Tôi nghe như thế này, vào lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá, giữa núi Kỳ-xà-quật, cùng với chúng đại tỳ-kheo 1.200 vị,
[1] hết thảy đều là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã dứt, không bị phiền não trở lại, được lợi lạc bản thân, dứt hết trói buộc trong các cõi hiện hữu, tâm được tự tại.
Tên các ngài là: A-nhã Kiều-trần-như,
[2] Ma-ha Ca-diếp,
[3] Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp,
[4] Xá-lợi-phất,
[5] Đại Mục-kiền-liên,
[6] Ma-ha Ca-chiên-diên,
[7] A-nậu-lâu-đà,
[8] Kiếp-tân-na,
[9] Kiều-phạm-ba-đề,
[10] Ly-bà-đa,
[11] Tất-lăng-già-bà-sa,
[12] Bạc-câu-la,
[13] Ma-ha Câu-hi-la,
[14] Nan-đà,
[15] Tôn-đà-la Nan-đà,
[16] Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử,
[17] Tu-bồ-đề,
[18] A-nan,
[19] La-hầu-la.
[20] Đó là các vị đại A-la-hán được nhiều người biết đến.
[21]Lại có các vị hữu học, vô học
[22] đến 2.000 người.
Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề
[23] cùng với ni chúng 6.000 người cùng đến. Mẹ của La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la
[24] cũng cùng đến với ni chúng.
Có 80.000 vị Đại Bồ Tát, tất cả đều không còn thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
[25] đều đạt được đà-la-ni, có tài biện luận vui thích thuyết giảng, chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển, từng cúng dường vô số trăm nghìn đức Phật, ở nơi chư Phật gieo trồng các gốc công đức, thường được chư Phật ngợi khen xưng tán, dùng tâm từ tu thân, khéo thể nhập trí tuệ Phật, thông đạt trí tuệ lớn lao, đạt đến bờ giải thoát, danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới, thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh.
Danh hiệu của các vị là: Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi,
[26] Bồ Tát Quán Thế Âm,
[27] Bồ Tát Đắc Đại Thế,
[28] Bồ Tát Thường Tinh Tấn,
[29] Bồ Tát Bất Hưu Tức,
[30] Bồ Tát Bảo Chưởng,
[31] Bồ Tát Dược Vương,
[32] Bồ Tát Dũng Thí,
[33] Bồ Tát Bảo Nguyệt,
[34] Bồ Tát Nguyệt Quang,
[35] Bồ Tát Mãn Nguyệt,
[36] Bồ Tát Đại Lực,
[37] Bồ Tát Vô Lượng Lực,
[38] Bồ Tát Việt Tam Giới,
[39] Bồ Tát Bạt-đà-bà-la,
[40] Bồ Tát Di-lặc,
[41] Bồ Tát Bảo Tích,
[42] Bồ Tát Đạo Sư
[43]… Các vị Đại Bồ Tát như vậy, cả thảy 80.000 vị cùng tham dự pháp hội.
Lúc bấy giờ có Thích-đề-hoàn-nhân
[44] và quyến thuộc 20.000 vị thiên tử cùng đến. Lại có Thiên tử Danh Nguyệt, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang, Tứ đại Thiên vương
[45] và quyến thuộc 10.000 thiên tử cùng đến. Thiên tử Tự Tại, Thiên tử Đại Tự Tại và quyến thuộc 30.000 thiên tử cùng đến. Phạm Thiên vương chủ thế giới Ta-bà,
[46] cùng Đại Phạm Thi-khí,
[47] Đại Phạm Quang Minh
[48]... và quyến thuộc 12.000 thiên tử cùng đến.
Có 8 vị long vương:
[49] Long vương Nan-đà, Long vương Bạt-nan-đà, Long vương Sa-già-la, Long vương Hòa-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca, Long vương A-na-bà-đạt-đa, Long vương Ma-na-tư, Long vương Ưu-bát-la,
[50] mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.
Có bốn vị vua khẩn-na-la:
[51] Vua Khẩn-na-la Pháp, Vua Khẩn-na-la Diệu Pháp, Vua Khẩn-na-la Đại Pháp, Vua Khẩn-na-la Trì Pháp, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.
Có bốn vị vua càn-thát-bà:
[52] Vua Càn-thát-bà Nhạc, Vua Càn-thát-bà Nhạc Âm, Vua Càn-thát-bà Mỹ, Vua Càn-thát-bà Mỹ Âm, mỗi vị đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
Có bốn vị vua a-tu-la:
[53] Vua A-tu-la Bà-trĩ, Vua A-tu-la Khư-la-kiển-đà, Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la, Vua A-tu-la La-hầu, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
Có bốn vị vua ca-lâu-la:
[54] Vua Ca-lâu-la Đại Uy Đức, Vua Ca-lâu-la Đại Thân, Vua Ca-lâu-la Đại Mãn, Vua Ca-lâu-la Như Ý, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
Vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hi
[55] cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc, hết thảy đều đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn có bốn chúng đi nhiễu quanh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.
[56] Phật thuyết kinh ấy xong, ngồi kết già nhập Tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm chẳng động.
Lúc bấy giờ trời mưa xuống các loại hoa mạn-đà-la, ma-ha mạn-đà-la,
[57] mạn-thù-sa, ma-ha mạn-thù-sa;
[58] hoa rơi trên thân Phật và khắp thảy đại chúng.
Cõi đất chấn động khắp thế giới Phật. Bấy giờ trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa,
[59] càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già,
[60] người và các loài phi nhân…
[61] cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương. Đại chúng gặp việc chưa từng có, hoan hỷ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật.
Lúc bấy giờ, đức Phật phóng hào quang từ nơi tướng bạch hào giữa hai chân mày,
[62] soi chiếu 18.000 thế giới ở phương đông, không một nơi nào không soi thấu, phía dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ,
[63] phía trên chiếu đến cõi trời A-ca-ni-trá.
[64]Từ nơi thế giới này thấy hết thảy sáu đường chúng sanh các cõi kia,
[65] lại thấy chư Phật hiện tại ở các cõi ấy cùng nghe được những kinh điển giáo pháp mà chư Phật ấy thuyết giảng, cùng thấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những vị tu hành đạt đạo. Lại thấy các vị Đại Bồ Tát, đủ mọi nhân duyên, đủ mọi tín giải, đủ mọi tướng mạo, thực hành đạo Bồ Tát. Lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn ; lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn, đại chúng thu xá-lợi Phật, dựng tháp thờ bằng bảy món báu.
Lúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc nghĩ rằng: “Nay đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, do nhân duyên gì mà có điềm lành này? Nay đức Phật Thế Tôn đã nhập tam-muội, việc biến hiện hy hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai? Ai có thể giải đáp?” Rồi lại nghĩ rằng: “Ngài Văn-thù-sư-lợi là con đấng Pháp vương, đã từng thân cận cúng dường vô số chư Phật trong quá khứ, chắc hẳn đã từng được thấy tướng ít có này, nay ta nên thưa hỏi.” Lúc ấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng với chư thiên, loài rồng, quỷ thần... cũng đều nghĩ rằng: “Tướng thần thông hào quang chiếu sáng của đức Phật, nay biết thưa hỏi ai?”
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di-lặc muốn dứt mối nghi của mình, lại quán sát thấy được tâm nghi của bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng chư thiên, loài rồng, quỷ thần... nên thưa hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: “Do nhân duyên gì mà có điềm lành Phật hiện tướng thần thông, phóng hào quang lớn chiếu đến 18.000 thế giới ở phương đông, [đại chúng] thấy hết được những cõi Phật trang nghiêm nơi ấy?”
Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc muốn lặp lại ý nghĩa trên liền đọc kệ thưa hỏi rằng:
Ngài Văn-thù-sư-lợi!
Vì sao đấng Đạo sư,
Từ giữa hai chân mày,
Phóng hào quang soi chiếu.
Mưa hoa mạn-đà-la,
Với hoa mạn-thù-sa,
Gió thơm hương chiên-đàn,
Đại chúng đều hoan hỷ?
