Một hôm, nhằm ngày 19 tháng 1 năm 1922, chúng tôi dừng lại nghĩ gần đồn
Tsontang. Chỗ này quân lính canh tuần nghiêm ngặt lắm. Ai đi qua họ đều
chận lại mà xét giấy và ghi tên. Tôi không muốn cho họ gặp, nên trời
chưa sáng đã vội lên đường. Tôi van vái chư Phật xin phò hộ để tránh
khỏi bọn lính canh. Chắc rằng nhờ vậy nên đi được bình yên vô sự. Về
sau, tôi nghe rằng chính phủ trung ương hay được tin tôi vào Tây Tạng
nên đã bắt ông cảnh sát trưởng đồn Tsontang đưa ra Hội đồng quân vụ xử
lột chức đuổi về làm dân.
Chúng tôi đi ngang sông Tista, chỗ này có truyền thuyết trong lịch sử
Tây Tạng. Sông chảy rất mạnh. Đứng trên cầu trông xuống lấy làm đáng sợ.
Ngày trước, người ta đem những tù nhân bị xử tử hình ra đây mà giết. Họ
bắt tù nhân đứng trên cầu, rồi xô xuống, tù trôi theo nước mà chết. Bọn
nhà quê ở gần còn nói rằng đôi khi họ có nghe tiếng than khóc, chính là
tiếng khóc của hồn ma những tù bị tử hình.
Qua khỏi làng Tsontang tức là vào địa phận xứ Tây Tạng.
Càng vào sâu bên trong, càng leo nhiều núi. Núi cao, đèo cả, truông hiểm
nguy chạy dài trên tám chục cây số. Ở đây, cũng có riêng một đoàn dân,
gọi là dân ở đèo, người Lapas, họ nói tiếng khác và có tập tục riêng,
phần đông chuyên nghề nuôi bò Yak, giống bò đặc biệt của xứ này.
Nhiều chỗ có nước đóng băng, tuyết phủ cao như mấy hòn núi, chúng tôi
phải dè dặt từng bước. Cảnh lạ, xem đẹp lắm. Nhưng phải đi bộ, vì ngồi
trên ngựa không được. Gần tới làng Lachen, chúng tôi che trại trên
tuyết, vì sợ bị chận nghẹt trên đèo.
Ngày 20 tháng 1, chẳng tiến được chút nào. Mấy con thú mệt đừ, còn người
thì hết đồ ăn, phải ở lại mua thêm. Gần đến lúc tôi phải thú thật cho
những người toi thuê đi theo biết, nhưng chưa dám tỏ thật rằng tôi muốn
đến Lhassa. Tôi nói với họ rằng tôi muốn viếng làng Kampa-Dzong bên Tây
Tạng, làng ấy còn cách chẳng bao xa. Họ nghe, lấy làm sợ sệt, cùng nhau
bảo rằng đèo đã bị tuyết phủ hết rồi. Tôi quyết đi nên nói rằng hễ chừng
nào đi không được nữa thì sẽ trở lại. Họ ép lòng nghe theo, nhưng họ
muốn tôi hứa rằng tôi sẽ cúng vào chùa La-chen một số tiền khá lớn để
nhờ vị sư trưởng dẹp tuyết cho trống đường. Ai cũng tưởng hạng thầy tu
có phép sai khiến cơ trời, và ai cũng đồn rằng sư trưởng chùa La-chen có
phép làm cho tan tuyết và hết mưa. Tôi không muốn tin theo họ, nhưng
cũng hẹn chừng trở về mà không có tuyết, đi được như thường thì sẽ cúng
dường ông Lạt-ma chùa La-chen.
Đến xế chiều xảy ra một việc rủi, khiến cả bọn đều lo sợ. Ngựa và la đi
ăn cỏ mấy chỗ tuyết chưa kịp phủ, giây lát đều coi ra thê thảm lắm. Mấy
người theo tôi không lấy làm lo. Họ nói rằng tại ăn phạm một thứ cỏ độc
thường mọc trong xứ, nếu không cho giải thì chết, chỉ có đường là cứu
được thôi. Tôi nghe lời đem lấy đường cho thú ăn. Ngựa là la đều khỏe
lại như thường. Kế tôi sai mấy người ở vào làng La-chen mà mua đồ ăn và
dặn phải giữ kín cuộc hành trình. Phải chi bọn họ kín miệng thì đã êm.
Hóa ra đã kiếm mua không được đường thì thôi đành nhịn (vì người Tây
Tạng không dùng đường), chàng Sa-tăn lại gặp người quen bèn đem câu
chuyện đi đường mà thuật, lại còn bảo người kia thề chớ hở môi.
