “Đại vương đi săn rầm rộ như thế, đốt lửa bắn tên, bao nhiêu đồng loại của tôi trong một sớm đều phải chết, nhưng qua hôm sau thịt sẽ thối rửa, không dùng được cho bữa ăn của đại vương. Nay xin được thay đổi, mỗi ngày chúng tôi sẽ nộp cho đại vương một con. Như vậy đại vương luôn có thịt tươi để dùng, còn loài nai chúng tôi cũng được kéo dài thêm mạng sống.”
The king, pleased by these words, turned back his carriage. Thus each of the two herds provided the king with a deer on alternate days.
Now in the herd of [the deer king] Devadatta there was a pregnant doe. When it was her turn to be killed she said to the king of her herd, “Although it is my turn to die my child has nothing to do with this.”
Vua cho là ý hay, liền [chấp thuận] rồi quay về [không đi săn nữa]. Từ đó hai đàn nai theo thứ tự tuần tự nộp mạng. Trong đàn nai của Đề-bà có một con đang mang thai, sắp đến phiên nộp mạng, liền thưa với nai chúa rằng: “Thân tôi đành chịu chết, nhưng con tôi chưa đến lượt.”
The deer king Deva- datta said angrily, “Who does not value his life?”
Nai chúa giận dữ nói: “Ai không quý mạng sống? [Ngươi không chết thì ai chết thay?]”
The doe remarked, sighing, “Our king is not kindly and I may die at any moment.” So she asked for emergency help from the Bodhisattva deer king. The Bodhisattva said, “How compassionate is the mind of a benign mother, showing kindness to her child that has not yet taken shape! I shall go in your place.”
Nai mẹ than rằng: “Chúa ta không có lòng nhân, nay [con] ta chắc phải chết rồi.” Liền gấp rút báo lên Bồ Tát nai chúa. Bồ Tát nói: “Thảm thương thay cho lòng mẹ, thương con từ lúc chưa thành hình. Nay ta sẽ chết thay cho ngươi.”
Then he went to the gate of the king’s palace and the people in the street exclaimed, “The great deer king has entered the town!” The officials and common people in the capital rushed out to have a look. When the king heard about this he did not believe it, but after the doorkeeper informed the king he understood that it was true and said, “Deer king, why have you come here so abruptly?”
Liền đi đến trước cửa cung vua. Những người đi đường đều bảo nhau rằng: “Nai chúa hôm nay vào thành.” Nghe như vậy, từ quan đến dân đều tranh nhau đi xem. Nhà vua nghe được tin ấy thì nửa tin nửa ngờ, đến khi người giữ cửa vào báo vua mới biết là thật, liền hỏi nai chúa: “Ngươi là nai chúa, sao phải đến [nộp mạng] gấp thế?”
The deer said, “A doe was going to die in her him but she is about to give birth to a fawn, and I cannot bear the sight of her death. I venture to substitute myself for her.”
Nai chúa đáp rằng: “Có một con nai cái đến phiên nộp mạng, mang thai chưa sinh, lòng thương con không nỡ chết. Tôi cảm động việc ấy nên đến đây chết thay.”
Hearing this, the king said with a sigh, “I am a human being in form but I behave like a deer, and you are a deer yet you have the heart of a human being!”
Vua nghe như vậy than rằng: “[Than ôi!] Ta đây chỉ là nai mang thân người, ngươi mới thật là người mang thân nai.”
The king then set free all the deer and asked for no more sacrifices from them. The forest was allotted as a preserve for the deer and therefore was called the Forest Given to the Deer; hence the name Deer Park.
Liền đó vua tha cho cả bầy nai, không phải nộp mạng nữa, lại dành khu rừng kia làm chỗ cư trú cho đàn nai, mọi người liền gọi là rừng Thí Lộc [bố thí cho nai], cũng từ đó có tên Lộc Dã.
Two or three li to the southwest of the monastery is a stupa more than three hundred feet high. The base of the stupa is broad and high and it is adorned with rare and brilliant valuables. There are no niches arranged in rows but instead a dome in the shape of an inverted almsbowl was constructed on the base. Although a stone emblematic pillar was erected it has no decorative wheels or bells.
Về hướng tây nam của ngôi chùa [vừa nói trên], cách khoảng 2-3 dặm (0.7-1 km), có một ngọn tháp cao hơn 300 thước (97 m), nền móng rộng lớn vững chắc vươn cao, trang sức bằng nhiều trân bảo quý giá, phía trên không có các bệ thờ mà kiến trúc hình bình bát úp xuống. Tuy có xây trụ nhô lên nhưng không có luân tướng và chuông lắc [như các tháp khác].
Beside it is a small stupa built at the place where the five people, Ajnata-Kaundinya and the others, gave up their restraint and greeted the Buddha.
Bên cạnh tháp này có một ngọn tháp nhỏ, là nơi mà năm người trong nhóm ông A-nhã Kiều-trần-như từ bỏ ước định, đứng dậy nghinh tiếp Phật.
When Prince Sarvarthasiddha (known as Yiqieyicheng, “Accomplishment of All Purposes” in Chinese, formerly called Xidaduo in erroneous abbreviation) crossed over the city wall to live in seclusion in the mountains and valleys, forgetting about himself to seek the Dharma, King Suddhodana gave orders to three clanspeople and two relatives, saying, "My son Sarvarthasiddha has left home to pursue his studies and is traveling alone in the mountains and marshlands, sojourning in woods and forests. I order you to follow him so I will know where he is staying. Inwardly you are his paternal and maternal uncles, but outwardly he is your lord and you are his subjects. You should know what to do in whatever circumstances."
Trước đây, khi thái tử Tát-bà-át-lạt-tha-tất-đà[6] vuợt thành ra đi rồi, ẩn mình nơi núi sâu rừng thẳm, quên thân cầu Pháp, vua Tịnh Phạn liền ra lệnh cho ba người trong dòng tộc [Thích-ca] và hai người bên họ ngoại [của thái tử] rằng: “Con ta là Nhất Thiết Nghĩa Thành đã xuất gia tu học, đơn thân vượt núi qua khe, cô độc sống giữa rừng sâu, nay ta lệnh cho các ông đi theo tìm hiểu xem con ta đang ở nơi nào. Về tình thân trong gia tộc thì các ông là chú, bác, cậu... còn về quan hệ bên ngoài thì là đạo quân thần, vua tôi, cho nên hãy tùy theo hoàn cảnh mà quyết định thích hợp [để hỗ trợ thái tử].
Under the king’s order the five men served the prince as his guards, and at the same time they also sought the way of emancipation. They often discussed among themselves whether they should cultivate the way to attain liberation by practicing asceticism or by living in a pleasant manner.
Cả năm người vâng lệnh ra đi, tìm theo để giúp đỡ và bảo vệ thái tử, nhân đó họ cũng chuyên cần tu tập mong được thoát ly [sinh tử], nên thường đặt câu hỏi với nhau rằng: “Đối với người tu học thì khổ hạnh sẽ chứng đắc hay vui thú sẽ chứng đắc?”
Two of them said that one should cultivate the way in comfort,
Có hai người nói: “Vui thú[7] là cách tu đạo.”
while the other three held that one should cultivate the way in an arduous ascetic manner.
Ba người còn lại nói: “Khổ hạnh mới là cách tu đạo.”
They argued about the matter without coming to a clear decision. The prince pondered the ultimate truth and, in order to convince the heretics who led a life of severe hardship, he took only gruel to sustain his life.
Hai người với ba người cùng nhau tranh luận, vẫn còn chưa sáng tỏ. Khi ấy, thái tử suy nghĩ đến cùng chân lý, muốn hàng phục những người ngoại đạo tu khổ hạnh nên ngài tiết chế chỉ ăn một ít mè và gạo vừa đủ sống mà thôi,
Seeing this, the two men said, “What the prince is doing is not the true Dharma. The way is something that should be realized in a comfortable manner. He is not of our group, as he has taken to asceticism.”
Hai người [theo cách tu chấp nhận lạc thú] thấy vậy bảo rằng: “Thái tử làm như vậy không đúng pháp chân thật. Người tu hành phải vui thú mới chứng đạo. Nay thái tử chuyên cần khổ hạnh thì không cùng chí hướng với chúng ta.”
So they deserted the prince and fled far away with the intention of attaining the fruit of sainthood.
Hai người liền từ bỏ thái tử, rời đi nơi xa để tự mình tư duy về việc chứng quả.
After practicing asceticism for six years the prince did not achieve enlight-enment and, wishing to prove that asceticism was not the true method, he accepted milk gruel and attained the fruit of sainthood.
Thái tử qua sáu năm khổ hạnh mà chưa thành đạo Bồ-đề, muốn chứng tỏ [cho mọi người biết] rằng việc tu khổ hạnh là không đúng, nên liền thọ nhận món cháo sữa rồi chứng quả.
Hearing this, the three men said with a sigh, “At the last moment to gain success he has retrogressed. All the effort he put forth in practicing asceticism for six years is abandoned in a single day.”
Ba người [chủ trương cách tu khổ hạnh] thấy vậy than rằng: “Việc [tu hành] sắp thành tựu mà nay thái tử đã thối chí rồi! Sáu năm khổ hạnh, chỉ một ngày mất hết công phu.”
Then they went together to visit the two men [who had left before]. When they saw one another, having seated themselves, they started to talk bombastically, saying, “Formerly we saw that Prince Sarvarthasiddha left the palace and went to the wilds; he took off his precious garments and put on a deerskin, working hard and persevering to seek the deep and wonderfid Dharma wholeheartedly and painstakingly in order to win the supreme fruit of sainthood. But now he has accepted milk gruel offered by some milkmaids and is morally ruined, contrary to his original intention. We know all about this but we could do nothing.”
Họ liền cùng nhau đi tìm hai người trước kia. Khi đã gặp nhau, họ bàn luận với nhau rằng: “Trước đây chúng ta thấy thái tử Nhất Thiết Nghĩa Thành ra khỏi hoàng cung, đến ở nơi hang sâu hoang vắng, vất bỏ y phục quý giá, mặc áo da nai, tinh tấn chuyên cần quyết chí, kiên trì khổ nhọc cầu pháp nhiệm mầu sâu xa, nhất định chứng quả Vô thượng. Nay ông ấy lại nhận bát cháo sữa của cô gái chăn bò, vậy là đường tu đã hỏng, ý chí suy đồi. Chúng ta biết vậy nhưng cũng chẳng thể làm được gì.”
The two men said, “How is it that you see it so late? He is merely a capricious person. When he was living in the palace with honor and dignity he could not keep his mind in peace but went 906c far away to the forests, and he abandoned his position as universal monarch to lead the life of a low and vulgar person. Why should we remember him? The mention of him merely distresses us.”
Hai người [theo cách tu hưởng lạc] nói rằng: “Các ông phải đến bây giờ mới biết sao? Người ấy chỉ là kẻ ngông cuồng thôi. Lúc sống trong cung cấm, được an ổn, cung kính tôn trọng thì không thể tĩnh tâm rèn chí, lại lánh thân ra nơi rừng xa núi vắng, bỏ ngôi Chuyển luân vương để sống như một kẻ hạ tiện, còn nghĩ đến ông ta làm gì? Nói đến chỉ thêm buồn lòng mà thôi.”
After having bathed in the Nairanjana River, the Tathagata sat under the bodhi tree and attained full enlightenment and the title Teacher of Gods and Humans. He sat quietly, meditating on who should be converted by him, thinking, “Udraka Ramaputra, who has achieved the mental state of no thought and no non-thought (naivasamjndsamjndnayatana), is competent to receive the wonderfill Dharma.”
[Khi ấy,] Bồ Tát xuống tắm dưới sông Ni-liên, [rồi đến] ngồi dưới gốc cây Bồ-đề, thành tựu quả vị Đẳng Chánh Giác, thành bậc thầy hai cõi trời người, ngồi lặng yên trong tịch mặc quán chiếu, xem ai là người thích hợp để hóa độ. [Thoạt tiên, Bồ Tát] nghĩ rằng: “Ông Uất-đầu-lam đã chứng được phép định Phi tưởng, hẳn có khả năng tiếp nhận giáo pháp nhiệm mầu này.”
The heavenly beings in the air said in reply, “Udraka Ramaputra passed away seven days ago.”
Chư thiên giữa không trung liền lên tiếng báo rằng: “Ông Uất-đầu-lam qua đời đã bảy ngày rồi.”
The Tathagata regretted that he had not been able to meet that man who had died suddenly and so could not hear the wonderful Dharma.
Đức Như Lai than rằng: “Làm sao còn gặp lại ông ấy! Biết ai là người sẽ được nghe diệu pháp? Vô thường nhanh đến thế sao!”
He again observed the world in search of a suitable man and recollected Aradakalama, who had achieved the mental state of nothingness (dkincanydyatana), to whom he should impart the ultimate truth. The heavenly beings again said, “He has been dead five days.”
Ngài lại quán sát khắp thế giới lần nữa, nghĩ đến ông A-lam-ca-lam đã chứng phép định Vô sở hữu xứ, có thể tiếp nhận được giáo lý. Chư thiên lại báo rằng ông ấy qua đời đã năm ngày rồi.
The Tathagata regretted once more and had pity on that man for not having had the good luck to hear the Dharma.
Như Lai lại than: “Thương thay cho ông, thật là bạc phước.”
He again pondered the matter of to whom he should impart his teachings and found that no others but the five men at Deer Park should be taught first.
Đức Như Lai lại quán sát lần nữa xem ai có thể thọ nhận giáo pháp, [liền thấy] chỉ có năm người đang ở trong rừng Thí Lộc có thể giáo hóa trước nhất.
At that time the Tathagata rose from his seat under the bodhi tree and repaired to Deer Park. His deportment was quiet and calm and he gave off a dazzling divine light. His white eyebrows had the luster of jade and his body was of the color of genuine gold. He proceeded with composure in order to instruct the five men. When they saw the Tathagata coming from a distance, they said among themselves, “The man who is coming is Sarvartha- siddha. Even after such a long time he has not achieved the fruit of sainthood. He must have given up what he expected in his mind and so he has come to look for us. We should remain silent and not stand up to greet or salute him.”
Bấy giờ, đức Như Lai liền từ gốc Bồ-đề đứng dậy, đi đến vườn Lộc Dã,[8] dáng vẻ uy nghi tịch tĩnh, hào quang rực rỡ, mày dài như ngọc, thân sắc vàng ròng, an nhiên tiến bước đến chỗ năm người kia. Khi năm người này từ xa nhìn thấy đức Như Lai liền bảo nhau rằng: “Người đang đi đến kia là Nhất Thiết Nghĩa Thành. Năm tháng qua nhanh mà quả thánh chưa chứng được, tâm đã thối thất nên muốn tìm lại chúng ta. Chúng ta nên phớt lờ, đừng đứng lên chào hỏi theo lễ.”
As the Tathagata approached them his divine influence affected them all, and the five men, forgetting their restraint, saluted him with greetings and waited upon him, according to etiquette.
Khi Như Lai tiến đến gần thì uy thần của ngài lay động tất cả, năm người này không kiềm chế được, tự nhiên cùng đứng lên lễ bái nghinh tiếp, thăm hỏi đức Như Lai, rồi đứng hầu quanh theo đúng nghi lễ.
The Tathagata gradually taught them the ultimate truth and, at the conclusion of the summer retreat during the rainy season, they attained the fruit of sainthood.
Đức Như Lai dần dần dẫn dụ, chỉ bày chân lý nhiệm mầu. Khi qua mùa an cư[9] thì được chứng quả.
Going to the east of Deer Park for two or three li, I came to a stupa, beside which was a dried-up pond more than eighty paces in circumference with the name “Life-saving Pond” or “Hero’s Pond.”
Từ rừng Thí Lộc (vườn Nai) đi về hướng đông khoảng 2-3 dặm (0.7-1 km) thì đến một ngọn tháp, bên cạnh có cái hồ đã khô nước, chu vi hơn 80 bộ (132 m), có tên là hồ Cứu Mạng, cũng gọi là hồ Liệt Sĩ.
I heard the local people say that several hundred years ago there was a hermit living in seclusion in a hut beside the pond. He was learned in arts and crafts and had thoroughly mastered the divine principles, and was able to turn rubble into gems and interchange the forms of humans and animals. But he could not ride on the wind and clouds to accompany the spirits,
