Bấy giờ, đức Thế Tôn an lành ra khỏi thiền định, bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trí tuệ của chư Phật rất sâu xa không thể suy lường, cửa trí tuệ ấy khó hiểu khó vào, hết thảy hàng Thanh văn, Phật Bích-chi đều không có khả năng rõ biết.
“Vì sao vậy? Phật từng thân cận với trăm ngàn muôn ức vô số chư Phật, hết sức thực hành vô số đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, danh xưng được nghe biết rộng khắp, thành tựu pháp rất sâu xa chưa từng có, tùy chỗ thích hợp mà giảng thuyết, ý nghĩa khó hiểu.
“Xá-lợi-phất! Từ khi ta thành Phật đến nay, dùng đủ mọi nhân duyên, đủ mọi thí dụ, rộng nói các giáo pháp cùng vô số phương tiện, dẫn dắt chúng sanh khiến cho lìa bỏ mọi sự bám chấp.
“Vì sao vậy? Phương tiện, tri kiến ba-la-mật của đức Như Lai hết thảy đều trọn đủ. Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, không ngăn ngại, không thể suy lường, những phẩm đức như lực,
[1] vô sở úy,
[2] thiền định, giải thoát tam-muội đều thâm nhập tận cùng, thành tựu hết thảy các pháp chưa từng có.
“Xá-lợi-phất! Như Lai có thể phân biệt mọi điều, khéo giảng thuyết các pháp, lời lẽ êm dịu uyển chuyển, làm vui lòng đại chúng. Xá-lợi-phất! Theo chỗ cốt yếu mà nói thì Phật đã thành tựu hết vô lượng vô biên các pháp chưa từng có.
“Thôi đi, Xá-lợi-phất! Không nên nói nữa. Vì sao vậy? Pháp mà Phật đã thành tựu cao tột khó hiểu, ít có nhất, chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ rốt ráo.
“Thật tướng của các pháp, đó là nói các pháp có tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, chỗ làm như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, từ gốc đến ngọn rốt ráo bình đẳng như vậy.”
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn nhắc lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Bậc Thế Hùng khôn lường,
Chư thiên và nhân loại,
Cùng các loài chúng sanh,
Đều không thể hiểu Phật.
Phật lực, vô sở úy,
Giải thoát, các tam-muội,
Các pháp khác của Phật,
Đều không thể suy lường.
Từng theo vô số Phật,
Tu hành đủ các pháp,
Rất sâu xa nhiệm mầu ,
Khó thấy, khó rõ biết.
Trong vô số ức kiếp,
Tu các phẩm đạo rồi,
Chứng quả nơi Đạo trường,
Ta đều rõ biết hết.
Quả báo lớn lao ấy,
Đủ mọi nghĩa tánh tướng,
Ta với mười phương Phật,
Mới có thể rõ biết.
Pháp không thể chỉ bày,
Tướng ngôn ngữ dứt bặt.
Các loài chúng sanh khác,
Không thể nào hiểu được,
Trừ các vị Bồ Tát,
Với đức tin kiên cố.
Chúng đệ tử của Phật,
Từng cúng dường chư Phật,
Đã dứt sạch lậu hoặc,
Trụ nơi thân cuối cùng,
Dù những bậc như vậy,
Vẫn không sức thọ nhận.
Nếu người khắp thế gian,
Đều như Xá-lợi-phất,
Dùng hết sức suy lường,
Cũng không rõ trí Phật.
Ví như khắp mười phương,
Đều như Xá-lợi-phất,
Cùng các đệ tử khác,
Tràn ngập khắp mười phương,
Cùng hết sức suy lường,
Cũng không thể rõ biết.
Hàng Duyên giác trí sáng,
Bậc Vô lậu thân cuối,
Cũng đầy khắp mười phương,
Số nhiều như tre rừng,
Như vậy cùng chuyên tâm,
Trong vô số ức kiếp,
Muốn suy biết trí Phật,
Cũng không biết được gì.
Bồ Tát mới phát tâm,
Cúng dường vô số Phật,
Rõ biết các ý nghĩa,
Lại khéo thuyết giảng pháp.
Nhiều như lúa, mè, tre...
Đầy khắp cõi mười phương,
Chuyên tâm dùng trí mầu,
Trong Hằng sa số kiếp,
Cùng chung sức suy lường,
Không thể rõ trí Phật.
Các Bồ Tát bất thối,
Nhiều như cát sông Hằng,
Một lòng cùng suy cầu,
Cũng không thể rõ biết.”
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Pháp sâu xa vi diệu,
Vô lậu, không nghĩ bàn,
Ta nay đã trọn thành,
Tướng ấy riêng ta biết,
Cũng như mười phương Phật.
Xá-lợi-phất nên biết,
Lời chư Phật không khác,
Đối với pháp Phật thuyết,
Phải tin sâu, tin chắc.
Pháp Phật lâu về sau,
Phải thuyết dạy chân thật.
Phật bảo chúng Thanh văn,
Cùng chúng cầu Duyên giác:
‘Ta dạy cho thoát khổ,
Nhưng chưa được Niết-bàn.’
Phật dùng sức phương tiện,
Tạm bày ra ba thừa,
Chúng sanh nhiều bám chấp,
Dẫn dắt cho giải thoát.
Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị, cùng những vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di phát tâm cầu quả Thanh văn, quả Phật Bích-chi, hết thảy đều nghĩ rằng: “Hôm nay đức Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp phương tiện mà nói: ‘Pháp Phật đã chứng đắc rất sâu xa khó hiểu, có nói ra điều gì thì ý nghĩa đều khó rõ biết, hết thảy hàng Thanh văn, Duyên giác đều không thể hiểu được?’
“Phật [từng] thuyết dạy một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng được pháp ấy, [tưởng rằng] đạt đến Niết-bàn, nhưng nay thì không biết nghĩa ấy hướng về đâu?”
Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất biết lòng nghi của bốn chúng và chính mình cũng chưa hiểu nên bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà nay Phật ân cần ngợi khen xưng tán phương tiện bậc nhất cùng pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu của chư Phật? Con từ xưa nay theo Phật chưa từng được nghe những lời như vậy. Nay bốn chúng đều ôm lòng nghi, nguyện Thế Tôn giảng rõ việc này: Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu?”
Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên đọc kệ rằng:
Đấng Đại Thánh trí tuệ,
Lâu mới thuyết pháp này.
Tự nói đã chứng đắc,
Lực, vô úy, tam-muội,
Cùng thiền định giải thoát,
Pháp không thể nghĩ bàn.
Nơi đạo trường chứng đắc,
Không ai đủ sức hỏi,
Ý Phật khó suy lường,
Cũng không thể thưa hỏi,
Nên Phật tự nói ra,
Ngợi khen đạo chư Phật,
Trí tuệ cực vi diệu,
Chư Phật đã đạt được.
A-la-hán vô lậu,
Cùng người cầu Niết-bàn,
Nay chìm trong lưới nghi,
Vì sao Phật nói vậy?
Những người cầu Duyên giác,
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Chư thiên, rồng, quỷ thần,
Với loài càn-thát-bà...
Nhìn nhau lòng phân vân,
Cùng chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Việc này là thế nào?
Nguyện được Phật giảng giải.
Trong hàng chúng Thanh văn,
Phật khen con bậc nhất,
Nay con dùng trí mình,
Không thể hiểu, nghi hoặc:
Đây là pháp rốt ráo?
Hay là đạo tu hành?
Chúng từ miệng Phật sinh,
Đều chắp tay mong đợi,
Nguyện Phật ban tiếng mầu,
Nói ra pháp như thật.
Chư thiên, rồng, quỷ thần...
Số nhiều như cát sông,
Bồ Tát cầu quả Phật,
Số đến tám mươi ngàn,
Lại từ muôn ức nước,
Vua Chuyển luân đến đây,
Cùng chắp tay cung kính,
Muốn nghe đạo trọn đủ.
Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Thôi, thôi, không nên nói nữa! Nếu ta nói ra việc này thì hết thảy chư thiên và loài người ở thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.”
Ngài Xá-lợi-phất lại bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Vì sao vậy? Trong chúng hội này có vô số trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ chúng sanh đã từng được gặp chư Phật, căn tánh lanh lợi dũng mãnh, trí tuệ sáng suốt rõ biết, nếu được nghe Phật thuyết dạy ắt có thể cung kính tin nhận.”
Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:
Đấng Pháp vương Vô thượng,
Xin thuyết dạy, đừng lo,
Vì vô số chúng hội,
Phải có người kính tin.
Đức Phật lại ngăn lời ngài Xá-lợi-phất: “Nếu ta nói ra việc này, hết thảy hàng trời, người, a-tu-la... trong khắp thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ, các tỳ-kheo tăng thượng mạn
[3] sẽ phải sa vào hố sâu tội lỗi vì phỉ báng.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn nhắc lại nghĩa trên bằng kệ rằng:
Thôi thôi không nên nói,
Pháp Phật khó nghĩ bàn.
Những kẻ tăng thượng mạn,
Ắt không thể kính tin.
Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất một lần nữa bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Nay trong hội này, những người như con, số nhiều đến trăm ngàn muôn ức, trải qua nhiều đời đã từng được Phật giáo hóa. Những người này ắt sẽ có thể kính tin, trong đêm dài sinh tử họ sẽ an ổn, được nhiều lợi ích.”
Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:
Đấng Thế Tôn Vô thượng,
Nguyện thuyết pháp bậc nhất.
Con là con trưởng Phật,
Xin thương mà giảng thuyết,
Trong hội vô số chúng,
Có thể kính tin lời.
Phật đã qua bao đời,
Giáo hóa những người này,
Nay một lòng chắp tay,
Muốn nghe lời Phật dạy.
Chúng con một ngàn hai,
Cùng người cầu quả Phật,
Nguyện vì hội chúng này,
Thương xót phân biệt nói.
Đại chúng nghe pháp này,
Ắt sinh lòng hoan hỷ.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất: “Ông đã hết lòng thưa thỉnh ba lần, lẽ nào ta lại không nói. Nay ông hãy chú ý lắng nghe, khéo suy xét kỹ và ghi nhớ, ta sẽ vì các ông mà phân biệt giảng nói.”
Khi đức Phật vừa nói ra lời này, trong chúng hội liền có 5.000 tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng đứng dậy khỏi tòa ngồi, lễ Phật rồi lui ra. Vì sao vậy? Những người ấy gốc tội sâu nặng, lại là hàng tăng thượng mạn, chưa chứng nói là chứng, chưa đắc nói là đắc, có những lỗi lầm như vậy nên không ở lại. Đức Thế Tôn lặng thinh không ngăn cản.
Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trong hội chúng này nay không còn cành lá, chỉ thuần hạt chắc. Này Xá-lợi-phất, những kẻ tăng thượng mạn ấy lui ra cũng tốt. Nay ông hãy khéo lắng nghe, ta sẽ vì các ông thuyết giảng.”
Ngài Xá-lợi-phất thưa: “Xin vâng, Thế Tôn! Chúng con nguyện vui thích muốn nghe.”
Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Pháp vi diệu này, chư Phật Như Lai đúng thời mới thuyết, như hoa ưu-đàm-bát đúng thời chỉ nở một lần. Này Xá-lợi-phất! Các ông nên tin lời Phật thuyết dạy, không hề hư dối. Xá-lợi-phất! Chư Phật tùy chỗ thích hợp mà thuyết pháp, ý nghĩa khó nhận hiểu.
“Vì sao vậy? Ta dùng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để giảng thu-yết các pháp. Pháp ấy không thể suy lường phân biệt mà hiểu được, chỉ có chư Phật mới đủ khả năng thấu hiểu. Vì sao vậy? Chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.
“Xá-lợi-phất! Thế nào là chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời?
