Trời còn sớm, tôi muốn dừng nghỉ và viếng thành Pédé-Dzong, vì còn vài
cây số thì tới. Khi gần đến mới hay một tin rất quan trọng làm cho tôi
phải sắp đặt lại việc đi đường.
Thấy tôi vắng mặt ở Darjeeling lâu, người ta đã bắt đầu dị nghị. Và khi
biết rằng tôi đã qua khỏi xứ Sikkim thì họ mới nghi hoặc thêm. Sau nghe
đồn rằng có người gặp tôi gần Lachen, họ mới chắc rằng tôi đi vào Tây
Tạng và muốn đến kinh thành Lhassa.
Chính phủ liền thông báo cho các quan địa phương. Ngay hôm tôi đi khỏi
Shigatsé ngày 7 tháng 2, thì chính phủ trung ương và hội đồng các bộ
trưởng ở Lhassa biết rằng tôi đã vào Tây Tạng và đang đi thẳng vào kinh.
Ngày kế đó chính phủ liền gởi giấy báo đến các quan địa phương, ra lệnh
tìm kiếm tôi mà bắt lại và đuổi trở ra khỏi biên giới. Vài ngày sau,
không nghe ai bắt được tôi, chính phủ bèn cho các quan chức được phép
đón xét và lục soát kỹ lưỡng những bộ hành và thương khách đi theo đường
vào kinh đô.
Các đường lớn đều có người canh giữ rất nghiêm. Chúng tôi đi theo đường
vắng, ở mấy chỗ đó họ chưa hay, cho nên chúng tôi không nghe tin tức gì
lạ. Đến khi tới đường lớn từ Gyantsé, thẳng suốt vào Lhassa, chúng tôi
mới hay thiên hạ đồn rùm với nhau rằng có yêu quái ở ngoại quốc đang đi
vào trong nước.
Dân gian lấy làm sôi động, ai cũng đều hỏi chúng tôi xem có thấy người
lạ ấy hay chăng. Lẽ tất nhiên là chúng tôi đáp rằng không thấy. May cho
chúng tôi đi với đám người danh giá, cho nên không ai để ý nghi ngờ.
Nhưng họ đã tới nhà, bây giờ mình không tháp tùng với ai, tôi cứ sợ gặp
việc trắc trở nên lòng lo lắng ái ngại hoài. Đường đến kinh đô còn không
bao xa, lối chừng tám chục cây số, mà họ giữ gìn rất nghiêm nhặt, nhưng
cũng đánh liều nhắm mắt đưa chân. Từ hôm đi không có việc gì trở ngại,
là vì không ai nghi ngờ. Tuy vẫn chắc ý về sự thay hình đổi dạng, nhưng
họ xét kỹ lắm, đâu dám chắc gì là mọi chuyện đã hoàn hảo.
Ngủ không được, tôi bèn ra ngoài đi dạo với La-ten. Tôi có đem theo đồ
để vẽ mặt mày, vì mấy hôm nay quá dày mưa dạn gió nên nước thuốc đã phai
nhạt đi dần. Chúng tôi đến chỗ vắng, La-ten bèn sửa dặm lại cho tôi.
Xong rồi, tôi bỏ hết đồ ấy, vì nếu đem theo chúng xét gặp được thì bại
lộ. Hai đứa tôi đi dạo gần đến chùa Samding là một cảnh chùa có danh
tiếng ở trong nước. Chùa này lạ hơn hết, phân nửa người tu hành là tăng,
còn phân nửa là ni, trên hết có sư trưởng là một sư nữ, gốc là Thánh mẫu
Dorjé-Pamo tái sanh. Chùa của Phật bà tuy không phải của chính phủ, vì
tăng chúng đội mũ đỏ chứ không phải đội mũ vàng. Song Nhà nước cũng đối
với bà ngang hàng như đức Phật sống là nhà vua. Những khi đi xa bà cũng
ngồi kiệu như đức Đạt-lai Lạt-ma và đức Ban-thiền ở chùa Trashi.
Bà không giữ lệ cạo đầu như các vị tăng ni, nhưng bà không bao giờ nằm
mà ngủ. Ban ngày bà có thể ngồi ngủ trên ghế dựa, nhưng ban đêm bà thức
trọn mà tham thiền, bà ngồi tập trung tư tưởng rất nhọc nhằn theo như
cách của các nhà tu hành đại định.
Tôi không dám đi gần chùa và không dám để cho mấy vị sư với sư cô gặp,
vì trong xứ người ta còn nhớ một chuyện truyền kỳ: Ngày trước có một
người ngoại quốc vào xứ, thì nước dưới hồ trong chùa liền đổi màu và
thành nước độc. Từ đó về sau, người trong chùa biết mà ngăn ngừa người
lạ. Chùa không nằm trên đường đi, thì dại gì phải đi ngang ấy cho mang
họa. Dạo cảnh qua loa, rồi La-ten với tôi cùng trở lại chỗ ngụ ở làng
Yasé.