Lại do nhân duyên này,
Mặt đất đều nghiêm tịnh,
Và khắp thế giới này,
Chấn động theo sáu cách.
[66]Bấy giờ cả bốn chúng,
Đều vui mừng hoan hỷ,
Thân ý đều sảng khoái,
Được việc chưa từng có.
Hào quang từ giữa mày,
Soi chiếu thấu phương đông,
Khắp mười tám ngàn cõi,
Đều sáng đẹp sắc vàng;
Từ địa ngục A-tỳ,
Lên đến trời Hữu đỉnh,
Các thế giới trong đó,
Đủ sáu đường chúng sanh,
Sống, chết, đi về đâu,
Hay nghiệp duyên lành dữ,
Chịu quả báo tốt xấu,
Từ đây đều thấy rõ.
Lại thấy các đức Phật,
Bậc Sư tử Thánh chúa,
Diễn thuyết nhiều kinh điển,
Đều vi diệu bậc nhất.
Âm thanh thật thanh tịnh,
Tiếng nói nghe dịu dàng,
Dạy bảo hàng Bồ Tát,
Vô số muôn ngàn người.
Tiếng cõi trời sâu mầu,
Ai ai cũng thích nghe.
Mỗi vị nơi cõi mình,
Đều giảng thuyết chánh pháp,
Cùng đủ mọi nhân duyên,
Và vô số thí dụ,
Làm sáng tỏ Phật pháp,
Để khai ngộ chúng sanh.
Với những người gặp khổ,
Chán bỏ già, bệnh, chết,
Vì họ thuyết Niết-bàn,
Dứt hết mọi cảnh khổ.
Với những người có phước,
Đã từng cúng dường Phật,
Quyết cầu pháp vượt trội,
Liền dạy pháp Duyên giác;
Riêng với hàng con Phật,
Tu đủ mọi công hạnh,
Cầu trí tuệ Vô thượng,
Liền thuyết đạo thanh tịnh.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Tôi ở tại nơi đây,
Thấy nghe những việc ấy,
Cùng muôn ngàn việc khác,
Hội chúng đủ hạng người,
Nay chỉ xin lược nói.
Tôi thấy những cõi kia,
Có vô số Bồ Tát,
Dùng đủ mọi nhân duyên,
Để cầu thành Phật đạo.
Có người thường bố thí,
Vàng bạc với san hô,
Hạt châu quý ma-ni,
Xa cừ cùng mã não,
Kim cương, các trân bảo,
Nô tỳ và xe cộ,
Trang trí bằng châu báu,
Đều hoan hỷ bố thí.
Hồi hướng cầu Phật đạo,
Nguyện đạt được Phật thừa,
Bậc nhất trong ba cõi,
Chư Phật đều khen ngợi.
Hoặc có những Bồ Tát,
Bố thí cả xe quý,
Có bốn ngựa, lọng che,
Cùng trang sức xinh đẹp.
Lại thấy các Bồ Tát,
Bố thí cả xương thịt,
Chân tay cùng vợ con,
Vì cầu đạo Vô thượng.
Lại thấy các Bồ Tát,
Ưa thích, vui mừng thí,
Đầu, mắt cùng thân thể,
Vì cầu trí tuệ Phật.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Tôi thấy các vị vua,
Đến viếng thăm chỗ Phật,
Thưa hỏi đạo Vô thượng,
Rồi bỏ cõi dục lạc,
Cung điện nhiều mỹ nữ,
Cạo sạch cả râu tóc,
Mặc pháp phục xuất gia.
Hoặc thấy các Bồ Tát,
Mà hiện làm tỳ-kheo,
Sống cô độc nhàn tĩnh,
Ưa thích tụng kinh điển.
Lại thấy các Bồ Tát,
Sức dũng mãnh tinh tấn,
Vào tận trong núi sâu,
Nỗ lực tư duy đạo.
Lại thấy bậc ly dục,
Thường sống nơi nhàn tịnh,
Tu sâu pháp thiền định,
Đạt được năm thần thông.
Lại thấy các Bồ Tát,
Trong thiền định chắp tay,
Dùng muôn ngàn lời kệ,
Ngợi khen các đức Phật.
Lại thấy các Bồ Tát
Trí sâu chí nguyện vững,
Thường thưa hỏi chư Phật,
Nghe giảng liền thọ trì.
Lại thấy hàng con Phật,
Đã trọn đủ định, tuệ,
Dùng vô số thí dụ,
Vì đại chúng giảng pháp.
Vui thích thuyết chánh pháp,
Giáo hóa các Bồ Tát,
Phá trừ hết quân ma,
Đánh vang rền trống Pháp.
Lại thấy các Bồ Tát,
Trụ yên trong tịch lặng,
Trời, rồng đều cung kính,
Nhưng không lấy làm vui.
Lại thấy các Bồ Tát,
Từ rừng sâu phóng quang,
Chúng sanh khổ địa ngục,
Khiến được vào đạo Phật.
Lại thấy hàng con Phật,
Tỉnh thức không ngủ nghỉ,
Trong rừng sâu kinh hành,
Chuyên cần cầu đạo Phật.
Lại thấy người giữ giới,
Oai nghi không khuyết tổn,
Trong sáng như châu ngọc,
Để cầu thành Phật đạo.
Lại thấy hàng con Phật,
An trụ sức nhẫn nhục,
Dù những kẻ kiêu mạn,
Mắng chửi và đánh đập,
Cũng đều nhẫn nhịn được,
Để cầu thành Phật đạo.
Lại thấy hàng Bồ Tát,
Lìa xa chuyện cợt đùa,
Không gần kẻ ngu si,
Thân cận bậc trí tuệ,
Chuyên tâm trừ loạn tưởng,
Giữa núi rừng nhiếp tâm,
Trong suốt muôn ngàn năm,
Để cầu thành Phật đạo.
Hoặc thấy hàng Bồ Tát,
Dùng thức ăn ngon quý,
Cùng trăm loại thuốc thang,
Cúng dường Phật và Tăng.
Dùng y phục thượng hạng,
Giá muôn ngàn lượng vàng,
Hoặc quý báu vô giá,
Cúng dường Phật và Tăng.
Dùng trăm ngàn muôn loại,
Nhà quý gỗ chiên-đàn,
Với tòa ngồi tốt đẹp,
Cúng dường Phật và Tăng.
Dâng vườn rừng yên tĩnh,
Có hoa trái sum suê,
Suối chảy, hồ trong mát,
Cúng dường Phật và Tăng.
Cúng dường những thứ ấy,
Đều tốt đẹp nhiệm mầu,
Tâm hoan hỷ không chán,
Vì cầu đạo Vô thượng.
Hoặc có hàng Bồ Tát,
Thuyết giảng pháp tịch diệt,
Dùng mọi cách chỉ bày,
Cho vô số chúng sanh.
Hoặc thấy hàng Bồ Tát,
Quán chiếu các tánh pháp,
Vốn thật không hai tướng,
Thảy đều như hư không.
Lại thấy hàng con Phật,
Tâm không chút dính mắc,
Dùng trí tuệ nhiệm mầu,
Để cầu đạo Vô thượng.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Lại có hàng Bồ Tát,
Sau khi Phật diệt độ,
Liền cúng dường xá-lợi.
Lại thấy hàng con Phật,
Xây dựng các tháp miếu,
Nhiều như cát sông Hằng,
Làm trang nghiêm cõi nước.
Tháp báu đẹp tuyệt vời,
Cao năm ngàn do-tuần,
Ngang, rộng giống như nhau,
Đều hai ngàn do-tuần.
Mỗi một ngôi tháp miếu,
Đều có ngàn cờ phướn,
Cùng màn ngọc phủ che,
Với chuông nhỏ hòa ngân.
Có chư thiên, long, thần,
Người và loài phi nhân,
Dùng hương, hoa, âm nhạc,
Thường dâng lên cúng dường.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Hết thảy hàng Phật tử,
Vì cúng dường xá-lợi,
Nên trang nghiêm tháp miếu,
Khắp cõi nước tự nhiên,
Thành tươi đẹp tuyệt vời,
Như cây chúa cõi trời,
Đang mùa hoa nở rộ.