“Chư Phật Thế Tôn vì muốn giúp chúng sanh khai mở tri kiến Phật để được thanh tịnh nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày cho chúng sanh thấy được tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn khiến cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn giúp cho chúng sanh thể nhập đạo tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời.
“Xá-lợi-phất, đó là chư Phật chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.”
Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát,
[4] hết thảy việc làm thường chỉ vì một mục đích duy nhất là dùng tri kiến Phật để chỉ bày, khai ngộ chúng sanh. Xá-lợi-phất! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa vì chúng sanh thuyết pháp, không có thừa nào khác như Nhị thừa, Tam thừa.
“Xá-lợi-phất! Pháp của hết thảy chư Phật mười phương cũng đều như vậy. Xá-lợi-phất! Chư Phật trong quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thuyết giảng các pháp; các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.
“Này Xá-lợi-phất! Chư Phật trong tương lai ra đời, lại cũng sẽ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thu-yết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.
“Xá-lợi-phất! Chư Phật Thế Tôn hiện tại trong vô lượng trăm ngàn muôn ức cõi Phật mang lại rất nhiều lợi ích an lạc cho chúng sanh, chư Phật ấy lại cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thuyết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.
“Xá-lợi-phất! [Tất cả] chư Phật ấy cũng chỉ giáo hóa Bồ Tát, muốn dùng tri kiến Phật để chỉ bày chúng sanh, muốn dùng tri kiến Phật để khai ngộ chúng sanh, muốn giúp cho chúng sanh thể nhập tri kiến Phật.
“Xá-lợi-phất! Ta nay cũng như vậy, biết rõ chúng sanh có đủ mọi ham muốn, bám chấp sâu nặng trong tâm, nên tùy theo bản tánh của chúng sanh mà dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, sức phương tiện để thu-yết giảng pháp. Xá-lợi-phất, như vậy đều là vì để giúp chúng sanh đạt một Phật thừa, được Nhất thiết chủng trí.
“Xá-lợi-phất! Trong khắp thế giới mười phương vốn không có hai thừa, huống gì lại có ba? Xá-lợi-phất, chư Phật thị hiện ở đời xấu ác có năm sự uế trược, đó là kiếp trược, phiền não trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược.
[5] Như vậy, này Xá-lợi-phất, vào thời kiếp trược hỗn loạn, chúng sanh cấu nhiễm nặng nề, nhiều tham lam, ganh ghét, tạo thành các gốc rễ bất thiện, nên chư Phật dùng sức phương tiện, đối với một Phật thừa mà phân biệt thuyết dạy thành ba thừa.
“Xá-lợi-phất! Nếu các đệ tử của ta có người tự cho mình là A-la-hán, Phật Bích-chi mà không nghe không biết việc chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, những người ấy không phải đệ tử Phật, cũng không phải A-la-hán, không phải Phật Bích-chi.
“Lại nữa, Xá-lợi-phất, những tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni ấy tự cho mình đã chứng quả A-la-hán, cho đó là thân sau cùng, đã được Niết-bàn rốt ráo, không có chí hướng cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nên biết rằng hạng người ấy đều là tăng thượng mạn. Vì sao vậy? Nếu có tỳ-kheo nào thật sự chứng quả A-la-hán mà không tin nhận pháp Nhất thừa thì thật vô lý, trừ phi sau Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật.
“Vì sao vậy? Sau khi Phật diệt độ thì người có thể thọ trì, tụng đọc, giảng giải những kinh như thế này rất khó gặp được. Nhưng nếu gặp Phật ở cõi khác thì ở trong giáo pháp này liền được thấu triệt rõ ràng.
“Xá-lợi-phất! Các ông nên hết lòng tin hiểu, thọ trì lời Phật dạy. Lời của chư Phật Như Lai không hư dối, thật không có thừa nào khác, chỉ duy nhất một Phật thừa.”
Bấy giờ, Thế Tôn muốn nhắc lại ý nghĩa trên liền nói kệ rằng:
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Ôm lòng tăng thượng mạn,
Ưu-bà-tắc ngã mạn,
Ưu-bà-di bất tín.
Bốn chúng thuộc hạng này,
Số nhiều đến năm ngàn.
Không tự thấy lỗi mình,
Giới luật có thiếu sót,
Ôm tiếc lỗi của mình.
Do oai đức của Phật,
Nên những người kém cỏi,
Hạng trí nhỏ rời đi,
Vì phước đức mỏng manh,
Không đủ sức tiếp nhận.
Hội chúng sạch cành lá,
Chỉ còn quả hạt chắc,
Xá-lợi-phất, lắng nghe:
Pháp chư Phật chứng đắc,
Vô số lực, phương tiện,
Vì chúng sanh thuyết dạy.
Chúng sanh tâm khởi niệm,
Cùng đủ mọi việc làm,
Có bao nhiêu tham muốn,
Nghiệp đời trước thiện ác,
Phật đều rõ biết hết.
Dùng nhân duyên, thí dụ,
Sức phương tiện, ngôn từ,
Khiến cho đều hoan hỷ.
Hoặc thuyết giảng Khế kinh,
Hay Già-đà, Bản sự,
Bản sinh, Vị tằng hữu,
Lại thuyết kinh Nhân duyên,
Thí dụ cùng Kỳ-dạ,
Kinh Ưu-ba-đề-xá.
[6]Kẻ ngu, ưa pháp nhỏ,
Bám chấp chốn sinh tử,
Gặp vô số chư Phật,
Vẫn không tu đạo mầu,
Nên bị khổ giày vò,
Vì họ, thuyết Niết-bàn.
Ta bày phương tiện này,
Giúp nhập trí tuệ Phật,
Chưa từng nói các ông,
Rồi sẽ thành Phật đạo.
Sở dĩ chưa từng nói,
Vì thời chưa thích hợp,
Nay chính lúc hợp thời,
Quyết định thuyết Đại thừa.
Chín bộ kinh đã thuyết,
[7]Là tùy thuận chúng sanh,
Nhập Đại thừa là gốc,
Cho nên thuyết kinh này.
