Mình trót đã hứa, nên phải giữ lời. Dầu có luyến tiếc gì cũng đành phải
trở qua Ấn Độ. Mỗi ngày, tôi khảo sát thêm về cuộc hành trình lần sau
nữa, cũng như tôi đã dò xét và học hỏi trong khi ở lại Gyangtsé. Từ
đường Yatung đến Gyangtsé, thiên hạ đều quen biết tôi, bây giờ phải kiếm
những nẻo đường qua những truông khác để vào xứ Tây Tạng mới được. Nhưng
phải hết sức cẩn thận, vì sự đi lại của tôi làm cho quan chức Tây Tạng
họ nghi ngại lắm. Muốn dọ xét cho thật kỹ, thì phải mất thời giờ nhiều,
vì muốn hỏi thăm xứ sở, trước phải nói một ít chuyện bông lông đã. Tôi
đã biên đầy trong quyển sổ tay nào là thành thị, đường sá, nào là đường
núi, đường sông... mà cũng còn chưa lấy làm rõ rệt bao nhiêu. Tôi định
giả làm một người Tây Tạng, nếu làm không kỹ thì rất dễ nguy. Tuy tôi
cũng biết rõ tiếng Tây Tạng từ năm sáu tháng nay, nhưng chưa thật là một
người Tây Tạng hoàn toàn. Vả lại, ngoài ra viên thơ ký với mấy ông quan
cùng mấy thầy tu, mấy nhà trí thức, thì tôi chưa nói chuyện với đủ hạng
người, vì ngôn ngữ tôi dùng là thứ ngôn ngữ thanh tao văn nhã của hạng
trí thức, không phải thứ ngôn ngữ phổ thông của người dân lao động.
Muốn cho khỏi ai nghi ngại, tôi bèn giả làm một người giúp việc. Anh em
quen biết lấy làm xấu hổ và chê cười tôi vì tôi thường đi lại trong mấy
nhà bếp trà trộn với những kẻ tôi tớ mà nghe họ nói chuyện, và ghi lại
những cách nói, những tiếng thông dụng của họ nói với chủ. Tôi lại còn
học cả cách đứng ngồi, cách khạc nhổ, những lời nói cộc cằn, gây gỗ...
cho đến cách ve vãn phụ nữ của họ nữa!
Khi cùng nhau năm người họp lại tại thành Darjeeling bên Ấn Độ, tôi đem
ý định của tôi ra mà bàn thì bốn người kia kích bác lắm. Mãi sau họ mới
chịu nhận là hữu lý. Ban đầu, các bạn cùng nhau bảo rằng tôi nên chọn
một người trong bốn anh em mà cùng đi. Nhưng xét lại chỉ một mình tôi
biết tiếng Tây Tạng, nên anh em giao cho tôi lãnh phần đi vào kinh đô xứ
Phật, thành Lhassa.
Anh em định cho tôi đi một mình nên tôi phải học biết cách chụp và rửa
ảnh.
Tôi sắp đặt các công việc và ở nán lại một tháng mà mua thú vật và kiếm
kẻ làm tay chân. Tôi lén qua thành Kalimpong mua một con la với ba con
ngựa. Cũng tại Darjeeling, tôi thuê một người bản xứ để giả làm chủ đoàn
khi vào nước Tây Tạng, bởi anh ta có vài chỗ nhu nhược nên tôi đặt là
Sa-tăn, thêm nữa là anh chàng La-ten là người lanh lợi và thành thật đã
có đi theo giúp tôi trong chuyến đến thành Gyangtsé. Thêm một người nữa
để lo cho mấy con vật, được tôi gọi là Syce, và một người thứ tư khờ
khạo hơn, giúp làm những việc nặng nề, tôi gọi là Diogène. Mấy người này
toàn là dân xứ Sikkim, tự do mà ra vào Tây Tạng, vì cũng là người Tây
Tạng. Còn tôi cũng giả ra người Sikkim để nếu có nói sai tiếng Tây Tạng,
người ta cũng sẽ bỏ qua, ngỡ rằng vì tôi ở cách xa nên nói không rõ rệt
giọng ở kinh thành.
Tôi lấy cớ khác mà mướn kẻ tùy tùng. Như vậy làm cho người ta không để
lòng nghi, chớ nếu họ hiểu rõ ý định của mình thì bại lộ cả còn chi. Vả
lại, tôi cũng biết rằng nếu tôi ra đi kín nhẹm thì không xong. Sự ra đi
thình lình và bí mật làm cho người ta dễ sinh nghi ngờ mà mình phải mang
hại. Tôi định đi trong lúc thanh thiên bạch nhật. Cho nên tôi cho quan
chức hay rằng tôi sẽ đến xứ Sikkim trong hai tháng, đi miệt núi non mà
khảo cứu về đất đai. Làm như vậy cho mấy người của tôi họ an lòng và có
đủ nghị lực khi đi đường.
