Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Thường Tinh Tấn: “Nếu có thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, người ấy sẽ được tám trăm công đức của mắt, một nghìn hai trăm công đức của tai, tám trăm công đức của mũi, một nghìn hai trăm công đức của lưỡi, tám trăm công đức của thân, một nghìn hai trăm công đức của ý;
[1] dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn, khiến cho tất cả đều thanh tịnh.
“Người thiện nam hoặc thiện nữ ấy, với mắt phàm tục do cha mẹ sinh ra, nhờ thanh tịnh nên thấy hết những gì trong thế giới đại thiên, cả trong lẫn ngoài, từ núi rừng, sông biển, xuống tới địa ngục A-tỳ, lên đến cõi trời Hữu đỉnh, cũng thấy hết thảy chúng sinh trong đó cùng với nhân duyên nghiệp quả, nơi sinh ra của họ, thấy biết tất cả.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng:
“Hãy lắng nghe công đức,
Của người giữa đại chúng,
Dùng tâm không sợ sệt,
Thuyết kinh Pháp Hoa này.
Người ấy được tám trăm,
Công đức mắt thù thắng;
Nhờ sự trang nghiêm ấy,
Nên mắt rất thanh tịnh;
Mắt do cha mẹ sinh,
Thấy hết cõi đại thiên,
Trong ngoài núi Di-lâu,
Núi Tu-di, Thiết vi…
Cùng những núi rừng khác,
Biển lớn và sông ngòi,
Dưới đến ngục A-tỳ,
Trên thấu trời Hữu đỉnh,
Bao chúng sanh trong đó,
Hết thảy đều thấy rõ.
Tuy chưa được thiên nhãn,
Mắt phàm thấy như vậy.”
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của tai. Người ấy dùng tai thanh tịnh nghe được trong khắp thế giới đại thiên, dưới xuống đến địa ngục A-tỳ, trên lên tới cõi trời Hữu đỉnh, đủ mọi âm thanh, ngôn ngữ ở bên trong và bên ngoài, như tiếng voi, ngựa, trâu bò, tiếng xe cộ; tiếng kêu khóc, tiếng than thở; tiếng tù và, tiếng trống, chuông, chuông lắc;
[2] tiếng cười nói, tiếng đàn ông, đàn bà, tiếng trẻ em trai gái; tiếng đúng pháp, tiếng không đúng pháp; tiếng khổ đau, tiếng ưa thích; tiếng phàm phu, tiếng bậc thánh; tiếng vui mừng, tiếng không vui; tiếng chư thiên, tiếng các loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già; tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió; tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỷ; tiếng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật… Nói tóm lại là hết thảy mọi âm thanh bên trong và bên ngoài cõi thế giới đại thiên. Người ấy tuy chưa đạt được thiên nhĩ, nhưng với tai phàm tục do cha mẹ sinh ra, nhờ thanh tịnh nên nghe biết được hết thảy, phân biệt đủ mọi âm thanh như vậy mà nhĩ căn không bị hư hoại.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:
“Lỗ tai cha mẹ sinh,
Khi thanh tịnh vô nhiễm,
Có thể dùng lắng nghe,
Âm thanh khắp thế giới.
Tiếng voi, ngựa, trâu bò,
Chuông, linh, tù và, trống,
Đàn cầm, sắt, không hầu,
Tiếng tiêu hoặc tiếng địch,
Tiếng ca hát thanh tịnh,
Nghe mà không bám chấp;
Vô số loại ngôn ngữ,
Nghe rồi đều hiểu rõ;
Lại nghe tiếng chư thiên,
Tiếng xướng ca nhiệm mầu,
Tiếng kẻ nam người nữ,
Tiếng trẻ gái cùng trai;
Tiếng núi sâu, khe hiểm,
Tiếng ca-lăng-tần-già,
Các chim như mạng mạng…
[3]Đều nghe được tiếng hót;
Tiếng khổ đau địa ngục,
Các âm thanh độc hại,
Tiếng ngạ quỷ đói khát,
Cầu xin được ăn uống,
Tiếng các a-tu-la,
Sống nơi vùng ven biển,
Lúc trò chuyện cùng nhau,
Phát ra âm thanh lớn.