Xem trong các ghi chép xưa thấy nói rằng: Cách đây mấy trăm năm có một vị ẩn sĩ, đến bên bờ hồ này dựng lều tranh để ẩn cư. Ông học được rất nhiều tài nghệ, nghiên cứu đến cùng cực lẽ thần kỳ, có thể biến ngói sỏi thành trân bảo, biến hình thành người hay thú vật đều được, chỉ là chưa có khả năng cưỡi mây đạp gió, hầu theo xe tiên.
so he searched into ancient books for the art of becoming a spirit. It was said in the method, “The art of the spirits is the art of longevity. One who wishes to learn it should first of all make up one’s mind. An altar should be built more than ten feet in circumference. Ask a hero of outstanding truthfulness and bravery to hold a long knife and stand at a comer of the altar, holding his breath and keeping silent from dusk to the next morning. One who seeks to be a spirit should sit at the center of the altar while putting his hand on a long knife, repeating an incantation with a concentrated mind, neither seeing nor hearing anything. Before dawn he will become a spirit and the sharp knife will turn into a precious sword. He 907a will then be able to walk in the air to role over the spirits. Wielding his sword as a commander he will obtain whatever he desires and never become old or feeble, or suffer illness or death.”
Từ đó ông tìm xem các đồ hình, khảo cứu cổ thư, quyết tìm cho được cách tu tiên. [Cuối cùng, ông tìm được một] phương pháp dạy rằng: “ Phép làm thần tiên cũng chính là thuật trường sinh bất tử. Muốn cầu học được phép này, trước hết phải lập chí kiên định, sau đó đắp đất xây dựng đàn tràng, chu vi hơn 1 trượng (3.33 m), lệnh cho một người dũng sĩ đáng tin cậy và dũng cảm, hình dung tướng mạo thật sáng sủa thanh lịch, tay cầm thanh trường đao đứng trụ nơi một góc đàn tràng, chú tâm vào hơi thở, tuyệt đối không được mở miệng nói, từ hoàng hôn cho đến sáng hôm sau. Người cầu thành tiên ngồi ở giữa đàn, tay cầm một thanh trường đao, miệng niệm thần chú, mắt không nhìn, tai không nghe, đến khoảng gần sáng thì thành tiên. Khi ấy thanh đao trong tay biến thành bảo kiếm, tự mình bay đi được trên hư không, cai quản các vị thần tiên, cầm bảo kiếm chỉ huy, muốn gì được nấy, không suy, không già, không bịnh, không chết.”
Having acquired the method of becoming a spirit, the hermit began looking for a hero but for a year he could not find a suitable person to his satisfaction.
Vị ẩn sĩ học được phép tu tiên như thế rồi, đi khắp đó đây để tìm kiếm người dũng sĩ [để thực hiện], trải qua suốt một năm vẫn chưa tìm được người nào như ý muốn.
Later, he met a man in the town wailing piteously as he walked along the road. Seeing him, the hermit was pleased with his features and asked him sympathetically why he was so sorrowful.
Sau đó, lúc đang ở trong thành ông nhìn thấy một người vừa đi vừa khóc thảm thiết trên đường. Vị ẩn sĩ vừa nhìn thấy hình tướng người kia thì hết sức vui mừng, liền hỏi thăm an ủi: “Có việc gì mà ông bi thương đến thế?”
The man said, “I am a poor man and I worked as a servant to sustain myself. My employer was appreciative of my ability and had confidence in me. He promised to pay me good wages if I served him for five years. Thus I toiled diligently and ignored hardships. But when the term of five years was nearly concluded I committed a fault, for which not only was I shamefully flogged but I also lost my pay. This is why I feel so sorrowful, and no one shows me sympathy.”
Người kia đáp: “Tôi vì nghèo khổ phải làm thuê tự kiếm sống. Có ông chủ thấy biết được nên hết sức tin dùng, hứa với tôi khi làm được 5 năm sẽ trả công và trọng thưởng. Vì thế nên tôi chuyên cần nhẫn chịu khổ nhọc, quên đi mọi gian nan cay đắng. Nay kỳ hạn 5 năm gần đủ, tôi chỉ một lần phạm lỗi nhỏ mà đã bị đánh đòn, lại không được trả công gì cả. Vì thế nên lòng tôi buồn đau, nhưng nào có ai hiểu được nỗi khổ này?”
The hermit asked the man to come with him to the hut and through magical power he produced delicious food [to entertain him]. After that he invited him to take a bath in the pond and clothed him in new garments. Then he presented him with five hundred gold coins and said to him, “When you have spent all the money come again to get more. Please don’t make a stranger of yourself.”
Vị ẩn sĩ liền bảo người ấy cùng đi với mình về am tranh, dùng phép thuật hóa ra đủ các món ăn ngon thịnh soạn, lại bảo người ấy xuống hồ tắm rửa rồi tặng cho quần áo mới. Sau đó, ông đưa cho người ấy 500 đồng tiền vàng, dặn rằng: “Khi nào dùng hết cứ đến đây lấy nữa, đừng xem ta là người ngoài.”
He presented rich gifts to the man on several occasions, with the unspoken intention of winning his heart. The hero repeatedly offered to render a service to the hermit as repayment for his kindness. The hermit said, “I sought a hero for a year and I am lucky to have met you, as your features answer the description of the ancient books. I shall not trouble you with anything else but I do request that you keep silent for one night.”
Từ đó về sau ngày càng tăng thêm số tiền giúp đỡ, ngấm ngầm mua lòng để cho người kia phải cảm kích. Người ấy nhiều lần xin được sai bảo để báo đáp ân đức. Vị ẩn sĩ liền nói: “Ta đi tìm người dũng sĩ gan dạ mạnh mẽ, trải qua một năm mới may mắn gặp được ông, hình dung tướng mạo ứng hợp với đồ hình [ta nghiên cứu]. Nay chẳng nhờ ông chuyện gì khác, chỉ cần một đêm giữ im lặng không nói mà thôi.”
The hero said, “I am not afraid even of death, to say nothing of keeping silent.” 
Người dũng sĩ nói: “Ví như ngài bảo chết, tôi cũng không từ chối, huống hồ chỉ là một đêm im lặng không nói.”
Then an altar was prepared for the performance of the rite of becoming a spirit. They acted in accordance with the method and sat down to wait for dusk.
Vị ẩn sĩ liền thiết lập đàn tràng, thực hiện phép tu tiên, y theo phương pháp đã học mà làm, chuẩn bị xong thì ngồi chờ cho đến khi mặt trời lặn.
After dusk, each of them did his duty, the hermit repeating the incantation while the hero held the sharp knife. At the approach of dawn [the hero] suddenly shrieked aloud and consequently a fire fell from the air and smoke and flames covered the place like a cloud. The hermit hastily led the man to seek refuge in the pond
Sau khi mặt trời lặn, cả hai người ai vào việc nấy, vị ẩn sĩ ngồi niệm thần chú, người dũng sĩ cầm đao án ngữ [nơi góc đàn], mãi đến lúc gần sáng thì bỗng nhiên kêu lên một tiếng. Ngay lúc ấy, lập tức trên không trung có lửa bốc cháy rồi hạ dần xuống, khói lửa mù mịt khắp nơi. Vị ẩn sĩ vội vàng dẫn người kia nhảy xuống hồ tránh nạn lửa.
and asked him, “I told you to keep silent, so why did you make such a shrill noise?”
Khi mọi việc đã qua, liền hỏi người ấy: “Ta đã dặn ông im lặng không được nói gì, vì sao có tiếng kêu kinh hãi thế?”
The hero said, “After receiving your instructions I had a nightmare at midnight, in which many strange things appeared. I saw my former employer coming to make a personal apology to me and, out of my deep gratitude to you I refrained from speaking to him. Enraged, that man killed me and I then existed in the state of intermediate existence between death and reincarnation (antarabhava). I looked back at my own corpse with a sigh of regret and, by way of repaying your deep kindness, I decided not to speak a word in my future life. Then I saw I was reborn to a great brahman family in South India and I never uttered a sound in the course of conception and birth and other painful experiences, always bearing in mind the benefit and kindness you extended to me. When I reached the age of schooling, became an adult, got married, lost my parents, and begat a son, I always remembered your kindness and refrained from speaking. All my clanspeople and relatives wondered about me. When I was over sixty-five years old my wife said to me, ‘You must speak now, otherwise I will kill your son! ’ Considering that I was getting old in my second life and had only one child, I stopped my wife from killing him, and thus I uttered that sound.”
Người dũng sĩ đáp: “Sau khi tôi vâng lời ngài [đứng đó], đến quá nửa đêm thì bỗng thấy mê man, mơ màng như trong mộng, bắt đầu thấy chung quanh thay đổi. Trước tiên tôi nhìn thấy ông chủ trước đây đến an ủi, xin lỗi tôi. Vì cảm tạ ân đức sâu nặng của ngài, tôi nín lặng không đáp lời, ông ta liền nổi giận giết chết tôi. Khi tôi thọ thân trung ấm, nhìn lại xác chết của mình mà than tiếc [chưa báo được ơn ngài], nên nguyện qua đời sau sẽ im lặng không nói, để báo đền ân đức của ngài. Liền đó tôi thấy mình thác sinh về vùng Nam Ấn, trong gia đình của một vị đại bà-la-môn, trải qua các giai đoạn từ lúc thụ thai, sinh ra, gặp nhiều khổ nạn, vẫn luôn nhớ nghĩ đến ân đức của ngài nên thường im lặng không nói. Đến khi tôi lớn lên, học hành, chịu lễ đội mũ,[10] rồi cưới vợ, cho đến khi chịu tang cha mẹ, rồi sinh con, lúc nào tôi cũng nhớ nghĩ công ơn của ngài, nên im lặng không nói, họ hàng thân thích đều cho là chuyện quái dị. Đến khi tôi đã 65 tuổi, vợ tôi nói rằng: “Ông hãy nói đi. Nếu ông không nói, tôi sẽ giết con ông.” Lúc đó tôi suy nghĩ, đã cách qua một đời rồi, tự thấy mình đã già suy, chỉ duy nhất có một đứa con này thôi, liền hét lên bảo vợ dừng lại, không được giết con. Do vậy mà có tiếng kêu đó.”
The hermit said, “It is my fault; it is a mischief caused by a demon.”
Vị ẩn sĩ nói: “Đây là lỗi của ta. Ông đã bị ma quấy nhiễu.”
With a feeling of gratitude and regretful for the failure of the event, the hero died of chagrin.
Người dũng sĩ cảm ơn [giúp đỡ], buồn vì sự việc không thành, ôm lòng uất ức mà chết.
Because the pond prevented the calamity of a conflagration it is called Life-saving Pond and, as the hero died there, it is also called Hero’s Pond.
[Hồ này cứu hai người] khỏi nạn lửa cháy, nên gọi là hồ Cứu Mạng. Người dũng sĩ vì chịu ơn [không báo đáp được] mà chết nên gọi là hồ Liệt Sĩ.[11]
To the west of Hero’s Pond is a stupa built in memory of three animals at the spot where the Tathagata, in the course of practicing the deeds of a bodhisattva, burned himself.
Phía tây hồ Liệt Sĩ có ngọn tháp ba con thú, là nơi đức Như Lai thuở còn tu hạnh Bồ Tát đã thiêu thân mình.
At the beginning of the present kalpa there were three animals, a fox, a hare, and an ape, who lived harmoniously together in this wild forest. At that time Indra wished to test the one who was cultivating the bodhisattva deeds and transformed himself into an old man. He said to the three animals, “Are the three of you living in peace and without fear?”
Vào thời kiếp sơ, trong rừng này có một con cáo, một con thỏ và một con khỉ, tuy khác loài nhưng vui sống hòa hợp. Lúc bấy giờ, Thiên Đế Thích muốn thử lòng người tu hạnh Bồ Tát, xuống trần hoá hiện thành một cụ già, đến nói với ba con thú đó rằng: “Các ngươi có được yên ổn không? Có chuyện gì phải lo lắng kinh sợ không?”
The animals said, “We tread on rich grass and frolic in the luxuriant wood. Although we are of different species we enjoy ourselves in both safety and happiness.”
[Ba con thú] đáp rằng: “Chúng tôi cùng lội trong cỏ tốt, chơi đùa trong rừng sâu, tuy khác loài nhưng cùng vui, rất an lạc.”
The old man said, “I have heard that the three of you are good friends and on intimate terms, so I have come from afar to look for you despite my old age and fatigue. Now I am hungry; what can you give me to eat?”
Cụ già nói: “Ta nghe nói các ngươi sống với nhau có tình thân sâu đậm, nên quên cả [sự mệt nhọc của] tuổi già, từ xa xôi tìm đến đây tìm xem cho biết. Bây giờ ta đói quá, các ngươi có gì cho ta ăn không?”
The animals said, “Please wait a moment. We shall go get something for you.”
Ba con thú cùng nói: “Xin ông ở đây đợi một chút, chúng tôi sẽ đích thân đi tìm thức ăn.”
So each modestly went away on different paths with the same purpose of seeking for some edibles. The fox caught a carp by the riverside, while the ape plucked some strange flowers and fruit in the wood. They came back together to offer their findings to the old man, but the hare returned empty- handed, frisking about the old man.
The old man said, “As far as I can see you are not living in harmony. The ape and fox had the same purpose and worked with one mind, but the hare came back empty-handed and has nothing to give me. From this I can understand the situation.”
Nói rồi cùng đồng lòng chia nhau đi các hướng để tìm thức ăn. Cáo chạy ra ven bờ nơi bến nước, bắt được một con cá chép. Khỉ vào rừng cây để hái nhiều hoa quả lạ. Sau đó cả hai cùng trở lại dâng cho cụ già. Chỉ có thỏ trở về không có gì, còn nhảy nhót loanh quanh. Cụ già liền nói: “Theo ta thấy thì các ngươi chưa thật hòa hợp. Khỉ và cáo cùng chí hướng, cả hai đều làm được việc. Riêng thỏ về không, chẳng có gì cho ta ăn. Cứ theo như việc này mà xét thì biết [các ngươi chưa thật hòa hợp].”
Having heard this derisive remark, the hare said to the fox and ape, “Gather a large amount of firewood; I am going to do something.”
Thỏ nghe lời chê trách rồi, liền bảo cáo và khỉ: “Xin hai bạn giúp tôi mang đến đây nhiều củi khô, tôi có việc cần dùng.”
The fox and ape went speedily to gather hay and haul wood, and when they had piled up a huge heap of fuel it was ignited into raging flames. The hare said,
Cáo và khỉ vội đi ngay, ôm cỏ kéo củi về chất thành một đống lớn, lửa [vừa nhen đã] bốc lên ngày càng lớn. [Khi ấy,] thỏ nói với cụ già:
“Kind sir, I am a lower creature and could not get what I wished for. I venture to offer my humble body to be served as a meal to you.”
- Thưa ông, thân tôi nhỏ bé, thật khó tìm được thức ăn như ông cần, nay xin lấy thân mình làm một bữa ăn cho ông vậy.
Having said this, the hare jumped into the fire and died in the flames.
At that time the old man resumed his form as Indra and collected the ashes of the hare from among the embers with a long sigh of regret. Then he said to the fox and ape, “Since the event has turned out as it has, I am deeply moved by the hare’s good-heartedness and I shall perpetuate its good deed by sending it to the moon to be known to posterity.”
Nói xong liền nhảy vào, chết ngay trong ngọn lửa. Lúc bấy giờ, cụ già hiện lại nguyên hình Thiên Đế Thích, gạt tro than thu nhặt hài cốt thỏ, thương tiếc hồi lâu rồi nói với cáo và khỉ: “Ai ngờ sự thể lại ra thế này! Ta thật hết sức cảm động tấm lòng [của thỏ], không thể để cho sự việc này bị quên lãng đi, nên sẽ gửi [thân xác thỏ] lên mặt trăng kia, để truyền lại cho đời sau được biết.”
Therefore the local people say that since then a hare has appeared in the moon. People of later times built a stupa at this place.
Do vậy ai ai cũng cho rằng trên mặt trăng có hình bóng thỏ là bắt đầu từ khi ấy. Người đời sau liền xây tháp ở chỗ thỏ thiêu thân.
From here going east along the Ganges for more than three hundred li, I reached the country of Garjanapati (in the domain of Central India).
Từ nơi đây xuôi theo dòng chảy của sông Căng-già về hướng đông, đi hơn 300 dặm (97 km) thì đến nước Chiến Chủ, thuộc miền Trung Ấn.