Một lần Phật phóng quang,
Tôi cùng cả hội chúng,
Đều thấy cõi nước này,
Đủ mọi vẻ tươi đẹp.
Thần lực của chư Phật,
Trí tuệ thật ít có,
Phóng hào quang thanh tịnh,
Chiếu vô số cõi nước.
Chúng tôi đều được thấy,
Việc xưa nay chưa có.
Nguyện Phật tử Văn-thù!
Vì đại chúng giải nghi.
Bốn chúng đều ngưỡng vọng,
Mong đợi ngài và tôi,
Nói rõ Phật vì sao,
Phóng tỏa hào quang này.
Xin kịp thời giải đáp,
Dứt nghi để được vui.
Lại vì lợi ích gì,
Phật hiện phóng hào quang?
Phật ngồi nơi đạo trường,
Đã chứng đắc diệu pháp,
Nay sẽ thuyết pháp ấy,
Hay vì ai thụ ký?
Nên hiện các cõi Phật,
Với châu báu nghiêm tịnh.
Lại thấy các cõi Phật,
Chẳng phải duyên nhỏ nhặt.
Ngài Văn-thù nên biết,
Bốn chúng, hàng trời, rồng...
Đều mong ngóng chờ xem,
Ngài nói ra những gì?
Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ Tát Di-lặc, các vị đại sĩ và thiện nam tử: “Theo như tôi suy xét thì nay đức Phật Thế Tôn muốn thuyết pháp lớn lao, mưa xuống cơn mưa pháp lớn, thổi tù và pháp lớn,
[67] đánh tiếng trống pháp lớn, diễn giảng nghĩa pháp lớn.
“Các vị thiện nam tử! Tôi ở nơi chư Phật trong quá khứ từng thấy điềm lành này, phóng hào quang này rồi ắt thuyết pháp lớn lao. Cho nên biết được rằng, nay Phật hiện hào quang cũng giống như vậy, muốn cho chúng sanh thảy đều nghe biết pháp khó tin nhận với tất cả thế gian, cho nên hiện điềm lành này.
“Các thiện nam tử! Như trong quá khứ cách đây vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kì số kiếp.
“Lúc bấy giờ có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh
[68] Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
[69]“[Đức Phật ấy] diễn thuyết chánh pháp lúc ban sơ tốt đẹp, khoảng giữa tốt đẹp, sau cùng cũng tốt đẹp, ý nghĩa sâu xa, ngôn ngữ khéo léo mầu nhiệm, thuần khiết không xen tạp, đầy đủ tướng trạng của hạnh thanh tịnh trong sáng.
“Vì người cầu quả Thanh văn mà thuyết pháp tứ đế
[70] thích hợp, vượt thoát sinh già bệnh chết, rốt ráo đạt Niết-bàn; vì người cầu quả Duyên giác
[71] mà thuyết pháp mười hai nhân duyên thích hợp; vì các Bồ Tát mà thuyết sáu ba-la-mật
[72] thích hợp, khiến cho đạt được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành tựu Nhất thiết chủng trí.
[73]“Tiếp đến có Phật cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, rồi tiếp nữa lại có Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, như vậy đến 20.000 vị Phật đều cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại cũng đồng một dòng họ là Phả-la-đọa. Ngài Di-lặc nên biết, từ vị Phật ban đầu đến vị Phật cuối cùng đều cùng một danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều có đầy đủ mười đức hiệu, và những điều thuyết pháp từ ban sơ, khoảng giữa cho đến cuối cùng đều tốt đẹp.
“Vị Phật sau cùng, lúc chưa xuất gia có tám người con. Người thứ nhất tên là Hữu Ý, thứ hai là Thiện Ý, thứ ba là Vô Lượng Ý, thứ tư là Bảo Ý, thứ năm là Tăng Ý, thứ sáu là Trừ Nghi Ý, thứ bảy là Hưởng Ý, thứ tám là Pháp Ý. Tám vị vương tử này đều có oai đức tự tại, mỗi vị đều cai trị bốn thiên hạ. Các vị vương tử nghe tin phụ vương xuất gia, đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền xả bỏ vương vị theo cha xuất gia, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều là những vị pháp sư, ở nơi muôn ngàn đức Phật trồng các cội lành.
“Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Thuyết kinh xong liền ở giữa đại chúng ngồi kết già nhập tam-muội Vô lượng nghĩa xứ,
[74] thân tâm chẳng động. Khi ấy, trời mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hoa rải lên thân Phật và đại chúng. Khắp cõi Phật, mặt đất chấn động theo sáu cách. Khi ấy trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và loài phi nhân, cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương... Đại chúng như vậy được việc chưa từng có, đều hoan hỷ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật. Khi ấy, đức Như Lai phóng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa hai chân mày, soi chiếu về phương đông đến 18.000 cõi Phật, không nơi nào không soi thấu, cũng giống như ngày nay đã thấy hiển bày các cõi Phật. Ngài Di-lặc nên biết, khi ấy trong chúng hội có hai triệu Bồ Tát ưa muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát này thấy hào quang soi chiếu khắp các cõi Phật, được điều chưa từng có, đều muốn rõ biết nhân duyên của hào quang này.
“Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang,
[75] có 800 người đệ tử. Khi ấy, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra khỏi tam-muội, nhân vì Bồ Tát Diệu Quang mà thuyết kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm, trong 60 tiểu kiếp không đứng dậy khỏi tòa ngồi. Chúng hội cũng ngồi yên một chỗ, trong 60 tiểu kiếp thân tâm không dao động, lắng nghe Phật thuyết kinh, đều cảm thấy chỉ như thời gian một bữa ăn. Lúc ấy trong chúng hội không một người nào thấy thân hoặc tâm sinh ra lười mỏi.
“Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh qua 60 tiểu kiếp thuyết kinh này rồi, liền tuyên bố với chúng hội gồm các vị phạm chí, ma, sa-môn, bà-la-môn, chư thiên, người, a-tu-la rằng: ‘Hôm nay vào lúc giữa đêm, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn Vô dư.’
[76]“Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Đức Tạng,
[77] Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thụ ký, nói với các vị tỳ-kheo: ‘Bồ Tát Đức Tạng này sẽ thành Phật tiếp theo, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác…’
[78]“Đức Phật thụ ký rồi, đến giữa đêm liền nhập Niết-bàn Vô dư. Sau khi Phật diệt độ, Bồ Tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trọn 80 tiểu kiếp vì người khác giảng thuyết. Tám người con của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều thờ ngài Diệu Quang làm thầy, được ngài dạy dỗ, khiến cho được tâm kiên cố đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh Giác. Các vương tử này, sau khi cúng dường vô số trăm ngàn muôn ức vị Phật rồi thảy đều thành Phật. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng. Trong số 800 đệ tử, có một người tên là Cầu Danh, tham chấp lợi dưỡng, tuy cũng tụng đọc kinh điển nhưng không thông hiểu, phần nhiều đều quên mất, cho nên có hiệu là Cầu Danh. Người này vì cũng từng gieo trồng nhiều căn lành nên được gặp vô số trăm ngàn muôn ức đức Phật, đều cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán.
“Ngài Di-lặc nên biết, Bồ Tát Diệu Quang thuở ấy nào phải ai khác, chính là tôi đây. Còn Bồ Tát Cầu Danh chính là ngài đó.
“Nay tôi thấy điềm lành này so với thuở xưa không khác, nên suy xét rằng: “Hôm nay đức Như Lai sẽ thuyết giảng kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.”
Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi ở giữa đại chúng muốn trùng tuyên ý nghĩa trên nên đọc kệ rằng:
Tôi nhớ đời quá khứ,
Vô lượng vô số kiếp,
Có Phật, đấng cao quý,
Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh.
Thế Tôn thuyết giảng pháp,
Độ vô lượng chúng sanh,
Vô số ức Bồ Tát,
Khiến vào trí tuệ Phật.
Khi Phật chưa xuất gia,
Sinh ra tám vương tử,
Thấy Đại thánh xuất gia,
Cũng theo tu thanh tịnh.