Có Phật tử tâm tịnh,
Nhu hòa lại sáng suốt,
Nơi vô số chư Phật,
Đã tu sâu đạo mầu.
Vì những Phật tử ấy,
Thuyết kinh Đại thừa này,
Thụ ký những người ấy,
Tương lai thành quả Phật.
Người tâm thành niệm Phật,
Giữ giới hạnh thanh tịnh,
Vừa nghe được thành Phật,
Hoan hỷ khắp toàn thân.
Phật rõ biết tâm hạnh,
Vì họ thuyết Đại thừa.
Thanh văn hay Bồ Tát,
Nghe ta thuyết kinh này,
Dù chỉ một bài kệ,
Chắc chắn đều thành Phật.
Cõi Phật trong mười phương,
Chỉ có pháp Nhất thừa,
Không hai cũng không ba,
Trừ Phật phương tiện thuyết;
Chỉ là tên giả tạm,
Để dẫn dắt chúng sanh,
Thuyết dạy trí tuệ Phật,
Chư Phật hiện ở đời,
Chỉ có một sự thật,
Ngoài ra đều không thật.
Rốt không dùng Tiểu thừa,
Để cứu độ chúng sanh.
Phật trụ nơi Đại thừa,
Dùng pháp đã chứng đắc,
Định, tuệ, lực trang nghiêm,
Để cứu độ chúng sanh.
Phật chứng đạo Vô thượng,
Pháp bình đẳng Đại thừa,
Nếu dùng pháp Tiểu thừa,
Dù giáo hóa một người,
Ắt tâm Phật tham tiếc,
Việc ấy không thể có.
Nếu người tin theo Phật,
Như Lai không dối gạt,
Không tham tiếc, ganh ghét,
Dứt các pháp xấu ác.
Nên trong khắp mười phương,
Riêng Phật không sợ hãi.
Phật thân tướng trang nghiêm,
Hào quang chiếu thế gian,
Vô số chúng tôn kính,
Vì chúng thuyết tướng thật.
Xá-lợi-phất nên biết,
Phật xưa đã thệ nguyện,
Độ hết thảy chúng sanh,
Được như Phật không khác.
Như thệ nguyện từ trước,
Nay thành tựu viên mãn,
Giáo hóa khắp chúng sanh,
Khiến đều vào Phật đạo.
Nếu ta gặp chúng sanh,
Đều dạy bằng Phật đạo.
Kẻ thác loạn ngu si,
Mê hoặc chẳng nghe lời.
Ta biết chúng sanh ấy,
Chưa từng tu gốc thiện,
Bám chấp nặng năm dục,
Si mê, ái luyến khổ.
Do nhân duyên các dục,
Đọa vào ba đường ác,
Luân hồi trong sáu nẻo,
Chịu đủ các khổ độc.
Thọ thân từ bào thai,
Đời đời thêm nghiệp khổ.
Người thiếu phước, đức mỏng,
Bị các khổ bức bách,
Vào sâu rừng tà kiến,
Chấp có hoặc chấp không,
Cùng các loại kiến chấp,
Đủ số sáu mươi hai.
[8]Chấp sâu pháp hư dối,
Bám chặt không thể buông,
Ngã mạn, tự cao ngạo,
Dua nịnh, không chân thật,
Trong ngàn muôn ức kiếp,
Chẳng nghe danh xưng Phật,
Cũng chẳng nghe chánh pháp,
Người như vậy khó độ.
Cho nên, Xá-lợi-phất!
Ta bày ra phương tiện,
Thuyết dạy đường dứt khổ,
Bảo đó là Niết-bàn.
Tuy nói là Niết-bàn,
Nhưng chưa thật diệt độ,
Các pháp từ xưa nay,
Tướng thường tự tịch diệt.
Phật tử tu hành đạo,
Tương lai sẽ thành Phật.
Ta dùng sức phương tiện,
Mở bày pháp ba thừa.
Hết thảy các đức Phật,
Đều thuyết đạo Nhất thừa.
Nay đại chúng ở đây,
Nên dứt trừ nghi hoặc,
Chư Phật dạy không khác,
Duy Nhất thừa, không hai.
Vô số kiếp quá khứ,
Vô lượng Phật diệt độ,
Trăm ngàn muôn ức vị,
Số không thể tính đếm.
Các đức Phật như vậy,
Dùng nhân duyên, thí dụ,
Vô số sức phương tiện,
Giảng thuyết các tướng pháp.
Những bậc Thế Tôn ấy,
Đều thuyết pháp Nhất thừa,
Giáo hóa vô số chúng,
Khiến được vào Phật đạo.
Lại các bậc Đại thánh,
Rõ biết khắp thế gian,
Chư thiên cùng nhân loại,
Nhiều tham muốn sâu xa,
Nên dùng phương tiện khác,
Giúp hiển bày nghĩa thật.
Nếu có những chúng sanh,
Gặp Phật trong quá khứ,
Hoặc nghe pháp, bố thí,
Hoặc trì giới, nhẫn nhục,
Tinh tấn, thiền, trí tuệ...
Tu các pháp phúc, tuệ.
Phật dạy: Những người ấy,
Đều đã thành Phật đạo.
Chư Phật diệt độ rồi,
Ai khéo điều phục tâm,
Hết thảy những người ấy,
Đều đã thành phật đạo.
Chư Phật diệt độ rồi,
Ai cúng dường xá-lợi,
Dựng muôn ức ngọn tháp,
Bằng vàng, bạc, pha lê,
Xa cừ cùng mã não,
Hồng ngọc, châu lưu ly,
Cao rộng, sạch, trang nghiêm,
Trang hoàng nơi các tháp.
Hoặc dùng đá xây miếu,
Với chiên-đàn, trầm hương,
Gỗ mật, các loại khác,
Hay gạch, ngói, bùn đất...
Hoặc giữa nơi đồng trống,
Đắp gò cao thờ Phật,
Thậm chí trẻ chơi đùa,
Vun cát làm tháp Phật...