2. Nước Chiến Chủ
Garjanapati is more than two thousand li in circuit and its capital city, which borders the Ganges River, is more than ten li in circuit. The inhabitants are rich and happy and the towns and villages are close to one another. The soil is fertile and farming is done in accordance with the seasons. The climate is temperate and the people are simple and honest by social custom and rustic and intrepid by nature. They believe in both the wrong and the right religions.
Nước Chiến Chủ[12] chu vi hơn 2.000 dặm (646 km). Kinh thành giáp với sông Căng-già, chu vi hơn 10 dặm (3.23 km). Dân cư giàu có an vui, xóm làng kề cận sát bên nhau, đất đai màu mỡ, gieo trồng theo thời vụ. Khí hậu ôn hòa dễ chịu, phong tục thuần phác chân chất, tánh người thô bạo cứng cỏi, niềm tin thì chánh tà lẫn lộn.
There are over ten monasteries with less than one thousand monks, all of whom follow 907c the Hinayana teachings. Deva temples amount to twenty and followers of the different faiths live together.
Trong nước có hơn 10 ngôi chùa, tăng sĩ chưa đến ngàn người, đều tu tập theo giáo pháp Tiểu thừa. Có 20 ngôi đền thờ Phạm thiên, ngoại đạo các phái chung sống hỗn tạp.
In a monastery to the northwest of the great city there is a stupa built by King Asoka.
Phía tây bắc kinh thành, trong khuôn viên chùa có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng.
It is said in the Record oj India that one liter of the Tathagata’s relic bones is preserved in this stupa. In olden times the Tathagata preached the wonderful Dharma to an assembly of devas and humans for seven days at this place.
Sách Ấn Độ Ký chép rằng: “Trong tháp này có một đấu xá-lợi Phật.” Thuở xưa, đức Như Lai từng ở nơi đây vì đại chúng trời người mà giảng thuyết hiển bày diệu pháp trong thời gian 7 ngày.
Beside it are sites where the three past buddhas sat and walked up and down. In the vicinity of these sites is a statue of Maitreya Bodhisattva. Although small in size its divine power is manifest. It has latent spirituality and works miracles from time to time.
Bên cạnh đó có di tích nơi ba vị Phật trong quá khứ ngồi thiền và kinh hành. Gần đó lại có tôn tượng của đức Bồ Tát Từ Thị. Tượng tuy nhỏ nhưng rất uy nghi và có thần sắc, từng có nhiều sự linh ứng, nhiều việc dị thường thỉnh thoảng vẫn xảy ra.
Going eastward from the great city for more than two hundred li, I reached Aviddhakarna (known as Buchuaner, “Unpierced Ears,” in Chinese) Monastery. The surrounding wall is not extensive but the decorative sculptures are very exquisite. The flowers are reflected in the ponds and the terraces and the ridges of the pavilions are close to one another. The monks are quiet and solemn in deportment and the community lives in an orderly manner.
Từ kinh thành đi về hướng đông hơn 200 dặm (64.6 km) thì đến chùa A-tị-đà-yết-lạt-nã,[13] có tường bao quanh không rộng lắm nhưng trên tường điêu khắc hết sức công phu. Mặt hồ soi bóng hoa lá, lầu gác liền mái nhau. Tăng đồ nghiêm túc, oai nghi hòa hợp.
I heard some elderly people say that formerly in the country of Tukhara, to the north of the Himalayas, there were two or three sramanas who took delight in learning and often talked together at leisure times after having done religious service and recitation, saying, “The wonderfill principles and abstruse theories cannot be thoroughly mastered through empty words, but the holy sites are obvious and discernible and can be visited by making the journey on foot. We should inquire of some close friends about the matter and go visit the holy sites in person.”
Đọc trong các ghi chép xưa thấy nói rằng: “Thuở xưa, ở phía bắc Tuyết sơn, trong nước Đổ-hóa-la có các vị sa-môn rất hiếu học. Một nhóm các vị này cùng chí hướng, sau những thời lễ bái tụng niệm, lúc nhàn rỗi thường bảo nhau: “Diệu lý thâm sâu huyền diệu, không thể dùng ngôn từ đàm luận mà thấu suốt tận cùng, nhưng thánh tích thì rõ ràng sáng tỏ, có thể đi đến tận nơi thăm viếng được. Chúng ta nên tìm người đồng chí, cùng nhau đi đến tận nơi lễ bái thánh tích.”
So the two or three friends, holding their pewter staffs in hand, started the journey together. When they arrived in India they sought out lodgings in a monastery, but the local monks despised them as frontiersmen and refused to give them accommodation. As they had to stay out in the open air, tired and hungry, they became thin and pallid and looked haggard.
Sau đó, một nhóm bạn thân thiết với nhau cùng cất bước lên đường. Khi đến Ấn Độ rồi, liền xin ngụ trong chùa, [nhưng tăng chúng ở đó] khinh chê họ là người ở biên địa xa xôi thấp kém nên không cho ở lại trong chùa. Phần thì bên ngoài gió bụi đường xa, phần thì trong bụng đói khát mệt mỏi, nên người nào cũng lộ vẻ tiều tụy, hình dung khô kiệt.
At that time the king of that country, on a pleasure trip in the suburbs, saw the visiting monks. He asked them with amazement, “Mendicants, from where and why did you come here? Your ears are not pierced and you are dressed in such dirty and shabby robes.”
Lúc bấy giờ, vua nước này ra ngoài thành dạo chơi, thấy các vị khách tăng này thì kinh ngạc hỏi rằng: “Các vị là du tăng khất sĩ ở phương nào? Nguyên nhân gì tìm đến đây? [Ta xem các vị] tai không xỏ lỗ, y phục rách rưới dơ bẩn, [hẳn là người từ xa đến?]
The sramanas said in reply, “We are from the country of Tukhara. We respectfully follow the teachings of the Buddha and left the world [to live as monks]. By our common wish we have come to pay homage to the holy sites. But it is regrettable to say that, due to our deficiency in blessedness, the Indian monks do not attend to us wayfarers. As we have not completed our pilgrimage we wish to return to our native land, so we will endure hardships and go home after our desire is fulfilled.”
Các vị sa-môn đáp rằng: “Chúng tôi là người nước Đổ-hóa-la, vâng theo di giáo [của đức Thế Tôn], xem nhẹ trần tục theo đường xuất thế, nay cùng nhau đi chiêm lễ thánh tích. Hiềm vì bạc phước nên dân chúng nơi đây đều xô đuổi, còn chư tăng thì không ngó ngàng gì đến khách tăng lỡ bước đường xa. Chúng tôi cũng định quay về nước, nhưng việc chiêm bái thánh tích vẫn chưa hoàn tất. Cho nên dù khổ sở đói khát thế nào, chúng tôi cũng nhất định phải cố gắng hoàn thành tâm nguyện rồi mới quay về.”
Upon hearing these words the king felt pity for the travelers and consfructed a monastery at this superior place. He wrote down a rule on a piece of white cotton that said, “It is due to the spiritual protection of the Triple Gem that I am the most honored person in the world and the noblest in rank among all people. Since I am a king of people and the Buddha has entrusted me [to take care of the religion], I shall extend help to all monks in distress. This monastery has been constructed exclusively for the entertainment of traveling monks, and no monks with pierced ears shall stay in this monastery of mine in the future.” It is on account of this event that the monastery is called “Unpierced Ears.”
Vua nghe xong, trong lòng hết sức cảm động buồn thương, lập tức ra lệnh xây dựng một ngôi chùa ở vùng đất lành này, lại dùng lụa trắng ngự ban chiếu chỉ rằng: “Trẫm nay được làm bậc tôn quý trong nhân gian, đều nhờ vào sự gia hộ thiêng liêng của Tam bảo. Đã là bậc nhân vương, nhận lời di ngôn giao phó của đức Thế Tôn, thì bất cứ ai đắp y hoại sắc [của tăng đoàn] trẫm đều phải cúng dường chu cấp. Nay xây dựng chùa này để làm nơi trú ngụ dành riêng cho các khách tăng đi đường. Từ nay về sau, chư tăng xỏ lỗ tai đều không được ở trong chùa này.”[14] Vì thế mới có tên chùa là Bất Xuyên Nhĩ.
908a Going southeast for more than one hundred li from Aviddhakarna Monastery, crossing the Ganges River to the south, I reached the town of Mahasala. All the inhabitants are brahmans by caste and they do not follow the buddha-dharma. When they meet Buddhist monks they inquire about their learning, and if they find that the monks are learned they salute them with deep respect.
Từ chùa Bất Xuyên Nhĩ đi về hướng đông nam hơn 100 dặm (32.3 km), quay về hướng nam qua sông Căng-già thì đến làng Ma-ha-sa-la (Mahasala). Dân làng đều là người thuộc giai cấp bà-la-môn, không theo pháp Phật, nhưng khi gặp các vị sa-môn thì trước hết hỏi qua về học thức, nếu là người kiến thức sâu rộng liền hết sức kính lễ.
At the north of the Ganges there is a Narayana temple consisting of storied pavilions and terraces arranged in tiers, all beautifully decorated. The statues of various devas are carved from stone with the most exquisite craftsmanship. Their spiritual efficacy is difficult for me to describe in detail.
Phía bắc sông Căng-già có một đền thờ thần Na-la-diên,[15] lầu gác nhiều tầng, trang sức vô cùng rực rỡ, lộng lẫy. Các tượng chư thiên đều dùng đá tạc thành, đường nét cực kỳ khéo léo tinh xảo, sự linh ứng khó có thể nói hết.
More than thirty li to the east of the Narayana temple is a stupa built by King Asoka. A large part of it has collapsed into the ground and in front there is a stone pillar more than twenty feet high with the figure of a lion on top. Inscribed on the pillar is a record of the event of subduing demons.
Từ đền thờ Na-la-diên đi về phía đông hơn 30 dặm (9.7 km) có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, đến quá nửa tháp đã lún sâu vùi trong đất. Phía trước có dựng trụ đá cao hơn 6.66 m), bên trên có tượng sư tử, thân trụ có khắc chữ, ghi lại câu chuyện hàng phục quỷ.
Formerly there were some demons of the wilderness at this place who, relying on their strength, ate human flesh and blood, doing harm to living creatures in a most evil and monstrous manner. Out of compassion for the living beings who would die violent deaths, the Tathagata, through his supernatural powers, induced the demons to take refuge [in the Triple Gem] with veneration and taught them to observe the precept of non-killing. The demons accepted the Buddha’s teachings and circumambulated him with respect. Then they raised a rock for the Buddha to sit on and wished to hear [him teach] the right Dharma, which they protected wholeheartedly. Afterward, people who did not believe in the buddha-dharma tried to push and remove the rock seat set up by the demons but they could not move it, even though they numbered in the thousands. Around the base of the rock there are luxuriant trees and ponds of clear water and anyone who comes near the place is awestruck.
Thuở xưa, nơi đây có những con quỷ khoáng dã,[16] cậy uy lực mạnh mẽ ăn thịt uống máu người, sát hại rất nhiều sinh linh, tác oai tác quái không kiêng sợ gì. Đức Như Lai thương chúng sinh [bị quỷ hại] chết bất cứ lúc nào, nên dùng sức thần thông để giảng dụ hóa độ bọn quỷ, dẫn dắt chúng biết kính lễ quy y và cho thọ giới không giết hại. Những con quỷ vâng lời Phật dạy, cung kính giữ theo trọn vẹn. Nhân đó chúng khiêng đến một tảng đá để thỉnh Phật ngồi lên, xin được nghe Chánh Pháp, ghi nhớ giữ gìn. Từ đó về sau, những kẻ không tin [Phật pháp] tranh nhau muốn dời tảng đá mà quỷ đã mang đến làm tòa ngồi [thỉnh Phật]. Họ dùng sức đến cả ngàn người mà không thể lay chuyển. Chung quanh nơi này có cây rừng bao phủ với hồ nước trong, ai đã đến đây đều sinh tâm kính sợ.
Not far from [the stupa of] subduing demons there are several monasteries. Although they are mostly dilapidated there are still monks [living in them], all of whom study and follow the Mahayana teachings.
Không xa nơi hàng phục quỷ có mấy ngôi chùa, tuy đã hư hoại nhiều nhưng vẫn còn có tăng chúng. Tất cả đều tu tập theo giáo pháp Đại thừa.
Going from here to the southeast for over one hundred li, I came to a stupa of which the base has slanted and sunk to one side; the remaining part of it is a few scores of feet in height.
Từ nơi đây đi về hướng đông nam hơn 100 dặm (32.3 km) thì đến một ngọn tháp, nền móng đã nghiêng lún, chỉ còn cao chừng mấy trượng.
When the Tathagata entered nirvana and the great kings of eight countries divided his relics, the brahman who measured the relics smeared the inside of the measuring bottle with honey, from which he made allotments for the kings. The brahman returned with the bottle and, having obtained the relics that stuck to the inside of the measuring bottle, he built this stupa and enshrined the bottle in it. Hence it is called [Relic Bottle Stupa]. Afterward King Asoka opened the stupa and took out the relic bottle, for which he constructed a great stupa. On fast days it often emits a brilliant light.
Thuở xưa, sau khi đức Như Lai diệt độ, vua của tám nước cùng phân chia xá-lợi Phật, vị bà-la-môn giữ việc đong lường xá-lợi đã bôi mật vào bên trong bình trước khi lường xá-lợi phân chia cho các vua. Sau đó ông mang bình về, có được phần xá-lợi dính bên trong bình, liền xây tháp này, đặt luôn cả chiếc bình vào trong [để thờ phụng cúng dường], cho nên tháp này có tên là tháp Xá-lợi Bình. Về sau, vua Vô Ưu cho mở tháp lấy xá-lợi bình rồi xây dựng lại thành một ngọn tháp lớn. Vào những ngày trai vẫn thường có hào quang tỏa chiếu.
Crossing the Ganges at the northeast of this place and going for one hundred forty or fifty li, I reached the country of Vaisali (formerly mistranscribed as Pisheli, in the domain of Central India).
Từ nơi đây theo hướng đông bắc, qua sông Căng-già, đi khoảng 140-150 dặm (45-48.5) km thì đến nước Phệ-xá-ly, thuộc miền Trung Ấn.