Như vậy, người thuyết pháp,
Chỉ ở yên nơi này,
Nghe được âm thanh xa,
Nhĩ căn không tổn hại.
Trong mười phương thế giới,
Chim, thú kêu gọi nhau,
Người thuyết pháp ở đây,
Đều nghe rõ tất cả.
Từ trên cõi Phạm thiên,
Cõi Quang âm, Biến tịnh,
Cho đến trời Hữu đỉnh,
Những âm thanh ngôn ngữ,
Vị pháp sư ở đây,
Đều nghe được tất cả.
Hết thảy chúng tỳ-kheo,
Hoặc các tỳ-kheo-ni,
Khi tụng đọc kinh điển,
Giảng giải cùng người khác,
Vị pháp sư ở đây,
Đều nghe được tất cả.
Lại có các Bồ Tát,
Tụng kinh điển, giáo pháp,
Hoặc giảng cho người khác,
Hoặc biên soạn, giải nghĩa,
Những âm thanh như vậy,
Pháp sư đều nghe được.
Chư Phật bậc Đại thánh,
Khi giáo hóa chúng sanh,
Ở giữa các Đại hội,
Diễn giảng pháp nhiệm mầu;
Người trì kinh Pháp Hoa,
Đều nghe được tất cả.
Những âm thanh trong, ngoài
Cõi thế giới đại thiên,
Trên từ trời Hữu đỉnh,
Xuống tận ngục A-tỳ,
Nghe hết mọi âm thanh,
Nhĩ căn không tổn hại,
Nhờ tai được nhạy bén,
Phân biệt nghe biết cả.
Người trì kinh Pháp Hoa,
Tuy chưa được thiên nhĩ,
Chỉ dùng tai phàm tục,
Nhờ công đức được vậy.”
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được tám trăm công đức của mũi. Người ấy dùng mũi thanh tịnh ngửi được đủ các loại mùi hương ở bên trên, bên dưới, bên trong và bên ngoài thế giới đại thiên, như hương các loại hoa tu-mạn-na, xà-đề, mạt-lợi, chiêm-bặc, ba-la-la, sen đỏ, sen xanh, sen trắng; hương hoa của cây, hương trái của cây, hương chiên-đàn, hương trầm thủy, hương đa-ma-la-bạt,
[4] hương đa-già-la,
[5] cùng ngàn muôn loại hương hòa hợp, hoặc hương bột, hương viên, hương thoa, người trì kinh Pháp Hoa dù ở tại đây đều có thể phân biệt được. Lại có thể biết mùi hương khác biệt của các chúng sinh như mùi của voi, ngựa, trâu bò, dê..., hương đàn ông, đàn bà, trẻ em trai gái; hương cỏ cây rừng rậm, hoặc gần hoặc xa, tất cả các loại mùi hương đều ngửi biết, phân biệt không sai lầm.
“Người trì kinh này tuy ở tại đây cũng ngửi được các mùi hương trên cõi trời, như hương cây ba-lợi-chất-đa-la,
[6] cây câu-bệ-đà-la,
[7] cùng hương các loại hoa như mạn-đà-la, đại mạn-đà-la, mạn-thù-sa, đại mạn-thù-sa; hương chiên-đàn, trầm thủy, các thứ hương bột, các loại hương hoa trộn lẫn... những thứ hương cõi trời như thế hòa hợp tỏa ra, không loại nào không ngửi biết.