Khi Phật thuyết Đại thừa,
Kinh tên Vô Lượng Nghĩa,
Liền ở giữa đại chúng,
Vì người rộng phân biệt.
Phật thuyết kinh ấy rồi,
Liền ngồi trên pháp tòa,
Kết già nhập tam-muội,
Tên Vô Lượng Nghĩa Xứ.
Trời mưa hoa mạn-đà,
Trống trời tự nhiên vang,
Chư thiên, rồng, quỷ thần,
Cúng dường Bậc Tôn quý.
Hết thảy bao cõi Phật,
Đều tức thời chấn động,
Phật phóng quang giữa mày,
Hiện những việc ít có.
Hào quang chiếu phương đông,
Mười tám ngàn cõi Phật,
Chúng sanh đều được thấy,
Chỗ nghiệp báo sinh tử.
Cũng thấy các cõi Phật,
Dùng châu báu trang nghiêm,
Màu lưu ly, pha lê,
Đều do hào quang Phật.
Lại thấy chúng trời người,
Rồng, thần và dạ-xoa,
Càn-thát, khẩn na la,
Đều cúng dường Phật ấy.
Lại thấy các vị Phật,
Tự nhiên thành Phật đạo,
Thân sáng như núi vàng,
Đoan nghiêm rất vi diệu.
Trong sạch như lưu ly,
Hiện thành tượng vàng ròng,
Thế Tôn giữa đại chúng,
Rộng thuyết pháp sâu mầu.
Nơi mỗi một cõi Phật,
Có vô số Thanh văn,
Nương hào quang Phật chiếu,
Thấy rõ các chúng ấy.
Hoặc có những tỳ-kheo,
Thường sống giữa núi rừng,
Tinh tấn giữ giới hạnh,
Như giữ hạt minh châu.
Lại nhờ hào quang Phật,
Thấy được các Bồ Tát,
Hành bố thí, nhẫn nhục...
Nhiều như cát sông Hằng.
Lại thấy các Bồ Tát,
Vào sâu các thiền định,
Thân tâm lặng chẳng động,
Để cầu đạo Vô thượng.
Lại thấy các Bồ Tát,
Biết tướng pháp tịch diệt,
Ở nơi cõi nước mình,
Thuyết pháp cầu đạo Phật.
Bấy giờ cả bốn chúng,
Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng,
Hiện sức thần thông lớn,
Trong tâm đều hoan hỷ,
Các vị cùng hỏi nhau,
Đây là nhân duyên gì?
Đấng trời người tôn kính,
Vừa ra khỏi tam-muội,
Khen Bồ Tát Diệu Quang,
Ông là tai mắt đời,
Người người đều tin theo.
Có thể giữ kho pháp,
Những gì ta thuyết giảng,
Chỉ riêng ông rõ biết.
Thế Tôn ngợi khen rồi,
Khiến Diệu Quang hoan hỷ,
Liền thuyết kinh Pháp hoa,
Trọn sáu mươi tiểu kiếp,
Không rời khỏi chỗ ngồi.
Pháp nhiệm mầu Phật thuyết,
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Đều có thể thọ trì.
Phật thuyết kinh Pháp Hoa,
Khiến đại chúng hoan hỷ,
Rồi ngay trong ngày ấy,
Bảo khắp chúng trời, người:
“Nghĩa thật tướng các pháp,
Đã vì chúng giảng thuyết,
Nay vào giữa đêm này,
Ta sẽ nhập Niết-bàn.
Hãy chuyên tâm tinh tấn,
Lìa xa thói phóng túng,
Cơ hội gặp Phật khó,
Trăm ngàn kiếp mới có.”
Hàng đệ tử Thế Tôn,
Nghe Phật nhập Niết-bàn,
Ai ai cũng bi thương,
Sao Phật chóng nhập diệt?
Bậc Thánh chủ Pháp vương,
An ủi vô số chúng:
“Như Ta diệt độ rồi,
Các người chớ lo sợ.
Bồ Tát Đức Tạng đây,
Tâm đã rõ thông được,
Tướng thật pháp vô lậu,
Kế tiếp sẽ thành Phật,
Hiệu Tịnh Thân Như Lai,
Cũng độ vô số chúng.”
Đêm ấy Phật diệt độ,
Như củi hết lửa tắt.
Phân chia Xá-lợi Phật,
Rồi dựng vô số tháp.
Tỳ-kheo, tỳ-kheo ni,
Nhiều như cát sông Hằng,
Lại càng thêm tinh tấn,
Để cầu đạo Vô thượng.
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Vâng giữ pháp tạng Phật,
Trong tám mươi tiểu kiếp,
Rộng thuyết kinh Pháp hoa.
Tám vương tử con Phật,
Được Diệu Quang chỉ bày,
Vững vàng trong đạo Phật,
Rồi gặp vô số Phật,
Đều cung kính cúng dường,
Vâng theo tu hành đạo,
Tiếp nối đều thành Phật,
Lần lượt được thụ ký.
Cho đến Phật sau cùng,
Hiệu là Phật Nhiên Đăng,
Là thầy các tiên nhân,
Độ thoát vô số chúng.
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Lại có một đệ tử,
Thường ôm lòng biếng nhác,
Mê đắm đường danh lợi,
Tham cầu không biết chán,
Giao du các nhà giàu,
Tụng kinh rồi vất bỏ,
Quên mất không rõ nghĩa.
Vì nhân duyên như thế,
Nên tên là Cầu Danh.
Nhưng tạo các nghiệp lành,
Được gặp vô số Phật,
Cúng dường chư Phật rồi,
Vâng theo, tu hành đạo,
Đủ sáu ba-la-mật,
Nay gặp đức Thích-ca.
Sau này sẽ thành Phật,
Hiệu là Phật Di-lặc,
Rộng độ khắp chúng sanh,
Số nhiều đến vô lượng.
Phật xưa diệt độ rồi,
Cầu Danh chính là ông.
Còn Pháp sư Diệu Quang,
Nay chính là tôi đây.
Tôi thấy Phật Đăng Minh,
Xưa phóng quang như thế,
Nên biết Phật ngày nay,
Sắp thuyết kinh Pháp Hoa.
Tướng nay, điềm lành xưa,
Là phương tiện chư Phật.
Nay Phật phóng hào quang,
Giúp hiện nghĩa tướng thật.
Chư vị nay nên biết,
Chắp tay một lòng chờ,
Phật sẽ ban mưa pháp,
Sung túc người cầu đạo.
Người cầu quả Tam thừa,
Nếu như còn nghi vấn,
Phật sẽ giúp đoạn trừ,
Dứt sạch không còn nghi.
____________________
CHÚ THÍCH[1] Nguyên tác Hán văn là “大比丘眾萬二千人俱, 皆是阿羅漢 - đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu, giai thị A-la-hán” (chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, hết thảy đều là bậc A-la-hán). Tuy nhiên, kinh Chánh Pháp Hoa ở chỗ này nói là 1.200 vị tỳ-kheo: “比丘千二百, 一 切無著 - tỳ-kheo thiên nhị bá, nhất thiết vô trước”. Bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern cũng nói là 1.200 vị: “twelve hundred monks, all of them Arhats” (1.200 vị tăng, tất cả đều là bậc A-la-hán). Lại xét trong chính bản dịch này, phẩm Phương tiện nói: “爾時大眾中有諸聲聞漏盡阿羅漢,阿若憍陳如等千二百人 - Nhĩ thời đại chúng trung hữu chư Thanh văn lậu tận A-la-hán, A-nhã Kiều-trần-như đẳng thiên nhị bá nhân…” (Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị.) (ĐCT, T9, 262, tr.6a, d.28-29) Tiếp theo, trong phẩm Thí dụ, ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: “是諸千二百心自在者,昔住學地 - Thị chư thiên nhị bá tâm tự tại giả, tích trụ học địa…” (Trong số 1.200 vị đạt tâm tự tại ở đây, thuở xưa khi còn ở bậc hữu học…) (ĐCT, T9, 262, tr.12b, d.3-4) Ngoài ra còn nhiều nơi khác trong kinh khi nhắc đến số A-la-hán cũng đều dùng số 1.200 vị, nhưng không có bất kỳ nơi nào khác nêu số lượng 12.000. Như vậy có thể kết luận rằng con số 12.000 ở đây là nhầm lẫn, nên phải điều chỉnh đúng là 1.200.