Tôi hay tin ấy giận lắm. Đây rồi bên thành Gantok, kinh đô xứ Sikkim, họ
sẽ hay ra rằng tôi đã đến xứ Lachen. Kế đến, kinh đô Tây Tạng là thành
Lhassa hẳn cũng sẽ biết luôn. Tôi vừa nghe thì sửng sốt đến nổi không ăn
uống được. Đến sáng sớm liền ra đi, kẻo trể thì e dân đồn ra và quan
chức sẽ đến chận đường.
Nhiều điều đáng sợ dồn dập thêm. Tuyết xuống càng nhiều, trời xem ra u
ám lắm, thấy biết rằng bão đã sắp đến. Nhưng cần hơn hết là phải qua đèo
trước để tránh bão. Tôi không còn biết sợ tuyết một khi đã lên đến miền
cao nguyên. Mấy con la cũng khỏe lại nên đi mau. Nhưng ngựa còn mệt,
mình phải đi chân và dắt chúng theo sau. Đi rất chậm, vì phải vừa đi vừa
vẹt tuyết hai bên. Ở đây, cao đến bốn ngàn mét so với mực nước biển. Nếu
trong người mệt nhọc thì khó mà chịu nổi với độ cao này. Còn nếu lướt
núi cỡ này mà không chóng mặt, say núi thì về sau có thể trèo núi cao
đến sáu, bảy ngàn mét một cách dễ dàng. Đi càng lên cao, anh chàng
Sa-tăn bị nhức đầu, chóng mặt và lùng bùng lỗ tai. Chàng ta lại bị ngợp
mũi, nhưng cho ăn mấy tép tỏi, vừa nhai thì đã khỏi liền.
Tới làng Tangu, chỗ này qua mùa hạ có người ở, nhưng mùa đông thì họ đi,
chỉ còn có hai viên quan ở coi giữ đồn mà thôi. Chúng tôi cố đi tránh
đường, để họ không gặp cũng đỡ lo. Việc đi đường cứ trở ngại mãi. Được
một quãng thì đường lẫn với dốc núi triền xuống, trên mặt đầy tuyết,
không biết làm thế nào mà đi được. Ngựa và la cứ té mãi, đồ đạc cũng rớt
theo. Mấy người của tôi vịn lại, chụp đồ, té nhào theo và la khóc om
sòm. Tôi phải kiên nhẫn lắm mới sắp xếp lại cho có trật tự, rồi xẻ đường
trên tuyết mà đi. Phải dắt ngựa và la rất nhọc mệt cho đến nổi vừa qua
khỏi đoạn này thì chúng tôi đều kiệt sức. Tôi liền ra lệnh che trại mà
nghỉ.
Con ngựa của anh chàng La-ten già rồi, bộ dạng như gần chết. Nó đứng dựa
vào một gốc cây èo ọt, vì nơi đây cũng còn vài cây núi lơ thơ. Ngựa
không ăn uống gì nữa. Tôi bắt chước theo người bản xứ, cho nó uống trà
với rượu mạnh. Nhưng không công hiệu gì, nó lại hất bể cái chai cuối
cùng của tôi. Như vậy, nó sẽ không thể làm bạn đường cùng chúng tôi được
nữa.
Cả bọn mệt lắm, không ai che trại nổi, đành phải ngủ ngoài trời. Sáng mở
mắt thấy tuyết sa, tôi lấy làm sợ. Ban đầu ngỡ là ít, nhưng giây lát lại
thêm nhiều. Tuyết phủ trên mình, tôi lấy làm dễ chịu lắm. Trọn đêm chịu
lạnh, bây giờ tuyết phủ lên như nằm đắp một cái mền. Tôi không muốn dậy,
chỉ xoi thủng một lỗ trên mặt vừa đủ thở thôi. Mấy người theo tôi đều
sửng sốt, họ ngỡ rằng tôi bị tuyết lấp chết rồi. Tôi để cho họ than khóc
một lúc rồi mới chui đầu lên. Cả bọn ngạc nhiên và tưởng rằng tôi có
phép thần. Trong một lúc, họ coi tôi như là một vị tiên thánh chi vậy.
Tuyết đóng càng thêm cao, không thấy cả đến một cái chòi để trú tạm. Đi
thì khó mà ở cũng không tiện. Muốn cho xuôi chuyện thì hẳn phải đi tới
liền, còn trở lại thì phía sau tuyết đã đóng nhiều hơn trước bội phần.