“Lại ngửi được mùi hương trên thân của chư thiên, như hương của Thích Đề Hoàn Nhân
[8] khi ngự trên Thắng điện, hoặc khi đang vui chơi thụ hưởng năm món dục; hoặc khi ở trên Diệu pháp đường vì chư thiên cõi trời Đao-lợi thuyết pháp; hoặc khi dạo chơi trong các khu vườn trời; cùng với mùi hương trên thân của chư thiên nam nữ khác, đều có thể từ xa ngửi được.
“Như thế dần lên đến chư thiên cõi Phạm thế,
[9] lên trên đến cõi trời Hữu đỉnh, cũng đều ngửi được mùi hương trên thân chư thiên, cùng với mùi hương mà chư thiên đốt lên. Lại cũng từ xa ngửi được mùi hương trên thân của các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật, biết được chư vị đang ở đâu.
“Tuy ngửi được đủ các thứ hương như vậy nhưng mũi không tổn hại, không nhầm lẫn, nếu muốn vì người khác phân biệt nói ra thì đều ghi nhớ không sai lầm.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Người có mũi thanh tịnh,
Ở trong thế giới này,
Mọi hương thơm, mùi hôi,
Hết thảy đều ngửi biết.
Hương tu-mạn, xà-đề,
Đa-ma-la, chiên-đàn,
Hương trầm thủy, hương quế,
Các loại hương hoa trái.
Ngửi được hương chúng sinh,
Như hương người nam, nữ.
Người thuyết pháp ở xa,
Ngửi hương, biết chỗ ở.
Đại thế Chuyển luân vương,
Tiểu Chuyển luân, thái tử,
Quần thần, các cung nhân,
Ngửi hương biết ở đâu.
Châu báu đeo trên thân,
Kho báu chôn trong đất,
Bảo nữ Chuyển luân vương,
[10]Ngửi hương biết ở đâu.
Người khác làm đẹp thân,
Với y phục, chuỗi ngọc,
Các loại hương thoa thân,
Ngửi hương, biết thân người.
Chư thiên đi hoặc ngồi,
Vui chơi, hiện thần biến,
Người trì kinh Pháp Hoa,
Ngửi hương đều biết được.
Hoa, trái, hạt các cây,
Hoặc hương từ tô du,
[11]Người trì kinh ở đây,
Đều biết được ở đâu.
Trong núi sâu hiểm trở,
Cây chiên-đàn nở hoa,
Có chúng sinh ở đó,
Ngửi hương đều biết được.
Núi Thiết vi, biển cả,
Chúng sinh trong lòng đất,
Người trì kinh ngửi hương,
Đều biết được ở đâu.
Nam, nữ a-tu-la,
Cùng quyến thuộc của họ,
Khi đánh nhau, vui chơi,
Ngửi hương đều biết được.
Nơi đồng hoang, hiểm trở,
Sư tử, voi, cọp, sói,
Trâu rừng, hoặc trâu nước...
Ngửi mùi biết ở đâu.
Nếu có người mang thai,
Chưa rõ trai hay gái,
Không giác quan, phi nhân…
Ngửi hương đều biết ngay.
Do năng lực ngửi hương,
Vừa mang thai đã biết,
Việc an ổn sinh con
Có thành tựu hay không.
Do năng lực ngửi hương,
Biết ý nghĩ trai, gái,
Tâm tham dục, sân, si,
Cũng biết người tu thiện.
Những kho tàng chôn giấu,
Chứa vàng bạc, châu báu,
Hoặc đồ chứa bằng đồng,
Ngửi hương đều biết được.
Hoặc các loại chuỗi ngọc,
Không ai biết giá bán,
Ngửi hương biết đắt, rẻ,
Từ đâu đến, ở đâu.
Các loài hoa cõi trời,
Mạn-đà, mạn-thù-sa,
Cây ba-lợi-chất-đa,
Ngửi hương đều rõ biết.
Những cung điện cõi trời,
Có hoa báu trang ngiêm,
Thượng, trung, hạ sai khác,
Ngửi hương đều rõ biết.