[2] A-nhã Kiều-trần-như (H. 阿若憍陳如, S. Ājñātakauṇḍinya), một trong 5 vị tỳ-kheo được Phật giáo hóa trước tiên tại vườn Lộc uyển. Các vị này đều đã từng tu khổ hạnh với đức Phật.
[3] Ma-ha Ca-diếp (H. 摩訶迦葉, S. Mahākāśyapa), cũng gọi là Đại Ca-diếp, một trong 10 đại đệ tử của Phật, được đức Phật khen ngợi là Đệ nhất Đầu-đà (頭陀第一).
[4] Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp (H. 優樓頻螺迦葉, S. Uruvilvā-kāśyapa), cũng gọi là Kỳ niên Ca-diếp (耆年迦葉). Ông là anh trưởng trong 3 anh em cùng từ bỏ phái ngoại đạo thờ lửa để dẫn tất cả đệ tử của mình về quy y theo Phật. Hai người em cũng được kể ra ở đây là Già-da Ca-diếp (H. 伽 耶迦葉, S. Gayā-kāśyapa) và Na-đề Ca-diếp (H. 那提迦葉, S. Nadī-kāśyapa)
[5] Xá-lợi-phất (H. 舍利弗, S. Śāriputra), một trong 10 đại đệ tử của Phật, cũng được gọi là Xá-lợi Tử (舍利子), Thân Tử (身子), trong kinh Tỳ-kheo Na-tiên gọi là Xá-lê-viết (舍犁曰). Xá-lợi-phất thông minh xuất chúng, từng theo học và thông suốt các luận giải ngoại đạo trước khi quy y Phật. Ngài được Phật khen ngợi là Đệ nhất Trí tuệ (智慧第一).
[6] Đại Mục-kiền-liên, tức Ma-ha Mục-kiền-liên (H. 摩訶目犍連, S. Mahā-maudgalyayāna), một trong 10 đại đệ tử của Phật, là bạn thân với Xá-lợi-phất từ trước khi xuất gia, cùng theo học ngoại đạo. Sau khi Xá-lợi-phất quy y Phật thì Mục-kiền-liên cũng quy y Phật. Ngài được Phật khen ngợi là Đệ nhất Thần thông (神通第一).
[7] Ma-ha Ca-chiên-diên (H. 摩訶迦旃延, S. Mahākātyāyana), một trong 10 đại đệ tử của Phật, từng theo học với tiên nhân A-tư-đà là người xem tướng cho thái tử Tất-đạt-đa lúc mới ra đời. A-tư-đà biết tuổi thọ của mình không còn đủ để được gặp Phật nên dặn dò Ca-chiên-diên sau này nên theo học với Phật. Ngài là người có tài biện luận khuất phục ngoại đạo, được đức Phật ngợi khen là Đệ nhất Luận nghị (論義第一).
[8] A-nậu-lâu-đà (H. 阿㝹樓馱, S. Aniruddha), thường gọi là A-na-luật, một trong 10 đại đệ tử của Phật. Ngài là người họ Thích, là em họ của Thái tử Tất-đạt-đa, đã xuất gia cùng lúc với nhiều vương tử khác trong dịp đức Phật quay về Ca-tỳ-la-vệ. Sau khi xuất gia, ngài tinh tấn tu tập, nhưng có lần quá mệt mỏi nên ngủ gục trong lúc Phật thuyết pháp, bị Phật quở trách. Từ đó ngài phát nguyện không ngủ, đến nỗi bị đau mắt rồi mù lòa. Ngài càng tinh tấn tu tập hơn nữa và chứng được thiên nhãn, nhìn thấy mà không cần mắt thịt, được đức Phật khen ngợi là Đệ nhất Thiên nhãn (天眼第一).
[9] Kiếp-tân-na (H. 劫賓那, S. Kapphiṇa), cũng gọi là Ma-ha Kiếp-tân-na (摩呵劫賓那). Ngài chỉ nghe biết đạo Phật rồi xuất gia tu hành nhưng chưa được gặp Phật. Vì thế, trên đường đi có lần ngài xin nghỉ nhờ trong nhà một người thợ làm đồ gốm, được ở chung phòng với Phật mà không biết, nhưng nghe Phật thuyết pháp liền giác ngộ, sau đó mới biết người thuyết pháp là Phật.
[10] Kiều-phạm-ba-đề (H. 憍梵波提, S. Gavāṃpati), Hán dịch là Ngưu Tích (牛跡) hay Ngưu Chủ (牛主), vì miệng ngài có thói quen nhóp nhép nhai suốt ngày giống như loài trâu bò nhai lại, được cho là do tập khí từ nhiều đời trước. Để tránh cho người đời khỏi nhìn thấy và chế giễu ngài rồi phải mắc tội, nên ngay trong thời Phật tại thế, ngài vẫn thường lên sống và tu tập thiền định trên cung trời Đao-lợi.
[11] Ly-bà-đa (H. 離婆多, S. Revata), là em của ngài Xá-lợi-phất. Kinh Tăng nhất A-hàm nói rằng ngài là người giỏi tọa thiền nhập định, luôn giữ tâm không điên đảo tán loạn.
[12] Tất-lăng-già-bà-sa (H. 畢陵伽婆蹉, S. Pilin-da-vatsa), Hán dịch là Dư Tập (惡口) hoặc Ác Khẩu (餘習), vì ngài có tập khí từ xưa chưa bỏ được nên nói năng thô lỗ, thường mắng nhiếc người khác nặng lời.
[13] Bạc-câu-la (H. 薄拘羅, S. Bakkula), Hán dịch là Thiện Dung (善容) vì ngài có dung mạo đoan nghiêm đẹp đẽ. Khi chưa xuất gia, ngài từng bị mẹ kế tìm cách giết hại 5 lần nhưng đều không thành. Sau khi xuất gia, suốt đời ngài không hề mắc phải bệnh tật gì và sống đến 160 tuổi.
[14] Ma-ha Câu-hi-la (H. 摩訶拘絺羅, S. Mahākauṣṭhila), Hán dịch là Đại Tất (大膝) hoặc Đại Thắng (大勝). Ngài là cậu của ngài Xá-lợi-phất, khi chưa xuất gia chính là Phạm-chí Trường Trảo, người uyên bác các luận giải ngoại đạo. Vì chuyên tâm học luận đến nỗi không có thời gian cắt móng tay, để dài thường xuyên nên gọi là “trường trảo”.
[15] Nan-đà (H. 難陀, S. Nanda), cũng gọi là Phóng ngưu Nan-đà (放牛難陀), vì trước khi xuất gia vốn là người chăn trâu. Khi vua Tần-bà-sa-la thỉnh Phật và tăng chúng an cư trong 3 tháng thì ngài cúng dường sữa đều đặn mỗi ngày. Vua thấy tâm thành nên cho phép ngài được gặp Phật. Ngài đem việc chăn trâu thưa hỏi, nhân đó Phật đã thu-yết kinh Phóng ngưu (佛說放牛經). Ngài kính phục nên xin được xuất gia tu học từ đó.
[16] Tôn-đà-la Nan-đà (H. 孫陀羅難陀, S. Sundara-nanda), là em trai cùng cha khác mẹ với thái tử Tất-đạt-đa. Ngài có dung nhan rất đẹp, đủ 30 tướng tốt, là người ưa thích nữ sắc, lại cưới người vợ rất đẹp là Tôn-đà-lợi (Sundarī). Sau khi xuất gia vẫn không quên được người vợ nên nhiều lần quay về nhà. Đức Phật dùng phương tiện chỉ ra cho thấy sự vô thường của thế gian, khiến ngài trừ được ái dục, từ đó tinh tấn tu hành.