3. Nước Phệ-xá-ly
The country of Vaisali is more than five thousand li in circuit. The soil is fertile and there is an abundance of flowers and fruit; mango and plantain are plentiful and valuable. The climate is temperate and the people are simple and honest by social custom. They take delight in doing good works and attach importance to learning, and believe in both heterodox and orthodox doctrines.
Nước Phệ-xá-ly[17] chu vi hơn 5.000 dặm (1.615 km), đất đai màu mỡ, hoa quả xanh tốt. Các loại quả am-một-la, quả mậu-già ở đây vừa nhiều vừa có giá trị cao. Khí hậu ôn hòa dễ chịu, phong tục thuần phác chân chất. Người dân thích làm việc phước thiện, xem trọng sự học tập, niềm tin thì hỗn tạp cả tà lẫn chánh.
There are several hundred monasteries, most of which are in ruins, with the exception of a few that remain intact and house a few monks. There are several tens of deva temples and the heretics live together. The sect of the naked adherents flourishes here.
Trong nước có đến mấy trăm ngôi chùa, đa phần đã hư hoại, chỉ còn lại năm ba nơi, tăng sĩ rất ít. Đền thờ Phạm thiên có mấy mươi chỗ, ngoại đạo các phái chung sống hỗn tạp. Tín đồ phái lõa thể tụ tập rất đông.
The city wall of the capital of Vaisalt has badly collapsed and the original base of the wall is sixty or seventy li in circuit, while the palace city is four or five li in circuit; there are few inhabitants.
Thành Phệ-xá-ly đã nghiêng đổ nặng nề. Dấu tích nền móng thành cũ có chu vi khoảng 60-70 dặm (19.4-22.6 km). Cung thành chu vi khoảng 4-5 dặm (1.3-1.6 km), dân cư rất ít.
Five or six li to the northwest of the palace city is a monastery with very few monks, who study the teachings of the Hinayana Sammitiya school. Beside the monastery is a stupa at the place where the Tathagata delivered the Vimalakirtinirdesa-sutra, and Ratnakara, the son of an elder, and others offered a sunshade to him.
Phía tây bắc cung thành, cách khoảng 5-6 dặm (1.6-2 km) có một ngôi chùa, tăng sĩ rất ít, tu tập theo giáo pháp của phái Chánh lượng thuộc Tiểu thừa. Bên cạnh đó có một ngọn tháp, là nơi ngày xưa nhóm [500 chàng trai con nhà trưởng giả] cùng với chàng Bảo Tích đã dâng lọng báu cúng dường đức Phật, được nói đến trong kinh Tỳ-ma-la-cật.[18]
To the east is a stupa at the place where Sariputra and others attained arhatship.
Về phía đông tháp này có một ngọn tháp khác, là nơi ngài Xá-lợi tử và các vị đồng tu chứng quả Vô học.[19]
To the southeast of the stupa where Sariputra attained arhatship is another stupa constructed by the king of Vaisali.
Từ nơi ngài Xá-lợi tử chứng quả nhìn sang phía đông nam có một ngọn tháp khác do vua Phệ-xá-ly xây dựng.
After the Buddha’s nirvana a former king of this country obtained a portion of the Buddha’s relic bones, for which he respectfully constructed this stupa. It is said in the Record of India that there was originally one hu of the Tathagata’s relics preserved in this stupa, but King Asoka opened it and took out nine don of the relics, leaving only one don in the stupa. Later, another king wished to open the stupa again to get the remaining relics but just as he had just started to do the work there was an earthquake, so he dared not open the stupa.
Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, tiên vương của nước này cũng được chia phần xá-lợi, nên theo đúng cách thức xây tháp thờ phụng cúng dường. Sách Ấn Độ Ký chép rằng: “Trước đây trong tháp này có một hộc[20] xá-lợi Như Lai, vua Vô Ưu mở tháp ra lấy đi chín đấu [xây tháp thờ nơi khác], chỉ để lại một đấu.” Về sau có vị vua cũng muốn mở tháp ra để lấy xá-lợi, vừa chuẩn bị khởi công thì mặt đất chấn động, nên không dám mở tháp nữa.
To the northwest is another stupa built by King Asoka, and beside it is a stone pillar fifty or sixty feet tall with the figure of a lion on top.
Phía tây bắc nơi này lại có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, bên cạnh có dựng trụ đá cao khoảng 50-60 thước (16.6-20 m), phía trên có tượng sư tử.
To the south of the stone pillar is a tank that was dug by a group of monkeys for the Buddha, as he once lived at this place in the old days.
Phía nam trụ đá có một hồ nước, do một bầy khỉ vì Phật mà đào đất thành hồ. Thuở xưa đức Như Lai đã từng lưu lại nơi đây.
Not far to the west of the tank is a stupa at the place where the monkeys took the Tathagata’s almsbowl and climbed into a tree to gather honey.
Not far to the south of the tank is a stupa at the place where the monkeys offered the honey to the Buddha. Some figures of monkeys are still preserved at the northwest comer of the tank.
Cách hồ này không xa về phía tây lại có một ngọn tháp, là nơi bầy khỉ mang bình bát của Như Lai leo lên cây để lấy mật. Cách hồ về phía nam không xa lại có một ngọn tháp, là nơi bầy khỉ dâng mật cúng dường Phật. Ở góc tây bắc của hồ này vẫn còn thấy tượng những con khỉ.
Three or four li to the northeast of the monastery is a stupa built on the foundation of the old residence of Vimalakirti (known as “Stainless Reputation” in Chinese, formerly translated as “Pure Name.” However, “pure” means “stainless” and “name” is equivalent to “reputation.” Although the meaning is the same the name is translated in different ways. Formerly it was wrongly transcribed as Weimojie). The stupa often reveals spiritual manifestations.
Từ ngôi chùa nơi đây đi về phía đông bắc 3 dặm (1 km) có một ngọn tháp, là nơi nền nhà cũ của ông Tỳ-ma-la-cật,[21] có rất nhiều điều linh ứng, nhiều điềm linh dị.
Not far from here is a deity’s house, which appears to be built out of piled-up bricks, but according to tradition it was made out of stone. 
This was the place where Vimalakirti pretended to be ill and preached the Dharma.
Cách chỗ này không xa có một đền thần, nhìn có vẻ như xây bằng gạch nung, nhưng theo tương truyền thì chỗ này xây bằng đá, chính là nơi xưa kia truởng giả Tỳ-ma-la-cật thị hiện có bệnh để [nhân đó] thuyết pháp.
Not far from here is a stupa built at the place of the old house of Ratnakara, the son of an elder. Not far from here is a stupa built at the place of the old house of the woman Amra[pali]. The Buddha’s aunt and other bhiksunis realized nirvana at this place.
Cách đó không xa có một ngọn tháp, là nền nhà cũ của chàng Bảo Tích con nhà trưởng giả. Lại cách nơi này không xa có một ngọn tháp, là nền nhà cũ của cô Am-một-la.[22] Bà di mẫu của Phật cùng chư vị tỳ-kheo ni đã nhập Niết-bàn tại đây.
Three or four li to the north of the monastery is a stupa at the place where human and nonhuman beings stood and waited while following the Tathagata, who was proceeding to the country of Kusinagara to enter parinirvana.
Từ ngôi chùa nơi đây đi về phía bắc khoảng 3-4 dặm (1-1.3 km) có một ngọn tháp. Khi đức Như Lai chuẩn bị đi về nước Câu-thi-na để nhập Niết-bàn, đại chúng và cả loài phi nhân cùng đi theo Thế Tôn, đến chỗ này thì dừng nghỉ.
Next, not far to the northwest, is another stupa at the place where the Buddha stopped and took a last look at the city of Vaisaly.
Kế tiếp về phía tây bắc không xa có một ngọn tháp, là nơi đức Phật nhìn về thành Phệ-xá-ly lần cuối cùng.
Not far to the south of this stupa is a temple, in front of which is a stupa at the place where Amra[pali] offered her garden to the Buddha.
Cách đó không xa về phía nam có một tinh xá, phía trước có xây dựng một ngọn tháp, là nơi khu vuờn am-một-la mà cô Am-một-la xin cúng dường lên Phật.
Beside Amra[pali] Garden is a stupa at the place where the Tathagata announced the time of his nirvana.
Kế bên vuờn am-một-la có một ngọn tháp, là nơi Như Lai tuyên bố việc ngài sẽ nhập Niết-bàn.
Formerly the Buddha told Ananda at this place, “One who has achieved the four constituent parts of supernatural power can live for one kalpa. Now how long should the Tathagata live?”
Thuở xưa, ở tại nơi này, đức Phật bảo ngài A-nan: “Người nào chứng được tứ thần túc có thể duy trì tuổi thọ đến một kiếp. Bây giờ Như Lai nên thọ bao nhiêu tuổi?”
He repeated the question three times but Ananda, having been stupefied by Mara, remained silent and, rising from his seat, he went to sit quietly in the wood. At this moment Mara came to the Buddha and said to him, “The Tathagata has been edifying the people in the world for a long time and those who have been saved by you from the round of rebirth are as numerous as grains of dust and sand. It is now the time for you to enjoy the bliss of nirvana.”
Đức Phật hỏi đến ba lần nhưng ngài A-nan không đáp lại, vì bị thiên ma mê hoặc. Cho nên Ngài A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào trong rừng trầm ngâm. Lúc bấy giờ ma lại thỉnh Phật rằng: “Như Lai ở đời giáo hóa xong rồi. Số người được tế độ nhiều như bụi trần. Bây giờ đã đến lúc hưởng niềm vui tịch diệt.”
The World- honored One then took up a pinch of soil with his nail and said to Mara, “Which is more, the amount of soil on the earth, or that on my fingernail?”
Đức Thế Tôn lấy một chút đất để trong móng tay, hỏi ma rằng: “Đất ở bên ngoài nhiều hơn hay đất trong móng tay ta nhiều hơn?”
Mara said in reply, “There is more soil on the earth.”
Ma đáp rằng: “Đất bên ngoài nhiều hơn.”
The Buddha said, “Those I have converted may be compared to the amount of soil on my nail, while those not yet converted are as numerous as the amount of soil of the great earth. Nonetheless, I shall enter nirvana in three months.”
Đức Phật bảo: “Số người ta đã hóa độ chỉ như chút đất trong móng tay này, số người chưa được hóa độ thì nhiều như đất khắp mặt đất. Sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết-bàn.”
On hearing this, Mara was pleased and departed.
In the wood Ananda had a strange dream and he came to tell the Buddha, saying, “In the wood I dreamed that a big free with luxuriant branches and leaves, casting a dense shade, suddenly fell down in a gale. Does this indicate that the World-honored One intends to enter nirvana? My heart is full of fear so I have come to make this inquiry.”
Ma nghe như vậy rất hoan hỷ lui về. Ngài A-nan ở trong rừng bỗng có một giấc mộng kỳ lạ, liền đến bạch Phật: “Con ở trong rừng nằm mộng thấy một cây đại thọ cành lá sum suê, bóng mát che phủ, bỗng nhiên cuồng phong nổi dậy, tan tác gãy nát không còn gì cả. Lẽ nào đây không phải điềm báo Thế Tôn sắp nhập diệt hay sao? Tâm con hoài nghi lo sợ nên đến đây thưa thỉnh.”
The Buddha said to Ananda, “I told you previously but you were stupefied by Mara and you did not promptly invite me to stay [in the world]. Mara urged me to enter nirvana soon and I have given him the date. That is what your dream presaged.”
Đức Phật bảo A-nan: “Ta đã nói với ông trước rồi, ông vì ma che ám nên lúc đó không thưa thỉnh ta lưu lại cõi đời. Giờ đây ma vương đã đến xin ta sớm nhập Niết-bàn, ta đã báo trước hạn kỳ [sẽ nhập Niết-bàn]. Điềm mộng ấy là như vậy.”
Not far from the place where the Buddha announced the time of his entering nirvana is a stupa at the spot where one thousand sons saw their parents.
Không xa nơi đức Phật thông báo việc nhập Niết-bàn có một ngọn tháp, là nơi một ngàn người con gặp được cha mẹ.
Formerly a rsi lived in seclusion in a rocky valley. One day in mid-spring he was rowing a boat in a clear stream, and a doe followed him to drink water. Through inspiration the doe gave birth to a girl, who was exceedingly beautiful but had feet similar to the hooves of a deer. Seeing the girl, the rsi took her in and brought her up.
Thuở xưa có một vị tiên nhân ẩn cư trong động trên núi cao. Vào tháng giữa mùa xuân, ông xuống tắm dưới dòng nước trong, có một con nai cái uống nước cùng dòng, liền thụ thai rồi sinh ra một đứa con gái, hình dung xinh đẹp hơn người, chỉ có hai bàn chân là giống chân nai. Vị tiên thấy vậy mang về nuôi.
Later, when she was asked to go get some live coals from another rsi’s hermitage, her steps left traces of lotus flowers on the ground. The other rsi was deeply surprised by the sight and asked the girl to walk around his hermitage before she would be allowed to get the fire. The deer girl did so, then obtained the fire and returned home.
Một hôm, vị tiên sai cô gái nai đi xin lửa ở nơi lều tranh của một vị tiên khác. Đến nơi rồi, dưới mỗi bước cô đi bỗng lún xuống thành hình hoa sen. Vị tiên kia thấy vậy lấy làm kỳ quái, liền bảo cô đi nhiễu quanh lều tranh một vòng rồi mới cho lửa. Cô gái nai vâng lời làm theo, khi xin được lửa rồi thì về.
At that time King Brahmananda was on a hunting expedition and saw the flower traces. Following the traces, he found the girl. Pleased by her unusual appearance, the 909a king carried her back in his carriage. A physiognomist foretold that she would give birth to one thousand sons.
Lúc bấy giờ, vua Phạm-dự (Brahmananda) đi săn, nhìn thấy các dấu chân hoa sen, liền đi theo để tìm xem, gặp được cô gái nai thì vui mừng yêu thích, liền đón cô cùng về cung. Có người thầy xem tướng nhìn thấy liền đoán rằng cô gái này sẽ sinh ra một ngàn người con.
When the other ladies [in the harem] heard the prediction they contrived to take action against her. At the end of her period of gestation she gave birth to a lotus flower with one thousand leaves, with one son sitting on each of the leaves. The other ladies criticized her, and saying that it was an inauspicious object they threw it into the Ganges River to be carried away by the current.
Những người vợ khác của vua nghe như vậy vội cùng nhau lập mưu tính kế. Cô gái nai mang thai đủ ngày tháng rồi thì sinh ra một đóa hoa sen có ngàn cánh hoa, trên mỗi cánh hoa có một đứa bé ngồi. Những người vợ khác của vua liền vu khống cho việc ấy là điềm chẳng lành, mang [đóa hoa sen] ra sông Căng-già thả cho trôi theo sóng nước.
King Ujjayana, out on a sightseeing trip in the lower reaches of the river, saw a yellow canopy, embroidered with a pattern of clouds, flowing down the river. He took it up and found one thousand sons wrapped in it. He fed them with milk and raised them into men of great strength.
Vua Ô-kỳ-diên (Ujjayana) ở vùng hạ lưu sông Căng-già hôm ấy đang dạo chơi ven sông, nhìn thấy một cái bọc lớn có màu như mây vàng đang theo sóng nước trên sông từ từ trôi xuống. Vua liền sai vớt lấy, mở ra xem thì thấy một ngàn đứa bé, liền mang về nuôi dưỡng cho đến trưởng thành, tất cả đều có sức mạnh vô cùng.
With the help of these one thousand sons the king expanded his kingdom to the four quarters and he was about to encroach on this country with his triumphant army. When King Brahmananda heard the news he was shocked and fearful, and knowing his troops were not strong enough to offer resistance, he was at his wits’ end.
[Vua Ô-kỳ-diên] cậy vào sức mạnh của một ngàn người con này để mở rộng bờ cõi ra cả bốn phương, khí thế quân binh thừa thắng xông tới, sắp sửa tấn công đến [nước của vua Phạm-dự]. Vua Phạm-dự nghe tin lo lắng hoảng sợ, biết rằng binh lực của mình không chống nổi, bối rối không biết tính cách nào.
At that time the deer woman, knowing that the invaders were her sons, said to King [Brahmananda], “Now the invaders are approaching our territory and have caused disunity among us. I, your unworthy wife, with a mind of loyalty, can defeat these strong enemies.”
Lúc bấy giờ, cô gái nai biết đó là những đứa con của mình nên bảo vua Phạm-dự rằng: “Nay quân địch đã tiến vào bờ cõi, [lòng dân thì] trên dưới chia lìa, thiếp tuy ngu dại cũng một lòng trung với nước, có thể đẩy lùi quân địch.”
But the king did not believe her and she was deeply worried and fearful. Then the deer woman went up to the tower of the city gate to wait for the arrival of the invaders. Her one thou-sand sons, commanding their troops, besieged the city. The deer woman told them, “Do not do unfilial things! I am your mother and you are my sons.”
Vua vẫn chưa tin được nên càng thêm lo lắng. Cô gái nai liền lên lầu cao trên bờ thành, chờ quân địch tới. Khi một ngàn người con dẫn quân binh đến vây kín quanh thành, cô gái nai liền gọi bảo: “Các con đừng làm chuyện đại nghịch. Ta là mẹ của các con, các con đều là con của ta.”
The one thousand sons said, “How absurd are your words!”
Một ngàn người con đều nói: “Sao bà nói chuyện hoang đường xằng bậy như thế?”
