Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó.
(There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua.
(Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai.
(Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ.
(The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Đương gia hòa thượng của am Dương Chi tên là Như Quang, có giữ trong am
một bức tranh do vị họa sĩ nổi danh đời Đường là Diêm Lập vẽ. Đó là bức
“Quán Âm Đại Sĩ đồ tượng”. Tranh vẽ Quán Âm Đại sĩ đầu đội mão châu
ngọc, khoác áo gấm, tay phải cầm cành dương liễu, tay trái cầm tịnh
bình, linh động như người sống, thật là diệu tướng trang nghiêm.
Có một bức họa nổi tiếng như thế, am Dương Chi rất là tấp nập. Nào là
những bậc học sĩ phong nhã, nào là khách hành hương đến lễ núi Phổ Đà,
ai cũng muốn đến nhìn ngắm, lễ bái, ngày nào khách khứa cũng đến như
nước chảy xiết không ngừng, khiến cho am Dương Chi nổi tiếng như cồn.
Có người khuyên Như Quang hòa thượng nên đem bức tranh quý vẽ pháp tượng
Bồ Tát Quán Âm treo trên chánh điện nhưng ngài sợ đông người tạp nhạp
làm hư hoại bức tranh, nên chỉ thờ bức tranh ấy trong một thiền phòng ở
viện sau.
Một hôm, có một cụ già quắc thước, tóc bạc phơ đến am Dương Chi, đứng
trước bức tranh Quán Âm ngắm nghía thật lâu, chân đi không đành. Hoà
thượng Như Quang thấy thái độ cụ già như thế bèn đến chắp tay xá:
– Thí chủ có vẻ ái mộ bức tranh này?
Cụ già cũng vái trả đáp lễ đáp rằng:
– Đẹp lắm! Vẽ đẹp lắm! Bút tích thật là tuyệt diệu, đáng cho hậu thế
khâm phục! Tại sao Pháp sư không cho tạc bức tranh này lên đá, thờ trên
chánh điện cho đại chúng lễ bái?
Hoà Thượng Như Quang nghe thế thật đúng tâm ý của mình nên vội đáp:
– Đúng thế, đúng thế! Ý của cụ rất hay, nhưng hiện nay tìm đâu cho ra
một người thợ điêu khắc tài hoa tinh xảo?
Cụ già nói:
– Nếu như Pháp sư không chê, có thể để cho lão tạc thử xem được không?
Hoà thượng nhìn lão già trân trân, gật đầu đồng ý. Hôm sau, cụ già cõng
một khối đá xanh bằng phẳng trơn tru đến phòng thiền ở viện sau. Cụ ngồi
trước bức tranh ngắm nhìn nguyên cả một ngày, rồi cười cười bỏ đi.
Hôm sau nữa, cụ già lại cõng đến đủ thứ dụng cụ khắc tượng, lại ngồi
trước bức tranh ngắm nhìn nguyên cả một ngày, rồi cười cười bỏ đi.
Cụ già ngồi trước bức tranh ngắm nhìn ba ngày, rồi suy nghĩ thêm ba
ngày, đến ngày thứ 7, cụ cầm cây bút tre, chuyên chú vẽ lại bức tranh
trên khối đá xanh. Vẽ xong, cụ bèn dùng mũi nhọn và sắc của cái đục, vừa
đục vừa tạc, bắt đầu điêu khắc. Hoà thượng Như Quang sai người đem cơm
chay đến, cụ không dùng; cho người đem trà thơm lên, cụ không uống, cứ
thế cho đến khuya khoắt, cứ “bong bong, bong bong” mà đục mà khắc liền
tay.
Không biết trải qua bao ngày bao đêm như thế, đột nhiên một đêm nọ,
tiếng “bong, bong” ngừng bặt, hoà thượng Như Quang vội vàng mặc y áo ra
khỏi giường, đến phòng thiền ở phòng sau xem xét, thì không thấy cụ già
đâu nhưng có một bia đá tạc hình ngài Quán Âm đã dựng ở đấy rồi, và bức
tranh tạc tên đá giống hệt như bức tranh mẫu. Hoà thượng Như Quang rất
hài lòng, đem phiến đá tạc hình ngài Quán Âm thờ ở chính điện. Từ đó,
khách đến am lễ bái lại càng đông hơn nữa.