[17] Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử (H. 富樓那彌多羅尼子, S. Pūrṇa-maitrāyaṇīputra), Hán dịch là Mãn Từ Tử (滿慈子), một trong 10 đại đệ tử của Phật, có tài biện luận, giỏi việc thuyết pháp, được Phật khen ngợi là Đệ nhất Thuyết pháp (說法第一).
[18] Tu-bồ-đề (H. 須菩提, S. Subhūti), Hán dịch là Thiện Hiện (善現) hoặc Không Sanh (空生), một trong 10 đại đệ tử của Phật. Ngài sinh trong nhà bà-la-môn, thông minh xuất chúng nhưng tính tình nóng nảy, sân hận. Sau được Phật giáo hóa tự biết lỗi lầm, sám hối, từ bỏ tánh xấu, sau chứng quả A-la-hán, được Phật khen ngợi là người thấu hiểu về nghĩa Không giỏi nhất, gọi là Đệ nhất Giải không (解空第一).
[19] A-nan, tức A-nan-đà (H. 阿難陀, S. Ānanda), Hán dịch là Khánh Hỷ (慶喜), là em họ của Thái tử Tất-đạt-đa, một trong 10 đại đệ tử của Phật và cũng là thị giả theo hầu bên Phật. Ngài giữ vai trò quan trọng nhất trong việc truyền lại kinh điển, vì có điều kiện nghe tất cả các kinh Phật thuyết cũng như có trí nhớ siêu việt để truyền lại không sai sót, được Phật khen ngợi là Đệ nhất Đa văn (多聞第一).
[20] La-hầu-la (H. 羅睺羅, S. Rāhula), là con trai của Thái tử Tất-đạt-đa, xuất gia nhân dịp Phật quay về thăm Ca-tỳ-la-vệ và trở thành sa-di nhỏ tuổi nhất khi đó. Về sau, ngài là một trong 10 đại đệ tử của Phật và được Phật khen ngợi là Đệ nhất Mật hạnh (密行第一).
[21] Nguyên tác là “眾所知識 - chúng sở tri thức”, chỉ đến việc nhiều người trong đại chúng đều nghe danh biết đến. Văn cú của ngài Trí Khải cũng đưa ra cách hiểu: “Nghe danh là tri, được gặp gỡ nhìn thấy là thức.” Như vậy, tri thức ở đây chỉ đến danh tiếng được đại chúng biết đến.
[22] Hữu học (H. 有學, S. śaikṣa) và vô học (H. 無學, S. aśaikṣa). Hữu học nghĩa là còn phải học tập; vô học là không còn gì phải học, vì đã đoạn trừ hết mọi sự nghi hoặc. Trong 4 thánh quả Tiểu thừa thì cả 3 quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm đều là hữu học, riêng quả A-la-hán là bậc vô học.
[23] Ma-ha Ba-xà-ba-đề (H. 摩呵波闍波提, S. Mahāprajāpatī), Hán dịch là Đại Ái Đạo (大愛道), di mẫu của Thái tử Tất-đạt-đa, em gái của Hoàng hậu Ma-da. Vì hoàng hậu qua đời chỉ 7 ngày sau khi sinh thái tử, nên bà là người thay thế nuôi dưỡng thái tử đến khi trưởng thành. Sau khi Phật thành đạo được 5 năm, vua Tịnh Phạn băng hà, bà và Da-du-đà-la cùng 500 phụ nữ khác cùng xin xuất gia tu tập và được Phật cho phép, trở thành những tỳ-kheo-ni đầu tiên. Bà cũng là người đầu tiên đứng đầu Ni giới trong đạo Phật. Bà nhập diệt trước khi Phật nhập Niết-bàn 3 tháng.
[24] Da-du-đà-la (H. 耶輸陀羅, S. Yaśodharā), vợ của Thái tử Tất-đạt-đa và là mẹ của La-hầu-la, xuất gia cùng lúc với bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề sau khi Phật thành đạo 5 năm.
[25] Nguyên tác dùng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (H. 阿耨多羅三藐三菩提, S. anuttara-samyak-saṃbodhi), Hán dịch là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (無上正等正覺), cũng tức là quả Phật.
[26] Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi (H. 文殊師利, S. Mañjuśrī), Hán dịch là Diệu Đức (妙德) hoặc Diệu Cát Tường (妙吉祥), được xem là bậc đệ nhất trí tuệ trong hàng Bồ Tát.
[27] Bồ Tát Quán Thế Âm (H. 觀世音, S. Ava-lokiteśvara), là vị Bồ Tát sẽ được nói đến trong phẩm Phổ Môn của kinh này.
[28] Bồ Tát Đắc Đại Thế (H. 得大勢, S. Mahā-sthāma-prāpta), cũng được gọi là Bồ Tát Đại Thế Chí. Trong Tịnh độ tông, Bồ Tát Đại Thế Chí và Bồ Tát Quán Thế Âm cùng với đức Phật A-di-đà được tôn xưng là Tây phương Tam thánh.
[29] Bồ Tát Thường Tinh Tấn (H. 常精進菩薩, S. Nityāyukta).
[30] Bồ Tát Bất Hưu Tức (H. 不休息菩薩, S. Ani-kṣiptadhura).
[31] Bồ Tát Bảo Chưởng (H. 寶掌菩薩, S. Ratnapāṇi).
[32] Bồ Tát Dược Vương (H. 藥王菩薩, S. Bhaiṣa-jyarāja).
[33] Bồ Tát Dũng Thí (H. 勇施菩薩, S. Pradānaśūra).
[34] Bồ Tát Bảo Nguyệt (H. 寶月菩薩, S. Ratnacandra).
[35] Bồ Tát Nguyệt Quang (H. 月光菩薩, S. Candraprabha).
[36] Bồ Tát Mãn Nguyệt (H. 滿月菩薩, S. Pūrṇacandra)
[37] Bồ Tát Đại Lực (H. 大力菩薩, S. Mahāvikrāmin).
[38] Bồ Tát Vô Lượng Lực (H. 無量力菩薩, S. Anantavikramin).
[39] Bồ Tát Việt Tam Giới (H. 越三界菩薩, S. Trailokyavikrāmin).
[40] Bồ Tát Bạt-đà-bà-la (H. 跋陀婆羅菩薩, S. Bhadrapāla), tức Bồ Tát Hiền Hộ (賢護菩薩).
[41] Bồ Tát Di-lặc (H. 彌勒菩薩, S. Maitreya), Hán dịch là Từ Thị (慈氏), là vị Bồ Tát Nhất sinh bổ xứ, sẽ thành Phật tiếp theo sau đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Hiện nay ngài đang thuyết pháp ở cung trời Đâu-suất.
[42] Bồ Tát Bảo Tích (H. 寶積菩薩, S. Ratnamakuṭa).
[43] Bồ Tát Đạo Sư (H. 導師菩薩, S. Susārthavāha).
[44] Thích-đề-hoàn-nhân (H. 釋提桓因, S. Śakra devānām indraḥ), cũng gọi là Đế-thích (帝釋) hay Thiên đế thích (天帝釋), là vị Thiên chủ ở cõi trời Đao-lợi.
[45] Tứ đại thiên vương (H. 四大天王, S. Caturmahārājakāyikās), cũng gọi Hộ thế tứ vương (護世四天王), là bốn vị trời ở 4 phương lưng chừng núi Tu-di, hộ trì Phật pháp và che chở chúng sinh trong 4 châu, bao gồm: Trì Quốc Thiên (H. 持國天, S. Dhṛitarāṣṭra) ở phương đông; Tăng Trưởng Thiên (H. 增長天, S. Virūḍhaka) ở phương nam, Quảng Mục Thiên (H. 廣目天, S. Virūpākṣa) ở phương tây và Đa Văn Thiên (H. 多聞天, S. Vaiśramaṇa) ở phương bắc.
[46] Phạm thiên vương (H. 梵天王, S. Sahāṃpati), là vị Thiên chủ ở cõi trời Sơ thiền thuộc Sắc giới, được xem là chủ thế giới Ta-bà.
[47] Đại Phạm Thi-khí (H. 尸棄大梵, S. Śikhin).
[48] Đại Phạm Quang Minh (H. 光明大梵, S. Jyotiṣprabha).