But the deer woman pressed her breasts and milk flowed out and forked into one thousand streams and, because of the ties of consanguinity, the milk flowed into the mouths of the one thousand sons. Recognizing their mother, they took off their armor and, after disbanding their troops, they returned to their own country. The two countries restored friendly relations and the people lived in peace and happiness.
Cô gái nai liền dùng tay ấn vào hai bầu vú, lập tức bắn vọt ra một ngàn tia sữa. Do tánh trời tự nhiên chiêu cảm, ngàn tia sữa mẹ liền bay thẳng vào miệng của một ngàn người con, [khiến họ tin nhận sự thật,] cùng buông vũ khí quay về nguồn cội, giải tán quân binh xin nhận dòng tộc. [Từ đó về sau] hai nước giao hòa, trăm họ thái bình an lạc.
Not far from the place where the one thousand sons recognized their mother is a stupa at the old site where the Tathagata walked up and down, while he pointed at the place and told the assembly, “Formerly at this place I recognized my mother. If you wish to know who were the thousand sons, they are the one thousand buddhas of the bhadrakalpa.”
Cách ngọn tháp nơi một ngàn đứa con nhận tổ tông, có một ngọn tháp khác, là nơi ngày xưa đức Như Lai khi đi ngang qua di tích cổ này đã chỉ vào đó bảo đại chúng rằng: “Thuở xưa, đó là nơi ta nhận lại tổ tông, gặp được cha mẹ. Một ngàn người con đó, chính là một ngàn vị Phật trong Hiền kiếp này.”
To the east of the place where [the Buddha] related his past life is an old foundation on which there is a stupa that often emits a brilliant light and sometimes answers the entreaties of prayers. This is the remnant site of the storied lecture hall in which the Tathagata delivered the Samantamukha- dharam and other sutras.
Từ chỗ đức Phật nhắc chuyện tiền thân, nhìn về phía đông có một khu nền cũ, bên trên có dựng một ngọn tháp, thỉnh thoảng lại có hào quang chiếu sáng, người đến đây cầu thỉnh thường được toại nguyện. Đây chính là nền cũ của khu giảng đường Trùng Các,[23] nơi đức Như Lai đã thuyết các kinh như Phổ môn,[24] Đà-la-ni...
Not far from the lecture hall is a stupa in which are preserved the remains of half of Ananda’s body. Not far from this stupa there are several hundred stupas, whose exact number is unknown; this is the place where one thousand pratyekabuddhas entered nirvana.
Cách vị trí giảng đường này không xa, có một ngọn tháp, trong có xá-lợi bán thân của ngài A-nan. Không xa nơi đây lại có đến mấy trăm ngọn tháp khác, muốn biết con số chính xác nhưng không thể biết được, chính là nơi nhập diệt của một ngàn vị Phật Độc giác.
There are numerous holy sites in and around the city of Vaisali and it is difficult to describe them all in detail. The old ruins at commanding positions stand with each other like the scales of a fish, but through the passage of time and the change of hot and cold seasons the woods have withered away and the ponds have dried up, leaving behind decayed frees to bear testimony [to past glories].
Bên trong và bên ngoài bốn phía thành Phệ-xá-ly có rất nhiều thánh tích, khó kể ra hết được. Những di tích nền cũ nằm san sát bên nhau,[25] năm tháng đổi thay, nóng lạnh chuyển dời, rừng rậm thành đồng hoang, hồ nước cũng cạn khô, chỉ còn lại những di tích đã hư nát để dựa vào đó mà suy nghiệm biết được.
Going to the northwest for fifty or sixty li from the great city, I reached a great stupa at the place where the Licchavis (formerly mistranscribed as Lichezi) bade farewell to the Tathagata.
Từ thành [Phệ-xá-ly] đi về hướng tây bắc khoảng 50-60 dặm (16-19.4 km) thì đến một ngọn tháp lớn, là nơi những người họ Lật-xiếp-bà[26] từ biệt đức Như Lai.
When the Tathagata was proceeding to the country of Kusinagara from the city of Vaisali, the Licchavis, having heard that the Buddha was about to enter nirvana, went to see him off, wailing piteously. Seeing that their sorrow was so deep as to be inconsolable by words, the World-honored One produced through his supernatural powers a big river with steep banks and a rapid current. The Licchavis, crying bitterly, were thus prevented from following him any further. The Tathagata left his almsbowl as a memento for them.
Đức Như Lai từ thành Phệ-xá-ly đi sang nước Câu-thi-na. Những người Lật-xiếp-bà nghe rằng Phật sắp nhập diệt liền cùng nhau đau buồn khóc lóc đi theo. Đức Thế Tôn thấy họ buồn đau đến mức không thể dùng lời khuyên bảo, liền dùng thần lực hóa ra một con sông lớn, bờ sông sâu thẳm, nước chảy xiết [không thể vượt qua]. Những người Lật-xiếp-bà đành gào khóc mà dừng lại. Đức Như Lai để lại bình bát cho họ làm vật tưởng nhớ.
Less than two hundred li to the northwest of the city of Vaisah is an old city that has been desolate for many years and has few inhabitants. In the city there is a stupa at the place where the Buddha told an assembly of various bodhisattvas and human and heavenly beings about cultivating bodhisattva deeds in his past lives. He was once a universal monarch named Mahadeva (known as Datian, “Great Deity,” in Chinese), in this city, possessing the seven treasures and competently riding over the four continents of the world. But after witnessing the phenomenon of changeability and realizing the principle of impermanence, he cherished a high ambition and renounced the throne. He abandoned his country to become a monk and donned the dyed robe to pursue learning.
Từ thành [Phệ-xá-ly] đi về hướng tây bắc gần 200 dặm (64.6 km), có một thành cổ hoang phế đã lâu năm, rất ít người cư trú, trong đó có một ngọn tháp. Đây là nơi ngày xưa đức Phật đã vì chư vị Bồ Tát và đại chúng trời kể lại những chuyện tiền thân khi ngài còn tu hạnh Bồ Tát, đã từng sinh ra làm vị Chuyển luân vương cư trú tại thành này, hiệu là Ma-ha-đề-bà,[27] có bảy món báu ứng hiện,[28] cai trị khắp bốn châu thiên hạ. Vua nhìn thấy các tướng suy hoại biến đổi thì hiểu ra được lý vô thường, ôm lòng hướng về đạo Vô thượng, không còn quan tâm đến ngôi vị của mình, bỏ nước xuất gia, mặc y hoại sắc để tu học.
Going southeast for fourteen or fifteen li from the city, I reached a great stupa at the place where seven hundred sages and saints convened the Second Council.
Từ thành [Phệ-xá-ly] đi về hướng đông nam khoảng 14-15 dặm (4.6-4.9 km) thì đến một ngọn tháp lớn, là nơi bảy trăm vị hiền thánh kết tập [kinh điển] lần thứ hai.
One hundred and ten years after the Buddha’s nirvana, some bhiksus in the city of Vaisah deviated from the buddha-dharma and observed the disciplinary rules in an erroneous way. At that time Elder Yasoda was residing in Kosala, Elder Sambhoga in Mathura, Elder Revata in Hanruo, Elder Salha in Vaisah, and Elder Kubjasobhita in Pafaliputra. All these great arhats had gained mental liberation, mastered the Tripitaka, and possessed the three clear insights; they had great reputations and were well known to all as disciples of Venerable Ananda.
Sau khi Phật nhập Niết Bàn 110 năm, trong thành Phệ-xá-ly có các vị tỳ-kheo xa rời pháp Phật, thực hành sai giới luật. Lúc bấy giờ, truởng lão Da-xá-đà (Yasoda) đang ở nước Kiêu-tát-la (Kosala), truởng lão Tam-bồ-già (Sambhoga) ở nước Mạt-thố-la (Mathura), truởng lão Ly-ba-đa (Revata) ở nước Hàn-nhược (Hanruo), truởng lão Sa-la (Sala) ở nước Phệ-xá-ly (Vaisali); truởng lão Phú-xà-tô-di-la (Pu-jasumira) ở nước Sa-la-lê-phất (Salariputra). Các vị đều là bậc đại A-la-hán tâm được tự tại, nắm vững Tam tạng kinh điển, đã chứng Tam minh, vang danh khắp chốn nên mọi người đều biết, đều là đệ tử của Tôn giả A-nan.
At that time Yasoda sent a messenger to invite various sages and saints to meet in the city of Vaisah. The number of those who attended the meeting amounted to seven hundred less one. Kubjasobhita then saw with his clairvoyance that various sages and saints were assembled to discuss matters concerning the Dharma and he came to the assembly through his supernatural power of ubiquity.
Lúc bấy giờ, ngài Da-xá-đà nhờ người đến nói với các vị hiền thánh khác, xin tập hợp ở thành Phệ-xá-ly, vẫn còn thiếu một người nên chưa đủ 700 vị. Khi ấy, ngài Phú-xà-tô-di-la dùng thiên nhãn thấy các bậc đại hiền thánh vân tập bàn pháp sự, liền vận thần túc đi đến Pháp hội.
Sambhoga, his right shoulder uncovered, knelt on the ground and said to the council, “Be quiet! Consider with respect! Although the great holy King of the Dharma entered nirvana as an expedient many years ago, his oral teachings still exist. Some negligent bhiksus in the city of Vaisali observe the disciplinary rules erroneously and have raised ten points that are contrary to the teachings of the Buddha who possessed the ten powers. Now you sages are conversant with the [proper] observance and violation of the disciplinary rules, and all of you have studied under the instruction of Bhadanta Ananda. For the sake of repaying the Buddha’s kindness you should reiterate his holy decrees.”
Khi ấy, ngài Tam-bồ-già ở giữa đại chúng, sửa y trần vai phải và quỳ xuống nêu vấn đề rằng: “Xin đại chúng yên tịnh! Hãy lắng nghe! Hãy suy ngẫm kỹ! Ngày xưa đấng Đại Thánh Pháp Vương quyền biến thị tịch, năm tháng dẫu trôi qua đã lâu nhưng lời dạy của ngài vẫn còn đó. Nay có các tỳ-kheo giải đãi tại thành Phệ-xá-ly sai phạm giới luật, đưa ra mười điều vi phạm lời dạy của đấng Thập lực.[29] Nay các hiền giả [trong hội này] đều thấu biết rõ ràng việc trì giới hay phạm giới, hết thảy đều nhờ sự chỉ bày răn dạy của Đại Đức[30] A-nan, một lòng nhớ nghĩ báo đáp ân Phật, xin hãy tuyên đọc lại ý chỉ của bậc Đại Thánh.”
No one among the great saints was not moved to tears. They summoned the faulty bhiksus and, in accordance with the Vinaya regulations, they reproached them and stopped their misdeeds. Thus the wrong practices ended and the holy teachings were clarified.
Lúc ấy, trong đại chúng [nghe qua việc này] ai ai cũng đều bi thương xúc cảm, lập tức triệu tập các vị tỳ-kheo [phạm giới], căn cứ theo tạng Tỳ-nại-da[31] mà quở trách và hạn chế, ngăn cấm, trừ bỏ các điều sai trái, tuyên đọc rõ ràng những lời dạy của Phật.
Going south for eighty or ninety li from the place where the seven hundred sages and saints held a meeting, I came to Svetapura Monastery, which consisted of many lofty buildings and magnificent pavilions. The monks are pure and solemn in manner and they all study Mahayana teachings. Beside it are old sites where the four past buddhas sat and walked up and down.
Từ nơi 700 vị hiền thánh kết tập đi về hướng nam khoảng 80-90 dặm (25.8-29 km) thì đến chùa Thấp-phệ-đa-bổ-la (Svetapura), kiến trúc nhiều tầng nguy nga tráng lệ, lầu gác cao đẹp, tăng chúng thanh tịnh nghiêm túc, thảy đều tu tập theo giáo pháp Đại thừa. Bên cạnh đó có di tích nơi bốn vị Phật trong quá khứ kinh hành và ngồi thiền.
The stupa beside it was built by King Asoka at the place where the Tathagata halted to rest on his way to the country of Magadha in the south and looked back at the city of Vaisall in the north.
Bên cạnh chùa có ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng. Đây là nơi ngày xưa đức Như Lai trên đường đi đến nước Ma-yết-đà ở hướng nam đã dừng nghỉ, ngoái nhìn lại thành Phệ-xá-ly ở hướng bắc.
More than thirty li away to the south of Svetapura Monastery there are two stupas, one built on the southern bank and the other on the northern bank of the Ganges River. This was the place where Venerable Ananda divided his bodily relics between two countries.
Từ chùa Thấp-phệ-đa-bổ-la đi về hướng đông nam hơn 30 dặm (9.7 km) thì đến sông Căng-già, hai bên bờ nam, bắc có hai ngọn tháp. Đây là nơi Tôn giả A-nan[32] đã phân thân để [chia xá-lợi] cho cả hai nước.
Ananda was a cousin of the Tathagata and was a man of wide learning and comprehensive intelligence who had an extensive range of knowledge and a retentive memory. After the Buddha’s demise he succeeded Mahakasyapa in upholding the right Dharma and guiding the learners. Once, when he was taking a walk in a wood in the country of Magadha, he saw a novice reciting the scriptures incorrectly, with passages and sentences in disorder and the wording in confusion. Having heard the recitation, Ananda recalled the Buddha with a deep feeling of sorrow and went slowly to the novice to point out his mistakes. The novice said with a smile, “Great Virtuous One, you have become senile and whatb you say is wrong. My teacher is a wise man in the prime of life. I have personally learned from him and there is no mistake in his instructions.”
Ngài A-nan là anh em chú bác với Như Lai, nghe nhiều hiểu thấu, học rộng nhớ lâu. Sau khi Phật nhập diệt, ngài kế tục ngài Đại Ca-diệp giữ gìn Chánh pháp, dẫn dắt người học đạo. Một hôm, ngài đi trong khu rừng của nước Ma-yết-đà, gặp một sa-di đang tụng kinh Phật mà phân đoạn sai lầm, câu chữ lẫn lộn. Ngài A-nan nghe xong sinh lòng thương xót, chậm rãi đi đến tận nơi để chỉ bày. Sa-di ấy bật cười nói rằng: “Sư Ông già rồi, lời nói sai lầm. Thầy của con cao minh, đang tuổi cường thịnh, chính con được học với thầy, không thể sai lầm.”
Ananda withdrew quietly with a sigh, saying, “Even though I am getting old I still wish to live longer to uphold the right Dharma for the benefit of living beings. But living beings are laden with defilement and are difficult to admonish. It is useless for me to live any longer. I will quickly enter nirvana.”
Ngài A-nan lặng thinh rồi lui về than rằng: “Ta tuy tuổi đã cao nhưng vì chúng sinh nên muốn ở lại đời lâu hơn để giữ gìn Chánh pháp. Nhưng chúng sinh nghiệp nặng khó dùng lời chỉ dạy, dẫu ở lại lâu hơn cũng chẳng ích gì, nên sớm diệt độ thôi.”
Then he left the country of Magadha for the city of Vaisah. While Ananda was crossing the Ganges in a boat, sailing midstream, the king of Magadha heard that Ananda was going away and, out of deep affection and in admiration of his virtue, he urgently dispatched his military carriages to go quickly in pursuit of him. Hundreds and thousands of troops camped on the southern bank.
Ngài liền rời khỏi nước Ma-yết-đà, đi đến thành Phệ-xá-ly, qua sông Căng-già, thuyền lênh đênh giữa dòng. Khi ấy, vua nước Ma-yết-đà nghe tin ngài A-nan bỏ đi, trong lòng quyến luyến đức độ của ngài hết sức sâu nặng, lập tức chuẩn bị xa giá nghiêm trang, vội vã đuổi theo để thỉnh ngài [ở lại], có đến mấy trăm ngàn quân vừa kéo đến đóng trên bờ sông phía nam.
[At the same time] the king of Vaisall, feeling both grief and joy at the news that Ananda was coming [to his country to enter nirvana], also sent his troops to march speedily to welcome him. Hundreds and thousands of soldiers were stationed on the northern bank.
[Bên kia sông,] vua Phệ-xá-ly vừa nghe tin ngài A-nan đến [nước mình để nhập Niết-bàn] thì trong tâm buồn vui lẫn lộn, lập tức điểm binh, hối hả kéo ra nghinh đón, mấy trăm ngàn quân cùng tập trung đóng trên bờ sông phía bắc.
The two armies faced each other and [their flags were so numerous that they] obscured the sun. Fearing that they might start a war and kill each other, Ananda ascended into the air from the boat and entered nirvana amid the manifestation of supernatural powers. A fire burned his body, which fell down in two parts, one dropping on the southern bank and the other on the northern bank.
Hai bên dàn quân đối nhau, cờ hiệu như rừng, che khuất cả mặt trời. Ngài A-nan thấy vậy, sợ hai bên giao đấu sát hại lẫn nhau, liền từ trên thuyền đứng dậy, bay lên hư không, thị hiện thần biến, nhập tịch diệt, hóa lửa thiêu thân rồi tự chia đôi, một phần rơi về bờ nam, một phần rơi về bờ bắc.
So each of the two kings obtained a portion of the relics, as their armies wept sorrowfully. After returning to their respective countries they erected stupas to pay homage to the relics.
Như vậy, hai vua đều được mỗi người một phần xá-lợi, toàn quân đều buồn đau gào khóc, rồi mỗi bên đều lui về nước, xây tháp để thờ phụng cúng dường.
Going from here to the northeast for more than five hundred li, I reached the country of Vrji (called by the northerners the country of Samvrji, in the 910a domain of North India).
Từ nơi đây đi về hướng đông bắc hơn 500 dặm (161.5 km) thì đến nước Phất-lật-thị, thuộc miền Bắc Ấn. Người miền bắc gọi là nước Tam-đại-thị.