Chuyện Phật bà và những lời đồn dân dã làm cho thằng La-ten sợ lắm. Anh
ta nói với tôi rằng nên trở về, hoặc có muốn đi thì nên đi một cách công
khai, bất quá họ có bắt cũng chỉ giam lại rồi trục xuất về xứ. Còn để
người ta truy tìm, bắt được theo cách giả dạng thế này thì chắc người ta
sẽ hành khổ và giết chết mất. Tôi đáp rằng mình đi đã xa rồi, trở về là
dại lắm, và tôi đã quyết chí vào kinh, dẫu cho nguy cách nào tôi cũng
không lo ngại. Anh ta không lấy gì làm hài lòng, nhưng cũng nghe theo,
và hứa giữ lòng trung thành với tôi.
Tôi cũng định tháp tùng với một đoàn lữ hành đặng khỏi bị nghi ngờ, như
vừa rồi nhờ đi chung với người bản xứ mà tôi vào tới làng Yasé được dễ
dàng. Tôi cho La-ten đi rảo trong làng tìm xem có đoàn lữ hành nào muốn
tới Lhassa chăng. Anh ta chẳng tìm được. Nhưng ở trong một quán trọ, gặp
ba lữ khách sắp vào Chushul, xứ này cách đô thành Lhassa sáu chục cây
số. Chúng tôi tạm cho là được nên thương thuyết với họ đặng đi chung một
đoàn.
Trời gần sáng, cả bọn ra đi. Một lát sau, thấy thành Pédé-Dzong phía
trước. Chúng tôi muốn đi qua khỏi thành hồi khuya, nhưng vì trễ nên có
một người lính tuần trên tháp trông thấy. Chúng tôi không ngừng ở trong
làng về phía dưới thành, lại đi rất mau. Liền đó, có hai viên quan trong
thành chạy tới và ra lệnh bảo chúng tôi ngừng. Họ hỏi chúng tôi ở đâu
lại và có gặp người ngoại quốc nào chăng.
Lúc ấy, tôi tưởng là không xong rồi. Họ xét thằng Sa-tăn rất kỹ vì nó là
chủ. Họ cũng xét tôi, nhưng sơ sài lắm, còn sơ sài hơn xét thằng La-ten,
vì tôi là đầy tớ bậc chót! Họ cũng mở nút áo tôi ra, thấy ngực tôi cũng
đen đúa dơ dáy như mọi người, bèn thả tôi. Tôi lo sợ về cặp mắt lắm,
nhưng họ không thấy. Họ đâu có ngờ được rằng, một người Tây đi bộ ròng
rã bốn chục cây số với các đồ nặng trên vai, còn người làm thuê lại ngồi
trên yên ngựa rất thong dong nhàn hạ!
Trải qua bao cơn nguy hiểm, bao lần thấy sự chết giữa đường, nghĩ lại mà
tự khiếp. Bây giờ đi tới kinh đô, thấy người ta tuần phòng nghiêm ngặt
lắm, lại càng khiếp thêm.
Chúng tôi nghỉ trong nhà trọ, làm quen với cô chủ. Cô ta vui lòng ngồi
lại mà cói chuyện với chúng tôi. Tôi buồn ngủ, ngồi dựa góc tối. Thình
lình nghe cô ta đem chuyện người ngoại quốc muốn vào kinh đô mà thuật
lại và hỏi rằng chúng tôi có thấy người ấy hay không. La-ten đáp rằng
chẳng gặp ai là người ngoại quốc và bởi vì bận công việc đi đường, nên
không để ý đến việc gì hết. Cô ta nói rằng muốn gặp yêu quái lạ lùng và
sẽ có cách xử trí với yêu quái. Cô ta chắc rằng quan chức tìm kiếm kỹ
lắm, thế nào cũng phải bắt được. Hơn nữa, đức độ nhà vua lớn lắm, có thể
làm cho yêu quái bị người ta nhìn bắt và đuổi về xứ.
Tôi nghe cô trông cậy vào đức của Phật sống thì lưu ý lắm. Người Tây
Tạng kính phục nhà vua, xem như đức Phật đầu thai, có đủ toàn năng và
toàn trí, họ nghĩ rằng ngôi vua chỉ để riêng cho đức Phật sống, chớ
thường nhân không ai dám tranh giành.