[49] Long vương (H. 龍王, S. nāgarāja), chúa loài rồng, một trong 8 bộ chúng.
[50] Tên các vị này lần lượt là: Nan-đà (H. 難陀, S. Nanda), Bạt-nan-đà (H. 跋難陀, S. Upananda), Sa-già-la (H. 娑伽羅, S. Sāgara), Hòa-tu-cát (H. 和修吉, S. Vāsuki), Đức-xoa-ca (H. 德叉迦, S. Takṣaka), A-na-bà-đạt-đa (H. 阿那婆達多, S. Anavatapta), Ma-na-tư (H. 摩那斯, S. Manasvin), Ưu-bát-la (H. 優鉢羅, S. Utpalaka).
[51] Khẩn-na-la (H. 緊那羅, S. kiṃnara), là một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là nhạc thần, được xem là thần phục vụ âm nhạc cho Thiên đế.
[52] Càn-thát-bà (H. 乾闥婆, S. gandharva), là một trong 8 bộ chúng, chỉ dùng hương thơm làm thức ăn nên được gọi là hương thần, cùng với khẩn-na-la phục vụ âm nhạc cho Thiên đế.
[53] A-tu-la (H. 阿修羅, S. asura), một trong 8 bộ chúng, được gọi là phi thiên vì có thần thông như chư thiên nhưng kém về phước đức. A-tu-la là loài nhiều sân hận, thường gây chiến tranh với chư thiên. A-tu-la được xếp vào một trong lục đạo, bao gồm: trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
[54] Ca-lâu-la (H. 迦樓羅, S. garuḍa), một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là ca-lâu-la điểu (迦樓羅鳥) hay kim sí điểu (金翅鳥) vì là loài chim lớn có cánh màu vàng. Do nghiệp lực nên loài này lấy loài rồng làm thức ăn.
[55] Vua A-xà-thế (H. 阿闍世王, S. Ajātaśatru), con vua Tần-bà-sa-la (H. S. Bimbisāra) và hoàng hậu Vi-đề-hy (H. 韋提希, S. Vaidehī). Tên của ông có nghĩa là “vị sinh oán” (未生怨), nghĩa là chưa sinh ra đã có sẵn mối oán cừu, vì khi còn trong bụng mẹ có một vị thầy đoán là sau này ông sẽ giết cha nên được đặt tên như vậy. Về sau quả nhiên ông giết vua Tần-bà-sa-la để soán ngôi. Do tội giết cha nên hối hận lo sợ, cuối cùng tìm đến đức Phật, nghe pháp được giác ngộ và từ đó trở thành một vị đại hộ pháp.
[56] Kinh Vô lượng nghĩa (無量義經), tuy được nhắc đến trong kinh Pháp Hoa này nhưng phải đến đời Tiêu Tề (479-502) mới được ngài Đàm-ma-già-đà-da-xá (曇摩伽 陀耶舍) Hán dịch. Hiện còn trong Đại Chánh tạng ở Tập 9, kinh số 276.
[57] Hoa mạn-đà-la (H. S. māndāra), một loại hoa cõi trời màu đỏ tươi, rất đẹp, khiến người nhìn thấy sinh tâm vui thích. Cùng loại hoa này nhưng lớn hơn gọi là ma-ha mạn-đà-la (摩訶曼陀羅華).
[58] Hoa mạn-thù-sa (H. 曼殊沙華, S. mañjūṣaka), một loại hoa cõi trời mềm mại, có màu trắng tươi nên cũng gọi là nhu nhuyến hoa (柔軟華) hay bạch viên hoa (白圓華), được chư thiên rải xuống để cúng dường Phật, trang nghiêm các đạo tràng khi thuyết pháp. Cùng loại hoa này nhưng lớn hơn gọi là hoa ma-ha mạn thù sa (摩訶曼殊沙華).
[59] Dạ-xoa (H. 夜叉, S. yakṣa), một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là dược-xoa (藥叉), là loài quỷ hung dữ, có thể ở trên mặt đất hoặc giữa không trung, có thể dùng uy thế làm hại con người nhưng cũng có khi theo bảo hộ Phật pháp, người tu tập Phật pháp.
[60] Ma-hầu-la-già (H. 摩睺羅伽, S. mahoraga), Hán dịch là đại mãng thần (大蟒神), là loài rắn thần rất lớn, được xếp vào một trong 8 bộ chúng.
[61] Phi nhân (H. 非人, S. amanuṣya): khi dùng với nghĩa rộng, chỉ tất cả các chúng sanh không phải loài người, như trời, rồng, dạ-xoa… Trong ngữ cảnh đã đề cập đến các loài khác như ở đây thì phi nhân chỉ các loài chúng sanh không phải loài người cũng không thuộc về tám bộ chúng.
[62] Tướng bạch hào (H. 白毫相, S. uṇṇa-lakkhaṇa), một trong 32 tướng tốt của Phật. Tướng này là một sợi lông màu trắng mọc ở vị trí giữa hai chân mày, nếu kéo ra sẽ rất dài nhưng để tự nhiên thì xoắn theo chiều về bên phải như hình xoắn ốc, màu trắng tươi và có thể phát ra hào quang. Mỗi khi đức Phật phóng chiếu hào quang từ tướng bạch hào này đều là một điềm lành báo trước điều tốt đẹp.
[63] Địa ngục A-tỳ (H. 阿鼻地獄, S. Avīci), Hán dịch là Vô gián (無間), nghĩa là không gián đoạn, vì tội nhân trong địa ngục này bị hành hình liên tục không gián đoạn, không có lúc nào được dừng nghỉ. Theo thế giới quan Phật giáo thì địa ngục A-tỳ là phần thấp nhất trong cả thế giới.
[64] Cõi trời A-ca-ni-trá (H. 阿迦尼吒天, S. Akaniṣṭha-deva), cũng gọi là cõi trời Hữu đỉnh (有頂天) là cõi trời cao nhất trong 18 cõi trời của Sắc giới. Do đó, trong phần có hình sắc của thế giới này thì đây là cõi trời cao nhất, vượt lên trên nữa là phạm vi của Vô sắc giới, không có hình sắc.
[65] Tức là các thế giới về phương đông được hào quang Phật soi chiếu.
[66] Chấn động theo sáu cách là hiện tượng xảy ra khi có một sự kiện cực kỳ quan trọng trong một cõi thế giới, chẳng hạn như khi đức Phật thành đạo, đức Phật nhập Niết-bàn v.v. Pháp Hoa Văn cú giải thích là bao gồm sáu cách: động (動 - chuyển động), khởi (起 - khởi lên), dũng (涌 - vọt lên), chấn (震 - chấn động), hống (吼 - phát tiếng kêu lớn), giác (覺 - khiến cho giác ngộ). Văn Cú Ký dẫn cách giải thích khác là động (動), dũng (踊), chấn (震), kích (擊), hống (吼), bộc (爆), và giải thích ý nghĩa chi tiết rằng động là rung động, dao động, khởi là từ thấp lên cao, dũng là từ chỗ thấp vọt mạnh lên cao, chấn là rung động có âm thanh phát ra, hống là phát ra âm thanh lớn có tiếng vọng lại, giác là khiến cho chúng sanh được giác ngộ. Ngoài ra, theo kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa (摩訶般若波羅蜜經), quyển 1, thì 6 cách chấn động là: 1. Phương đông vọt lên, phương tây chìm xuống; 2. Phương tây vọt lên, phương đông chìm xuống; 3. Phương nam vọt lên, phương bắc chìm xuống; 4. Phương bắc vọt lên, phương nam chìm xuống; 5. Bốn phương vọt lên, ở giữa chìm xuống; 6. Ở giữa vọt lên, bốn phương chìm xuống. (ĐCT, T8, 223, tr.217c, d.6-8)
[67] Nguyên tác là “吹大法螺 - xuy đại pháp loa”, chữ loa (螺) chỉ loại vỏ ốc rỗng được khoét lỗ để khi thổi phát ra âm thanh lớn và vang rất xa, tức là một loại tù và. “Pháp loa” được ví với việc âm thanh thuyết pháp vang dội khắp nơi, cũng như tiếng tù và lớn được thổi lên.