4. Nước Phất-lật-thị
The country of Vrji is more than four thousand li in circuit, long from east to west and narrow from south to north. The soil is fertile and abounds in flowers and fruit. The climate is somewhat cold and the people are impetuous by nature. Most of them venerate the heretics and a few believe in the buddha-dharma. There are over ten monasteries with less than a thousand monks, who study both the Mahayana and Hinayana teachings. There are several tens of deva temples with a great number of heretics. The capital city of the country is called Cansuma, of which the greater part is in ruins. Inside the old palace city there are still more than three thousand families of inhabitants living together like in a village or town.
Nước Phất-lật-thị[33] chu vi hơn 4.000 dặm (1.300 km), chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp, đất đai màu mỡ, hoa trái tốt tươi, khí hậu hơi lạnh. Người dân tính tình nóng vội, đa phần sùng bái ngoại đạo, ít người tin theo Phật pháp. Trong nước có mười mấy ngôi chùa, tăng sĩ chưa đến ngàn người, tu tập theo cả hai phái Đại thừa và Tiểu thừa. Có mấy mươi ngôi đền thờ Phạm thiên, người theo ngoại đạo rất đông. Kinh thành là Chiêm-thú-nã, phần lớn đã bị đổ nát hư hoại, bên trong cung thành xưa hiện còn hơn 3.000 nóc nhà, chỉ giống như chốn làng quê.
To the northeast of a big river there is a monastery with a few monks who are pure and lofty in learning. West of here there is a stupa more than thirty feet high on the bank of the river, which flows like a belt to the south. This was the place where with his great compassion the Buddha once converted some fishermen.
Phía đông bắc của con sông lớn có một ngôi chùa, tăng sĩ rất ít, việc tu học thanh tịnh, cao thượng. Từ chùa này đi về hướng tây, dựa vào bến sông có một ngọn tháp cao hơn 3 trượng (10 m), phía nam là một dòng sông hẹp, nơi đức Đại Bi Thế Tôn hóa độ các ngư dân.
In the distant past, at the time of the Buddha, there were five hundred fishermen who worked in groups to catch fish. One day they caught in this river a large fish with eighteen heads, each having two eyes. As the fishermen were getting ready to kill the fish the Tathagata, in the country of Vaisali, saw it with his divine eye and felt pity for it. He intended to take this opportunity to edify the fish and to enlighten the fishermen at the same time. He told the assembly of monks, ‘Tn the country of Vrji there is a big fish that I intend to convert so as to enlighten the fishermen. You should know that it is now time to do so.”
Lúc Phật còn tại thế, có 500 ngư dân kết thành một nhóm cùng nhau đánh bắt các loài tôm cá. Tại sông này, họ bắt được một con cá lớn có 18 đầu, mỗi đầu có hai mắt, liền muốn giết hại. Lúc đó, đức Như Lai đang ở nước Phệ-xá-ly, dùng thiên nhãn thấy được, khởi tâm đại bi muốn nhân cơ hội này để giáo hóa, khai ngộ, liền nói với đại chúng: “Ở nước Phất-lật-thị có con cá lớn, ta muốn hóa độ nó để thức tỉnh những ngư dân kia. Các ông nên biết là đã đến lúc thích hợp.”
Then the Buddha, surrounded by the assembly of monks, ascended into the air through his power of divine feet and flew to the riverside. He laid down his sitting cloth as usual and said to the fishermen, “Do not kill the fish!”
Liền đó, đức Phật với đại chúng vây quanh, dùng phép thần túc đi trên hư không mà đến nơi bến sông, ngồi kiết già như thường lệ, rồi bảo các ngư dân: “Các ông đừng giết con cá đó.”
Through his supernatural power and in an expedient way, he endowed the big fish with the faculties of knowing its previous life, speaking human language, and understanding human sentiment.
Rồi đức Phật dùng sức thần thông, mở bày phương tiện, oai lực tác động đến con cá lớn, khiến cho cá nhớ biết được đời trước của mình, lại có thể nói được tiếng người, hiểu được tình cảm con người.
Then the Tathagata purposely asked the fish, though he already knew the answer, “What sins did you commit in your previous life so that you are now in an evil state of rebirth with such an unfortunate form?”
Lúc bấy giờ, đức Như Lai tuy đã biết nhưng vẫn hỏi cá rằng: “Đời trước con đã tạo tội gì mà phải lưu chuyển trong đường ác, thọ thân xấu xí này?”
The fish said, “By the effect of good deeds I had done in a former life I was born to a noble family and I was known as the great brahman Kapittha in my previous life. Due to the influence of my caste, I despised and bullied other people and, considering myself learned, I scorned the scriphires and the Dharma. I disrespectfully slandered the buddhas and reproached the monks with abusive language, comparing them to camels, donkeys, elephants, horses, and other ugly animals. Because of these evil deeds I am now suffering in this unfortunate form. But because I did some good deeds in one of my former lives I have been born at a time when a buddha is in the world, and I have now seen the holy Buddha himself with my own eyes and have heard his holy teachings.”
Con cá thưa rằng: “Trước đây con nhờ phước đức được sinh trong gia tộc giàu có thế lực. Con đây chính là một đại bà-la-môn [ở nước] Kiếp-tỷ-tha ngày trước. Con cậy vào dòng tộc [cao quý] mà hiếp đáp, khinh miệt người khác, cậy mình có kiến thức sâu rộng nên khinh chê kinh điển giáo pháp, khởi tâm khinh mạn hủy báng chư Phật, dùng những lời xấu xa độc ác để nhục mạ chư tăng, phỉ báng các ngài bằng cách so sánh với đủ các loài vật xấu xí như lạc đà, lừa, voi, ngựa... Do tạo nghiệp xấu ác như vậy nên nay phải thọ thân xấu xí thế này, nhưng nhờ còn chút nhân lành đời trước nên sinh gặp thời có Phật ra đời, thấy được sự giáo hóa của Phật, được nghe lời dạy của Phật.”
Then [the fish] made a confession and repented his evil deeds done in the past.
The Tathagata taught the fish in accordance with its capacity and enlightened it as was suitable to the occasion. After hearing the Dharma, the fish died and was reborn in heaven through the power of its good deeds. Then he looked at his own celestial body and wondered why he had been born in heaven. After recalling his past life, he remembered the Buddha with gratitude and came with other heavenly beings to see him. Having worshiped the Buddha, he circumambulated him and stood aside to offer him valuables and fragrant flowers brought from heaven.
Nhân đó, cá liền sám hối mọi lỗi lầm, nghiệp ác đã làm đời trước. Đức Như Lai khi ấy tùy căn cơ nhiếp hóa, chỉ bày khai mở theo cách thích hợp, khiến cho con cá nghe xong [tỉnh ngộ] liền qua đời, nhờ phước lực đó sinh lên cõi trời. [Sinh lên cõi trời rồi,] liền tự quán xét xem nhân duyên gì mình được sinh cõi trời. Khi quán xét biết được rồi, nghĩ đến việc báo đáp ân Phật nên cùng với chư thiên đi đến chỗ Phật. Kính lễ Phật xong, đi nhiễu theo hướng về bên tay phải rồi lui về đứng một bên, dùng hương hoa cùng các vật quý cõi trời dâng lên cúng dường.
The World-honored One related this anecdote to the fishermen, while pointing at the heavenly beings, and preached the wonderfill Dharma to them. They were moved and awakened [from ignorance] and sincerely worshiped the Buddha with repentance, tore up their fishing nets, and burned their boats. They turned their minds to truth and embraced the Dharma. After donning the dyed robes of monks and having heard the ultimate teachings, all of them got rid of defilement and attained the fruit of sainthood.
Đức Thế Tôn chỉ rõ việc ấy cho các ngư dân, rồi vì họ thuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, họ nghe xong liền tỏ ngộ, chân thành lễ sám, phá lưới đốt thuyền [bỏ nghề đánh cá], quay về đường chánh đạo, thọ nhận giáo pháp, xin xuất gia tu học. Sau khi đã mặc y hoại sắc, được nghe lời Phật dạy, hết thảy đều xa lìa trần cấu, cùng chứng quả Thánh.
More than one hundred li to the northeast of the place where the fishermen were converted there is a stupa over one hundred feet high built by King Asoka to the west of an old city. This was the place where the Buddha once preached the Dharma for six months to convert celestial and human beings.
Từ nơi Phật hóa độ các ngư dân đi về hướng đông bắc hơn 100 dặm (32.3 km) thì đến một thành cổ, phía tây có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, cao hơn 100 thước (33.3 m). Nơi đây ngày xưa đức Phật từng thuyết pháp trong sáu tháng để hóa độ trời người.
At a distance of one hundred forty or fifty paces to the north of this stupa there is a smaller stupa marking the place where the Tathagata laid down the disciplinary rules for the bhiksus. Not far to the west there is another stupa, in which are enshrined the Tathagata’s hair and nail relics.
Về phía bắc tháp này, cách chừng 140-150 bộ (230-250 m), có một ngọn tháp nhỏ, là nơi ngày xưa đức Như Lai vì các tỳ-kheo mà chế định giới luật.[34] Tiếp đến không xa về phía tây lại có ngọn tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai.
People coming far and near converge at this place to bum incense, scatter flowers, and light lamps and candles without interruption.
Thuở xưa, khi Như Lai đến nơi đây, người dân trong các thôn ấp gần xa rất đông đảo, cùng tranh nhau đến cúng dường, đốt hương, rải hoa, đèn đuốc thắp sáng không lúc nào ngớt.
Going from here to the northwest for one thousand four hundred or five hundred li, crossing over mountains and passing through valleys, I reached the country of Nepala (in the domain of Central India).
Từ nơi đây đi về hướng tây bắc khoảng 1.400-1.500 dặm (452-484.5 km), vượt núi qua khe, đến nước Ni-ba-la thuộc miền Trung Ấn.

