Tôi đã từ giã ngôi chùa Chumi-Jadsa. Vì thầy tôi khuyên tôi đến kinh đô Lhassa mà theo học với mấy sư đạo cao đức trọng khác. Lại nữa, ở đền Potala của đức vua, mấy nhà quyền chức hay rằng có người Âu châu được điểm đạo truyền pháp, nên các ngài muốn biết mặt tôi đặng coi tôi có thành tâm hay không. Vì vậy nên tôi ra đi với mấy vị sư trong chùa. Tôi cũng mặc cà-sa như các vị ấy. Qua nhiều ngày, sương gió với ánh nắng mặt trời dần dần đổi màu da tôi ra như người bổn xứ.
Sự truyền pháp cho tôi là một việc rất quan hệ cho thầy tôi. Nếu vì mục đích quốc sự, vì giả dối mà tôi nhập Đạo, thì nguy cho tánh mạng thầy tôi lắm. Song sự gởi gắm của thầy tôi, một bậc tu hành có chức lớn và pháp thuật, làm cho cả hội đồng trưởng lão đem lòng tin. Người ta sẽ gạn hỏi tôi, luôn dịp sẽ truyền thêm giáo pháp cho tôi, nếu nhận ra tôi có đủ thành tâm và sức lực.
Nhờ chúng tôi là hạng thầy tu khoác áo cà-sa mà viễn hành, nên đến đâu cũng được tiện lợi, không ai tra hạch chi cả. Sau những khổ nhọc thường lệ vì sự lên đèo xuống vịnh, chúng tôi đến kinh thành uy nghi và tinh sạch. Nơi đây có đức Phật sống Dalai-Lama( ) làm chúa tể cả nước. Nơi đây có chư vị thượng tọa tái sanh giữ mgôi vị trong đời trước của các ngài. Cũng như các bạn đồng hành, tôi lấy làm cảm kích một cách sùng thượng khi thấy dạng thành Lhassa. Và cũng như các bạn, tôi thụp xuống làm lễ cảnh thành phố tinh sạch trước mắt chúng tôi...
Đến Lhassa, tôi trụ nơi chùa Ramotché, ở về phía bắc, cách đền Potala không bao xa. Tôi học thêm phép huyền vi với một ông sư chức cao, bạn của thầy cũ tôi ở chùa Chumi-Jadsa.
Đến đây, tôi bước vào một quảng đời khác, với những cuộc tu luyện khác. Ban đầu tôi hơi lấy làm lạ. Lúc ở chùa Chumi-Jadsa, tôi học khoa thần bí. Ở đây, có mấy vị tôn sư dắt dẫn những lễ giáo về huyền thuật. Tôi khởi sự học qua những sức lực huyền vi trong vũ trụ. Mấy vị tôn sư giảng cho tôi cái sức mạnh siêu nhiên chi phối cuộc sống. Các Ngài đạy tôi cách khuất phục và vận dụng được sức mạnh đó. Tôi cũng có dự được nhiều cuộc lễ về huyền thuật.
Tôi cũng có học biết về những khí cụ linh thiêng nữa. Trước hết là cái lưỡi sấm sét mà có lần tôi đã được biết trước đây, là một thứ khí cụ linh thiêng nhất, cán dài và tròn, đầu có năm cái chấu uốn cong theo hình như ngọn lửa. Kế nữa là cái búa linh( ) hình tam giác. Trong khi hành lễ, nhà sư niệm chú và vung lưỡi búa, ấy là biểu hiệu chặt đứt tham dục, diệt trừ phiền não. Tiếp đến là xâu chuỗi hạt làm bằng xương rắn.( )
Ramotché là cảnh chùa của Vua, xây dựng hùng vĩ lắm. Nơi chánh điện chạm trổ và bày trí khéo léo vô cùng, theo những đường nét mỹ thuật rất cổ xưa.
Ở đây, người ta thực hiện nhiều cuộc lễ huyền vi và linh diệu lắm. Ngôi chùa này vẫn được xem là đứng bậc nhất trong nước về huyền thuật. Ở đây, các vị sư phân tích, tìm hiểu những sức mạnh siêu nhiên trong vũ trụ và ngay chính trong thân người một cách tỉ mỉ lắm. Những môn tâm lý thần bí bên Âu Tây so với ở đây thì chẳng nhằm vào đâu cả. Ở đây, tôi thấy rất nhiều sự lạ mà không một nhà thông thái nào ở Âu Châu có thể hiểu và giải thích rõ được. Có khi trong cuộc lễ nơi đền, giữa tiếng kèn bằng xương người và tiếng trống bằng da người, tôi bỗng thấy lạnh mình và run lên.