Những trường hợp như thế,
Đều đã thành Phật đạo.
Có người vì kính Phật,
Nên vẽ hình, tạc tượng,
Chạm khắc các tướng Phật,
Đều đã thành Phật đạo.
Hoặc dùng bảy món báu,
Hợp kim, đồng đỏ, trắng...
Hoặc chì, thiết... các loại,
Sắt, thép, gỗ, đất bùn...
Hoặc keo, nhựa sơn, vải...
Trang hoàng nên tượng Phật.
Những người làm như vậy,
Đều đã thành Phật đạo.
Hoặc vẽ hình tượng Phật,
Đủ phước tướng trang nghiêm,
Tự làm, sai người làm,
Đều đã thành Phật đạo.
Thậm chí trẻ chơi đùa,
Dùng cỏ, cây, ngọn bút,
Hoặc móng tay, ngón tay...
Vẽ thành hình tượng Phật.
Những đứa trẻ như thế,
Dần dần thêm công đức,
Trọn đủ tâm đại bi,
Đều đã thành Phật đạo.
Chỉ giáo hóa Bồ Tát,
Độ thoát vô số chúng.
Nếu người nơi tháp miếu,
Tượng báu hay hình Phật,
Dùng hoa, hương, phướn, lọng...
Tâm cung kính cúng dường.
Hoặc sai người tấu nhạc,
Đánh trống, thổi tù và...
Tiêu, sáo, đàn không hầu,
Đàn tỳ bà, chập chõa,
Bao âm thanh tuyệt diệu,
Đều dâng lên cúng dường.
Hoặc dùng tâm hoan hỷ,
Xưng tán công đức Phật,
Dù một lời nhỏ nhặt,
Đều đã thành phật đạo.
Nếu người tâm tán loạn,
Dùng chỉ một bông hoa,
Cúng dường tranh vẽ Phật,
Dần gặp vô số Phật.
Nếu có người lễ bái,
Hoặc là chỉ chắp tay,
Thậm chí đưa tay lên,
Hay cúi nhẹ đầu xuống.
Cúng dường hình tượng Phật,
Dần gặp vô số Phật.
Tự thành đạo Vô thượng,
Độ vô số chúng sanh,
Nhập Niết-bàn Vô dư,
Như củi hết lửa tắt.
Nếu người tâm tán loạn,
Vào tháp miếu thờ Phật,
Niệm một tiếng nam-mô,
Đều đã thành Phật đạo.
Nơi chư Phật quá khứ,
Hoặc còn, hoặc diệt độ,
Nếu được nghe pháp này,
Đều đã thành Phật đạo.
Các vị Phật tương lai,
Số nhiều đến vô lượng,
Tất cả chư Phật ấy,
Cũng phương tiện thuyết pháp.
Hết thảy các đức Phật,
Dùng vô số phương tiện,
Độ thoát muôn chúng sanh,
Vào trí Phật vô lậu,
Người đã được nghe pháp,
Không ai không thành Phật.
Chư Phật từng thệ nguyện,
Đạo Phật tu, Phật chứng,
Cũng làm cho chúng sanh,
Đều tu chứng đạo ấy.
Chư Phật đời vị lai,
Tuy thuyết trăm ngàn ức,
Đến vô số pháp môn,
Thật chỉ là Nhất thừa.
Chư Phật đủ phước trí,
Biết pháp không tự tánh,
Hạt giống Phật duyên khởi,
Cho nên thu-yết Nhất thừa.
Pháp trụ nơi pháp vị,
Tướng thế gian thường trụ,
Nơi đạo trường rõ biết,
Đạo sư thuyết phương tiện.
Hàng trời người cúng dường,
Mười phương Phật hiện tại,
Số nhiều như cát sông,
Xuất hiện nơi thế gian,
Vì giúp chúng an ổn,
Cũng thuyết pháp như vậy.
Biết tịch diệt hơn hết,
Nhưng dùng sức phương tiện,
Tuy chỉ bày mọi đường,
Thật chỉ vì Phật thừa.
Rõ biết mọi tánh hạnh,
Tâm niệm của chúng sanh,
Và tập khí quá khứ,
Tham muốn, sức tinh tấn,
Cùng căn tánh lợi, độn.
Nên dùng mọi nhân duyên,
Nhiều thí dụ, ngôn từ,
Phương tiện thuyết ứng hợp.
Nay ta cũng như vậy,
Vì giúp chúng an ổn,
Dùng đủ mọi pháp môn,
Để chỉ bày Phật đạo.
Ta dùng sức trí tuệ,
Biết lòng dục chúng sanh,
Phương tiện giảng các pháp,
Khiến cho đều hoan hỷ.
Xá-lợi-phất nên biết!
Ta dùng Phật nhãn quán,
Thấy chúng sanh sáu đường,
Nghèo khốn, không phước trí,
Vào đường hiểm sanh tử,
Khổ triền miên không dứt,
Bám chấp năm món dục,
Như bò thích đuôi bò,
Tham ái tự che lấp,
Mê tối chẳng thấy gì.
Không cầu oai lực Phật,
Dứt trừ các pháp khổ,
Vào sâu rừng tà kiến,
Muốn dùng khổ dứt khổ.
Vì những chúng sanh ấy,
Ta khởi tâm đại bi.
Ban sơ ngồi đạo trường,
Ta nhìn cây, kinh hành,
Trong suốt hai mốt ngày,
Chỉ suy xét một việc:
Trí tuệ ta chứng đắc,
Thật vi diệu hơn hết.
Chúng sanh căn cơ thấp,
Tham đắm, nhiều si mê...
Những hạng chúng sanh này,
Làm sao có thể độ?
Khi ấy những Phạm vương,
Cùng các Thiên Đế thích,
Bốn Thiên vương Hộ thế,
Cùng Đại Tự tại thiên,
Và chúng chư thiên khác,
Quyến thuộc trăm ngàn muôn,
Cùng chắp tay cung kính,
Thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Ta liền tự nghĩ rằng:
Nếu chỉ khen Phật thừa,
Chúng sanh chìm đắm khổ,
Không đủ sức tin nhận,
Sẽ chống phá, không tin,
Đọa sâu ba đường ác.