5. Nước Ni-ba-la
The country of Nepala is over four thousand li in circuit and it is situated among the Snow Mountains. The capital city of the country is more than twenty li in circuit and there are hills and valleys in close connection. The soil is suitable for growing cereals and yields many flowers and fruit. The country produces red copper, yaks, andjivamjivas (two-headed birds). Red copper coins are used as the medium of exchange. The climate is piercingly cold. The people are sinister and iniquitous by social custom and are rude and unrestrained by nature and disparage good faith and righteousness. They have no learning but are skillful in craftsmanship. They are ugly in appearance and believe in both wrong and right doctrines. The monasteries and deva temples are so close together that they touch each other and there are more than two thousand monks, who study both Mahayana and Hinayana teachings; the number of heretics is unknown.
Nước Ni-ba-la[35] chu vi hơn 4.000 dặm (1.300 km), nằm trong vùng Tuyết sơn. Chu vi kinh thành hơn 20 dặm (6.5 km). Núi đồi, thung lũng nối tiếp kề nhau, đất đai thích hợp với lúa và ngũ cốc, có nhiều hoa quả. Nơi đây sản xuất đồng đỏ, nuôi bò yak[36] và chim mạng mạng[37] để bán. Việc mua bán dùng tiền đúc bằng đồng đỏ. Khí hậu rét lạnh, phong tục hiểm ác tà vạy, tánh người cứng rắn, hung bạo, xem thường tín nghĩa, không học tập các tài nghề nhưng có khiếu thủ công khéo léo. Hình dung tướng mạo xấu xí, niềm tin hỗn tạp cả tà lẫn chánh. Chùa chiền với đền thờ Phạm thiên chung vách liền mái, san sát bên nhau. Có hơn 2.000 tăng sĩ, tu tập theo cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Số lượng người theo ngoại đạo không biết được.
The king, being a Licchavi of the ksatriya caste, is an upright man with good learning and is a pure Buddhist. In recent years there was a king named Amsuvarman (known as Guangzhou, “Brilliant Helmet,” in Chinese), a learned scholar of intelligence and sagacity, who wrote a treatise on sabdavidya (Sanskrit grammar). He esteemed learning and honored the virtuous, and his fame spread far and near.
Đức vua thuộc giai cấp sát-đế-lợi, dòng họ Lật-xiếp-bà,[38] có chí học thanh cao, tin tưởng thuần thành đối với Phật pháp. Gần đây, nước này có vị vua hiệu Ương-du-phạt-ma[39] là bậc học rộng thông suốt, tự soạn luận Thanh minh. Vua là người trọng học vấn, cung kính đạo đức, danh vang khắp chốn.
To the southeast of the capital city there is a small pool. When fire is thrown into it the water burns, and when other things are cast into it they also become fiery.
Phía đông nam kinh thành có một hồ nước nhỏ, khi lấy lửa ném xuống thì mặt nước bốc cháy, sau đó ném vật gì xuống cũng đều bị cháy cả.
From here I returned to the country of Vaisali and, crossing the Ganges River to the south, I reached the country of Magadha (formerly mistranscribed as Mojiatuo or Mojieti, in the domain of Central India).
Từ nơi đây[40] quay trở về nước Phệ-xá-ly rồi theo hướng nam qua sông Căng-già thì đến nước Ma-yết-đà, thuộc miền Trung Ấn.
End of Fascicle VII of The Great Tang Dynasty
Record oj the Western Regions