Vườn cõi trời, Thắng điện,
Đài quán, Diệu pháp đường,
Chư thiên vui trong đó,
Ngửi hương đều rõ biết.
Hoặc chư thiên nghe pháp,
Khi hưởng năm món dục,
Qua lại, đi, nằm, ngồi,
Ngửi hương đều rõ biết.
Y phục các thiên nữ,
Hương hoa đẹp trang nghiêm,
Khi dạo chơi loanh quanh,
Ngửi hương đều rõ biết.
Như thế dần trở lên,
Cho đến cõi Phạm thế,
Chư thiên xuất, nhập thiền,
Ngửi hương đều rõ biết.
Trời Quang âm, Biến tịnh,
Cho đến trời Hữu đỉnh,
Chư thiên sinh, diệt mất,
Ngửi hương đều rõ biết.
Như các vị tỳ-kheo…
Lúc tinh tấn tu tập,
Hoặc ngồi hoặc kinh hành,
Hoặc tụng đọc kinh điển;
Dưới cội cây trong rừng,
Chỉ chuyên tâm ngồi thiền;
Người trì kinh, ngửi hương,
Liền biết được nơi chốn.
Bồ Tát chí kiên cố,
Hoặc ngồi thiền, tụng kinh,
Hoặc vì người thuyết pháp,
Ngửi hương đều rõ biết.
Chư Phật khắp mười phương,
Được tất cả cung kính,
Thương chúng sinh thuyết pháp,
Ngửi hương đều rõ biết.
Chúng sinh ở trước Phật,
Nghe kinh đều hoan hỷ,
Y theo pháp tu hành,
Ngửi hương đều rõ biết.
Chưa được mũi sinh từ
Pháp Vô lậu Bồ-tát,
Người trì kinh đã được,
Năng lực mũi như vậy.”
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của lưỡi. [Thức ăn dù] tốt hay xấu, ngon hay không ngon, hoặc đắng chát, khi chạm đến lưỡi của người ấy đều hóa thành vị ngon thượng hạng, như cam lộ cõi trời, không món nào là không ngon ngọt. Nếu dùng lưỡi ấy giảng thuyết giữa đại chúng sẽ phát ra âm thanh sâu xa vi diệu đi vào lòng người, khiến người nghe đều được vui mừng thích thú.
“Lại có chư thiên nam nữ, các vị Đế thích, Phạm vương… nghe âm thanh sâu xa vi diệu ấy giảng giải luận bàn có trình tự thứ lớp, thảy đều đến nghe.
“Lại có các loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già cả nam lẫn nữ, vì nghe pháp nên đều tìm đến gần gũi cung kính cúng dường.
“Lại có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, quốc vương, thái tử, quần thần, quyến thuộc, Tiểu Chuyển luân vương, Đại Chuyển luân vương với đủ bảy báu,
[12] một nghìn người con cùng nội ngoại quyến thuộc, ngồi trên các cỗ xe báu
[13] cùng đến nghe pháp. Đó là do Bồ Tát [trì kinh Pháp Hoa] này giỏi việc thuyết pháp.
“Người ấy lại được hàng bà-la-môn, cư sĩ, nhân dân trong nước thường trọn đời theo hầu hạ cúng dường. Các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật thường muốn gặp vị ấy. Người ấy ở phương nào thì chư Phật đều hướng về nơi đó thuyết pháp; người ấy có thể thọ trì tất cả pháp Phật, lại có thể tự mình nói ra pháp âm sâu xa vi diệu.”
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:
“Lưỡi người này thanh tịnh,
Không phải nếm vị dở,
Dù ăn uống món gì,
Đều hóa thành cam lộ.
Dùng âm thanh sâu mầu,
Thuyết pháp giữa đại chúng,
Dùng nhân duyên thí dụ,
Dẫn dắt tâm chúng sinh.