Người ta đưa tôi đến đối diện với một vị thần tiên tri. Hội đồng ở đền Potala muốn nhờ thần ban cho những lời linh ứng về việc tôi. Họ nghĩ như vậy là chắc chắn hơn hết. Vì chính đức Vua cũng đã từng tin cậy nơi thần. Nói cho rõ hơn, đó là một vị Lạt-ma có thuật tiên tri, tu tại chùa Garmikhia, phía đông thành Lhassa. Ông này thường được một vị thần tiên tri mượn xác để nhập vào mà nói trước những việc trong tương lai.( )
Khi người dẫn đường đưa tôi đến, ông đang chờ chúng tôi nơi phòng riêng trên từng lầu. Ngồi yên trên một cái ngai bằng cây nhung có cẩn xà cừ, ông mặc lễ phục bằng lụa có dát vàng và dát ngọc, đầu đội một cái mão rất lạ... Người ta đem trà ra đãi tôi và tặng cho tôi một bức lụa gọi là lễ mừng khách theo phong tục Tây Tạng. Kế đến, người ta hỏi thăm qua về sức khỏe, sự học đạo và các cuộc hành trình của tôi. Tôi hiểu đó là phương pháp thanh nhã mà vị sư tiên tri dùng để dọ tâm ý và chí hướng tôi. Tôi nhìn gương mặt nhăn nhíu và mĩm cười của ông: nó như chứa đầy các sự bí ẩn.
Trong khi ấy, có tiếng kèn to trỗi lên gọi các sư vào cuộc lễ. Người ta đưa chúng tôi vào một chỗ tối trong đền, nơi đây chúng tôi thấy rõ có một cái ngôi oai nghiêm để ở giữa. Những đồ chạm trổ chói lên dưới ánh sáng của rất nhiều ngọn đèn. Tiếng nhạc và tiếng xướng tụng hòa nhau xen với tiếng mõ nhịp.
Kế đó, vị sư cốt thần hiện ra. Với những đồ trang phục rực rỡ và huy hoàng thái quá, xem ông già hơn, gầy hơn khi nãy mà chúng tôi gặp nơi tăng phòng.
Tiếng mõ càng đổ to và tiếng đồng xướng trổi cao lên cực điểm. Vị sư cốt thần đang ngồi yên trên ngôi. Bỗng ông run lên. Nơi cặp mắt nhắm khít của ông, thấy nước mắt chảy dài trên mặt. Tay chơn ông chấn động từng hồi theo nhịp kèn và tiếng xướng tụng. Một vị Lạt-ma mặt phủ kín sau một bức lụa đen, lâm râm đọc mấy câu chân ngôn huyền diệu...
Thình lình mõ và kèn rộ lên, cùng với tiếng xướng tụng của các sư hòa theo. Vị sư cốt thần té xuống đất trước ngôi. Ông vừa uốn mình vừa rú lên. Hai ông sư giúp việc vội chạy đến đỡ ông. Dường như lúc này vị thần tiên tri đã nhập vào ông rồi. Lần lần ông tỉnh lại. Nhờ hai ông sư tiếp sức,ông ngồi dậy và xỉu trên ngôi. Lạ lùng thay, lúc này mặt mày và dáng vẻ ông trông giống hệt bức tượng vị thần được thờ nơi chánh điện. Cũng một cách ngồi, cũng mấy ngón tay rút lại, cũng thân mình uốn cong,cũng một gương mặt y như hình vị thần thêu trong bức gấm trên bàn thờ. Ông từ từ mở miệng và thốt ra lời.
Ông nói rất mau, các vị sư bao quanh để nghe cho rõ. Tiếng nói nghe rổn rảng, vang dội. Thần nói tiếng Tây Tạng cổ có pha tiếng Mông Cổ. Tôi thấy người ta cặm cụi ghi chép lại, nghe nói còn sẽ phải tra khảo ở một bộ cẩm nang giữ kín trong một tàng viện bí mật mới có thể hiểu hết được ý thần.