Ta không nên thuyết pháp,
Phải sớm nhập Niết-bàn.
Liền nhớ Phật quá khứ,
Từng dùng sức phương tiện.
Nay ta chứng chánh đạo,
Cũng nên thuyết ba thừa.
Khi ta nghĩ như vậy,
Mười phương Phật hiện ra,
Dùng Phạm âm khuyến khích:
“Lành thay! Phật Thích-ca,
Đấng Đạo sư bậc nhất,
Chứng pháp Vô thượng này,
Theo gương tất cả Phật,
Mà dùng sức phương tiện.
Chư Phật cũng chứng đắc,
Pháp vi diệu bậc nhất,
Nhưng cũng vì chúng sanh,
Phân biệt thuyết ba thừa.
Kém trí ưa pháp nhỏ,
Không tự tin thành Phật,
Nên phải dùng phương tiện,
Phân biệt các quả vị.
Tuy nói có ba thừa,
Chỉ giáo hóa Bồ Tát.”
Xá-lợi-phất nên biết!
Ta nghe tiếng chư Phật,
Thanh âm rất nhiệm mầu,
Liền vui cung kính Phật.
Rồi khởi lên ý nghĩ:
“Ta gặp đời uế trược,
Như lời chư Phật dạy,
Ta cũng thuận làm theo.”
Suy nghĩ như vậy rồi,
Liền đến Ba-la-nại.
Tướng các pháp vắng lặng,
Không thể dùng lời nói,
Phật dùng sức phương tiện,
Giảng cho năm tỳ-kheo.
Gọi là chuyển pháp luân,
Từ đó có Niết-bàn,
Lại có A-la-hán,
Có Pháp bảo, Tăng bảo.
Từ vô số kiếp xưa,
Ngợi khen pháp Niết-bàn,
Dứt hẳn khổ sinh tử,
Ta thường thuyết như vậy.
Xá-lợi-phất nên biết!
Ta thấy những Phật tử,
Quyết chí cầu Phật đạo,
Số nhiều đến vô lượng...
Đều khởi tâm cung kính,
Cùng đi đến chỗ Phật,
Họ từng theo chư Phật,
Được nghe pháp phương tiện.
Ta liền suy nghĩ rằng:
Bậc Như Lai xuất thế,
Chỉ bày trí tuệ Phật,
Nay chính lúc thích hợp.
Xá-lợi-phất nên biết!
Người căn thấp, trí hẹp,
Chấp tướng và kiêu mạn,
Không thể tin pháp này.
Phật hoan hỷ không ngại,
Nay giữa chúng Bồ Tát,
Chính thức bỏ phương tiện,
Chỉ thuyết đạo Vô thượng.
Bồ Tát nghe pháp này,
Đều dứt sạch lưới nghi,
Ngàn hai trăm La-hán,
Cũng đều sẽ thành Phật.
Như nghi thức thuyết pháp,
Của ba đời chư Phật,
Ta nay cũng như vậy,
Thuyết pháp không phân biệt.
Chư Phật hiện ở đời,
Rất lâu xa khó gặp,
Ngay khi đã xuất thế,
Thuyết pháp này càng khó.
Vô lượng vô số kiếp,
Được nghe pháp này khó,
Người đủ sức nghe pháp,
Càng khó tìm gặp hơn.
Giống như hoa ưu-đàm,
Mọi người đều ưa thích,
Giữa hai cõi trời, người,
Hiếm hoi mới xuất hiện.
Người nghe pháp hoan hỷ,
Ngợi khen chỉ một lời,
Cũng bằng như cúng dường,
Ba đời mười phương Phật.
Người như vậy ít gặp,
Hiếm hơn hoa ưu-đàm.
Các ông chớ hoài nghi,
Phật là vua các pháp,
Tuyên cáo cùng đại chúng,
Chỉ dùng đạo Nhất thừa,
Giáo hóa các Bồ Tát,
Không đệ tử Thanh văn.
Xá-lợi-phất, các ông,
Thanh văn cùng Bồ Tát,
Nên biết diệu pháp này,
Bí yếu của chư Phật.
Vì đời ác năm trược,
Chỉ tham đắm các dục,
Những chúng sanh như vậy,
Rốt chẳng cầu Phật đạo.
Những kẻ xấu đời sau,
Nghe Phật dạy Nhất thừa,
Mê hoặc không tin nhận,
Phá pháp, đọa cõi ác.
Người thanh tịnh, tàm quý,
Quyết chí cầu Phật đạo,
Nên vì những người ấy,
Rộng khen đạo Nhất thừa.
Xá-lợi-phất nên biết,
Pháp chư Phật như thế,
Dùng muôn ức phương tiện,
Để thuyết pháp thích hợp,
Nếu không học, không tu,
Thì không thể thấu hiểu.
Các ông đã rõ biết,
Phật là thầy thế gian,
Việc phương tiện quyền biến,
Đừng khởi sinh nghi hoặc.
Phải hết sức vui mừng,
Biết mình sẽ thành Phật.