[68] Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai (H. 日月燈明如來, S. Candra-sūrya-pradīpa). Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm, quyển 5, Bồ Tát Di-lặc tự kể lại đã từng xuất gia tu học với Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh. (ĐCT, T19, 945, tr.128a, d.10-12)
[69] Đây là Thập hiệu (十號) của tất cả chư Phật, vì được dùng để nêu lên các phẩm tính mà tất cả các vị Phật đều đạt được. Có thể tạm kể ra như sau: 1. Như Lai (H. 如來, S. Tathāgata), phiên âm Đa-đà-a-già-đà (多陀阿伽陀); kinh Kim cang giải thích: “Không từ đâu đến, không đi về đâu, nên gọi là Như Lai.”; 2. Ứng Cúng (H. 應供, S. Arhat), phiên âm là A-la-hán, xứng đáng nhận sự cúng dường của người và chư thiên. 3. Chánh Biến Tri (H. 正遍知, S. Samyak-saṃbuddha), phiên âm là Tam-miệu tam-phật-đà (三藐三佛陀), có năng lực trí tuệ hiểu biết chân chánh và rộng khắp các pháp; 4. Minh Hạnh Túc (H. 明行足, S. vidyā-caraṇa-saṃpanna), sáng suốt (vidyā), tức có đủ tam minh (thiên nhãn minh, túc mệnh minh, lậu tận minh) và đạo hạnh (caraṇa) viên mãn. 5. Thiện Thệ (H. 善逝, S. Sugata), khéo vượt qua, tức dùng Nhất thiết trí đi trên đường bát chánh đạo, thể nhập Niết bàn. 6. Thế Gian Giải (H. 世間解, S. Loka-vid), rõ biết thế gian nên cũng rõ biết sự diệt mất thế gian và con đường ra khỏi thế gian. 7. Vô Thượng Sĩ (H. 無上士, S. Anuttara), là đấng vô thượng, không còn ai vượt lên cao quý hơn. 8. Điều Ngự Trượng Phu (H. 調御丈夫, S. Puruṣa-damya-sārathi), có đủ từ bi, trí tuệ, phương tiện để điều phục, chế ngự, khiến cho chúng sanh có thể đạt đến Niết-bàn. 9. Thiên Nhân Sư (H. 天人師, S. śāstā deva-manuṣyāṇāṃ), bậc thầy dạy, dẫn dắt chúng sinh trong cả hai cõi trời, người. 10. Phật Thế Tôn (H. 佛世尊, S. Buddha-bhagavat), bậc toàn giác, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tôn quý nhất trong thế gian. Có nơi xếp chung hiệu thứ năm và thứ sáu thành một: Thiện Thệ, Thế Gian Giải, và tách hiệu thứ mười thành hai: Phật Thế Tôn; hoặc cũng có khi xếp chung Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ, hoặc Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu. Nhưng tất cả đều thống nhất là có 10 hiệu.
[70] Tứ đế, tức là Tứ diệu đế (H. 四妙諦, S: catvāri ārya-satyāni), chỉ 4 chân lý do đức Phật nhận ra và thuyết dạy, luôn đúng thật trong mọi thời gian và không gian. Vì là chân lý đúng thật nên cũng được gọi là tứ chân đế (四真諦) hoặc tứ thánh đế (四聖諦). Các chân lý này bao gồm: 1. Khổ đế (H. 苦諦, S. duḥkha-satya), chỉ ra sự thật rằng mọi trạng thái tồn tại của chúng sanh hiện nay đều là khổ, hay nói cách khác thì bản chất của chúng là khổ; 2. Tập đế (H. 集諦, S. samudaya-satya), là sự thật về nguyên nhân của khổ, như phiền não, nghiệp lực, các hành vi, tư tưởng, lời nói làm sanh khởi khổ; 3. Diệt đế (H. 滅諦, S. nirodha-satya), là sự thật về việc dứt sạch mọi nỗi khổ, thông qua chấm dứt nguyên nhân gây khổ bằng con đường tu tập; 4. Đạo đế (H. 道諦, S. mārga-satya), là con đường cụ thể để chấm dứt nguyên nhân gây khổ, tức là diệt khổ, cụ thể là Bát chánh đạo. Khổ đế và Tập đế chỉ ra mối quan hệ nhân quả trong thế gian, khổ đế không tự nhiên khởi sinh mà do những nguyên nhân được Tập đế chỉ ra. Diệt đế và Đạo đế chỉ ra mối quan hệ nhân quả xuất thế gian, vì khổ có thể được dứt trừ qua sự tu tập theo Đạo đế và khi khổ được dứt trừ thì Diệt đế hiện hữu. Tuy nhiên, giáo lý Tứ đế hướng đến dứt trừ sự khổ trong luân hồi, do vậy chỉ đưa đến Thánh quả Tiểu thừa, không thể rốt ráo đạt đến quả Phật.
[71] Nguyên tác dùng Bích-chi Phật (H. 辟支佛, S. pratyeka-buddha), tức là quả Duyên giác, cũng gọi là Độc giác (獨覺) khi giác ngộ vào thời không có Phật ra đời. Trong 3 thừa thì quả vị này được xem là Nhị thừa, Thanh văn là Tam thừa.
[72] Sáu ba-la-mật (H. 六波羅蜜, S. ṣaḍ-pāramitā), Hán dịch là lục độ (六度), là 6 pháp tu tập quan trọng của hàng Bồ Tát, giúp vượt qua bể khổ luân hồi nên gọi là “độ”, cũng dịch là “到彼岸 - đáo bỉ ngạn” (sang đến bờ kia). Sáu pháp này bao gồm: Bố thí ba-la-mật (H. 布施波羅蜜, S. dāna-pāramitā); trì giới ba-la-mật (H. 持戒波羅蜜, S. śīla-pāramitā); nhẫn nhục ba-la-mật (H. 忍辱波羅蜜, S. kṣānti-pāramitā); tinh tấn ba-la-mật (H. 精進波羅蜜, S. vīrya-pāramitā); thiền định ba-la-mật (H. 禪定波羅蜜, S. dhyāna-pāramitā); trí tuệ ba-la-mật (H. 智慧波羅蜜, S. prajñā-pāramitā).
[73] Nhất thiết chủng trí (H. 一切種智, S. sarvathā-jñāna), tức trí tuệ của Phật, là trí hiểu biết tất cả, thấy rõ được nhân quả của tất cả các pháp cũng như tất cả chúng sanh.
[74] Tam-muội Vô lượng nghĩa xứ (H. 無量義處三昧, S. Anantanirdeśapratiṣṭhāna-samādhi). “Vô lượng nghĩa xứ” nghĩa là chỗ y chỉ của tất cả các nghĩa, tức là thật tướng. Đức Phật chuẩn bị huyết kinh Pháp Hoa hiển bày thật tương nên nhập vào tam-muội này.
[75] Bồ Tát Diệu Quang (H. 妙光菩薩, S. Vara-prabhā).
[76] Niết-bàn vô dư (H. 無餘涅槃, S. nirupadhiśeṣa-nirvāṇa), phân biệt với Niết-bàn hữu dư (H. 有餘涅槃, S. so-padhi-śeṣa-nirvāṇa), cũng gọi là Vô dư y Niết-bàn (無餘依涅槃), chỉ Niết-bàn của chư Phật vì hoàn toàn không còn phụ thuộc thân tướng, chấm dứt hoàn toàn cả nhân và quả. Ngoài ra cũng phân biệt việc chấm dứt nhân quả Tiểu thừa là Niết-bàn hữu dư, chấm dứt nhân quả Đại thừa là Niết-bàn vô dư. Hàng Thanh văn, Duyên giác chỉ có thể đạt đến Niết-bàn hữu dư, không có khả năng đạt Niết-bàn vô dư.
[77] Bồ Tát Đức Tạng (H. 德藏菩薩, S. Śrīgarbha).
[78] Ở đây chỉ nêu 3 đức hiệu tức là lược nói, biểu trưng cho đủ 10 đức hiệu của chư Phật.