Vua đã trải qua mấy lúc gian truân, mấy phen lận đận lưu vong, nhưng
lòng dân vẫn còn tôn trọng ngài luôn. Có lẽ họ đã quên mất mấy năm lưu
lạc của vua rồi. Cô chủ nói hết chuyện, chúng tôi ngủ đến khuya rồi dậy
ra đi.
Trời vừa rạng sáng, đi đến mé sông, phải qua đò. Tôi sợ bên kia sông có
quan đứng đón mà xét bộ hành từng người. Chúng tôi tới bến đò thì bọn
chèo còn ngủ. Họ chờ đến sáng mới chịu đưa khách qua sông. Đứng một lát
lạnh quá, nhưng tôi không muốn đứng gần nhà đò, bèn đi dạo theo ven
sông, luôn dịp xem cảnh chùa trước mặt.
Chùa chỉ có chừng mấy trăm tăng chúng, nhưng là một chỗ có danh tiếng từ
xưa. Có danh là nhờ cái cầu sắt bắt ngang sông, gần bến đò. Bây giờ cầu
vẫn còn. Buổi rạng đông đứng trông thật là đẹp. Nhưng cầu không còn dùng
được, vì mấy năm sau này mé sông lở rộng ra, cho nên cầu dường như bắt
trên một cái cù lao. Người Tây Tạng không làm cầu lại, cho nên bây giờ
phải dùng đò mà qua sông.
Văn minh Tây Tạng ngày nay suy yếu rồi. Cái cầu ấy làm chắc lắm, đã chịu
nổi trên năm trăm năm, từ đời vua Tang-Tong tức là khoảng thế kỷ thứ 14,
15.
Người ta thờ vua Tang-Tong vào bậc thánh. Bây giờ vẫn còn thờ phụng
trong chùa gần cầu. Vị vua ấy chẳng những làm một cái cầu đó mà thôi,
ngài lại còn cất 108 cái chùa và 7 cái cầu khác bắt ngang sông
Brahmapoutre. Có nhiều cầu bây giờ vẫn còn dùng được như xưa.
Trời sáng, tôi trở lại bến đò. Tôi đang đi, có một toán ni cô đi qua
mặt. Họ cũng đi lại bến đò, vừa đi vừa nói chuyện một cách vui vẻ.
Mấy người dưới đò thức dậy rồi. Cùng nhau xuống đò, có mấy ni cô, ba bốn
thầy sãi với bọn chúng tôi.
Đò đi chậm chạp. Nhưng khi qua sông, thật may mắn là không gặp quan chức
đón hỏi. Vì đò là của riêng, chùa cho người ngoài mướn, thâu lấy một
phần lợi vào việc nhang đèn
Chúng tôi đi chung với mấy người nữa. Họ đi về quê của họ là Chushul.
Qua khỏi một cái truông, bây giờ đã thấp thoáng thấy thành phố Chushul
từ xa. Chỗ này có binh lính rất nhiều, ấy là một địa điểm trọng yếu về
quân sự.
Hồi năm 1910, lúc Tây Tạng bị Trung Quốc chiếm, vua Đạt-lai Lạt-ma trốn
qua Ấn Độ, lính Trung Quốc quyết vây bắt cho được vua, không cho thoát
ra ngoài. Một đội binh dưới quyền chỉ huy của tướng soái Tây Tạng tên
Nam-gang, là quan Tsarong-Shapé bây giờ, đã đón binh Trung Quốc tại chỗ
này đánh cầm chừng nhiều ngày để cho vua thoát ra khỏi biên thùy.
Chushul vì gần thành Lhassa, nên người ta canh giữ nghiêm hơn các nơi.
Mấy chủ nhà trọ đều ghi tên họ của hành khách lạ và có quan chức đến
khám xét thật kỹ, không ai lén lút vào kinh đô được. Mấy người bạn đi
đường với chúng tôi là người danh giá trong thành phố, đủ đảm bảo cho
quan chức tin chúng tôi là người chắc chắn, nên không ai ngăn cản, được
đi lại tự do. Từ đây cả bọn không được tháp tùng với ai, tôi lấy làm
tiếc lắm.
Trời nắng, tôi lại đang có bệnh, nhưng phải đi trước. Mấy người kia cưỡi
ngựa theo sau. Đến một chỗ vắng, không thấy ai, tôi bèn ngồi nghỉ, nhưng
không ngồi xếp theo kiểu người Tây Tạng. Thình lình có một viên quan với
hai người lính đi ngựa tới, rẽ qua một góc đường bất ngờ gặp tôi. Thấy
tôi ngồi theo dáng lạ, họ liền dừng ngựa lại họ hỏi tôi là ai, muốn đi
đâu. Tôi lấy làm ngạc nhiên vì một chuyện rất nhỏ mà họ cũng để ý nghi
ngờ. Tôi bỡ ngỡ, chỉ nói lập cập rằng tôi bị bệnh, rằng tôi là một người
nhà quê hèn mạt theo chủ đến kinh mà hành hương...