______________________________
CHÚ THÍCH[1] Tức thập lực (H. 十力, S. daśa balāni), cũng gọi là thập trí lực (十智力), chỉ 10 năng lực trí tuệ siêu việt chỉ riêng chư Phật mới đạt được, rõ biết tất cả các pháp hoàn toàn đúng thật, bao gồm: 1. Tri thị xứ phi xứ trí lực (H. 知是處非處智力, S. artha-dharma-jñāna-bala): Biết rõ như thật sự đúng, sai của tất cả các pháp, không hề nhầm lẫn; 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực (H. 知三世業報智力, S. karma-vipāka-jñāna-bala) hay Nghiệp dị thục trí lực (業異熟智力): Biết rõ luật nhân quả, tức là nghiệp nào tạo quả nào vào thời điểm nào và ở nơi chốn nào; 3. Tri nhất thiết chí xứ đạo trí lực (H. 知一 切至處道智力, S. sarvatragāminī-pratipad-jñāna-bala), cũng gọi là Biến thú hành trí lực (遍趣行智力): Biết rõ nguyên nhân nào dẫn đến con đường tái sanh nào, biết các hành nghiệp hữu lậu phải luân chuyển trong 6 đường và hành nghiệp vô lậu dẫn đến Niết-bàn; 4. Tri chủng chủng giới trí lực (H. 知種種界智力, S. loka-nānā-dhātu-jñāna-bala): Biết rõ các thế giới, môi trường khác biệt của tất cả chúng sanh; 5. Tri chủng chủng giải trí lực (H. 知種種解智力, S. indriya-parāpara-jñāna-bala): Biết rõ căn tánh riêng biệt, sự ham thích, mê đắm, bám chấp của mỗi chúng sanh; 6. Tri chư căn thắng liệt trí lực (H. 知諸根勝劣智力, S. dhātu-jñāna-bala): Biết rõ căn cơ nhanh nhạy hoặc trì độn của mọi chúng sanh; 7. Tri chư thiền giải thoát tam-muội trí lực (H. 知諸禪解脫三昧智力, S. dhyāna-vimokṣa-samādhi-samāpatti-jñāna-bala): Biết tất cả các phương pháp thiền định giải thoát, mức độ sâu cạn, cao thấp của mỗi loại và hoàn toàn tự tại vô ngại trong thiền định; 8. Tri túc mệnh vô lậu trí lực (H. 知宿命無漏智力, S. pūrvanivāsānusmṛti-jñāna-bala): Biết rõ các tiền kiếp của chính mình và chúng sanh, từ một đời cho đến vô số đời; 9. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực (H. 知天眼無礙智力, S. cyutyupapatti-jñāna-bala): Biết rõ sự hoại diệt và tái sanh của mỗi chúng sanh, các nghiệp thiện ác và nơi nào họ sẽ tái sinh; 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực (H. 知永斷習氣智力, S. āsravakṣaya-jñāna-bala): Biết các pháp ô nhiễm sẽ chấm dứt như thế nào, tự biết đã vĩnh viễn đoạn trừ không còn sinh khởi.
[2] Tức tứ vô sở úy (H. 四無所畏, S. catvāri tathāgatasya vaiśāradyāni), cũng gọi là tứ vô úy (四無畏), chỉ việc chư Phật khi thuyết pháp có đủ bốn phẩm đức tự tin, dũng mãnh, an ổn không sợ sệt, thuộc về Thập bát bất cộng pháp, nghĩa là chỉ có chư Phật mới đạt được, không giống với hàng Thanh văn, Duyên giác. Tứ vô úy bao gồm: 1. Chư pháp hiện đẳng giác vô úy (H. 諸法現等覺無畏, S. sarva-dharmābhisaṃbodhi-vaiśāradya), cũng gọi là Nhất thiết trí vô sở úy (一切智無所畏), do trí tuệ hiểu biết tất cả nên thuyết pháp với đầy đủ sự tự tin, không sợ sệt; 2. Nhất thiết lậu tận trí vô úy (H. 一切漏盡智無畏, S. sarvāsrava-kṣaya-jñāna-vaiśāradya), cũng gọi là Lậu vĩnh tận vô úy (漏永盡無畏), do vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não nên thuyết pháp không sợ sệt đối với khó khăn bên ngoài; 3. Chướng pháp bất hư quyết định thụ kí vô úy (H. 障法不虛決定授記無畏, S. antarāyika-dharmānanyathātva-niścita-vyākaraṇa-vaiśāradya), cũng gọi là Thuyết chướng pháp vô úy (說障法無畏), thuyết dạy về các pháp chướng đạo, cách vượt qua để thành tựu, không có sự sợ sệt; 4. Vi chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tính vô úy (H. 為證一切具足出道如性無畏, S. sarva-saṃpad-adhigamāya nairyāṇika-pratipat-tathātva-vaiśāradya), cũng gọi là Thuyết xuất đạo vô úy (說出道無畏), thuyết dạy đạo xuất thế không có sự sợ sệt.
[3] Tăng thượng mạn (H. 增上慢, S. abhi-māna), chỉ người sinh tâm kiêu căng ngạo mạn, tự cho mình hơn người vì đã chứng đắc, thành tựu quả vị tu tập, nhưng thật ra chưa hề chứng đắc. Biểu hiện rõ rệt nhất là những người tự xưng đã chứng thánh quả.
[4] Nguyên tác Hán văn: “諸佛如來但教化菩薩 - Chư Phật Như Lai đãn giáo hóa Bồ Tát.” Câu này hàm ý rằng tất cả những chúng sanh được đức Phật giáo hóa đều là Bồ Tát, ngay cả hàng Thanh văn như ngài Xá-lợi-phất, vì thật ra giai đoạn Thanh văn đó chỉ là phương tiện để cuối cùng tất cả đều trở thành Bồ Tát, hướng đến quả Phật.
[5] Gọi chung là ngũ trược (H. 五濁, S. pañca kaṣāyāḥ), tức 5 sự uế trược, không thanh tịnh, bao gồm: 1. Kiếp trược (H. 劫濁, S. kalpa-kaṣāya), là những uế nhiễm nói chung của kiếp sống như bệnh tật, nạn đói, chiến tranh, thiên tai, môi trường ô nhiễm…; 2. Phiền não trược (H. 煩惱濁; S. kleśa-kaṣāya), là những uế nhiễm do phiền não khởi sinh, như tham dục, sân hận…; 3. Chúng sinh trược (H. 眾生濁, S. sattva-kaṣāya), là những uế nhiễm của chúng sanh do tập khí như xấu ác, không tin nhân quả, thường tạo ác nghiệp… ; 4. Kiến trược (H. 見濁, S. dṛṣṭi-kaṣāya), là những uế nhiễm trong nhận thức, hiểu biết của chúng sanh, tức là các tà kiến, hiểu biết sai trái…; 5. Mạng trược (H. 命濁, S. āyus-kaṣāya), là sự uế nhiễm về mạng sống, tức là tuổi thọ ngắn ngủi, không chắc chắn, có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào. Lưu ý rằng kinh văn ở đây liệt kê thứ tự khác với những kinh luận khác, vốn thường gặp (như trong kinh A-di-đà) là: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược.