Người nghe đều hoan hỷ,
Cúng dường các món ngon.
Chư thiên, rồng, dạ-xoa,
Các loài a-tu-la…
Đều khởi tâm cung kính,
Cùng đến nghe thuyết pháp.
Người thuyết pháp như vậy,
Nếu muốn cho diệu âm,
Vang khắp cùng thế giới,
Tùy ý làm được ngay.
Tiểu, Đại Chuyển luân vương,
Cùng nghìn con, quyến thuộc,
Tâm cung kính, chắp tay,
Tìm đến nghe thuyết pháp.
Chư thiên, rồng, dạ-xoa,
La-sát, tỳ-xá-xà,
Cũng dùng tâm hoan hỷ,
Thường vui thích cúng dường.
Phạm thiên vương, Ma vương,
Tự tại, Đại tự tại…
Các thiên chúng như vậy,
Thường đến chỗ người này.
Chư Phật cùng đệ tử,
Nghe người ấy thuyết pháp,
Thường nhớ nghĩ, hộ trì,
Hoặc vì người hiện thân.”
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được tám trăm công đức của thân, được thân thanh tịnh như lưu ly trong suốt, chúng sanh đều vui thích ngắm nhìn.
“Thân người ấy được thanh tịnh nên những việc như sinh ra, chết đi, cao thấp, tốt xấu, sinh về cõi lành, cõi xấu ác… của tất cả chúng sanh trong thế giới đại thiên, hết thảy đều [có hình ảnh] hiện ra trong thân [lưu ly trong suốt] ấy.
“Lại nữa, các núi như Thiết vi, Đại Thiết vi, Di-lâu, Đại Di-lâu… cùng những chúng sinh sống trong đó, hết thảy đều hiện ra trong thân ấy.
“Lại nữa, từ địa ngục A-tỳ ở bên dưới lên trên đến cõi trời Hữu đỉnh, hết thảy hình tượng cùng chúng sanh đều hiện ra trong thân ấy.
“Nếu có các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật thuyết pháp, thì trong thân người ấy đều hiện đủ các hình sắc cảnh tượng.”
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Nếu trì kinh Pháp Hoa,
Được thân rất thanh tịnh,
Như lưu ly trong suốt,
Chúng sinh đều thích nhìn.
Lại như đài gương sáng,
Phản chiếu mọi hình tượng,
Bồ Tát thân thanh tịnh,
Nhìn thấy khắp thế gian,
Nhưng chỉ riêng mình biết,
Người khác không thấy được.
Trong thế giới đại thiên,
Bao chúng sinh mê mờ,
Trời, người, a-tu-la,
Địa ngục, quỷ, súc sinh,
Những hình tượng như thế,
Đều hiện ra nơi thân.
Những cung điện chư thiên,
Lên đến cõi Hữu đỉnh,
Núi Thiết vi, Di-lâu,
Hoặc núi Đại Di-lâu,
Cùng các vùng biển lớn,
Đều hiện ra nơi thân.
Chư Phật cùng Thanh văn,
Đệ tử Phật, Bồ Tát,
Độc cư, hoặc thuyết pháp
Giữa đại chúng, đều hiện.
Chưa được thân vi diệu,
Từ pháp tánh vô lậu,
Thể thanh tịnh thân phàm,
Tất cả đều hiện rõ.”
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của ý. Với ý căn thanh tịnh này, dù chỉ nghe một bài kệ, một câu kinh cũng thấu hiểu thông suốt ý nghĩa vô lượng vô biên. Hiểu được ý nghĩa ấy rồi, có thể diễn giảng một bài kệ, một câu kinh đó trong một tháng, bốn tháng, thậm chí một năm; những pháp thuyết giảng đều thuận theo ý nghĩa, không trái với thật tướng.
“Nếu người ấy giảng giải kinh sách thế gian, nói về thuật xử thế hoặc nghề nghiệp sinh nhai… cũng đều phù hợp với chánh pháp.