Đến năm Vạn Lịch nhà Minh, có một đêm tối đen như mực, đưa tay ra không
nhìn thấy năm ngón, am Dương Chi bị lửa cháy, lửa cao tới trời, tất cả
chỉ còn lại đống tro tàn, bức hình Ngài Quán Âm cũng không thoát khỏi
ách nạn. Hoà thượng Như Quang xông tới đống ngói còn nóng như thiêu đốt,
dùng tay trần mà bới mà đào, vẫn không sao tìm thấy bia đá có tạc hình
Ngài Quán Âm. Ngài cứ quay cuồng nơi ấy, tâm lo lắng như nung như nấu.
Chúng tăng trong chùa thấy hoà thượng như vậy, một mặt thì an ủi, một
mặt thì chia nhau đi các núi, các thung lũng tìm kiếm, nhưng tìm khắp
núi Phổ Đà cũng không tìm ra dấu vết.
Một buổi trưa nọ, có một chú tiểu đến trước mặt hòa thượng nói:
– Sư phụ ơi, đừng khóc nữa, bảo tượng Bồ Tát Quán Âm đã trở về rồi!
Ngài Như Quang mở đôi mắt nhòa lệ nhìn chú tiểu nói:
– Con đừng nói lời an ủi ta, ta đau lòng quá rồi!
Chú tiểu thành thật nói:
– Thật mà, sư phụ, đệ tử có bao giờ nói dối đâu! Không tin, thỉnh sư phụ
tới xem!
Hoà thượng Như Quang nửa tin nửa ngờ, theo gót chú tiểu đến cửa Nam
Thiên. Thoáng nhìn, ngài thấy trên một bãi cát không xa bờ biển, bia đá
có khắc tượng Dương Chi Quán Âm nghiêng nghiêng tựa trên mặt một tảng đá
ngầm, sáng loáng phát quang dưới ánh mặt trời, tợ như từ dưới biển trồi
lên, nổi trên mặt nước mới tấp vào bờ vậy.
Hoà thượng Như Quang mừng không thể tả, lập tức bảo chúng tăng khiêng
bia về am.
Làm sao bia Dương Chi Quán Âm lại từ dưới biển trồi lên? Nguyên do là
đêm tối trời ấy có một tốp “giặc lùn” lén mò lên Phổ Đà Sơn, không ăn
cắp được tranh bèn lấy trộm Quán Âm bia rồi còn đốt cháy am Dương Chi
nữa. Có ngờ đâu khi tàu cướp vừa đến biển Liên Hoa, một trận gió dữ
thình lình nổi lên, tàu giặc mất phương hướng, bị sóng xô giạt tới cửa
Nam Thiên, húc phải đá ngầm khiến tàu bị lật, bia đá Quán Âm mới dựa
nghiêng trên mặt tảng đá ngầm như vậy.
Tìm được bia đá rồi, trước hết, hoà thượng Như Quang đem bia tới chùa
Phổ Tế thờ tạm, đợi am Dương Chi xây lại xong mới nghênh tiếp bia về
nguyên xứ. Cho đến ngày nay, hễ đến Phổ Đà Sơn du lịch, ai cũng muốn
được ngắm nhìn một lần tấm bia Quán Âm đã thoát được tai ách lớn và nghe
lại một lần truyền thuyết của tấm bia ấy.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần...
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.86 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đang online: Viên Hiếu Thành Huệ Lộc 1959 Bữu Phước Chúc Huy Minh Pháp Tự minh hung thich Diệu Âm Phúc Thành Phan Huy Triều Phạm Thiên Trương Quang Quý Johny Dinhvinh1964 Pascal Bui Vạn Phúc Giác Quý Trần Thị Huyền Chanhniem Forever NGUYỄN TRỌNG TÀI KỲ Dương Ngọc Cường Mr. Device Tri Huynh Thích Nguyên Mạnh Thích Quảng Ba T TH Tam Thien Tam Nguyễn Sĩ Long caokiem hoangquycong Lãn Tử Ton That Nguyen ngtieudao Lê Quốc Việt Du Miên Quang-Tu Vu phamthanh210 An Khang 63 zeus7777 Trương Ngọc Trân Diệu Tiến ... ...