________________________________________

CHÚ THÍCH

[1] Nước Bà-la-ni-tư (S. Vāraṇasi, H. 婆羅痆斯國), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Ba-la-nại (波羅柰) là không đúng. Vị trí này nay có thể là Benares hay Varanasi, Uttar Pra-desh, India.

[2] Nay gọi là sông Varuna.

[3] Tức là đức Phật Thích-ca khi chưa thành đạo.

[4] Mai-đát-lệ-da (S. Maitreya, H. 梅呾麗耶), Hán dịch là Từ (慈), là họ của Bồ Tát, nên gọi là Từ Thị. Ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Di-lặc (彌勒) là không đúng.

[5] Câu hỏi này dường như có nghĩa là “ai sinh ra trước”, trong ngữ cảnh đang phân định ngôi thứ lớn nhỏ, trên dưới.

[6] Tát-bà-át-lạt-tha-tất-đà (S. Sarvarthasiddha, H. 薩婆曷剌他悉陀), Hán dịch là Nhất Thiết Nghĩa Thành (一 切義成), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Tất-đạt-đa (悉達多) là không đúng.

[7] Bản Hán văn là “an lạc - 安樂“, hiểu sát nghĩa là “an vui”, nhưng trong ngữ cảnh ở đây phải hiểu quan niệm những người này là chấp nhận hưởng lạc thú, niềm vui thế tục, nghĩa là chạy theo dục lạc, chứ không phải sự an vui thực sự của đời sống giải thoát.

[8] Bản Hán văn là “Lộc Dã viên - 鹿野園“, cũng chính là khu rừng Thí Lộc hay rừng Lộc Dã đã nói đến ở trước. Trong nhiều kinh luận cũng gọi đây là vườn Lộc Uyển hay vườn Nai.

[9] Bản Hán văn là “lưỡng an cư tất - 兩安居畢“ nghĩa là hoàn tất một mùa an cư ba tháng. Do Phật chế định chư tăng tùy điều kiện cụ thể ở nơi cư trú có thể chọn một trong hai quãng thời gian an cư. Hoặc là từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 15 tháng 8, hoặc là từ ngày 16 tháng 6 đến ngày 15 tháng 9 theo lịch Ấn Độ. Do vậy nên nói “lưỡng an cư” là để chỉ chung, không xác định rõ thời gian nào.

[10] Lễ đội mũ (弱冠 - nhược quán), là nghi lễ chính thức công nhận sự trưởng thành của người con trai, thường là năm 20 tuổi.

[11] Chữ liệt sĩ (烈士) ở đây có nghĩa là người dũng mãnh, cứng rắn, dám quên mình vì việc nghĩa.

[12] Nước Chiến Chủ (S. Vigrahapati, H. 戰主國). Vị trí nước này ngày nay có thể là thị trấn Dighwara thuộc huyện Saran ở tiểu bang Bihar, Ấn Độ, nằm về phía bắc sông Hằng.

[13] A-tị-đà-yết-lạt-nã (S. Aviddhakarna, H. 阿避陀羯剌 拏), Hán dịch là Bất Xuyên Nhĩ (不穿耳), nghĩa là không xỏ lỗ tai.

[14] Tên chùa là Bất Xuyên Nhĩ (không xỏ lỗ tai), vì nhà vua ngăn cấm những vị tăng có xỏ lỗ tai (xuyên nhĩ) không được ở trong chùa này. Xỏ lỗ tai là tập tục của người Ấn Độ, cho nên không xỏ lỗ tai là những khách tăng từ nước ngoài đến.

[15] Na-la-diên thiên (S. Nārāyaṇa, H. 那羅延天), là một vị thần cổ đại Ấn Độ liên quan đến sức mạnh, cũng được dịch là Kim cương Lực sĩ.

[16] Quỷ khoáng dã (曠野鬼) là loài quỷ sống nơi đồng không hoang vắng, cũng gọi là thần khoáng dã hay quỷ thần khoáng dã.

[17] Nước Phệ-xá-ly (S. Vaiśālī, H. 吠舍釐國), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Tỳ-xá-ly (毘舍離) là không đúng.

[18] Tỳ-ma-la-cật (S. Vima-lakīrti, H. 毘摩羅詰), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Duy-ma-cật (維摩詰) là không đúng. Chuyện chàng trai Bảo Tích và 500 chàng con nhà trưởng giả cùng cúng dường lọng báu lên đức Phật được nói đến trong kinh Duy-ma-cật sở thuyết, ở phẩm thứ nhất - Cõi Phật.

[19] Quả Vô học tức là thánh quả A-la-hán.

[20] Đơn vị cổ, một hộc (斛) có 10 đấu (斗).

[21] Tỳ-ma-la-cật (S. Vima-lakīrti, H. 毘摩羅詰), Hán dịch là Vô Cấu Xưng (無垢稱), trước đây dịch là Tịnh Danh (淨名). Tịnh (淨) nghĩa là vô cấu (無垢), danh (名) nghĩa là xưng (稱). Cho nên những tên gọi này tuy khác mà ý nghĩa đều như nhau. Các vị Cựu dịch phiên âm là Duy-ma-cật (維摩詰). (Chú thích này dựa theo nguyên tác.)

[22] Cô gái này theo truyền thuyết sinh ra dưới gốc cây am-một-la nên được đặt tên là Am-một-la. Cô cũng là người sở hữu khu vườn am-một-la nổi tiếng được cô cúng dường lên đức Phật và chư tăng. Đúng ra tên cô là Amrapali, nhưng ở đây ngài Huyền Trang trong nguyên tác viết là Am-một-la (Amra), đồng như quả am-một-la.

[23] Bản Hán văn là “Trùng Các giảng đường - 重閣講堂“ (giảng đường hai tầng). Tuy nhiên, trong nhiều kinh luận đều sử dụng như một danh từ riêng để chỉ giảng đường này.

[24] Kinh Phổ môn, chỉ phẩm kinh Phổ môn trong kinh Diệu pháp Liên hoa.

[25] Bản Hán văn là “ngư lân gian trì - 魚鱗間峙“ (xếp dày như vảy cá).

[26] Lật-xiếp-bà (S. Licchavī, H. 栗呫婆), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Ly-xa (離車) là không đúng.

[27] Ma-ha-đề-bà (S. Ma-hadeva, H. 摩訶提婆), Hán dịch là Đại Thiên (大天).

[28] Khi vị Chuyển luân vương với đầy đủ phước báu ra đời thì có bảy món báu tự nhiên ứng hiện, gồm: luân bảo (bánh xe báu, có thể cưỡi bay đi khắp thiên hạ), tượng bảo (voi báu), mã bảo (ngựa báu), ma-ni bảo (hạt châu như ý), nữ bảo (mỹ nhân xinh đẹp và hiền thục nhất, có thể hiểu được ý vua), tạng bảo (hay chủ tạng thần bảo, là vị quan coi giữ kho tàng có khả năng tìm ra mọi kho tàng trong thiên hạ, dưới biển sâu, để vua tùy ý tiêu dùng), binh bảo (hay chủ binh thần bảo, là vị tướng soái tài giỏi nắm giữ binh quyền, có thể giúp vua chinh phục thiên hạ).

[29] Đấng Thập lực: chỉ đức Phật, vì ngài có đủ 10 lực hay 10 trí lực là: 1. Xứ phi xứ trí lực (處非處智力), trí lực phân biệt rõ ràng đạo lý hay phi đạo lý, phải trái thiện ác); 2. Nghiệp dị thục trí lực (業異熟智力), trí lực biết được nghiệp thiện ác và quả báo của nghiệp ấy; 3. Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực (静慮解脫等持等至智力), trí lực biết trọn vẹn thiền định của tứ tĩnh lự hay tứ thiền, tám giải thoát, các tam muội, tám đẳng chí,...); 4. Căn thượng hạ trí lực (根上下智力), trí lực biết được căn cơ của chúng sinh trên dưới lợi hay độn; 5. Chủng chủng thắng giải trí lực (種種勝解智力), trí lực biết được ý hướng, dục vọng,... của chúng sinh; 6. Chủng chủng giới trí lực (種種界智力), trí lực biết được các tánh loại, giới địa của lớp lớp chúng sinh; 7. Biến thú hành trí lực (遍趣行智力), trí lực biết được sự biến thiên của các con đường hành nghiệp; 8. Túc trú tùy niệm trí lực (宿住隨念智力), trí lực nhớ rõ cuộc sống xa xưa trong kiếp quá khứ; 9. Tử sinh trí lực (死生智力), trí lực biết rõ sinh tử trong tương lai và con đường ác, con đường thiện); 10. Lậu tận trí lực (漏盡智力), trí lực biết rõ phương pháp để đoạn tận phiền não và trở thành bậc vô lậu.

[30] Danh xưng Đại Đức ngày xưa chỉ được dùng để tôn xưng đức Phật hoặc các bậc thánh đức độ cao tột, khác với danh xưng đại đức ngày nay được dùng cho tất cả các vị tỳ-kheo ngay sau khi thọ Cụ túc giới.

[31] Tỳ-nại-da (S. Vinaya, H. 毘柰耶), tức là Luật tạng.

[32] Nguyên tác nơi đây dùng chữ A-nan-đà (S. Ānanda, H. 阿難陀), cũng tức là ngài A-nan vừa nói ở trước. Vì nhiều nơi khác trong sách đều dùng tên gọi A-nan nên chúng tôi điều chỉnh thống nhất để độc giả dễ nhận hiểu hơn.

[33] Nước Phất-lật-thị (S. Vriji. H. 弗栗恃國), cũng được gọi là nước Bạt-kỳ (跋耆) hay Bạt-xà (跋闍). Vị trí này nằm về phía bắc sông Hằng, ngày nay có thể thuộc bang Bihar, Ấn Độ, là vùng đất phía đông kéo dài đến giáp Nepal, phía tây giáp với sông Gandaki. Pháp sư truyện kể rằng ngài Huyền Trang đi từ Phệ-xá-ly thẳng đến Ma-kiệt-đà, không đến các nước Phất-lật-thị và Ni-ba-la. Tuy nhiên, theo cách nói “trở lại Phệ-xá-ly” (復還吠舍釐 - phục hoàn Phệ-xá-ly) thì ngài có đi đến đây.

[34] Chỗ này nguyên tác nói không rõ, nhưng theo Luật tạng ghi chép thì đức Phật từng chế định giới luật ở nhiều nơi, trong nhiều trường hợp khác nhau, cho nên nơi đây chỉ là một trong các địa điểm đó mà thôi.

[35] Nước Ni-ba-la (S. Nepāla, H. 尼波羅國), vương triều chỉ tồn tại đến khoảng giữa thế kỷ 8. Vị trí nước này hiện nay là lãnh thổ Nepal.

[36] Bản Hán văn là “mao ngưu - 犛牛” (bò lông), vì loại bò này khác biệt nhiều nhất với giống bò thường là có bộ lông rất dài. Tên của chúng là bò yak nhưng thường được gọi là bò Tây Tạng vì được biết đến rất nhiều ở Tây Tạng.

[37] Bản Hán văn là “mạng mạng điểu - 命命鳥“, căn cứ trong nhiều kinh luận thì là giống chim trong truyền thuyết, cũng gọi là cộng mạng điểu (共命鳥) có một thân hai đầu. Tuy nhiên, danh từ này có một nghĩa khác chỉ chim giá cô, một loài chim đẹp, biết gáy, thích hợp hơn trong ngữ cảnh này.

[38] Lật-xiếp-bà (S. Licchavī, H. 栗呫婆), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Ly-xa (離車) là không đúng.

[39] Ương-du-phạt-ma (S. Aṃśuvarmā, H. 鴦輸伐摩), Hán dịch là Quang Trụ (光 胄). Đây là nói vị vua đời trước hồi gần đây, không phải đức vua trong hiện tại.

[40] Nguyên tác nói “tùng thử” (từ nơi đây), nghĩa là từ Ni-ba-la đi trở lại qua Phất-lật-thị để về lại Phệ-xá-ly. Tuy nhiên, câu văn trước đó lại chỉ “cử chí” chứ không thấy “thư hành”, hàm ý không đi đến Ni-ba-la. Do vậy, việc ngài Huyền Trang có đến Ni-ba-la không vẫn còn tồn nghi.


    « Xem chương trước       « Sách này có 16 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Pháp bảo Đàn kinh


Hạnh phúc là điều có thật


Kinh Duy-ma-cật (Việt dịch)


Nguyên lý duyên khởi

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.114 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...