Mấy người theo tôi đều đồng ý rằng nên đi đến Tangu, sẽ xin tá túc ở nhà
mấy vị quan cai trị. Nhưng tôi không thể chấp thuận đề nghị ấy. Là vì
nếu tới đó thì tôi trông gì đi đến kinh thành Lhassa. May thay, tôi nhớ
lại mấy lời người ta chỉ dẫn lúc trước, ở khoảng giữa hai xứ Lachen và
Tangu có vài cái chòi để cho thú tránh nắng mùa hạ. Họa may lại đó mà
trú đỡ cũng được. Cùng nhau ra đi, thật khổ sở vì đường đã bị tuyết lấp
mất. Mãi xế chiều mới đến được một cái chòi. Chúng tôi xô cửa bước vào,
tuy xấu mà ai nấy đều lấy làm thích. Lại may có vài khúc củi, bèn đốt
lửa lên và cùng sưởi với nhau.
Qua hôm sau, 23 tháng 1, trời tốt nhưng tuyết cứ rơi mãi, không trông gì
qua được đèo. Mấy người của tôi quyết ý trở lại, tôi muốn cản, nhưng rồi
lại thuận theo ý họ. Trở lại, cũng thật là khổ. Tuyết đóng lên tới ngực,
mỗi người phải vẹt ra mà đi. Gặp một cái lều bỏ hoang, cả bọn bèn vào
nghỉ. Khi thức dậy, tôi nhất định không bỏ qua cuộc hành trình, quyết
không trở lại nữa.
Hôm sau trời tốt lắm, mặt trời chói sáng và tuyết sắp tan. May mắn là có
một chỗ không có tuyết phủ, la và ngựa có thể đến đó ăn cỏ. Thức ăn lại
gần hết, còn chỉ đủ chừng vài ngày, cho nên chúng tôi định nán lại vài
hôm.
Theo lẽ thì tôi nên trở lại xứ Sikkim chờ hai tháng nữa hết tuyết rồi sẽ
đi. Nhưng trong trí tôi dường như có một sự thôi thúc thiêng liêng bảo
với tôi rằng, nếu bỏ qua cơ hội này thì sẽ không bao giờ đi được nữa. Ít
hôm sau tuyết trên đất bắt đầu tan nhờ mặt trời chiếu xuống rất gắt. Tuy
tuyết vẫn còn đọng lại nhiều, nhưng tôi biết rằng cơ hội này là không
nên bỏ lỡ. Vả lại, đồ ăn gần hết, không ở lại được. Trọn buổi sáng tôi
hết sức dỗ dành bọn tớ, và rồi cuối cùng thì cứng rắn buộc họ phải đi.
Với họ, thì nên mạnh mẽ mới được, chớ lấy lý lẽ mà luận giải thì họ lại
chẳng chịu nghe.
Khi đến cái lều đã tránh bão hôm trước, gặp một con beo gấm, la và ngựa
sợ run, phải cho người ngủ gần chúng nó mới được. Loài beo gấm có tài đi
trên tuyết mà không bị lún. Người bản xứ cho rằng chúng có phép thần.
Sáng hôm ấy, ngày 27 tháng 1, chúng tôi lại ra đi. Càng đi càng gặp
tuyết dày đặc ép hai bên, mình đi ở giữa. Tôi đi rất khó khăn. Vả lại,
tôi vừa bị đau kiết mấy ngày nên yếu lắm. Nhưng tôi không cho những
người đi theo biết. Tôi bảo họ đi trước, nên họ không hay biết. Cứ đi
một chừng năm chục mét thì tôi té một lần. Mỗi lần té, tôi phải nằm nghỉ
một vài phút rồi mới đủ sức ngồi dậy đi. Tôi sợ cả nhóm sẽ bỏ lạc tôi
đàng sau. Thế nhưng rồi tôi thấy họ cũng mệt đừ như tôi, cũng té lên té
xuống và cứ đi tới chớ không còn thấy đâu là đâu nữa cả. Cho đến trời
tối đen mà còn đi. Thình lình anh chàng La-ten khóc rống lên, rồi mấy
người kia cũng khóc òa.
Trời tối, đi nữa không được. Tôi phải kiếm chỗ để nghỉ. Kiếm mãi mới
thấy một hòn đá to trên không có tuyết đóng. Dựa theo hòn đá mà giăng
trại lên một cách khổ nhọc vì ai nấy đều mệt đến muốn ngất. Tuyết bị gió
đưa lại, muốn đánh sập cái trại. Chúng tôi phải kê thùng và đồ đạc phía
ngoài để chống chịu. Cùng nhau chen cả vào nằm nhoài, tuy chỗ trống chỉ
vừa đủ một hai người! Còn thú thì chúng tôi đào lỗ dưới tuyết mà nhốt,
cũng may đến sáng chúng nó không đến nổi chết cóng. Lại may là đồ ăn
chưa hết, và vì mệt quá không ai biết đói nên chỉ ăn mỗi người một miếng
thịt thỏ cho qua bữa, tôi cũng ăn thịt sống theo kiểu người Tây Tạng lữ
hành.