[6] Đây là những thể loại kinh điển khác nhau được đức Phật thuyết giảng. Có tất cả 12 thể loại khác nhau, thường được gọi là 12 phần giáo (H. 十二分教, S. dvādaśāṅga-buddha-vacana), hoặc một cách không chuẩn xác là 12 bộ kinh (十二部經), bao gồm: 1. Tu-đa-la (H. 修多羅, S. sūtra), Hán dịch là khế kinh (契經), là những lời Phật dạy thích hợp, khế hợp với căn cơ chúng sanh; 2. Kỳ-dạ (H. 祇夜, S. geya), Hán dịch là ứng tụng (應頌), trùng tụng (重頌), là những lời dạy trong kinh được lặp lại bằng thể kệ tụng để dễ ghi nhớ và thực hành; 3. Hòa-ca-la-na (H. 和伽羅那, S. vyākaraṇa), Hán dịch là thụ ký (授記), là lời Phật báo trước kết quả tu tập trong tương lai của các vị đệ tử, về sự chứng đắc quả vị; 4. Già-đà (H. 伽陀, S. gāthā), Hán dịch là phúng tụng (諷頌), cô khởi (孤起), là lời dạy của Phật được diễn đạt theo thể kệ tụng để dễ ghi nhớ, khác với thể kỳ-dạ là không lặp lại mà tự nêu ra ý mới, nên gọi là cô khởi; 5. Ưu-đà-na (H. 優陀那, S. udāna), Hán dịch là tự thuyết (自說), hay vô vấn tự thuyết (無問自說), là những kinh điển do đức Phật quán xét căn cơ chúng sanh rồi tự nói ra, không có người thưa hỏi; 6. Ni-đà-na (H. 尼陀那, S. nidāna), Hán dịch là nhân duyên (因緣), là sự thuyết dạy của Phật do nhân duyên dẫn khởi, như do có việc thế này nên thu-yết dạy pháp như thế này...; 7. A-ba-đà-na (H. 阿波陀那, S. avadāna), Hán dịch là thí dụ (譬喻), là những lời dạy bằng phương thức thí dụ, dẫn dụ, so sánh các sự việc để nêu ý nghĩa; 8. Y-đế-viết-đa-già (H. 伊帝曰多伽; 伊帝越多伽, S. itivṛttaka), Hán dịch là bản sự (本事), là những lời dạy về tiền thân tu tập của các vị đệ tử Phật, được dẫn ra như những bài học cho thính chúng; 9. Xà-đà-già (H. 闍陀伽, S. jātaka), Hán dịch là bản sanh (本生), là lời dạy về các tiền thân đức Phật, được dẫn ra vì mục đích giáo hóa; 10. Tỳ-phật-lược (H. 毘佛略, S. vaipulya), Hán dịch là Phương quảng (方廣), chỉ chung các kinh điển truyền dạy giáo pháp Đại thừa; 11. A-phù-đà-đạt-ma (H. 阿浮陀達磨, S. adbhuta-dharma), Hán dịch là hy pháp (希法) hoặc vị tằng hữu (未曾有), là những kinh điển thuyết giảng những điều bất khả tư nghị, xưa nay chưa từng có, như nói về thần lực, phước đức của chư Phật, Bồ Tát...; 12. Ưu-ba-đề-xá (H. 優波提舍, S. upadeśa), Hán dịch là luận nghị (論議), là những lời dạy mang tính luận thuyết, luận giải, để giúp người nghe nắm hiểu được giáo pháp cũng như các pháp môn tu tập.
[7] Tức là nói 9 phần giáo pháp từ Khế kinh đến Bản sanh, đều thuộc về phương tiện. Chỉ 3 phần giáo pháp gồm Phương quảng (Tỳ-phật-lược), Vị tằng hữu (A-phù-đà-đạt-ma) và Luận nghị (Ưu-ba-đề-xá) mới là rốt ráo, hiển bày Đại thừa, dẫn đến quả Phật.
[8] Tức lục thập nhị kiến (H. 六十二見, S. dvāṣaṣṭi dṛṣṭayaḥ), là 62 kiến chấp sai lầm. Có nhiều thuyết giải thích khác nhau, riêng Đại sư Trí Khải (tông Thiên Thai) y theo kinh Đại Bát-nhã phân tích bao gồm: 1. Đối với năm uẩn trong quá khứ khởi sinh kiến giải cho là thường, hoặc vô thường, hoặc cũng thường cũng vô thường, hoặc không phải thường không phải vô thường; 4 kiến chấp khác nhau như vậy áp dụng với 5 uẩn, thành 20 kiến chấp. 2. Đối với năm uẩn trong hiện tại khởi sinh kiến giải cho là có giới hạn, hoặc không có giới hạn, hoặc cũng giới hạn cũng không giới hạn, hoặc không phải giới hạn không phải không giới hạn; 4 kiến chấp khác nhau như vậy áp dụng với 5 uẩn, thành 20 kiến chấp. 3. Đối với năm uẩn trong tương lai khởi sinh kiến giải cho là sẽ mất đi, hoặc không mất đi, hoặc cũng mất đi cũng không mất đi, hoặc không phải mất đi không phải không mất đi; 4 kiến chấp khác nhau như vậy áp dụng với 5 uẩn, thành 20 kiến chấp. Ba nhóm kiến chấp vừa kể hợp thành 60 kiến chấp, lại thêm 2 kiến chấp cho rằng thần thức với thân này là một, hoặc thần thức với thân này là khác biệt, cộng thành 62 kiến chấp. Tất cả đều sai lầm nên gọi là tà kiến.