Bồ Tát Quán Âm đến Cô Tô thì gặp ngay lúc thành phố này đang bị nạn đao
binh hoành hành. Dân chúng thành Cô Tô bị lính người Kim tàn sát chết cả
hơn mười vạn người, oan hồn vất vưởng các nơi đồng hoang mông quạnh thật
là khổ sở. Bồ Tát thấy thế khởi lòng lân mẫn, phát tâm từ bi sâu rộng,
nên thi thố pháp lực để cứu vớt những oan hồn ấy thoát khỏi mọi khổ ách.
Bồ Tát hóa thành một ni cô ở tuổi trung niên, tay cầm tịnh bình dương
liễu, đến nơi có nhiều oan hồn tụ tập mà chồng đá xây một cái đài cao
vài trượng, lên đài ngồi kết già phu và tụng những bộ kinh phá địa ngục
chướng như “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn
Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh” hoặc là “Đại Bi Chú Kinh”, mỗi lần một
ngàn biến. Xong một ngàn biến thì Ngài lấy nhánh dương liễu chấm vài
giọt nước cam lồ trong tịnh bình, nhìn lên không trung mà rắc khắp một
vòng, sau đó cắm lại nhánh dương liễu vào tịnh bình đâu đó cẩn thận rồi
mới tụng kinh tiếp.
Bồ Tát Quán Âm lập đài tụng kinh để siêu độ oan hồn của những người đã
bị giết hại trong chiến tranh làm cho những người đương thời rất ngạc
nhiên. Họ không hiểu ý nghĩa hành động này, mà chỉ thấy một người thiếu
phụ xinh đẹp đến xây một cái đài rồi lên đó ngồi tụng kinh, họ cho là kỳ
quái nên ùn ùn kéo nhau đến nhìn rồi nhao nhao bàn tán với nhau, mỗi
người một ý, không ai đồng ý với ai. Người thiếu phụ nói để chấm dứt sự
nghi ngờ của mọi người:
– Ở đây người vô tội đã bất hạnh chết dưới tay người Kim rất nhiều, số
người chết oan như thế lên tới cả chục ngàn sinh linh, thật là thê thảm.
Những oan hồn ấy không ở trong ba giới cũng không vào sáu nẻo, mà cứ lưu
lạc bơ vơ vất vưởng ở bên ngoài. Hôm nay bần ni có nhân duyên đến chỗ
này, vâng theo tôn chỉ từ bi của đức Phật làm sao cho họ được siêu độ,
vì thế nên mới xây đài phát nguyện tụng kinh trong 49 ngày, dùng nhành
dương liễu rảy nước cam lồ khắp nơi, để họ thoát mọi khổ ách và vãng
sinh nước Cực Lạc. Mọi người không nên nghi ngờ, bần ni không hóa duyên
cũng chẳng khất thực, chỉ muốn hoàn thành bổn nguyện của mình, thế thôi.
Mọi người nghe vậy thì lục tục kéo nhau bỏ về.
Thấm thoát ngày thứ 49 đã đến. Chiều hôm ấy là ngày cuối, hết hạn tụng
kinh của người thiếu phụ. Mọi người đúng kỳ hạn lại kéo nhau đến, yên
lặng nghe Bồ Tát thuyết pháp. Bồ Tát Quán Âm nói:
– Các vị hãy nghe tôi nói, tôi tụng kinh này tên là “Thiên Thủ Thiên
Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni
Kinh” có thể phá các chướng trong địa ngục, siêu độ tất cả mọi khổ cách
trong thế giới u minh, tụng xong một tạng thì tất cả mọi tai họa đều
được tiêu trừ hết.
Tiếp theo Bồ Tát đưa tịnh bình lên rồi lại nói:
– Nước trong bình này gọi là cam lồ công đức thủy, rảy khắp mười phương
chỉ cần một giọt thôi là đã có thể giúp người vãng sinh Cực Lạc quốc.
Coi như bần ni có nhân duyên với chỗ này nên không tính trước mà lại
đến. Bần ni đã làm xong trách nhiệm của mình, tức là lập cách siêu độ
giải trừ khổ ách cho hàng vạn sinh linh chết oan. Bây giờ công đức đã
viên mãn, bần ni cũng phải đi nơi khác.