Sa-tăn với La-ten vừa đến kịp. La-ten hiểu ngay tình cảnh lôi thôi, anh
chàng liền tiếp cứu tôi bằng một cách rất hay. Anh chạy ngựa lại, quất
tôi một roi rất đau và la rầy tôi sao dám ngừng nghỉ dọc đường, rồi hét
lên bảo tôi phải đi liền. Tôi ríu ríu đi. Hai người đứng lại nói chuyện
với viên quan, chỉ một lát hai người lại theo kịp tôi và cho hay rằng
chuyện đã êm.
Mấy tháng sau, khi tôi về xứ, mới biết rằng trước đó đã có ông Sir
Francis Burton muốn lén qua thành La Mecque, do sơ ý cũng ngồi theo cách
như tôi mà bị chúng bắt được rất lôi thôi.
Tôi đi trước, để mấy người của tôi đi ngựa theo sau. Dọc đường, có nhiều
người qua mặt chúng tôi. Họ đi ngựa vào kinh. Và chúng tôi cũng qua mặt
nhiều người khác. Những người nầy là người hành hương, họ chịu khổ để
cầu được công đức. Có một người làm cho tôi rất chú ý. Ông ta vừa đi vừa
lạy, cứ mỗi một bước thì lạy một lạy. Tôi có cúng dường cho người ấy.
Ông nói rằng định đi hành cước đến các danh lam bên Lhassa. Ông đi như
vậy từ thành Shigatsé, vừa đi vừa lạy đã được một năm rồi. Ông nói rằng
muốn thí thân cách ấy đặng sám hối các tội lỗi trước đây của mình. Ở Tây
Tạng, những sự khổ hạnh như thế đó là rất thường. Song tôi mới thấy lần
này là lần đầu.
Đi gần tới, nhưng chưa thoáng thấy được kinh thành. Khi trèo lên một
đỉnh núi, tôi nhìn thấy từ xa một đám lầu đài, chất chồng với nhau,
trông thấy vẻ đồ sộ đến nổi không bao giờ tôi quên được. Tôi nghĩ bụng
rằng chỗ đó chắc là chùa Drépung là ngôi chùa có tiếng lớn nhất ở đây.
Tăng chúng trong chùa theo quy định là bảy ngàn bảy trăm người, nhưng
thường thì nhiều hơn, có thể đến hơn mười ngàn.
Kinh đô có nhiều chùa, nhưng không nơi nào đông bằng chùa này. Tại kinh
thành có ba cảnh chùa lớn, mỗi chùa có cả lực lượng riêng, có tổ chức,
phẩm trật lớn nhỏ, và có nhiều ruộng đất ở khắp trong nước. Ba ngôi chùa
này có ảnh hưởng lớn đối với chính phủ. Cho đến đức vua Đạt-lai Lạt-ma
với chư đại thần cũng không dám coi thường họ. Nhưng to lớn, có thế lực
mạnh mẽ hơn hết, oai quyền hơn hết, mà lại bảo thủ hơn hết là chùa
Drépung, sừng sững trước mắt tôi. Kế là chùa Séra có năm ngàn năm trăm
vị tăng, và chùa Ganden với chừng ba ngàn ba trăm. Nhưng chùa Ganden có
danh về lịch sử và cảnh chùa nghiêm trang hơn hết trong nước, do đức
Tsong Khapa lập ra. Ngài là người sáng lập phái thầy tu mũ vàng, có
những cải cách cho đạo Phật rất thích hợp.
Khi xuống núi, tôi thấy một cái hình chạm rất lớn, hình đức Phật ngồi
trong một hòn núi. Hình chạm khéo léo, tinh xảo và thần tình lắm. Chúng
tôi theo đường đi thẳng tới chùa Drépung, nhưng chưa thấy kinh thành.
Lạnh lắm, mệt lắm, mà càng đến gần, càng lặng thinh một cách ghê sợ.
Nhiều người, có cả nhiều nhà sư, cũng đi vào kinh đô. Bọn chúng tôi đi
tới rất khổ. Mấy nhà sư được dân chúng kính nể lắm, họ không thèm ngó
đến chúng tôi. Có nhiều lần người ta hỏi chúng tôi từ đâu tới, Sa-tăn
đáp rằng ở bên Sikkim qua. Họ lại hỏi có gặp người ngoại quốc muốn vào
kinh thành chăng? Chúng tôi chỉ trả lời không thì rồi họ chẳng hỏi han
gì thêm nữa. Khắp nơi, người ta đều nhốn nháo. Ai nấy cũng xôn xao vì
chuyện tôi.