Một giờ sau gió chừng như muốn lặng. Nhưng thình lình bão lại nổi lên
rất dữ, một trận bão lớn vô cùng. Trong vài phút, cả cái trại sập xuống
úp trên người chúng tôi. Cùng nhau phải ôm dính chùm lại với nhau kẻo
gió tốc trại mà tốc luôn người. Bão càng lúc càng to. Một trận cuồng
phong thổi hất cả bọn chúng tôi ra xa đến mấy mét, té lăn tròn trên
tuyết. May cho chúng tôi, lần lượt lồm cồm ngồi dậy, không việc gì.
Chàng Sa-tăn bỗng nhớ ra rằng mình vẫn còn là một thầy sãi, anh chàng
bèn niệm chú và niệm chư Phật. Chàng có cầu khẩn các thánh thần Tây
Tạng, nhất là đức Padma Sambhava, ông thầy thuở trước đã có công truyền
bá đạo Phật ở Tây Tạng và từng dẹp quỷ trừ yêu. Đến ba giờ sáng, trời êm
lại. Chúng tôi mới ngủ được. Ngày 28 tháng 1, khi thức dậy tôi thấy mấy
người đi theo mình đã sắp đặt hành lý và toan trở về, bỏ một mình tôi đi
tới. Tôi cũng thất vọng như họ và cũng muốn thối lui. Nhưng tôi tức vì
họ quyết định trước và không hỏi ý mình. Tôi biết không còn giảng giải
nghĩa lý gì với họ được nữa, bèn ôm lấy bao đồ ăn đưa lên trên hố và dọa
rằng hễ họ đi trở lại thì tôi liệng bao đồ ăn xuống hố liền. Kế tôi cắt
nghĩa cho họ nghe rằng đã qua đèo được nửa đường, giờ trở lại còn khó
hơn là đi luôn. Tôi không đợi họ trả lời, bèn đi trước một mình, mặc kệ
họ có theo hay không. Chẳng ngờ cái kế ấy lại thật hay, cả bọn liền ríu
ríu đi theo.
Ngày ấy, chúng tôi được may mắn không ngờ, là nhờ con beo gấm khi hôm đã
đi cùng một đường với chúng tôi. Dấu chân nó còn thấy rõ ràng trên đèo,
dấu rất ngay và đều, tuồng như nó đi trên đường cái. Chúng tôi cứ theo
dấu chân mà đi tới, khỏi mất thì giờ. Tôi tự hỏi con thú ấy vì sao mà đi
theo đường trong khi bị tuyết ngập cao. Có lẽ nó có tài ngửi được qua
lớp tuyết. Mấy người theo tôi nói với nhau rằng nhờ có Phật Thánh hộ trì
cho nên beo gấm hiện ra mà dắt đường cho chúng tôi.
Cảnh tượng bên Tây Tạng về mùa này thật là ủ rủ, buồn thảm. Đêm dài, gió
lạnh thấu xương. Trong bầu trời này, hẳn không có xứ nào khổ bằng xứ Tây
Tạng về mùa đông.
Hôm sau 29 tháng 1, chúng tôi đã hết thức ăn, lại còn đi sai bản đồ. Ở
giữa đèo mênh mông, lạc đường và hết thức ăn, chỉ có chết chớ không còn
mong đợi gì nữa. Mấy con thú cũng mệt lắm. Có một con ngựa đau mấy ngày
rày, coi nó gần tới số. Tôi định giúp nó cho khỏi chết đau, lại giúp cho
cả bọn được có vật ăn. Mấy người đi theo tôi tránh tội sát sanh theo nhà
Phật, tôi phải tự lấy dao mà cắt cổ ngựa. Đói lắm, cả bọn không còn chờ
gì nữa, đồng xúm lại mà mạnh ai nấy xẻo! Đối với người biết ăn, thịt
ngựa còn sống và còn nóng thì ăn không ngon, nhưng lâm vào cảnh chúng
tôi, đâu còn dám làm khó! Ai nấy đều ăn ngon miệng, vừa cứu lấy mạng
mình, vừa giúp cho con ngựa khỏi đau đớn trong khi nó sắp lìa trần.