Bây giờ nói đến vấn đề ăn uống. Tôi phải bỏ tiền ra mua những đồ thường
dùng, nhưng cần nhất là mua đủ đồ ăn, và đồ dùng để giả hình. Tôi định
hễ tới Tây Tạng thì tôi sẽ ăn uống như người trong xứ, cho nên đồ ăn đem
theo vừa đủ dùng mà thôi. Tôi cũng có đem đường và bột, vì nhiều khi qua
truông gặp bão phải ở lại không đi được, nên lo trước là hơn. Về phần
quần áo thì tôi có mấy bộ đồ Lạt-ma và người chức tước. Nhưng đã giả làm
kẻ tôi tớ thì còn mong gì mặc những đồ tốt đẹp sang cả đó nữa! Tôi kiếm
đồ hèn, được một bộ đồ lao công và vài cái áo cũ mèm. Tôi lại dùng nước
teinture diode mà sơn tóc, lại trộn thứ hóa chất này với nước xác cao và
chanh mà sơn cặp mắt. Ai cũng tưởng chúng tôi đi viếng chùa thành
Peymayangtsé là chùa to lớn hơn hết trong xứ, chớ có ngờ đâu chúng tôi
định đi thẳng tới kinh đô Lhassa.
oo0oo
Người ngựa cùng ra đi, từ giã thành Darjeeling vào ngày 10 tháng 1 năm
1922. Tôi quyết đến hai thành lớn hơn hết ở Tây Tạng là Shigatsé và
Lhassa, nên phải viếng thành Shigatsé trước. Vì khi đến kinh đô, tôi còn
muốn cho người ta biết tên tuổi tôi, bấy giờ không thế gì đi chỗ nào
khác nữa được.
Đi theo con đường lớn Pari-Gyangtsé thì bất tiện. Tôi bèn theo đường nhỏ
và nguy hiểm hơn. Ít ai đi đường này. Hễ qua mùa đông thì đi không được,
truông và đèo đều bị tuyết phủ kín hết. Mình chỉ cầu cho có đường mà đi
là may lắm, không quản xấu tốt chi cả. Vả lại đi đường nguy hiểm thì
khỏi gặp quân canh giữ ngăn cản lại. Vậy nên tôi chọn con đường đi ngang
xứ Sikkim đến thành Kamba-Dzong, rồi sẽ lần đến Shigatsé và Lhassa.
Ngày đầu, đường dốc lắm. Ngồi trên ngựa không được, thêm nữa trời mưa
mới vừa dứt cho nên đường lầy, rất khó đi. Anh chàng La-ten khuân cái
máy chụp ảnh, nặng quá nên vấp té rất đau. Tôi sợ cái máy hư, nhưng chỉ
sửa lại một chút là tốt, không sao cả. Xế chiều, đến chân núi và tới cầu
qua sông Ranjit, ở đây là biên giới của Sikkim và Ấn Độ (thuộc Anh). Đến
giữa cầu, có lính tuần xét giấy thông hành. Họ hỏi tôi có ký tên trong
tờ cam kết người ta không cho phép tôi từ Sikkim mà đi vào xứ Népal, xứ
Bhutan hay xứ Tây Tạng hay không. Tôi ra tuồng không hiểu câu nào. Ở
những chỗ này, giả dại qua ải là kế rất hay! Họ thấy tôi không hiểu, bèn
bỏ qua. Tôi lấy làm vui mà được qua ải biên thùy. Thay vì ngừng nghỉ
trong làng, cả nhóm đi luôn ra ngoài đồng vắng nhà cửa, rồi che trại mà
nghỉ đêm.
Nhiệt độ không ổn định. Sớm mai ra đi lạnh lắm, mặc năm ba lớp áo, đến
chiều thì nóng nực cho đến muốn bỏ cả áo mà đi trần. Trưa nắng, người
ngựa đều mệt, bèn nghĩ tại làng Nam Chi. Tôi còn mặc đồ Âu phục, dân
chúng thấy vậy đến coi rất đông, lấy làm lạ lắm.
Qua hôm sau, 12 tháng 1, có lính hỏi giấy tới hai lần. Có lẽ người ta
coi chừng tôi kỹ lắm rồi. Giấy thông hành còn dùng được nên tôi đi đường
không sao. Nhưng là một triệu chứng không tốt. Tôi khởi sự chụp ảnh,
càng đi thì cảnh càng đẹp. Cảnh nơi Kinchinjonga thật đẹp, lại cao lắm,
ấy là dãy núi đứng về hàng thứ ba trên hoàn cầu, đỉnh núi chín ngàn mét
khỏi mặt biển.
Đi đến Damlang, đường chia làm hai ngã. Một ngã đi đến chùa lớn
Pemayangtsé, một ngã đi về hướng thành Gantok, kinh đô xứ Sikkim. Mấy
người tôi thuê ngỡ rằng tôi đi viếng chùa, còn tôi thì phải tách qua tay
mặt, theo đường đi Gantok. Nhưng tôi nói với họ rằng sau sẽ ghé lại chùa
Pemayangtsé, bây giờ phải đi vài ngày đến những chỗ lạ đặng quan sát cho
rõ thêm.
Đi được một ngày đường, mấy con la mệt lắm, làm thế gì cũng không bước
tới. Một người giúp việc, anh chàng Syce bèn cho mỗi con uống một tô
nước trà. Tôi rất ngạc nhiên thấy mấy con la được khỏe lại và lại đi như
thường.