“Tất cả những biến chuyển, động khởi, tạo tác, hý luận trong tâm của hết thảy chúng sanh sáu cõi trong thế giới đại thiên, người ấy đều rõ biết. Người ấy tuy chưa đạt được trí tuệ vô lậu nhưng nhờ ý căn thanh tịnh như vậy nên mọi tư tưởng suy lường, nói năng đều là pháp Phật, tất cả đều chân thật, cũng đều là những điều chư Phật trước đây đã thuyết dạy trong kinh điển.”
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Người này ý thanh tịnh,
Sáng suốt không uế nhiễm,
Dùng ý căn nhiệm mầu,
Hiểu pháp thượng, trung, hạ.
Dù nghe một bài kệ,
Thấu suốt vô lượng nghĩa,
Tuần tự thuyết giảng lại,
Một tháng đến một năm.
Hết thảy mọi chúng sanh,
Trong, ngoài thế giới này,
Chư thiên, người, loài rồng,
Dạ-xoa, các quỷ thần…
Đang ở trong sáu đường,
Niệm tưởng vừa sinh khởi,
Phước báo trì Pháp Hoa,
Tức thời rõ biết hết.
Vô số Phật mười phương,
Tướng trăm phước trang nghiêm,
[14]Vì chúng sanh thuyết pháp,
Đều nghe được, thọ trì.
Suy xét vô lượng nghĩa,
Thuyết pháp cũng vô lượng,
Trước sau không sai sót,
Trì Pháp Hoa được vậy.
Hiểu thấu mọi tướng pháp,
Tùy nghĩa biết trước sau,
Thông suốt mọi tên gọi,
Theo chỗ biết diễn giải.
Người ấy nói điều gì,
Đều là pháp Phật xưa,
Vì diễn giảng pháp ấy,
Giữa đại chúng không sợ.
Người trì kinh Pháp Hoa,
Ý thanh tịnh như thế,
Tuy chưa được vô lậu,
Được tướng như vậy trước.
Người trì kinh an trụ,
Nơi địa vị hy hữu,
Được hết thảy chúng sanh,
Đều hoan hỷ yêu kính.
Nhờ trì kinh Pháp Hoa,
Nên biết ngàn muôn cách,
Khéo léo chọn ngôn từ,
Để phân biệt thuyết pháp.
__________________________
CHÚ THÍCH[1] Nguyên tác dùng “眼功德 - nhãn công đức”, “耳功德 - nhĩ công đức” v.v. Các bản dịch trước đây hiểu là “công đức nơi mắt, công đức nơi tai…”. Tham khảo giảng giải trong kinh Lăng nghiêm và các kinh luận khác nói về công đức của 6 căn thì đây là “công đức của mắt, công đức của tai…” do các căn này tạo ra, chứ không phải chỉ đến công đức ở những nơi đó. Ví dụ như nhãn căn thanh tịnh tạo ra được 800 công đức, vì mắt chỉ có thể nhìn được phía trước và hai bên; nhĩ căn thanh tịnh tạo ra được 1.200 công đức, vì tai có khả năng nghe khắp chung quanh. Những công đức này được tạo ra do nhãn căn, nhĩ căn… thanh tịnh, và sự thanh tịnh này có được nhờ đọc, tụng, giảng giải, sao chép kinh Pháp Hoa. Đây là ý nghĩa của phẩm kinh này. Tham khảo bản Anh ngữ của H. Kern cũng dịch tương tự là “eight hundred good qualities of the eye” (800 công đức của mắt).
[2] Chuông lắc, cũng gọi là cái linh, chỉ loại chuông nhỏ có thanh kim loại treo bên trong, khi cầm lắc hay lúc treo có gió lay thì phát ra âm thanh.