Mọi người nghe nói vị ni sư này đã làm công đức như thế chỉ vì để siêu
độ cho người bị nạn mà không đòi gì để đền bù nên cảm kích vô cùng.
Trong đám những người ấy có một vị đột nhiên đại ngộ, nghĩ rằng việc làm
và lời nói của vị ni sư này không bình phàm chút nào, chắc chắn người
thiếu phụ này phải là Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân. Nếu thỉnh được Bồ Tát
hiển hiện bảo tướng thì một đời hạnh phúc biết bao nhiêu!
Nghĩ thế rồi, ông chạy lên phía trước nói với người thiếu phụ rằng:
– Nghe nói rằng Bồ Tát Quán Âm vân du trong nhân gian, hiện bảo tướng ở
bất kỳ chỗ nào, không biết chúng tôi có thể có may mắn thấy được Bồ Tát
một lần không?
Người thiếu phụ đáp:
– Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm. Nếu thành tâm muốn gặp Bồ Tát thì
trong tâm đã có Bồ Tát, nghĩa là đã là thấy Bồ Tát rồi!
Sau đó, thiếu phụ chỉ về hướng bờ sông nói:
– Không phải Bồ Tát đấy sao?
Mọi người nhìn theo hướng ngón tay của thiếu phụ, quả nhiên nhìn thấy
trên mặt nước có bóng mặt trăng sáng cực kỳ, và họ thấy Bồ Tát chầm chậm
bước vào trong bóng trăng ấy. Lúc ấy bóng trăng lung linh trên mặt nước
gợn sóng, bảo tướng trang nghiêm và từ bi của Bồ Tát ảnh hiện giữa trời
và nước, ánh sáng chiếu khắp tứ phía.
Mọi người thấy thế bèn ùn ùn quỳ xuống lễ. Lễ xong đứng dậy, trên đài đá
không còn bóng người thiếu phụ nữa. Người đã lên tiếng vừa rồi thấy điều
mình nghi là đúng nên rất sung sướng, những người ở tại chỗ cũng chợt
hiểu ra rằng người thiếu phụ chính là Bồ Tát Quán Âm hóa thân. Thế là
thiện nam tín nữ trong thành Cô Tô ai nấy đều đồng lòng quyên góp tiền
bạc để xây một ngôi Quán Âm miếu ngay tại chỗ mà Bồ Tát xây đài tụng
kinh và tạc tượng Bồ Tát Quán Âm tụng kinh, rảy nước cam lồ.
Bức tượng này được dân gian đặt tên là “Quán Âm rảy nước” (Sái Thủy Quán
Âm) hay là “giọt nước Quán Âm” (Trích Thủy Quán Âm).
Trong số những người đã nhìn thấy Bồ Tát hiện thân, có nhà họa sĩ Khưu
Tử Thanh, là một họa sĩ có nét vẽ tuyệt vời. Người này tin Phật một cách
thuần thành, có đầy đủ huệ nhãn, muốn cho người đời đồng chiêm bái bảo
tướng Bồ Tát và đồng thấm nhuần pháp vũ, bèn vẽ lại bảo tướng Bồ Tát thị
hiện trong bóng trăng trên nước. Trong bức họa này, ánh trăng lồng trong
ánh nước, bảo tướng trang nghiêm của Đại sĩ lấp lánh phóng ánh sáng
trong mặt nguyệt lung linh, nét bút tinh xảo và xuất thần, ai thấy cũng
phải tấm tắc là tuyệt diệu. Thế nhân gọi bức tranh này là “Thủy Nguyệt
Quán Âm”.
Khi bức tranh Bồ Tát này vừa được vẽ ra rồi, dân chúng thành Cô Tô liền
nối đuôi nhau trước nhà Khưu Tử Thanh, đều xin ông vẽ cho mình một bức.
Khưu Tử Thanh muốn tuyên dương công đức của Bồ Tát nên ai xin cũng đều
nhận lời, vì thế nên Phật tử đương thời ở đấy, ngoài bức “Sái Thủy Quán
Âm” ra, phần đông cũng đều thờ bức “Thủy Nguyệt Quán Âm”, cứ thế cha
truyền con nối cho đến ngày nay. Hiện thời ở Tô Châu, Hàng Châu, rất
nhiều nhà riêng hãy còn thờ phụng bức tranh Thủy Nguyệt Quán Âm.