[3] Chim mạng mạng (命命鳥), tức là chim kỳ-bà-kỳ-bà-ca (jīvajīvaka), trong kinh A-di-đà gọi là chim cộng mạng.
[4] Đa-ma-la-bạt: một loại chiên đàn quý đã nói ở trước.
[5] Hương đa-già-la (H. 多伽羅香, S. tagara), loại hương thơm được chế từ cây đa-già-la.
[6] Cây ba-lợi-chất-đa-la (H. 波利質多羅樹, S. pārijātaka), cây lớn đặc biệt nằm ở thành Thiện Kiến trên cung trời Đao-lợi, cao 100 do-tuần, cành lá hoa trái đều có mùi thơm, tỏa khắp cung trời nên gọi là cây hương biến (香遍樹).
[7] Cây câu-bệ-đà-la (H. 拘鞞陀羅樹, S. kovidāra), loại cây rất cao lớn, hình dáng đẹp, cành lá sum suê tươi tốt không lúc nào đổi màu.
[8] Thích Đề Hoàn Nhân (S. Śakra Devānāmindra, H. 釋提桓因), vị thiên chủ cõi trời Đao-lợi, cũng gọi là Thiên Đế hay Thiên Đế Thích.
[9] Phạm thế (H. 梵世, S. brahmaloka), tức Phạm thế giới, chỉ cõi trời do Phạm thiên cai quản.
[10] Nguyên tác dùng bảo nữ (寶女), thường gọi là nữ bảo (女寶), một trong thất bảo (7 món báu) do phước đức của vị Chuyển luân vương mà tự nhiên hiện ra khi vị ấy ra đời. Nữ bảo do phước đức biến hiện, không phải người thật, là mỹ nhân xinh đẹp và hiền thục, luôn có thể hiểu được ý vua.
[11] Tô du (酥油) được chế biến từ sữa bò bằng cách lấy váng sữa, cô đặc lại, có thể dùng trị bệnh. Có 2 loại là sinh tô (生酥), tức bơ sống, và thục tô (熟酥), bơ chín.
[12] Bảy báu tự nhiên hiện ra do phước báu của vị Chuyển luân vương bao gồm: luân bảo (bánh xe báu, t đưa vua đi chinh phục khắp nơi); tượng bảo (voi quý); mã bảo (ngựa quý); châu bảo (các loại châu báu quý giá); nữ bảo (người con gái khéo hầu hạ, luôn rõ biết ý vua); chủ tạng bảo (vị quan giữ kho tài giỏi, rõ biết tất cả các kho tàng chôn giấu trong lòng đất); chủ binh thần bảo (vị tướng quân giỏi việc chinh phạt).
[13] Nguyên tác là “乘其宮殿 - thừa kỳ cung điện”, e rằng có sự nhầm lẫn giữa cung điện của chư thiên (vimāna), vốn được sử dụng như những cỗ xe, có thể đưa các vị đi khắp nơi tùy ý muốn. Cung điện của các vị Chuyển luân vương ở cõi Ta-bà không có chức năng này, nên họ phải đi trên các cỗ xe bình thường, không thể “thừa kỳ cung điện” giống như chư thiên “thừa thiên cung”, đã nói ở một phần trước. Tham khảo bản dịch Anh ngữ của H. Kern ở câu tương ứng không có ý này: “Kings ruling armies and emperors possessed of the seven treasures, along with the princes royal, ministers, ladies of the harem, and their retinue will be desirous of seeing him and paying him their homage.” (Các vị vua thống lĩnh quân đội và Chuyển luân vương có bảy báu, cùng các vương tử, đại thần, cung nữ trong hậu cung và những người theo hầu đều mong muốn được gặp vị ấy và kính lễ.)
[14] Tướng trăm phước trang nghiêm (H. 百福莊嚴相, S. śata-puṇya-vicitrita), chỉ 32 tướng tốt của chư Phật vì mỗi tướng đều do trăm phước trang nghiêm mà thành tựu.